Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

KINH TẾ BIỂN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.86 KB, 14 trang )

KINH TẾ BIỂN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG - THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Phạm Ngọc Trâm(*)
1. Đặt vấn đề
Đề tài phát triển kinh tế biển ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một
nội dung luôn mang tính thời sự. Vì đây là khu vực có vị trí chiến lược đặc biệt quan
trọng về kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái của đất nước, lại là
địa bàn nhạy cảm, đòi hỏi cần tập trung đảm bảo quốc phòng, an ninh trước mắt và lâu
dài.
Ngay từ khi đổi mới, năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định tại Nghị
quyết Đại hội VI: “Ngư trường vùng biển Tây Nam nước ta là ngư trường trọng điểm, có
ý nghĩa lớn về kinh tế và quốc phòng, an ninh” (1). Từ chủ trương quan trọng ấy, các tỉnh
thành vùng biển ĐBSCL: Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Tiền Giang, Sóc
Trăng… đã đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng cụm công
nghiệp ven biển, cải thiện môi trường ven biển phục vụ phát triển kinh tế - xã hội mang
tính bền vững.
Mặc dù, nền kinh tế biển ĐBSCL có nhiều lợi thế quan trọng, nhưng việc khai
thác trong những năm vừa qua chỉ dừng lại ở mức khai thác tài nguyên thô, dựa vào trình
độ kỹ thuật, công nghệ thấp. Như một sự tiếp nối tư duy phát triển truyền thống, việc khai
thác kinh tế biển vẫn theo lối “con cò lặn lội bờ sông”, “đánh bắt ven bờ”, không dám
vươn ra biển khơi, không mang tư tưởng tìm kiếm và chinh phục đại dương.
Do đó, để nền kinh tế biển ĐBSCL phát triển trong những thập niên tới, cần có
những giải pháp và định hướng chiến lược phát triển bền vững.
2. Vùng biển đồng bằng sông Cửu Long - Vị thế và tài nguyên
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nằm trong tiểu vùng sông Mekong, ba mặt
tiếp giáp biển, qua địa bàn các tỉnh: Tiền Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bến
Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang. Đây là khu vực tiếp giáp với biển của các nước
Singapore, Thái Lan, Malaysia, Philippines, Indonesia. Ngoài ra, còn nằm trong khu vực
có nhiều đường giao thông hàng hải quốc tế quan trọng, nối Nam Á với Đông Á, châu Úc
và các quần đảo trong Thái Bình Dương.
Trên vùng biển ĐBSCL với diện tích hơn 100.000 km 2 có hàng trăm hòn đảo lớn


nhỏ. Tỉnh Cà Mau có nhóm đảo Hòn Khoai, Hòn Chuối, Đá Bạc. Tỉnh Kiên Giang là nơi
có nhiều đảo và quần đảo nhất: Phú Quốc, An Thới, Bà Lụa, Nam Du, Thổ Chu, Hà
Tiên...
Đặc điểm chung của địa hình vùng này là đảo và quần đảo nhô cao, mặt trên bằng,
với đáy sâu từ 0m đến vài trăm mét. Địa hình đảo phổ biến là dạng núi đảo, tức gồm hai
dạng địa mạo hợp thành. Đó là núi cao (độ cao nhất đến trên 600 mét) và thung lũng cạn,
thềm bồi tích từ vật chất nén, thềm bồi tích của biển, những bàu nước, bãi cát, bãi san hô.
Hệ thống đảo ven bờ vùng biển ĐBSCL rất đa dạng về tự nhiên, là kết quả của các
quá trình tiến hóa địa chất, kiến tạo lâu dài, có nhiều điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý,
(*)
1()

TS, Khoa Lịch sử, Trường Đại học KHXH&NV – Đại học Quốc gia TP.HCM
Báo cáo Đại hội VI - http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang

