Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận Vai trò của phân tích kinh tế trong các công ty liên doanh cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.48 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Phân tích kinh tế doanh nghiệp là một bộ môn khoa học kinh tế cơ bản trong
bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào. Trong bối cảnh toàn cầu hóa các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ... thì các tổ chức kinh tế từ Nhà nước đến doanh nghiệp,
trong nước và thế giới đều rất quan tâm đến thực trạng và hiệu quả hoạt động của
nhau để trên cơ sở đó họ có thể ra những quyết định kịp thời và đúng đắn.
Có rất nhiều đối tượng quan tâm và sử dụng thông tin kinh tế của doanh
nghiệp. Mỗi đối tượng lại quan tâm theo góc độ và với mục tiêu khác nhau.
Từ những nhận thức ban đầu đó, Nhóm 4 - Lớp CH17A – Kế toán chọn đề tài
bài thảo luận của nhóm để đi sâu tìm hiểu:
Vai trò của phân tích kinh tế trong các công ty liên doanh, cổ phần. Những
đối tượng nào quan tâm đến số liệu phân tích kinh tế của các công ty liên
doanh, cổ phần?
Tại sao nói “Phân tích kinh tế giống như việc bác sỹ kiểm tra sức khỏe của
con người”?

1


I. Vai trò của phân tích kinh tế trong công ty cổ phần và doanh nghiệp liên
doanh
1.1 Công ty cổ phần
Công ty cổ phần (CTCP) được định nghĩa là một tổ chức thành lập theo
pháp luật trong đó vốn được chia làm nhiều phần bằng nhau, người sở hữu ít nhất
một cổ phần đã phát hành của CTCP được gọi là cổ đông. Cổ đông có thể là cá
nhân hay tổ chức và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. CTCP mang bản
chất là công ty đối vốn quy tụ các cổ đông có thể là những người không quen biết
nhau, tối thiểu phải là ba nhưng không hạn chế số lượng tối đa.
* Đặc điểm: Công ty cổ phần là tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập
Cổ đông trong CTCP chịu trách nhiệm hữu hạn.


Cổ phần được tự do chuyển nhượng.
CTCP có cấu trúc vốn và tài chính linh hoạt.
Quy mô CTCP dễ dàng mở rộng.
Cơ chế quản lý tập trung cao
Với những đặc điểm nổi bật, CTCP đã trở thành hình thức tổ chức doanh
nghiệp mang tính thống trị nhằm giải quyết nhu cầu về vốn cho tăng trưởng. Dù
vẫn còn có những hạn chế nhất định nhưng trong thời buổi cạnh tranh toàn cầu
hiện nay những hạn chế của CTCP là hoàn toàn có thể được khắc phục. Trong nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, CTCP là hình thức
huy động vốn trên quy mô lớn một cách hiệu quả nhất, giúp doanh nghiệp tiếp thu
sự tiến bộ của khoa học nhanh chóng, tạo điều kiện cho công ty kinh doanh hiệu
quả hơn và tăng thêm nguồn thu cho ngân sách.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết;

2


- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công
chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
Công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám
đốc (Tổng giám đốc); đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông phải có
Ban kiểm soát.

Lợi thế của công ty cổ phần là: (i) chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần là
trách nhiệm hữu hạn, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài
sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi ro của các cổ đông
không cao; (ii) khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các
lĩnh vực, ngành nghề; (ii) cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo điều
kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty; (iv) khả năng huy động vốn của công
ty cổ phần rất cao thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc
điểm riêng có của công ty cổ phần; (v) việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ
phần là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ
phần là rất rộng, ngay cả các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của
công ty cổ phần.
Bên cạnh những lợi thế nêu trên, loại hình công ty cổ phần cũng có những hạn
chế nhất định như: (i) việc quản lý và điều hành công ty cổ phần rất phức tạp do số
lượng các cổ đông có thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm
chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ đông đối kháng nhau về lợi ích; (ii)
Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại hình công ty
khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài
chính, kế toán.
1.2 Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác
thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa
Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài
hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh
nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước
ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập
theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm
trong phạm vi phần vốn cam kết góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp. Doanh

3



nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, được thành lập
và hoạt động kể từ ngày được cấp Giấy phép đầu tư.
Đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp liên doanh là có sự phối hợp cùng góp vốn
đầu tư sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư Việt
nam
Tỷ lệ góp vốn của mỗi bên sẽ quyết định tới mức độ tham gia quản lý doanh
nghiệp, tỷ lệ lợi nhuận được hưởng cũng như rủi ro mỗi bên tham gia liên doanh
phải gánh chịu.
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức doanh nghiệp thực sự đem lại nhiều lợi
thế cho cả nhà đầu tư Việt nam và nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các nhà đầu tư
Việt Nam, khi tham gia doanh nghiệp liên doanh, ngoài việc tượng phân chia lợi
nhuận theo tỷ lệ vốn góp, nhà đầu tư việt nam còn có điều kiện tiếp cận với công
nghệ hiện đại, phong cách và trình độ quản lý kinh tế tiên tiến. Đối với bên nước
ngoài, lợi thế được hưởng là được đảm bảo khả năng thành công cao hơn do môi
trường kinh doanh, pháp lý hoàn toàn xa lạ nếu không có bên Việt Nam thì sẽ gặp
rất nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, hình thức doanh nghiệp liên doanh cũng có sự bất lợi là có sự ràng
buộc chặt chẽ trong một pháp nhân chung giữa các bên hoàn toàn khác nhau không
chỉ về ngôn ngữ mà còn về truyền thống, phong tục, tập quán, phong cách kinh
doanh, do vậy có thể phát sinh những mâu thuẫn không dễ gì giải quyết.
1.3 Phân tích kinh tế trong công ty cổ phần và doanh nghiệp liên doanh
Phân tích kinh tế là quá trình nghiên cứu để đánh giá toàn bộ diễn biến và
kết quả quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua đó làm rõ
chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, các nhân tố ảnh hưởng và các nguồn
tiềm năng có thể khai thác, trên cơ sở đó có những biện pháp, phương án nhằm
không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
từ đó góp phần tăng giá trị doanh nghiệp.
- Phân tích tình hình sử dụng các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp: Các yếu
tố về lao động, tình hình sử dụng tài sản cố định, tình hình sử dụng nguyên vật liệu

