Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tìm hiểu về thị trường mở tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.85 KB, 15 trang )

Tìm hiểu về thị trường mở tại Việt Nam
1.1 Sự ra đời và phát triển của Nghiệp vụ thị trường mở
Theo cách hiểu chung nhất thì khái niệm “Nghiệp vụ thị trường mở-OMO” là
hoạt động mua bán các GTCG của NHTW với các đối tác được lựa chọn để qua đó
tác động tới lãi suất của thị trường hoặc dự trữ của các đối tác này, vì thế có thể
ảnh hưởng tới các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế thông qua những ảnh hưởng về
mặt lượng và giá cả. Thuật ngữ "Thị trường mở" ở đây được hiểu là một thị trường
có tính chất mở, nghĩa là đa dạng về các đối tác tham gia thị trường và đa dạng về
các loại giao dịch trên thị trường.
Nghiệp vụ thị trường mở được áp dụng đầu tiên bởi Ngân hàng Anh từ những
năm 30 của thế kỷ 19. Vào thời gian này, lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng
Anh được sử dụng như một công cụ chủ yếu để kiểm soát lượng tiền cung ứng.
Tuy nhiên, công cụ này tỏ ra kém hiệu lực khi lãi suất thị trường tiền tệ giảm liên
tục vượt khỏi sự chi phối của lãi suất tái chiết khấu. Điều này thúc đẩy Ngân hàng
Anh tìm kiếm công cụ có hiệu quả hơn để điều chỉnh lãi suất thị trường theo hướng
mong muốn.
Cách thức đầu tiên được áp dụng để nhằm làm tăng lãi suất thị trường là:
- Bán chứng khoán chính phủ đồng thời hứa mua lại nó vào một ngày xác định
trong tương lai.
-Vay trên thị trường - thực chất là một khoản vay từ người chiết khấu hoặc từ
người môi giới với đảm bảo bằng chứng khoán chính phủ.
-Bán hẳn các chứng khoán chính phủ.


-Vay từ các Ngân hàng thương mại.
-Vay từ người gửi tiền đặc biệt.
Bằng các cách này, lượng tiền trung ương giảm đi tương ứng với khối lượng
vay hoặc bán chứng khoán, lãi suất thị trường vì thế tăng lên.
Cùng thời gian này, Ngân hàng Trung Ương (NHTW ) Thuỵ Sỹ cũng sử
dụng nghiệp vụ bán các chứng khoán chính phủ nhằm thu hút lượng vốn khả dụng
dư thừa. Vào năm 1913, lúc đầu Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ cũng sử dụng


Nghiệp vụ thị trường mở như một công cụ bổ xung cho chính sách tái chiết khấu.
Tuy nhiên, trong và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất nghiệp vụ thị trường mở ở
những nước này được sử dụng như công cụ để tài trợ cho các chi phí chiến tranh và
các hoạt động điều chỉnh kinh tế sau chiến tranh. Cùng với các hoạt động này,
lượng chứng khoán chính phủ nằm trong tay các NHTW tăng lên.
Đến năm 1920, nghiệp vụ thị trường mở ở những nước này cũng vẫn chỉ
được sử dụng như công cụ bổ trợ cho chính sách lãi suất tái chiết khấu và làm cho
lãi suất tái chiết khấu trở nên hiệu quả. Nhưng sau đó, hiệu quả và tầm quan trọng
của nghiệp vụ thị trường mở ngày càng tăng lên, nó được sử dụng như công cụ
chính sách tiền tệ ở ba nước ban đầu này và sau đó trở thành xu hướng ở hầu hết
NHTW các nước khác.
Điều này suất phát từ: hạn chế chính sách tái chiết khấu; sự mở rộng và hoàn
thiện của hệ thống thị trường tái chính; sự tăng lên của lượng chứng khoán chính
phủ và các chứng khoán có tính thanh khoản cao.
Cho đến nay nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng như một công cụ Chính
sách tiền tệ hiệu quả nhất ở hầu hết các NHTW của các nước.