1


địa hình, cảnh quan với nhiều hệ sinh thái đảo biển rất đặc trưng, đã tạo ra những lợi thế
và tiềm năng to lớn để phát triển kinh tế. Nhiều đảo có cảnh quan đa dạng độc đáo: Hòn
Phụ Tử, Hang Tiền, Hòn Nghệ, Hải Tặc... Những bãi cát thạch anh trắng mượt mà quyến
rũ, như: bãi Khem và bãi Trường Phú Quốc, bãi Chén ở Hòn Tre, bãi Ngự ở Hòn Sơn
Rái….
Các đảo biển ĐBSCL như Phú Quốc, Thổ Chu, Nam Du, An Thới là trung tâm
kinh tế vùng biển, cửa khẩu, thương cảng giao thông và dịch vụ quốc tế, là các cửa ngõ
vươn ra Vịnh Thái Lan, là “cầu nối” xóa được quan niệm xem các đảo là vùng sâu, vùng
xa.
Bên cạnh vẻ đẹp lộng lẫy được tự nhiên ban tặng có tiềm năng phát triển du lịch
lớn, biển đảo ĐBSCL còn là vị trí tiền tiêu, bảo vệ chủ quyền trên biển, tạo điều kiện cho
phát triển kinh tế biển, cửa khẩu, giao thông và dịch vụ quốc tế. Hệ thống đảo biển chính

là cơ sở để xác định đường biên giới quốc gia trên biển và vùng chồng lấn với các nước
láng giềng như Hòn Đốc (quần đảo Hải Tặc), phía bắc đảo Phú Quốc và đảo Thổ Chu có
vai trò phân định đường biên giới giữa Việt Nam và Campuchia. Quần đảo Thổ Chu cũng
góp phần xác định vùng chồng lấn trên thềm lục địa giữa Việt Nam với Thái Lan,
Malaysia, Indonesia. Quần đảo Thổ Chu có Hòn Nhạn chính là điểm A1 (9 0 15.0’ vĩ độ
Bắc, 103027.0’ kinh độ Đông) trong 11 điểm về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải Việt Nam. Điểm A2, tại hòn Đá Lẻ ở cực Nam Hòn Khoai, tỉnh Cà Mau
(08022.8’ vĩ độ Bắc, 104052.4’ kinh độ Đông) .
Hệ thống đảo biển vùng ĐBSCL là một tài sản vô giá chứa đựng nhiều nguồn tài
nguyên để phát triển kinh tế biển, đồng thời tạo được vị thế về chính trị và quốc phòng rất
to lớn. Kinh tế biển là nét nổi bật trong nền kinh tế ĐBSCL từ xưa tới nay. Với thềm lục
địa rộng mênh mông bao quanh ba mặt, vùng biển ĐBSCL chứa đựng một lượng tài
nguyên biển vô cùng phong phú, gồm thủy hải sản, và các loại khoáng sản... ước tính lên
tới 1.400.000 tấn thủy sản, với khoảng 600 loài khác nhau. Trong đó, vùng biển Rạch Giá
– Hà Tiên có trữ lượng 470.000 tấn, đã nổi tiếng là những ngư trường lớn của cả nước.
Đây chính là môi trường thuận lợi cho sự xuất hiện các làng biển của cộng đồng cư dân
ven biển đánh bắt gần bờ có từ xa xưa, kiếm sống với nhiều ngành nghề biển khác nhau:
nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản, làm muối… Sản phẩm muối của các tỉnh thuộc khu vực
bán đảo Cà Mau có chất lượng cao, được nhiều nước trên thế giới ưa chuộng. Chính hoạt
động sản xuất muối đã mang lại cho diêm dân một cuộc sống tương đối ổn định từ bao
đời nay.
Thềm lục địa nước ta nói chung và vùng biển ĐBSCL nói riêng chứa đựng nhiều
tiềm năng, nhất là dầu mỏ với trữ lượng lớn, dự báo dao động trong khoảng 200 - 500
triệu tấn dầu quy đổi(2). Đây là loại hình kinh tế có sức thu hút mạnh mẽ sự đầu tư của các
nước trên thế giới trong những năm gần đây.
3. Tình hình phát triển kinh tế biển ở ĐBSCL thời kỳ đổi mới
Tiềm năng tài nguyên biển và vùng ven biển của nước ta nói chung, ở ĐBSCL, nói
riêng, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp phát triển của vùng, đất nước. Vấn đề
đặt ra là làm sao để đánh thức tiềm năng to lớn đó để kinh tế biển ĐBSCL đóng vai trò
2()