cho sản xuất, ảnh hưởng tổng hợp của tình hình sử dụng các yếu tố sản xuất đến
kết quả sản xuất...
- Phân tích các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, lợi nhuận: Phân tích cơ cấu và sự
biến động của chỉ tiêu doanh thu, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến
động của doanh thu, phân tích tình hình quản lý và sử dụng chi phí, phân tích khái
4


quát lợi nhuận theo các nguồn hình thành, phân tích lợi nhuận theo đơn vị trực
thuộc...
- Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp: Phân tích cơ cấu phân bổ
và sự biến động của tài sản trong mối quan hệ doanh thu và lợi nhuận, phân tích
tình hình huy động các nguồn vốn, Phân tích mối quan ệ giữa các loại nguồn vốn
và các loại tài sản, phân tích cơ cấu và tình hình biến động tài sản ngắn hạn, tài sản
dài hạn, phân tích tình hình công nợ phải trả, hiệu quả sử dụng vốn...
- Phân tích các nội dung khác trong và ngoài doanh nghiệp …
Mục đích của phân tích kinh tế là giúp các đối tượng quan tâm đưa ra các
quyết định hợp lý và sẽ hành động trong tương lai dựa vào các thông tin có tính
lịch sử .
1.4 Vai trò của phân tích kinh tế trong công ty cổ phần và doanh nghiệp liên
doanh
Thứ nhất, Phân tích kinh tế là công cụ để phát hiện những khả năng, tiềm
năng trong kinh doanh của các doanh nghiệp, là công cụ để cải tiến cơ chế quản lý.
Mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều chứa đựng những tiềm năng chưa
được phát hiện, chỉ qua phân tích kinh tế mới tìm ra và khai thác để nâng cao hiệu
quả kinh doanh, qua phân tích có thể thấy được những nguyên nhân, nguồn gốc
của những vấn đề phát sinh, thấy được những điểm mạnh, điểm yếu của doanh
nghiệp để từ đó có những cơ sở giúp cho chủ doanh nghiệp đưa ra các quyết định
trong chỉ đạo kinh doanh, trong quản lý và từ đó cải tiến cơ chế quản lý của doanh
nghiệp.

Kinh tế có vai trò rất quan trọng và hiện hữu trong tất cả mọi hoạt động của
doanh nghiệp. Hầu hết mọi quyết định kinh doanh đều được đưa ra dựa trên những
kết quả rút ra từ những đánh giá phân tích kinh tế. Bởi việc lựa chọn hình thức tổ
chức doanh nghiệp, các mục tiêu hay đánh giá khả năng hoàn vốn của các dự án
đầu tư đều được xem xét từ góc độ của phân tích kinh tế. Để đương đầu với những
thách thức trong kinh doanh, các hoạt động của doanh nghiệp phải được dựa trên
nền tảng của kinh tế. Phân tích kinh tế là trọng tâm của cả hoạch định chiến lược
và chiến thuật kinh doanh.
Quản trị tài chính là một bộ phận quan trọng của quản trị doanh nghiệp. Tất cả
các hoạt động kinh doanh đều ảnh hưởng tới tình hình tài chính của doanh nghiệp,
ngược lại tình hình tài chính tốt hay xấu lại có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm quá
trình kinh doanh. Do đó, để phục vụ cho công tác quản lý hoạt động kinh doanh có

5


hiệu quả các nhà quản trị cần phải thường xuyên tổ chức phân tích tình hình tài
chính cho tương lai. Bởi vì thông qua việc tính toán, phân tích tài chính cho ta biết
những điểm mạnh và điểm yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
cũng như những tiềm năng cần phát huy và những nhược điểm cần khắc phục. Qua
đó các nhà quản lý tài chính có thể xác định được nguyên nhân gây ra và đề xuất
các giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính cũng như tình hình hoạt động kinh
doanh của đơn vị mình trong thời gian tới.
Phân tích kinh tế cũng giúp kết nối và cố vấn đầu tư cho chính doanh nghiệp
của mình thông qua sự phân tích và đánh giá các dự án hay kế hoạch. Kết quả của
phân tích kinh tế sẽ góp phần tích cực vào sự hưng thịnh của các công ty. Điều này
đã được khẳng định rất rõ và chứng minh qua thực tế.
Thứ hai, Phân tích kinh tế là một biện pháp phòng ngừa rủi ro vì ngoài việc
phân tích điều kiện bên trong của doanh nghiệp thì phân tích kinh tế còn phân tích
các điều kiện ở bên ngoài như thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh… trên cơ