1.2 Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở.
Theo nghĩa gốc thì cụm từ “Nghiệp vụ thị trường mở” chỉ các hoạt động
giao dịch chứng khoá của các NHTW trên thị trường mở. Thông qua hành vi mua,
bán chứng khoán này, NHTW có thể tác động trực tiếp đến dự trữ của hệ thống
Ngân hàng và gián tiếp đến lãi suất thị trường, từ đó mà có thể ảnh hưởng đến
lượng tiền cung ứng thông qua tác động cả về mặt lượng và về mặt giá. Về lý
thuyết, các chứng khoán là đối tượng giao dịch của NHTW, có thể là chứng khoán
chính phủ, các chứng khoán được phát hành bởi các doanh nghiệp hoặc ngân hàng
gồm cả chứng khoán ngắn hạn và dài hạn. Các chủ thể trong giao dịch nghiệp vụ
thị trường mở có thể là ngân hàng, các doanh nghiệp hoặc các tổ chức phi tài chính
khác.
Về mặt thực tế, nghiệp vụ thị trường mở là hành vi giao dịch của NHTW

trên thị trường mở. Xét về hình thức thì thị trường mở là thị trường giao dịch các
chứng khoán nợ ngắn và dài hạn. Tuy nhiên, khác với các khái niệm có phạm vi và
công cụ giao dịch rõ ràng như thị trường chứng khoán hay thị trường tiền tệ, thị
trường mở ở các nước khác nhau về phạm vi, về loại hình công cụ và thời hạn của
các công cụ giao dịch trên thị trường.
Chẳng hạn, thị trường mở của Nhật Bản chỉ bao gồm các chứng khoán nợ
ngắn hạn và những người tham gia chỉ gồm các tổ chức tín dụng. Như vậy, ở Nhật
thị trường mở là một bộ phận của thị trường tiền tệ. Ngược lại ở Mỹ hoặc Đức cho
phép giao dịch cả các chứng khoán dài hạn trên thị trường mở. Xét theo thời hạn
của chứng khoán nợ thì thị trường mở ở những nước này bao gồm cả một phần của
thị trường chứng khoán. Theo cách này, khái niệm “ Nghiệp vụ thị trường mở” có
ý nghĩa kinh tế khi nó gắn với cụm từ “Nghiệp vụ thị trường mở”. Có nghĩa là, các


giới hạn khác nhau về đối tượng và các chr thể giao dịch của NHTW trong nghiệp
vụ thị trường mở sẽ quyết định khái niệm cụ thể về thị trường mở ở từng nước
1.3 Cơ chế tác động của Nghiệp vụ thị trường mở
1.3.1 Tác động về mặt lượng - Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng
Hành vi mua bán các GTCG trên thị trường mở của NHTW có khả năng tác
động ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các NHTM thông qua ảnh hưởng đến
tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW (nếu các NHTM là đối tác tham gia OMO)
và tiền gửi của khách hàng tại hệ thống ngân hàng (nếu các khách hàng là đối tác
tham gia OMO).
Sơ đồ 1.1. Cơ chế tác động của OMO tới dự trữ ngân hàng
NHTW bán GTCG Dự trữ NH giảm
Dự trữ mở rộng cho vay
Khối
giảm
lượng TD giảm


MS giảm

Khi NHTW thực hiện bán GTCG cho các ngân hàng thì tiền gửi của ngân
hàng tại NHTW sẽ giảm xuống tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán
ra. Trường hợp người mua là các khách hàng của ngân hàng thì số tiền mua GTCG
sẽ làm giảm số dư tiền gửi của họ tại hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự trữ của hệ
thống ngân hàng giảm sút tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW bán ra. Sự
giảm sút dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ làm giảm khả năng cho vay của ngân
hàng và vì thế khối lượng tín dụng giảm dẫn đến cung tiền sẽ giảm. Ngược lại, khi
NHTW thực hiện mua GTCG trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của các ngân
hàng tăng lên. Như vậy, khi NHTW thực hiện nghiệp vụ thị trường nó sẽ tác động
đến dự trữ của các ngân hàng, làm ảnh hưởng đến khối lượng tín dụng, từ đó ảnh
hưởng đến lượng tiền cung ứng.


1.3.2 Tác động về mặt giá - tác động qua lãi suất
Hành vi mua bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh hưởng
gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau:
Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung cầu
vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền trung
ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất
ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động arbitrage về lãi
suất, sẽ truyền tác động tới các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài
chính. Tại một mức lãi suất thị trường xác định, tổng cầu AD của nền kinh tế, và
do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định.
Sơ đồ 1.2. Cơ chế tác động của OMO qua lãi suất
Cung TPKB tăng

NHTW bán TPKB


Giá TPKB giảm

LS thị trường tăng
tăng
Đầu tư giảm

Dự trữ NH giảm Cung của quỹ cho vay giảm
Lãi suất ngắn hạn tăng
Lãi suất thị trường tăng

Thứ hai, việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu
về loại GTCG đó trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ
lệ sinh lời của chúng cũng thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán này chiếm tỷ
trọng lớn trong các giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời
của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường, và vì thế mà tác động đến tổng cầu
AD và sản lượng.