Bể trầm tích Malay - Thổ Chu - />
2


quan trọng, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế vùng Nam Bộ và của
cả đất nước.
Từ năm 1986, trong chủ trương đổi mới Đảng ta luôn chú trọng phát triển kinh tế
biển. Tại Đại hội VI, Đảng ta nhận định: hiện nay chúng ta còn “hàng chục vạn hécta mặt
nước có khả năng nuôi, trồng thuỷ sản cùng với vùng biển rộng lớn có tiềm năng kinh tế
phong phú, có nhiều ngư trường quan trọng chưa được khai thác tốt” (3) – trong đó có ngư
trường vùng ĐBSCL. Do đó, Đại hội VI đã chủ trương trong 5 năm 1986-1990, phát triển
mạnh các ngành nghề kinh tế biển, vận tải đường biển, gắn lao động với đất đai, rừng,
biển, nhằm khai thác đến mức cao nhất những tiềm năng biển đảo. Đồng thời, dựa vào
việc khai thác thế mạnh của từng địa phương ven biển một cách hợp lý nhất, vừa tăng sản
xuất, vừa tạo ra các nguồn sản phẩm khác để trao đổi lấy lương thực, kể cả thông qua
xuất nhập khẩu. Nghị quyết Đại hội VI nhấn mạnh: “Thủy hải sản là một nguồn thực
phẩm không những quan trọng cho nhu cầu tiêu dùng mà còn là một nguồn hàng xuất
khẩu lớn rất có giá trị. Đây là một tiềm năng lớn và cũng là một khả năng thực tế” (4). Đại
hội chủ trương sắp xếp hợp lý lực lượng lao động ngư nghiệp, khuyến khích nhân dân
phát triển nuôi, trồng và đánh bắt thuỷ sản, mở mang ngành nghề vùng ven biển. Nhà
nước đầu tư tăng thêm phương tiện, sửa chữa, khôi phục tàu thuyền và công cụ đánh bắt,
xây dựng bến bãi và cơ sở hậu cần.
Đối với vùng biển đảo ĐBSCL, quan điểm xuyên suốt của Đảng ta là gắn chặt việc
quản lý khai thác với bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo, toàn vẹn lãnh thổ. Nghị
quyết Đại hội VI xác định: “Ngư trường vùng biển Tây Nam nước ta là ngư trường trọng
điểm, có ý nghĩa lớn về kinh tế và quốc phòng, an ninh. Nhà nước trung ương có trách
nhiệm đầu tư và tổ chức việc liên kết giữa các địa phương trong việc đánh bắt, nuôi
trồng; đồng thời cần có quy chế bảo vệ nguồn lợi hải sản ở vùng này”(5).
Trên lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí – vốn là tiềm năng, thế mạnh của vùng

biển, đảo ĐBSCL, Đảng ta rất chú trọng, đã đề ra những chủ trương rất cụ thể: “Đẩy
mạnh thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía Nam, để đến năm 1990 đạt sản
lượng dầu thô đáng kể”(6).
Trong 27 năm đổi mới (1986 - 2013), các văn kiện Đại hội của Đảng đều xác định:
“Vùng biển và ven biển là địa bàn chiến lược về kinh tế và an ninh, quốc phòng, có nhiều
lợi thế phát triển và là cửa mở lớn của cả nước để đẩy mạnh giao lưu quốc tế, thu hút đầu
tư nước ngoài. Khai thác tối đa tiềm năng và các lợi thế của vùng biển, ven biển, kết hợp
với an ninh, quốc phòng, tạo thế và lực để phát triển mạnh kinh tế – xã hội, bảo vệ và làm
chủ vùng biển của Tổ quốc”(7). “Tăng cường điều tra cơ bản làm cơ sở cho các quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế biển. Đẩy mạnh nuôi, trồng, khai thác, chế biến hải sản; thăm
dò, khai thác và chế biến dầu khí; phát triển đóng tàu thuyền và vận tải biển; mở mang du
lịch; bảo vệ môi trường; tiến mạnh ra biển và làm chủ vùng biển. Phát triển tổng hợp kinh
3()

Báo cáo Đại hội VI - http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang
Báo cáo Đại hội VI - http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang
5()
Báo cáo Đại hội VI - http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang
6()
Báo cáo Đại hội VI - http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang
7()
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 1996, tr. 211
4()

3


tế biển và ven biển, khai thác lợi thế của các khu vực cửa biển, hải cảng để tạo thành
vùng phát triển cao, thúc đẩy các vùng khác. Xây dựng căn cứ hậu cần ở một số đảo để
tiến ra biển khơi. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh trên biển” (8).