sở đó dự đoán những rủi ro có thể xảy ra và có kế hoạch phòng ngừa nhằm hạn chế
tối đa những tổn thất trong doanh nghiệp.
Phân tích kinh tế làm giảm bớt các nhận định chủ quan, dự đoán và những
trực giác trong kinh doanh, góp phần làm giảm bớt tính không chắc chắn cho các
hoạt động kinh doanh.
Thứ ba, Tài liệu phân tích không những cần cho chính những nhà quản trị
doanh nghiệp mà nó còn rất cần cho những đối tượng bên ngoài doanh nghiệp khi
họ có mối quan hệ lợi ích đối với doanh nghiệp. Thông qua tài liệu phân tích họ có
cơ sở để đưa ra những quyết định đúng đắn trong việc hợp tác đầu tư, cho vay đối
với doanh nghiệp.
Vai trò rất quan trọng phân tích kinh tế là tạo ra giá trị khổng lồ cho các nhà
đầu tư, cung cấp. Phân tích đưa ra những cơ sở hay nói cách khác đó là những “lời
khuyên đầu tư” cho các nhà đầu tư.
Vai trò này sẽ được thể hiện rõ hơn, khi chúng ta nghiên cứu các đối tượng
quan tâm đến phân tích kinh tế doanh nghiệp.
Bởi vậy, việc thường xuyên tiến hành phân tích kinh tế doanh nghiệp sẽ giúp
cho các nhà quản trị công ty và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ hơn “bức
tranh” về thực trạng hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, xác định đầy đủ và đúng
đắn những nguyên nhân, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình công ty.
II. Những đối tượng nào quan tâm đến số liệu phân tích kinh tế của các doanh
nghiệp liên doanh, công ty cổ phần
6


Trong điều kiện sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, có sự quản lý vĩ
mô của nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình kinh tế khác nhau đều bình
đẳng trước pháp luật trong kinh doanh, nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình
kinh tế doanh nghiệp như: các nhà đầu tư, các nhà cho vay, nhà cung cấp, khách
hàng. Mỗi đối tượng này đều quan tâm đến tình hình kinh tế của doanh nghiệp
dưới những góc độ khác nhau. Chúng ta có thể chia ra thành 2 nhóm đối tượng sau:

Nhóm có quyền lợi trực tiếp và nhóm có quyền lợi gián tiếp.
- Nhóm có quyền lợi trực tiếp: bao gồm các cổ đông, các nhà đầu tư tương lai
(đối với công ty cổ phần), các chủ ngân hàng, các nhà cung cấp tín dụng, các nhà
quản lý trong nội bộ công ty. Mỗi đối tượng trên sử dụng thông tin về tình hình tài
chính của doanh nghiệp cho các mục đích khác nhau. Cụ thể:
+ Các nhà quản lý của công ty cần các thông tin để kiểm soát và chỉ đạo tình
hình sản xuất kinh doanh của công ty. Các thông tin do các báo cáo tài chính cung
cấp thường không đáp ứng đủ cho nhu cầu thông tin của họ, nhằm đáp ứng thông
tin cho đối tượng này doanh nghiệp thường phải tổ chức thêm một hệ thống kế
toán riêng, đó là Kế toán quản trị. Mục đích của kế toán quản trị là cung cấp thông
tin phục vụ cho việc quản lý doanh nghiệp và ra các quyết định quản lý sản xuất
doanh nghiệp. Các thông tin do kế toán quản trị cung cấp chỉ được sử dụng trong
nội bộ công ty, theo yêu cầu quản lý của họ mà không được cung cấp ra bên ngoài
cho các đối tượng sử dụng ở bên ngoài doanh nghiệp.
+ Các cổ đông (đối với công ty cổ phần) đầu tư vào công ty với mục tiêu để
tìm kiếm lợi nhuận nên quan tâm nhiều tới khả năng sinh lời của công ty; họ chính
là các chủ sở hữu của công ty nên sử dụng các thông tin kế toán để theo dõi tình
hình tài chính và các kết qủa kinh doanh của công ty nhằm mục đích bảo vệ thông
tin tài sản của mình đã đầu tư vào công ty, tình trạng tài chính và kết quả kinh
doanh của công ty có ảnh hưởng đến giá cả của cổ phiếu do công ty phát hành. Để
bảo vệ tài sản của mình các cổ đông phải thường xuyên phân tích tình hình tài
chính và kết quả kinh doanh của các công ty mà họ đã đầu tư để quyết định có tiếp
tục nắm giữ các cổ phiếu của các công ty này nữa hay không.
+ Các cổ đông tương lai (đối với công ty cổ phần): Trong trường hợp doanh
nghiệp phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, các báo cáo tài chính của
doanh nghiệp cần được công bố cho các nhà đầu tư. Để được tham gia vào thị
trường chứng khoán công ty cần làm các thủ tục để được doanh nghiệp chấp nhận
cho tham gia niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Trước khi gọi vốn trong công chúng, công ty phải gửi các báo cáo về tình hình
tài chính và kết quả kinh doanh của công ty đến Ủy ban chứng khoán, các báo cáo