Khi NHTW bán tín phiếu kho bạc sẽ làm giảm dự trữ của hệ thống ngân hàng.
Điều này làm giảm cung quỹ cho vay và sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn, làm
lãi suất ngắn hạn có xu hướng tăng lên và tác động vào làm tăng các lãi suất thị
trường. Bên cạnh đó khi NHTW thực hiện bán tín phiếu kho bạc trên thị trường mở
sẽ làm tăng cung tín phiếu kho bạc trên thị trường, từ đó làm giảm giá của tín phiếu
kho bạc. Điều này làm ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của tín phiếu kho bạc theo
hướng tăng lên, dẫn đến sự chuyển dịch vốn đầu tư sang tín phiếu kho bạc. Để cân
bằng lãi suất và hạn chế sự dịch chuyển vốn đầu tư, lãi suất thị trường sẽ tăng lên.
Khi lãi suất thị trường tăng lên thì hoạt động đầu tư của các chủ thể đối với nền
kinh tế sẽ giảm xuống do tỷ suất sinh lời giảm. Từ đó tổng cầu trên thị trường giảm
xuống và góp phần làm giảm sản lượng, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.
1.4 Cơ chế hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở

1.4.1 Các Nghiệp vụ thị trường mở
Trong nghiệp vụ thị trường mở phải có sự tham gia của NHTW bởi vì nếu
không có sự tham gia của NHTW thì khối lượng tiền tệ nói chung sẽ không thay
đổi. Một NHTW bản chứng khoán cho NHTM khác xét trong toàn cục chỉ là sự
dịch chuyển chứng khoán và di chuyển ngược lại của một phần dự trữ dư thừa từ
NHTM này sang NHTM khác đang thiếu vốn mà thôi.
Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở năng động
nhằm thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ và nghiệp vụ thị trường mở thụ động
nhằm bù lại những chuyển động của nhân tố khác đã ảnh hưởng tới cơ số tiền tệ.
1.4.2. Các giao dịch không hoàn lại (hay các giao dịch mua bán hẳn).


Các giao dịch này bao gồm các nghiệp vụ mua, bán các giấy tờ có giá của
NHTW trên thị trường theo phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị
trường. Hình thức giao dịch này làm chuyển hắn quyền sở hữu đối với các chứng
khoán là đối tượng giao dịch. Vì vậy ảnh hưởng của nó đối với dự trữ các Ngân
hàng là dài hạn các giấy tờ đó phải là các công cụ nợ có mức rủi ro thấp và phải
được phát hành bởi các tổ chức đủ điều kiện theo quy định
1.4.3 Các giao dịch có hoàn lại (giao dịch có kỳ hạn).
Phương pháp này chủ yếu được sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời là
các hợp đồng mua lại. Hợp đồng mua lại được sử dụng khi NHTW thực hiện một
giao dịch theo hợp đồng mua lại, có nghĩa là nó mua chứng khoán từ người môi
giới trên thị trường, người đồng ý sẽ mua lại vào một ngày trong tương lai.
Giao dich mua mua bán có kỳ hạn tồn tại dưới dạng:
Thứ nhất: Mua bán theo hợp đồng mua lại: Là việc NHTW ký hợp đồng
mua bán với người giao dịch và ngươi giao dịch đồng ý mua lại các giấy tờ có giá
của NHTW vào một ngày xác định trong tương lai.
Thứ hai : Mua bán theo hợp đồng mua lại đảo ngược : là việc NHTW bán
các giấy tờ có giá cho người giao dịch và người giao dịch lại đồng ý bán lại các
giấy tờ có giá cho NHTW vào một ngày xác định trong tương lai.

Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong Nghiệp vụ thị trường
mở vì những lý do sau:
Đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng
không dự tính trước đến dự trữ của các ngân hàng, chi phí giao dịch của một hợp
đồng mua lại rẻ hơn so với hợp đồng mua đứt bán đoạn; Thích hợp trong trường


hợp các định hướng chính sách tiền tệ không hoàn hảo dẫn đến việc sử dụng các
giải pháp khắc phục; làm giảm thời gian thông báo, do đó mà làm giảm bớt biến
động của thị trường trước các quyết định hàng ngày của NHTW.
1.4.4 Nghiệp vụ giao dịch hoán đổi ngoại tệ
Trong nghiệp vụ này khi tham gia giao dịch thì NHTW đồng thời ký hai hợp
đồng và lấy ngoại tệ làm đối tượng trao đổi
Hợp đồng 1: Mua bán ngoại tệ với tỷ gia giao ngay
Hợp đồng 2: Bán hoặc mua ngoại tệ với tỷ giá co kỳ hạn
Ngoài ra một loạt các nghiệp vụ khác cũng được NHTW sử dụng trong
nghiệp vụ thị trường mở như: phát hành, chứng chỉ nợ của NHTW, giao dịch hoán
đổi các chứng khoán đến hạn .
1.5 Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở.
Các nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện thông qua phưong thức giao
dịch song phương và qua phương thức đấu thầu. Có 2 loại đấu thầu: Đấu thầu khối
lượng và đấu thầu lãi suất.
Phương thức giao dịch song phương.
Là phương thức mà NHTW với người giao dịch giao dịch thẳng với nhau
hoặc giao dịch thông qua nhà môi giới hoặc đại lý chứng khoán mà không mua bán
thông qua hình thức đấu thầu.
Phương thức đấu thầu


 Đấu thầu khối lượng

Đấu thầu khối lượng là phương thức đấu thầu với lãi suất được NHTW công
bố trước. NHTW công bố khối lượng tiền cần mua hoặc cần bán bằng phương thức
đấu thầu và ấn định mức lãi suất thực hiện. NHTW công bố điều kiện đặt thầu để
các thành viên đăng ký số tiền dự thầu trên cơ sở chấp thuận mức lãi suất đã xác
định trước. Sau khi mở thầu NHTW sẽ xác định tỷ lệ giá trị đạt thầu và phân bổ
cho từng tổ chức tham gia đặt thầu.
Việc phân bổ thầu được tiến hành thực hiện như sau: Trước hết toàn bộ số
lượng đăng ký dự thầu được cộng lại với nhau. Nếu tổng khối lượng đặt thầu nhỏ
hơn hoặc bằng khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì toàn bộ các đơn dự thầu
đều được phân bổ theo khối lượng đặt thầu. Nếu tổng khối lượng đặt thầu lớn hơn
khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì khối lượng trúng thầu của từng thành
viên được phân bổ tỷ lệ thuận với khối lượng đặt thầu của thành viên đó. Các đơn
dự thầu sẽ được phân bổ như sau:
n

∑b
Tỷ lệ % phân bổ thầu: k = A/

i =1

i

trong đó:

- A: là khối lượng NHTW chào mua/chào bán
- n: là tổng số thành viên tham gia dự thầu
- bi là khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i
-k

là tỷ lệ phân bổ thầu


Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k, khối lượng trúng thầu của thành viên thứ i
(Wi) được xác định như sau:
Wi = k x bi
 Đấu thầu lãi suất
Theo phương thức đấu thầu lãi suất thì các thành viên tham gia tự đăng ký số
tiền ứng với mỗi mức lãi suất do tự mình lựa chọn.


- Trường hợp NHTW cần cung ứng tiền thêm vào lưu thông thông qua việc
mua GTCG, các đơn dự thầu được sắp xếp theo thứ tự và được phân bổ theo các
mức lãi suất từ cao xuống thấp. Nghĩa là những đơn dự thầu ứng với lãi suất cao sẽ
được ưu tiên phân bổ trước cho đến khi khối lượng phân phối được sử dụng hết.
Nếu tại mức lãi suất thấp nhất được chấp nhận, khối lượng đăng ký dự thầu lớn
hơn khối lượng được phân phối thì quá trình phân bổ như sau:
Gọi: - A: là khối lượng NHTW chào mua/chào bán
- rt : là mức lãi suất thứ t được đăng ký
- b(rt)i là khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i ứng với mức lãi suất rt
- b(rt) là tổng khối lượng đặt thầu của các thành viên ứng với mức lãi
suất rt
- rm là mức lãi suất cuối cùng được chấp nhận.
Đối với trường hợp NHTW đấu thầu để bơm thêm vốn khả dụng cho hệ thống
ngân hàng thì: r1