“Phát triển mạnh kinh tế biển vừa toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm với những
ngành có lợi thế so sánh để đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển gắn với
bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế”(9).
Đặc biệt, ngày 9-2-2007, Hội nghị Trung ương 4, khóa X, ra Nghị quyết số 09NQ/TW về “Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó xác định: “Phấn đấu
đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ
quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh. Xây dựng và phát triển toàn
diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học – công nghệ, tăng cường củng cố quốc phòng,
an ninh, làm cho đất nước giàu mạnh từ biển, bảo vệ môi trường biển. Phấn đấu đến năm
2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53% – 55% tổng GDP của cả nước.
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển
và ven biển. Phấn đấu thu nhập bình quân đầu người cao gấp hai lần so với thu nhập bình
quân chung của cả nước…”(10)
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết
số 27/2007/NQ-CP ngày 30/5/2007; ban hành Chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09 tháng 02 năm 2007 của Hội nghị lần thứ 4
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020;
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 137/2007/QĐ-TTg ngày 21 tháng 8
năm 2007 Phê duyệt Đề án tổ chức thông tin phục vụ công tác phòng, chống thiên tai trên
biển; Quyết định số 1041/QĐ-TTg ngày 22/7/2009 Phê duyệt Đề án đảm bảo mạng lưới
thông tin biển, đảo; Quyết định số 373/QĐ-TTG ngày 23/3/2010 Phê duyệt Đề án đẩy
mạnh công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo
Việt Nam...
Từ những quyết sách chính trị nêu trên cho thấy, Đảng và Nhà nước ta đã hạ quyết
tâm chiến lược và tổ chức phát triển mạnh mẽ kinh tế biển, đảo. Xác định công cuộc bảo
vệ chủ quyền biển đảo trên cơ sở thực hiện tốt việc quản lý và khai thác biển đảo và thực
hiện mục tiêu giữ vững hòa bình, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy
mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực vào sự
nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Những quyết sách chính trị của Đảng có ý nghĩa mang tầm chiến lược, một cách toàn

diện, thống nhất, đúng đắn và phù hợp với tình hình hiện nay, tạo niềm tin vững chắc, để
các tỉnh thành vùng biển ĐBSCL tiếp tục hành động chủ động và phát triển mạnh mẽ
kinh tế biển.
Trên cơ sở chủ trương về phát triển kinh tế biển của Trung ương, các tỉnh thành
8()

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2001, tr. 181
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2006, tr. 225
10()
Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2007, tr. 76
9()

4


vùng biển ĐBSCL đã chủ động xây dựng kế hoạch, trực tiếp triển khai chương trình hành
động cùng với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, toàn dân và đã đạt được những kết quả
quan trọng. Kinh tế biển, ven biển của các tỉnh: Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu, Bến
Tre… được quan tâm đầu tư, phát triển theo hướng khai thác có hiệu quả nguồn tài
nguyên biển kết hợp phát triển lâm nghiệp; đẩy mạnh công nghiệp chế biến, xuất khẩu
thuỷ sản gắn phát triển nuôi trồng với nâng cao hiệu quả khai thác, đánh bắt; tăng nhanh
các ngành dịch vụ du lịch; kết hợp phát triển kinh tế biển bền vững với đảm bảo an ninh
quốc phòng vùng biển; xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo thế đứng ổn định, vững chắc, sẵn
sàng đối phó với các tình huống phức tạp xảy ra trên biển; xây dựng hệ thống nhà ở,
tường, kè chống xói lở trên các đảo thuộc quần đảo; quy hoạch, triển khai xây dựng cụm
công nghiệp ven biển; công tác quản lý Nhà nước về biển và công tác Cải cách hành
chính phục vụ phát triển kinh tế cảng và du lịch được quan tâm đẩy mạnh; thiết lập các
dự án, công trình nâng cao chất lượng môi trường ven biển, cải thiện môi trường ven biển
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội mang tính bền vững.
Các tỉnh vùng biển ĐBSCL đều xác định phát triển kinh tế biển là mục tiêu trọng