7


này gọi là "Bản cáo bạch" hay bản cung cấp các thông tin cần thiết về công ty cho
các cổ đông tương lai và điều lệ phát hành cổ phiếu.
Nội dung của bản cáo bạch được quy định theo mẫu thống nhất cho các công
ty phát hành chứng khoán. các thông tin cần phải có trong bản cáo bạch bao gồm
các thông tin về tài sản, công nợ, tình hình tài chính của công ty, kết quả kinh
doanh. Ngoài ra bản cáo bạch còn có thể có các thông tin chi tiết khác như: triển
vọng về phương án kinh doanh, các loại cổ phiếu, hoàn cảnh phát hành...
Mục đích của các nhà đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc đầu tư mua
cổ phiếu của các công ty cổ phần. Do vậy, họ luôn mong đợi, tìm kiếm cơ hội đầu
tư vào các cổ phiếu của những công ty có khả năng sinh lời cao. Tuy nhiên, trong
điều kiện nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt, các nhà đầu tư cũng
phải tìm biện pháp bảo vệ an toàn cho đồng vốn của họ. Vì lý do đó mà bên cạnh
việc quan tâm đến mức cổ tức, thời gian hoàn vốn, mức sinh lời, mức độ thu hồi
vốn, các nhà đầu tư còn quan tâm nhiều đến các thông tin về mức độ rủi ro các dự
án đầu tư. Trên các thị trường chứng khoán các nhà đầu tư sử dụng rất nhiều các
chỉ số tài chính để đánh giá giá trị và khả năng sinh lãi của cổ phiếu cũng như các
thông tin về xu hướng thị trường trước khi đưa ra các quyết định đầu tư hay chấp
thuận giao dịch mua bán. Các báo cáo tài chính chứa đựng những chỉ tiêu tài chính
tốt, hứa hẹn nhiều lợi nhuận sẽ làm cho giá cổ phiếu của doanh nghiệp trên thị
trường tăng vọt. Ngược lại, báo cáo cho thấy tình hình tài chính xấu và nguy cơ có
các khoản lỗ sẽ kéo giá cổ phiếu của doanh nghiệp trên thị trường xuống thấp. Các
nhà đầu tư tương lai và các nhà phân tích tài chính cũng như các nhà tư nhân tìm
kiếm cơ hội đầu tư nhờ phân tích các thông tin trên báo cáo tài chính của công ty.
+ Các chủ ngân hàng và nhà cung cấp tín dụng quan tâm đến khả năng sinh
lợi và khả năng thanh toán của doanh nghiệp thể hiện trên các báo cáo kế toán
bằng việc so sánh số lượng và chủng loại tài sản với số nợ phải trả theo kỳ hạn,

những người này có thể xác định được khả năng thanh toán của doanh nghiệp và
quyết định có nên cho doanh nghiệp vay hay không.
Các chủ ngân hàng còn quan tâm đến vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp và
coi đó như là nguồn đảm bảo cho ngân hàng có thể thu hồi nợ khi doanh nghiệp bị
thua lỗ và phá sản. Ngân hàng sẽ hạn chế cho các doanh nghiệp vay khi nó không
có dấu hiệu có thể thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Cũng giống như các chủ ngân hàng, các nhà cung cấp tín dụng khác như: các
doanh nghiệp cung cấp vật tư theo phương thức trả chậm cần thông tin để quyết
định có bán hàng theo phương thức trả chậm cho doanh nghiệp hay không.

8


+ Cơ quan thuế cần các thông tin kế toán để xác định số thuế mà doanh
nghiệp phải nộp.
+ Một số đối tượng khác như nhà cung cấp, bạn hàng… cũng là đối tượng
quan tâm trực tiếp đến việc phân tích kinh tế doanh nghiệp đối tác, bạn hàng của
mình để bắt tay, hợp tác kinh doanh.
- Nhóm có quyền lợi gián tiếp: quan tâm đến các thông tin về tình hình tài
chính của công ty, gồm các cơ quan quản lý nhà nước khác ngoài cơ quan thuế, các
viện nghiên cứu kinh tế, các sinh viên, người lao động, và cả các đối thủ cạnh
tranh...
Đối với các cơ quan quản lý chức năng của nhà nước, các viện nghiên cứu,
viện kinh tế, viện chính sách... mối quan tâm cũng giống như các đối tượng kể trên
ở góc độ này hay góc độ khác. Ngoài ra, mối quan tâm của họ đi liền với chức
năng nhiệm vụ của mình, là nghiên cứu chính sách, sửa đổi luật pháp để phù hợp
với tình hình phát triển kinh tế, đánh giá tốc độ phát triển kinh tế, nghiên cứu
những đóng góp của những loại hình doanh nghiệp này. Đặc biệt, với doanh
nghiệp liên doanh, việc quan tâm đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp luôn
được các cơ quan chức năng của Nhà nước quan tâm để đánh giá những tác động

của nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta. Đánh giá hiệu quả nguồn đầu tư
trực tiếp FDI tới phát triển kinh tế.
Với các sinh viên, việc nghiên cứu kinh tế chủ yếu phục vụ cho quá trình học
tập và lựa chọn môi trường làm việc phù hợp trong tương lai qua việc phân tích
đánh giá những doanh nghiệp mà họ quan tâm.
Mối quan tâm của các đối tượng cũng như các quyết định của từng đối tượng
chỉ phù hợp và được đáp ứng khi tiến hành phân tích kinh tế doanh nghiệp.
Có thể nói: Mục đích chính của phân tích kinh tế doanh nghiệp là giúp các đối
tượng sử dụng thông tin đánh giá đúng sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi và
triển vọng của doanh nghiệp từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn phù hợp với
mục tiêu mà họ quan tâm.
Tóm lại: việc phân tích tình hình tài chính của công ty cổ phần công ty liên
doanh là một công việc có ý nghĩa cực kỳ quan trọng có trong công tác quản trị
doanh nghiệp. Nó không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân công ty, mà còn cần thiết
cho các chủ thể quản lý khác có liên quan đến công ty cổ phần sẽ giúp cho quản trị
công ty khắc phục được những thiếu sót, phát huy những mặt tích cực và dự đoán
được tình hình phát triển của công ty trong tương lai. Trên cơ sở đó quản trị công

9


ty đề ra được những giải pháp hữu hiệu nhằm lựa chọn quyết định phương án tối
ưu cho hoạt động kinh doanh của công ty.
Phân tích tình hình tài chính công ty sẽ giúp cho các nhà quản trị công ty thấy
được những nét sinh động trên “bức tranh tài chính” của công ty thể hiện qua các
khía cạnh sau đây:
- Cung cấp kịp thời, đầy đủ và trung thực các thông tin tài chính cần thiết cho
công ty và các nhà đầu tư, các nhà cho vay, các khách hàng, các cổ đông.
- Cung cấp thông tin về tình hình sử dụng vốn, khả năng huy động nguồn vốn,
khả năng sinh lợi và hiệu quả sản xuất kinh doanh.