rt




rm

- k(rm) là tỷ lệ % trúng thầu được phân bổ tại mức lãi suất cuối cùng
m −1

∑ b( r )
t =1

t

AB(rm)
Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k(r m), khối lượng trúng thầu của thành viên thứ
k(rm) =

i (Wi) tại mức lãi suất rm được xác định như sau:
W(rm) = k(rm) x b(rm)
- Trường hợp NHTW cần hút tiền từ lưu thông về thông qua việc bán GTCG
thì các quy trình diễn ra ngược lại.
Trên thế giới có hai phương thức đấu thầu lãi suất là đấu thầu theo kiểu Mỹ và
đấu thầu theo kiểu Hà Lan. Nếu đấu thầu theo kiểu Mỹ thì tất cả các mức lãi suất
đã đăng ký trong phạm vi đặt thầu đều thực hiện theo đúng mức lãi suất đã đăng


ký. Nếu đấu thầu theo kiểu Hà Lan thì tất cả lượng đặt thầu được xác định cùng
mức lãi suất đạt thầu.
1.6 Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở
1.6.1 Tín phiếu kho bạc.(TB)
Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do chính phủ phát hành để bù đắp thiếu
hụt tạm thời trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu thông thường là dưới 12
tháng. Đây là công cụ chủ yếu của nghiệp vụ thị trường mở của hầu hết NHTW các

nước vì:
-Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao.
-Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể thoả mãn nhu cầu can
thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau.
Bộ tài chính là người có vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng
phát hành, thanh toán lãi và gốc của tín phiếu. Tín phiếu kho bạc được phát hành
hàng tuần để chi trả các khoản nợ ngắn hạn của chính phủ.
Vì vậy, khối lượng tín phiếu này thay đổi tuỳ theo nhu cầu vay mượn của
chính phủ và sự hạn chế tốc độ tăng trưởng của các nhà chức trách tiền tệ.
1.6.2 Chứng chỉ tiền gửi (CD)
Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của Ngân hàng hay các định chế tài chính
phi ngân hàng, xác nhận món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong một thời gian
nhất định với một mức lãi suất định trước. Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi thường
là ngắn hạn. Sự ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay đổi căn bản trong


cơ chế quản lý ngân hàng: Chuyển từ quản lý tài sản nợ sang quản lý tài sản có vì
nó cung cấp một hình thức huy động vốn chủ động cho ngân hàng thay vì phải phụ
thuộc vào người gửi tiền. Tình ưu việt của chứng chỉ tiền gửi chính là bảo đảm sự
lưu thông của nó và do đó nó được sử dụng như là hàng hoá phổ biến cho Nghiệp
vụ thị trường mở.
1.6.3 Thương phiếu. (CP)
Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc
cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất
định. Đây là giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ xung vốn
ngắn hạn. Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu và là tài sản nợ đối với
người phát hành thương phiếu. Cơ chế bảo lãnh của ngân hàng làm cho thương
phiếu có tính chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ dàng trong thanh
toán. Việc mua bán thương phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của
các ngân hàng hoặc tiền gửi của các khách hàng tại NHTM.

1.6.4 Trái phiếu chính phủ.
Trái phiếu chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được Nhà nước phát hành
nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Mặc dù là dài hạn nhưng trái phiếu
chính phủ được sử dụng phổ biến trong Nghiệp vụ thị trường mở bởi tính an toàn,
khối lượng phát hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp
đến giá cả trái phiếu kho bạc trên thị trường tài chính.
1.6.5 Trái phiếu chính quyền điạ phương.
Tương tự như trái phiếu chính phủ, những trái phiếu chính quyền địa
phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thông