tâm của thế kỷ XXI. Ban chấp hành Đảng bộ các tỉnh vùng biển ĐBSCL đã đề ra chương
trình hành động với nhiều giải pháp cụ thể như ban hành cơ chế chính sách thông thoáng
để thu hút vốn đầu tư; đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng; phát triển mạnh các ngành nghề
khai thác biển và vùng biển; từng bước hình thành các đội tàu công suất lớn hoạt động
trên biển; xây dựng một số cụm kinh tế, đô thị ven biển, phát triển mạnh các loại hình du
lịch và dịch vụ phục vụ phát triển kinh tế biển...
Công tác xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế biển ở ĐBSCL được tập trung
triển khai ở 3 khu kinh tế 11:
1. Phú Quốc và cụm đảo Nam An Thới - Kiên Giang
2. Định An - Trà Vinh
3. Năm Căn - Cà Mau
Các khu kinh tế biển ở đây là những hạt nhân, góp phần hình thành các khu kinh tế
năng động, thúc đẩy sự phát triển chung, đồng thời tạo tiền đề thu hút mạnh mẽ các
nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế biển ở ĐBSCL
và cả nước. Sứ mệnh của các khu kinh tế ven biển này chủ yếu là cùng với các thành phố
lớn ven biển ĐBSCL tạo thành những trung tâm kinh tế biển mạnh, vươn ra biển xa.
Trong công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng vùng ven biển, hải đảo
ở ĐBSCL, từ năm 2007 đến nay được tăng cường. Tỉnh Kiên Giang đã xây dựng và đưa
vào sử dụng các cảng cá như: cảng Thổ Châu, Nam Du, An Thới, Tắc Cậu, Dương Đông
và cảng biển Bãi Vòng - Phú Quốc. Đồng thời đẩy nhanh tiến độ thi công cảng cá Xẻo
Nhàu, Tô Châu, Ba Hòn, bến cá Lình Huỳnh, khu trú bão Cầu Sấu, luồng vào cửa Dương
Ngày 23 tháng 9 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 1353/QĐ-TTg Về việc phê duyệt Đề án “Quy
hoạch phát triển các Khu kinh tế ven biển của Việt Nam đến năm 2020”, trong đó xác định rõ phương hướng chung
hình thành hệ thống 15 khu kinh tế ven biển
11

5


Đông. Nâng cấp nhiều công trình giao thông, lấn biển mở rộng khu đô thị Rạch Giá và

Hà Tiên. Xây dựng trạm cấp nước Hà Tiên, Ba Hòn, Chùa Hang có công suất từ 200-500
m3/ngày, Tắc Cậu (Châu Thành) 1.000 m 3/ngày. Xây dựng hồ chứa và kinh dẫn nước tại
Hà Tiên và Phú Quốc. Tính đến đầu năm 2013, tỉnh đã hoàn thiện hệ thống cấp điện, cấp
nước cho các xã ven biển - công suất cấp nước từ 100 - 150 m 3/ngày. Hệ thống trường,
trạm của các xã ven biển và hải đảo trong tỉnh Kiên Giang được quan tâm đầu tư xây
dựng. Các tuyến đường giao thông nông thôn ở vùng ven biển và các đảo Phú Quốc, Hòn
Nghệ, Lại Sơn, Hòn Tre… được nâng cấp, bê tông hóa, tạo sự thông thoáng, thuận lợi
cho việc đi lại của nhân dân, phục vụ tốt việc phát triển kinh tế, thu hút khách du lịch.
Tỉnh đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án đầu tư phát triển kinh tế biển, nhất là các dự
án phát triển giao thông, thủy lợi, cảng biển, khu trú bão, điện, nước sạch, nuôi trồng thủy
sản, chế biến thủy sản, khu du lịch, dịch vụ.
Hiện nay, Kiên Giang tích cực phối hợp với Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ và các bộ,
ngành Trung ương để hoàn thành việc xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù phát triển
đảo Phú Quốc. Đồng thời, tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng vùng biển, ven biển,
hải đảo, nhất là đầu tư xây dựng Phú Quốc thành trung tâm du lịch sinh thái chất lượng
cao theo Quyết định 178-QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Nhìn chung, Kiên Giang đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong mục tiêu của chiến
lược phát triển bền vững kinh tế biển, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển nền
kinh tế biển ĐBSCL.
Cà Mau là tỉnh cuối trời của Tổ quốc và là tỉnh duy nhất của cả nước có ba mặt
Đông – Tây – Nam tiếp giáp biển với chiều dài 254 km, chiếm 34,5% chiều dài bờ biển
toàn vùng ĐBSCL, chiếm 7,8% bờ biển của cả nước. Vùng biển nơi cuối đất này là một
trong bốn ngư trường lớn nhất của nước ta, rộng trên 71..000 km 2, có tiềm năng, trữ
lượng lớn về dầu khí. Trên địa bàn tỉnh Cà Mau đã hình thành công trình trọng điểm quốc
gia - Trung tâm công nghiệp khí – điện - đạm. Cà Mau đang “tập trung đầu tư phát triển
mạnh về kinh tế biển gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường biển... Phát triển công nghiệp
chế biến thủy sản, nông, lâm sản theo hướng tăng tỷ lệ hàng tinh chế, phát triển công
nghiệp năng lượng trên cơ sở cụm công nghiệp khí – điện – đạm Cà Mau, đồng thời thu
hút phát triển một số ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao”(12).
Trong những năm qua, nhất là từ năm 2008 thực hiện Chiến lược Biển Việt Nam và