- Cung cấp thông tin về tình hình công nợ, khả năng thu hồi các khoản phải
thu, khả năng thanh toán các khoản phải trả cũng như các nhân tố khác ảnh hưởng
tới hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
III. Phân tích kinh tế giống như việc "bác sỹ kiểm tra sức khỏe của con
người"
Vì sao con người phải khám sức khỏe định kỳ? Câu trả lời của câu hỏi này là:
1/ Phát hiện bệnh sớm
2/ Tiết kiệm tiền bạc trong việc phòng bệnh và chữa bệnh
3/ Tiết kiệm thời gian chữa bệnh
4/ Khả năng chữa lành bệnh cao, ít gây tàn phế...
Vì thế, các cụ ta đã có câu: “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”.
Doanh nghiệp cũng giống như thực thể một con người, cũng phải hoạt động,
tồn tại, cũng phải chống lại những tác động của bệnh tật. Những căn bệnh doanh
nghiệp gặp phải là do những biến động, khủng hoảng kinh tế, môi trường kinh
doanh thay đổi, tác động của sự thay đổi khoa học công nghệ, kỹ thuật, trình độ,
lao động...
Khi chúng ta áp vấn đề này vào doanh nghiệp, chúng ta có thể nhận thấy
những đáp án tương tự:
- “Phát hiện bệnh sớm”. Phân tích kinh tế giúp chúng ta đánh giá được tình
hình tài chính, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phát hiện những tiềm năng,
hạn chế những rủi ro có thể nảy sinh. Và có những biện pháp để phòng tránh
những rủi ro có thể xảy ra. Từ đó giảm được những tác động của rủi ro đem lại.

10


- Trên cơ sở phát hiện những tiềm năng, khả năng kinh doanh, chủ doanh
nghiệp và những người có liên quan, các nhà quản lý, các bên liên doanh, các nhà
đầu tư... có thể đưa ra các phương án kinh doanh, phương án đầu tư hoặc các quyết
định kinh tế hiệu quả, tiết kiệm chi phí. Mặt khác, khi phòng tránh được những rủi

ro, tiết kiệm được tiền bạc, nhân lực để chống đỡ các kết quả do rủi ro đem lại.
Đồng thời, tiết kiệm thời gian khắc phục những hậu quả ro rủi do đem lại. Sử dụng
thời gian này vào phương án phát triển sản xuất kinh doanh mới. Đầu tư có hiệu
quả, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Trong phân tích tài chính, thường dùng các nhóm chỉ tiêu đánh giá sau:
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán.
- Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu vốn.
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động.
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời.
* Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán.
Ngày nay mục tiêu kinh doanh được các nhà kinh tế nhìn nhận lại một cách
trực tiếp hơn, đó là: trả được công nợ và có lợi nhuận. Vì vậy khả năng thanh toán
được coi là những chỉ tiêu tài chính được quan tâm hàng đầu và được đặc trưng
bằng các tỷ suất sau.
Hệ số thanh toán chung.
Hệ số này thể hiện mối quan hệ tương đối giữa tài sản lưu động hiện hành và
tổng nợ ngắn hạn hiện hành.
TSLĐ

Hệ số thanh toán chung =

Tổng nợ ngắn hạn

Tài sản lưu động thông thường bao gồm tiền, các chứng khoán dễ chuyển
nhượng, các khoản phải thu, hàng tồn kho và tài sản lưu động khác. Còn nợ ngắn
hạn gồm các khoản vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả
người cung cấp, các khoản phải trả khác. Hệ số thanh toán chung đo lường khả
năng của các tài sản lưu động có thể chuyển đổi thành tiền để hoàn trả các khoản
nợ ngắn hạn. Hệ số này phụ thuộc vào từng ngành kinh doanh và từng thời kỳ kinh


11


doanh, nhưng nguyên tắc cơ bản phát biểu rằng con số tỷ lệ 2:1 là hợp lý. Nhìn
chung, một con số tỷ lệ thanh toán chung rất thấp thông thường sẽ trở thành
nguyên nhân lo âu, bởi vì các vấn đề rắc rối về dòng tiền mặt chắc chắn sẽ xuất
hiện. Trong khi đó một con số tỷ cao quá lại nói lên rằng Công ty đang không quản
lý hợp lý được các tài sản có hiện hành của mình.
Hệ số thanh toán nhanh.
Hệ số thanh toán nhanh là một tiêu chuẩn đánh giá khắt khe hơn về khả năng
trả các khoản nợ ngắn hạn so với chỉ số thanh toán chung. Hệ số này thể hiện mối
quan hệ giữa tài sản có khả năng thanh toán nhanh bằng tiền mặt (tiền mặt, chứng
khoán có giá và các khoản phải thu) và tổng nợ ngắn hạn. Hàng dự trữ và các
khoản phí trả trước không được coi là các tài sản có khả năng thanh toán nhanh vì
chúng khó chuyển đổi bằngtiền mặt và đẽ bị lỗ nếu được bán. Hệ số này được tính
như sau:
TSLĐ - Hàng tồn kho

Hệ số thanh toán
nhanh

=

Tổng nợ ngắn hạn

Nếu hệ số thanh toán nhanh ≥ 1 thì tình hình thanh toán tưong đối khả quan,
còn nếu < 1 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán.
Hệ số thanh toán tức thời.
Đây là một tiêu chuẩn đánh giá khả năng thanh toán bằng tiền mặt khắt khe
hơn hệ số thanh toán nhanh. Hệ số này được tính bằng cách lấy tổng các khoản tiền

và chứng khoán có khả năng thanh toán cao chia cho nợ ngắn hạn.
Hệ số thanh toán tức