thường người sở hữu trái phiếu chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi về
thuế thu nhập từ trái phiếu.
1.6.6 Các hợp đồng mua lại.
Đây là những món vay ngắn hạn, trong đó tín phiếu kho bạc được sử dụng
làm vật đảm bảo cho tài sản có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay
không thanh toán nợ.
Hàng hoá trên thị trường mở ngày càng có xu hướng đa dạng hoá, điều này
phụ thuộc vào:
Một là, do cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng trở nên gay gắt, đặc
biệt là dưới ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hoá các hoạt động tài chính và sự xuất
hiện nhiều tổ chức cung cấp tài chính mới. Điều này đòi hỏi các tổ chức tài chính
phải tìm kiếm các công cụ mới thoả mãn nhu cầu thu hút vốn về các mặt: Thời hạn,
mức độ rủi ro, mức sinh lời, cách thức thanh toán nợ. Xu hướng này sẽ có ảnh
hưởng đến sự thay đổi cơ cấu hàng hoá trên thị trường mở.
1.7 Những bên tham gia vào Nghiệp vụ thị trường mở.
Thị trường mở thực chất là thị trường tiền tệ mở rộng nên các chủ thể tham
gia thị trường này rất đông đảo, phong phú với nhiều mục đích khác nhau.



Các Ngân hàng thương mại.

Các NHTM tham gia thị trường mở nhằm điều hoà mức dự trữ ngân quỹ để
duy trì khả năng thanh toán, cho vay khoản vốn dư thừa để kiếm lãi. Đồng thời qua
thị trường này các NHTM thực hiện nghiệp cụ môi giới và kinh doanh chứng
khoán.


Các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường mở vì:
NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, nhận một số lượng khổng lồ vốn gửi
và dùng tiền gửi huy động được để cho khách hàng vay; NHTM là thành viên đặc
biệt của thị trường tiền tệ, vừa là người đi vay vừa là người cho vay.


Các tổ chức tài chính phi ngân hàng .

Các tổ chức tài chính phi ngân hàng bao gồm: Các công ty bảo hiểm, công ty
tài chính, quỹ đầu tư…Các tổ chức này coi thị trường mở như là nơi kiếm thu nhập
qua việc sử dụng vốn nhàn rỗi để mua, bán các chứng khoán có giá trị ngắn hạn
hoặ dài hạn. Các tổ chức này thường có khối lượng chứng khoán lớn và họ thường
xuyên thay đổi cơ cấu danh mục đầu tư nhằm đảm bảo mức sinh lời cao nhất và rủi
ro dự tính thấp nhất. Đó là động cơ của họ để tham gia vào Nghiệp vụ thị trường
mở.


Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn.

Các doanh nghiệp có nhu cầu bán chứng khoán để đổi ra tiền mặt hặc để
kiếm lời trong thời gian ngắn. Khi thừa vốn kinh doanh các doanh nghiệp có thể
mua các loại chứng khoán ngắ hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, chứng chỉ tiền

gửi… để kiếm lời.


Các hộ gia đình.

Hộ gia đình tham gia thị trường mở như họ phải chuyển các giấy tờ có giá
ngắn hạn mà họ đang nắm giữ thành tiền mặt có tính lỏng mạnh nhất, họ mua các
chứng khoán phòng ngừa rủi ro bật ngờ, đầu tư vào giấy tờ có giá nhờ vào sự thay
đổi lãi suất dự đoán.




Các nhà giao dịch chuyên nghiệp.

Tham gia vào thị trường mở với tư cách là người trung gian trong việc mua
bán các chứng từ có giá trị giữa NHTW và các đối tác khác như các hãng sản xuất
kinh doanh; các nhà đầu tư tư nhân; các ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân
hàng. Qua nghiệp vụ này họ hưởng chênh lệch giữa giá mua, giá bán.


Ngân hàng Trung Ương.

NHTW tham gia thị trường mở với vị trí là người điều hành, quản lý thị
trường thông qua việc mua, bán các giấy tờ có giá trị ngắn hạn nhằm cung cấp cho
hệ thống ngân hàng khả năng thanh toán cần thiết phù hợp với nhu cầu về vốn cho
nền kinh tế. NHTW sử dụng Nghiệp vụ thị trường mở trên cơ sở hoạch định chính
sách tiền tệ. Qua đó NHTW quản lý khối lượng tiền cung ứng kiểm soát và điều
tiết hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng. NHTW tham gia thị trường mở
không phải để kinh doanh mà để quản lý, chi phối thị trường làm cho chính sách

tiền tệ được thực hiện theo đúng mục tiêu của nó.


Kho bạc Nhà nước.

Kho bạc Nhà nước cung ứng hàng hoá cho thị trường mở như tín phiếu, trái
phiếu kho bạc. Kho bạc cung cấp hàng hoá và kết hợp với NHTW trong hoạt động
của thị trường mở.



×