Quyết định số 1353/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Về việc phát triển các Khu kinh
tế ven biển Đảng bộ và nhân dân tỉnh Cà Mau tập trung xây dựng Khu kinh tế Năm Căn
– trong 15 khu kinh tế biển của cả nước. Khu kinh tế Năm Căn có diện tích 11.000 ha
cùng với Cụm công nghiệp Năm Căn hơn 200 ha cũng đã được tỉnh Cà Mau phê duyệt và
đầu tư xây dựng. Các cảng cá, bến cá, cơ sở đóng mới, sửa chữa tàu thuyền và các cơ sở
dịch vụ hậu cần nghề cá.. ở Cà Mau cũng được tỉnh đầu tư, như Cảng cá Sông Đốc, Hòn
Khoai, các khu neo đậu tàu thuyền trú, tránh bão ở Rạch Gốc, Khánh Hội, Cái Đôi Vàm...
Thị trấn Sông Đốc (Cà Mau) đang được tập trung đầu tư nâng cấp trở thành một thị xã
12()

Quyết định số 163/2008/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể KT-XH tỉnh Cà Mau đến năm 2020 của Thủ
tướng Chính phủ.

6


miền biển để liên kết với các cụm kinh tế biển Khánh Hội, Cái Đôi Vàm, tạo thành thế
liên hoàn, hình thành các trung tâm nghề cá ven biển mở hướng ra biển Tây. Tỉnh đang
đầu tư xây dựng một trung tâm dịch vụ kinh tế biển tại cụm đảo Hòn Khoai phục vụ dịch
vụ hậu cần nghề cá, du lịch và các dịch vụ cứu hộ cứu nạn.
Phương châm phát triển kinh tế biển của Đảng bộ tỉnh Cà Mau là phát triển kinh tế
biển gắn liền với phát triển xã hội, theo hướng quy hoạch xây dựng các làng cá ven biển,
sắp xếp tái định cư đưa các hộ dân ở ngoài đê biển và các cửa sông vào phía trong. Xây
dựng kết cấu hạ tầng ven biển và trên các đảo, chú trọng đến phát triển giáo dục, y tế, văn
hóa thông tin vùng ven biển phục vụ kinh tế biển và quốc phòng, an ninh. Nâng cấp
tuyến đê biển Tây; xây dựng tuyến đê biển Đông. Mở các tuyến giao thông đường bộ nối
từ trong nội địa ra các cụm kinh tế ven biển (Tắc Thủ - Rạch Ráng - Sông Đốc, Năm Căn
- Đất Mũi, Cái Nước - Cái Đôi Vàm, Đầm Dơi - Tân Thuận...). Xây dựng tuyến đường
ven biển dọc theo đê biển, đường trên các cụm đảo, đường đến trung tâm các xã ven
biển... Nâng cấp Cảng hàng không Cà Mau theo quy hoạch của Bộ Giao thông Vận tải.