Tiền mặt + chứng khoán thanh khoản
cao

thời =

Tổng nợ ngắn hạn

Chỉ số này đặc biệt quan trọng đối với các bạn hàng mà hoạt động khan hiếm
tiền mặt (quay vòng vốn nhanh), các doanh nghiệp này cần phải được thanh toán
nhanh chóng để hoạt động được bình thường. Thực tế cho thấy, hệ số này ≥0,5 thì
tình hình thanh toán tương đối khả quan còn nếu < 0,5 thì doanh nghiệp có thể gặp

12


khó khăn trong việc thanh toán. Tuy nhiên, nếu hệ số này quá cao lại phản ánh một
tình hình không tốt là vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay tiền chậm làm giảm hiệu
quả sử dụng.
Hệ số thanh toán lãi vay.
Lãi vay phải trả là một khoản chi phí cố định, nguồn để trả lãi vay là lãi thuần
trước thuế. So sánh giữa nguồn để trả lãi vay với lãi vay phải trả sẽ cho chúng ta
biết doanh nghiệp đã sẵn sàng trả tiền lãi vay ở mức độ nào.
Hệ số thanh toán lãi
vay

Lãi thuần trước thuế + Lãi vai phải
trả


=

Lãi vay phải trả

Hệ số này dùng để đo lường mức độ lợi nhuận có được do sử dụng vốn để
đảm bảo trả lãi cho chủ nợ. Nói cách khác, hệ số thanh toán lãi vay cho chúng ta
biết được số vốn đi vay đã sử dụng tốt tới mức độ nào và đem lại một khoản lợi
nhuận là bao nhiêu, có đủ bù đắp lãi vay phải trả không.
* Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính.
Các chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả
năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp. Chúng được dùng để đo lường phần vốn
góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với
doanh nghiệp. Nguồn gốc và sự cấu thành hai loại vốn này xác định khả năng
thanh toán dài hạn của doanh nghiệp ở một mức độ đáng chú ý.
- Chỉ số mắc nợ.
Tổng nợ

Chỉ số mắc nợ

Tổng vốn (Tổng tài sản

chung =

có)

Về mặt lý thuyết, chỉ số này nằm trong khoảng 0 < và < 1 nhưng thông
thường nó dao động quanh giá trị 0,5. Bởi lẽ nó bị tự điều chỉnh từ hai phía: Chủ
nợ và con nợ. Nếu chỉ số này càng cao, chủ nợ sẽ rất chặt chẽ khi quyết định cho
vay thêm, mặt khác về phía con nợ, nếu vay nhiều quá sẽ ảnh hưởng đến quyền


13


kiểm soát, đồng thời sẽ bị chia phần lợi quá nhiều cho vốn vay (trong thời kỳ kinh
doanh tốt đẹp) và rất dễ phá sản (trong thời kỳ kinh doanh đình đốn).
Vốn
Hệ số nợ

vay

(k) =

Vốn
chủ

Đây là chỉ số rút ra từ chỉ số trên, song lại có ý nghĩa để xem xét mối quan hệ
với hiệu quả kinh doanh trên vốn chủ của doanh nghiệp.
- Hệ số cơ cấu vốn.
Để đánh giá trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp, các nhà phân tích còn
nghiên cứu về bố trí cơ cấu vốn. Tỷ số này sẽ trả lời câu hỏi “Trong một đồng vốn
mà doanh nghiệp hiện đang sử dụng có bao nhiêu đầu tư vào TSLĐ, bao nhiêu đầu
tư vào TSCĐ. Tuỳ theo loại hình sản xuất mà tỷ số này ở mức độ cao thấp khác
nhau. Nhưng bố trí cơ cấu vốn càng hợp lý bao nhiêu thì hiệu quả sử dụng vốn
càng tối đa hoá bấy nhiêu. Nếu bố trí cơ cấu vốn bị lệch sẽ làm mất cân đối giữa
TSLĐ và TSCĐ, dẫn tới tình trạng thừa hoặc thiếu một loại tài sản nào đó. Cơ cấu
cho từng loại vốn được tính như sau:
Tỷ trọng tài sản cố định =

Tài sản cố định và đầu tư dài hạn

Tổng tài sản

Tỷ trọng TSLĐ = 1- Tỷ trọng TSCĐ.
Về mặt lý thuyết, tỷ lệ này bằng 50% là hợp lý. Tuy nhiên còn phụ thuộc vào
đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp.
* Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động.
Khi giao tiền vốn cho người khác sử dụng, các nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp,
người cho vay... thường băn khoăn trước câu hỏi: tài sản của mình được sử dụng ở
mức hiệu quả nào? Các chỉ tiêu về hoạt động sẽ đáp ứng câu hỏi này. Đây là nhóm
chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp. Các
chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá tác động tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh

14


nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho TSCĐ và TSLĐ.
Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng
tổng số nguồn vốn mà còn chú trọng đến hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu
thành nguồn vốn của doanh nghiệp.
- Vòng quay tiền.
Chỉ số này được tính bằng cách chia doanh thu tiêu thụ trong năm cho tổng số
tiền mặt và các loại chứng khoán ngắn hạn có khả năng thanh toán cao.
Doanh thu tiêu thụ
Vòng quay tiền =

Tiền + chứng khoán ngắn hạn có khả năng thanh khoản
cao

Chỉ tiêu này cho biết số vòng quay của tiền trong năm.
- Vòng quay hàng tồn kho.