Khôi phục nâng cấp sân bay ở đảo Hòn Khoai và thị trấn Năm Căn phục vụ thăm dò khai
thác dầu khí, du lịch và các mục tiêu an ninh, quốc phòng.
Nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, từ năm 2008, Bạc Liêu tập trung xây dựng
cảng cá, bến cá và khu vực neo đậu tàu tránh bão ở các cửa sông lớn. Năm 2012, tỉnh đã
nâng cấp mở rộng cảng cá Gành Hào đạt quy mô cảng cá loại I trong hệ thống cảng biển
Việt Nam, với diện tích xây dựng đến 13 ha; quy mô công suất 1,5 tấn hàng hóa/năm,
tiếp nhận được tàu trọng tải từ 5.000 - 10.000 tấn. Các hạng mục công trình bao gồm: khu
bến tổng hợp thương mại; bến chuyên dùng cơ sở công nghiệp và dịch vụ (thuộc Khu
kinh tế Gành Hào); khu neo đậu tránh bão Gành Hào; cảng cá và khu neo đậu tránh bão
Nhà Mát; khu neo đậu tránh bão và bến cá Cái Cùng. Tổng kinh phí xây dựng các công
trình nêu trên khoảng 780 tỷ đồng. Dự kiến, các công trình này hoàn thành và đưa vào sử
dụng vào năm 2015.
Ngoài ra, tỉnh Bạc Liêu còn đẩy mạnh đầu tư các đội tàu đánh bắt xa bờ với trang
thiết bị hiện đại, đáp ứng được các yêu cầu khai thác thủy sản dài ngày trên biển, có hiệu
quả kinh tế cao và gắn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia biển đảo. Tỉnh cũng tập
trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông nông thôn, thủy lợi, điện, thông tin liên
lạc… vùng ven biển phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Địa phương tiếp tục huy
động các nguồn lực, phát huy mọi tiềm năng và lợi thế vủa vùng biển và lãnh thổ ven
biển để xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học, công
nghệ. Tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền
quốc gia, đưa tỉnh Bạc Liêu trở thành tỉnh giàu mạnh từ biển, bảo vệ tốt môi trường biển
và vùng ven biển.
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bạc Liêu đang nỗ lực phấn đấu đến năm 2015 hoàn thành
đưa vào sử dụng các công trình, dự án trọng điểm như: cảng biển Gành Hào, tuyến đường
Giá Rai – Gành Hào, Gành Hào – Hộ Phòng, Xóm Lung – Cái Cùng, Giồng Nhãn –
Gành Hào, Cầu Sập – Đê Biển Đông, Cầu Bạc Liêu 4 và đường nối ra đê biển; nâng cấp,
7


mở rộng đường Cao Văn Lầu, Bạch Đằng(13)...

Trên địa bàn ven biển các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng việc xây
dựng cơ sở hạ tầng nhằm phát triển kinh tế biển cũng được quan tâm đúng mức. Tỉnh ủy,
UBND tỉnh Trà Vinh cùng các bộ, ngành Trung ương đã xây dựng, kêu gọi đầu tư nhiều
dự án lớn, mang tầm quốc gia như dự án thăm dò dầu khí; trung tâm điện lực Duyên Hải
với công suất 4.400 MW; tạo luồng cho tàu biển có trọng tải lớn vào sông Hậu (kênh
Quan Chánh Bố), khu kinh tế mở Ðịnh An; hệ thống đê bao quốc phòng... Những dự án
quan trọng này khi triển khai thực hiện sẽ tạo động lực quan trọng thúc đẩy diện mạo
kinh tế-xã hội của một tỉnh còn nhiều khó khăn như Trà Vinh, phát triển nhanh hơn, thoát
khỏi tình trạng tụt hậu, vươn lên cùng các tỉnh, thành trong khu vực và cả nước, tạo tiền
đề cho sự phát triển nhanh và bền vững(14).
Tỉnh Bến Tre phát triển các cảng cá Bình Thắng, Ba Tri, An Nhơn, làng cá An Hoà
Tây thành các trung tâm điều phối đánh bắt thuỷ hải sản của tỉnh; phát triển cơ sở hạ tầng
phục vụ hậu cần nghề cá, sơ chế tiến đến chế biến thủy hải sản, phát triển tiểu thủ công
nghiệp tại các cụm công nghiệp.
Tiền Giang nằm cuối hạ lưu sông Tiền tiếp giáp với biển Đông. Toàn tỉnh có 32 km
bờ biển và khoảng 15.000 ha đất bãi bồi, lợi thế rất lớn về nuôi trồng thủy sản xuất khẩu
ở cả ba vùng sinh thái: nước ngọt, nước lợ, nước mặn, tập trung ở huyện biển Gò Công
Đông. Tỉnh hỗ trợ huyện Gò Công Đông đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng giao thông, mạng
lưới điện hạ thế và các tiện ích khác cho hai dự án nuôi trồng thủy sản (chủ yếu nuôi tôm
sú) ở Nam và Bắc Gò Công.
Trong những năm gần đây, tỉnh Sóc Trăng tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ
thuật hiện đại với hệ thống cảng biển, khu công nghiệp, cảng cá, khu trú bão, chợ đầu
mối thủy sản, phục vụ phát triển kinh tế biển tạo nên sức bật mới cho các đô thị ven biển
Sóc Trăng. Trong hai năm 2012, 2013 tỉnh tập trung xây dựng khu neo đậu tàu, thuyền
trú bão và Cảng cá Trần Ðề giai đoạn 2 (kho đông lạnh; cung cấp nước đá, xăng, dầu;
dịch vụ đóng và sửa chữa tàu, thuyền, chế biến, tiêu thụ sản phẩm,...) nhằm đáp ứng nhu
cầu dịch vụ hậu cần cho tàu đánh bắt xa bờ(15).
Khai thác hải sản vốn là thế mạnh trong nền kinh tế biển ĐBSCL, vì đây là ngư
trường lớn trong cả nước, có trữ lượng nguồn lợi thủy sản dồi dào. Trữ lượng cá nổi trung
bình ở vùng biển ĐBSCL là 945.400 tấn, chiếm 1/3 trữ lượng cá nổi của cả nước (16) và