Hàng tồn kho là một loại tài sản dự trữ với mục đích nhằm đảm bảo cho sản
xuất được tiến hành một các bình thường, liên tục, và đáp ứng được nhu cầu của
thị trường. Mức độ tồn kho cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như:
loại hình kinh doanh, chế độ cung cấp mức độ đầu vào, mức độ tiêu thụ sản phẩm,
thời vụ trong năm... Để dảm bảo sản xuất được tiến hành liên tục, đồng thời đáp
ứng đủ cho nhu cầu của khách hàng, mỗi doanh nghiệp cần có một mức dự trữ tồn
kho hợp lý, chỉ tiêu này được xác định bằng tỷ lệ doanh thu tiêu thụ trong năm và
hàng tồn kho.
Doanh thu tiêu thụ

Vòng quay tồn kho =

Hàng tồn kho

Đây là chỉ số phản ánh trình độ quản lý dự trữ của doanh nghiệp, thể hiện mối
quan hệ giữa hàng hoá đã bán và vật tư hàng hoá của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
kinh doanh thường có vòng quay tồn kho hơn rất nhiều so với doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này từ 9 trở lên là một dấu hiệu tốt về tình hình tiêu thụ
và dự trữ. Hệ số này thấp có thể phản ánh doanh nghiệp bị ứ đọng vật tư hàng hoá,
hoặc sản phẩm tiêu thụ chậm và ngược lại.

15


- Vòng quay toàn bộ vốn.
Vòng quay toàn bộ vốn là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng vốn, trong đó
nó phản ánh một đồng vốn được doanh nghiệp huy động vào sản xuất kinh doanh
đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Doanh thu tiêu thụ


Vòng quay toàn bộ vốn =

Tổng số vốn

Tổng số vốn ở đây bao gồm toàn bộ số vốn đựoc doanh nghiệp sử dụng trong
kỳ, không phân biệt nguồn hình thành. Số liệu được lấy ở phần tổng cộng tài sản,
mã số 250 trong Bảng cân đối kế toán.
Chỉ tiêu này làm rõ khả năng tận dụng vốn triệt để vào sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Việc cải thiện chỉ số này sẽ làm tăng lợi nhuận đồng thời làm
tăng khả năng cạnh tranh, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
- Kỳ thu tiền trung bình.
Trong quá trình hoạt động, việc phát sinh các khoản phải thu, phải trả là điều
tất yếu. Khi các khoản phải thu càng lớn, chứng tỏ vốn của doanh nghiệp bị chiếm
dụng càng nhiều (ứ đọng trong khâu thanh toán). Nhanh chóng giải phóng vốn bị ứ
đọng trong khâu thanh toán là một bộ phận quan trọng của công tác tài chính. Vì
vây, các nhà phân tích tài chính rất quan tâm tới thời gian thu hồi các khoản phải
thu và chỉ tiêu kỳ thu tiền trung bình được sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi
vốn trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình
quân ngày. Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Các khoản phải thu

Kỳ thu tiền trung bình =

hoặc =

Doanh thu bình quân ngày

Các khoản phải thu x 360 ngày
Doanh thu


16


Các khoản phải thu bao gồm: Phải thu của khách hàng, trả trước cho người
bán, phải thu nội bộ, các khoản tạm ứng, chi phí trả trước...
Số liệu lấy ở bảng cân đối kế toán, phần tài sản, mã số 130 “các khoản phải
thu” và mã số 159 “Tài sản lưu động khác”.
Doanh thu bao gồm: Doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh (Mã số 01),
thu nhập từ hoạt động tài chính (Mã số 31) và thu thập bất thường (Mã số 41) ở
báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh, phần báo cáo lỗ lãi.
Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng của doanh
nghiệp và các khoản phải trả trước kỳ thu tiền trung bình cho biết trung bình số
phải thu trong kỳ bằng doanh thu của bao nhiêu ngày. Thông thường 20 ngày là
một kỳ thu tiền chấp nhận được. Nếu giá trị của chỉ tiêu này càng cao thì doanh
nghiệp đã bị chiếm dụng vốn, gây ứ đọng vốn trong khâu thanh toán, khả năng thu
hồi vốn trong thanh toán chậm. Do đó, doanh nghiệp phải có biện pháp để thu hồi
nợ. Tuy nhiên, trong tình hình cạnh tranh gay gắt thì có thể đây là chính sách của
doanh nghiệp nhằm phục vụ cho những mục tiêu chiến lược như chính sách mở
rộng, thâm nhập thị trường.
* Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lợi.
Lợi nhuận là mục đích cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi
nhuận càng cao, doanh nghiệp càng tự khẳng định vị trí và sự tồn tại của mình
trong nền kinh tế thị trường. Nhưng nếu chỉ thông qua số lợi nhuận mà doanh
nghiệp thu được trong thời kỳ cao hay thấp để đánh giá chất lượng hoạt động sản
xuất kinh doanh là tốt hay xấu thì có thể đưa chúng ta tới những kết luận sai lầm.
Bởi lẽ số lợi nhuận này không tương xứng với lượng chi phí đã bỏ ra, với khối
lượng tài sản mà doanh nghiệp đã sử dụng. Để khắc phục nhược điểm này, các nhà
phân tích thường bổ xung thêm những chỉ tiêu tương đối bằng cách đặt lợi nhuận
trong mối quan hệ với doanh thu đạt được trong kỳ với tổng số vốn mà doanh
nghiệp đã huy động vào sản xuất kinh doanh. Phân tích mức độ sinh lời của hoạt

động kinh doanh được thực hiện thông qua tính và phân tích các chỉ tiêu sau:
- Doanh lợi tiêu thụ.

17


Để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh thịnh vượng hay suy thoái, ngoài
việc xem xét chỉ tiêu doanh thu tiêu thụ đạt được trong kỳ, các nhà phân tích còn
xác định trong 100 đồng doanh thu đó có bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này
được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho doanh thu tiêu thụ.
Lợi nhuận sau thuế

Doanh lợi tiêu thụ =

Doanh thu tiêu thụ

x 100

Chỉ tiêu này càng cao càng tốt, nó chịu ảnh hưởng của sự thay đổi sản lượng,
giá bán, chi phí...
- Chỉ số doanh lợi vốn.
Tổng vốn hiện nay doanh nghiệp đang quản lý và sử dụng chủ yếu được hình
thành từ hai nguồn: nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn đi vay. Vì vậy, kết quả
hoạt động sản xuất - kinh doanh cũng phải chia làm hai phần. Trước tiên, phải
hoàn trả phần lãi vay và phần còn lại sẽ mang lại cho chủ doanh nghiệp một khoản
thu nhập nhất định. Mối quan hệ giữa thu nhập của chủ sở hữu và người cho vay từ
kết quả hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp với tổng tài sản được
đưa vào sử dụng gọi là doanh lợi.
Doanh lợi vốn =


Lợi nhuận + tiền lãi phải trả
Tổng số vốn

x 100

Bằng việc cộng trở lại “Tiền lãi phải trả” vào lợi nhuận, chúng ta sẽ có được
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trước khi phân chia cho chủ sở hữu và cho
người vay. Sở dĩ phải làm như vậy vì mẫu số bao gồm tài sản được hình thành do
cả người cho vay và chủ sở hữu cung cấp cho nên tử số cũng phải bao gồm số hoàn
vốn cho cả hai.
Đây là chỉ số tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một
đồng vốn đầu tư. Chỉ số này cho biết 100 đồng vốn tạo ra được bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
- Doanh lợi ròng tổng vốn.

18


Đây là một chỉ tiêu bổ sung cho chỉ tiêu doanh lợi vốn,được xác định bằng
mối quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế với tổng số vốn kinh doanh.
Tổng lợi nhuận ròng

Doanh lợi ròng tổng vốn =

Tổng vốn

Chỉ tiêu này làm nhiệm vu là thước đo mức sinh lợi của tổng vốn được chủ sở
hữu đầu tư, không phân biệt nguồn hình thành.
Nếu gọi doanh thu thuần trong kỳ là D, lợi nhuận là P thì doanh lợi tiêu thụ sẽ
là:

P( D) =

P
D

Gọi tổng vốn là V. Vậy doanh lợi ròng tổng vốn là:
P( D ) =

P
V

và vòng quay của tổng vốn = L =

D
V

Nếu nhân cả tử và mẫu của doanh lợi tổng vốn với doanh thu ta có:

Như vậy, doanh lợi tổng vốn được xác định bởi hai nhân tố:doanh lợi tiêu thụ
và vòng quay của tổng vốn.
- Doanh lợi vốn tự có.
So với người cho vay thì việc bỏ vốn vào hoạt động kinh doanh của chủ sở
hữu mang tính mạo hiểm hơn, nhưng lại có nhiều cơ hội đem lại lợi nhuận cao
hơn. Họ thường dùng chỉ tiêu doanh lợi vốn tự có làm thước đo mức doanh lợi trên
mức đầu tư của chủ sở hữu.Chỉ số này đựoc xác định bằng cách chia lợi nhuận sau
thuế cho vốn chủ sở hữu.
Doanh lợi vốn tự có =

Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu


19

x 100


Chỉ tiêu này cho biết 100 đồng vốn tự có tạo ra được bao nhiêu đồng lợi
nhuận. Nó phản ánh khả năng sinh lời của vốn tự có và được các nhà đầu tư đặc
biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào kinh doanh. Tăng mức doanh
lợi vốn tự có cũng thuộc trong số những mục tiêu hoạt động quản lý tài chính của
doanh nghiệp.
Nếu ta gọi vốn vay là VV
Vc = V - VV
và hệ số nợ là

H=

VV
V
P (VC ) =

Doanh lợi vốn chủ sở hữu là:

P
VC

Biến đổi công thức này ta được:
P
P
P

P (V )
P (V )
P (VC ) =
=
= V
=
=
V
VC V − VV V − VV
1− H
1− V
V
V

Vậy khi số vốn vay càng nhiều, hệ số mắc nợ càng cao thì doanh lợi vốn tự có
của chủ sở hữu sẽ càng lớn.
Tuy nhiên khi hệ số nợ cao thì hai trường hợp có thể xảy ra:
- Nếu tài sản được đầu tư bằng vốn vay có khả năng sinh ra tỷ suất lợi nhuận
lớn hơn lãi xuất vay thì đòn bẩy kinh tế dương tức là chủ sở hữu được hưởng lợi
nhuận nhiều hơn.
- Ngược lại, nếu khối lượng tài sản này không có khả năng sinh ra một tỷ suất
lợi nhuận đủ lớn để bù đắp tiền lãi vay phải trả thì đòn bẩy kinh tế âm. Khi đó, hệ
số nợ càng cao, doanh lợi vốn chủ sở hữu càng nhỏ. Điều đó là do phần thu nhập
từ các tài sản được hình thành bằng vốn chủ sỡ hữu được dùng để bù đáp cho sự
thiếu hụt của lãi vay phải trả, do đó lợi nhuận còn lại của chủ sở hữu còn lại rất ít
so với số lợi nhuận đáng lẽ ra được hưởng.
Trên cơ sở phát hiện những tiềm năng, khả năng kinh doanh, chủ doanh
nghiệp và những người có liên quan, các nhà quản lý, các bên liên doanh, các
nhà đầu tư... có thể đưa ra các phương án kinh doanh, phương án đầu tư hoặc


20


các quyết định kinh tế hiệu quả, tiết kiệm chi phí. Mặt khác, khi phòng tránh
được những rủi ro, tiết kiệm được tiền bạc, nhân lực để chống đỡ các kết quả do
rủi ro đem lại. Đồng thời, tiết kiệm thời gian khắc phục những hậu quả ro rủi
do đem lại. Sử dụng thời gian này vào phương án phát triển sản xuất kinh
doanh mới. Đầu tư có hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế đất nước.

21



×