khả năng khai thác là 472.700 tấn; có 33 loài tôm và hơn 2.000 loài cá, trong đó khoảng
130 loài có giá trị kinh tế cao, hoạt động thai khác hải sản diễn ra quanh năm.
Phát huy thế mạnh trong khai thác hải sản, các tỉnh ven biển ở ĐBSCL tăng cường
13()

Trung tâm thông tin dữ liệu biển và hải đảo Việt Nam - http: //vodic.vn
Trần Hoàn Kim (Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh) (2013) Trà Vinh phát triển kinh tế ven biển – Báo Nhân dân />15()
Đỗ Nam (2013) Sóc Trăng đầu tư phát triển kinh tế biển, Báo Nhân dân - />16()
Trữ lượng cá nổi trung bình của cả nước khoảng 3 triệu tấn và khả năng khai thác là 1,4 triệu tấn.
14()

8


đầu tư và tạo cơ chế thuận lợi để bà con ngư dân đóng mới tàu thuyền có công suất lớn,
mua sắm ngư - lưới cụ đánh bắt xa bờ. Hoạt động khai thác hải sản ở đây đã giải quyết
việc làm và thu nhập ổn định cho hàng chục ngàn lao động vùng biển, góp phần xóa đói
giảm nghèo, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của ngư dân, phát triển bền vững, góp
phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế-xã hội của vùng. Riêng tỉnh Bạc Liêu có đội tàu
đánh bắt khai thác hải sản 1.155 chiếc, với tổng công suất hơn 126.500 CV, được trang bị
phương tiện, dụng cụ tương đối đầy đủ để đánh bắt xa bờ và di chuyển ngư trường khai
thác theo mùa vụ. Hoạt động khai thác hải sản ở Kiên Giang trong những năm gần đây
luôn phát triển mạnh. Tính đến tháng 6/2013, toàn tỉnh có 12.425 phương tiện (tăng 1,7
lần so năm 2007) trong đó tàu đánh bắt xa bờ 3.500 chiếc công suất bình quân 340,19
CV/chiếc.
Bên cạnh những mặt tích cực, hoạt động khai thác hải sản ở đây cũng bộc lộ một số
bất cập như sử dụng xung điện, chất nổ, lưới mắt nhỏ hơn quy định để khai thác hải
sản… Trong đợt phối hợp kiểm tra liên tỉnh ven biển ĐBSCL năm 2009 của Thanh tra
Thủy sản và Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản thuộc các Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn thực hiện trên tổng số 900 phương tiện, đã phát hiện có 16 trường

hợp vi phạm sử dụng xung điện, 116 trường hợp vi phạm về giấy phép khai thác, 2
trường hợp vi phạm sử dụng ánh sáng, 1 trường hợp sử dụng chất nổ, 9 trường hợp sử
dụng lưới mắt nhỏ hơn quy định để khai thác hải sản… Việc sử dụng lưới mắt quá nhỏ,
dẫn đến tỷ lệ cá nhỏ trong các mẻ lưới cao. Theo Viện Kinh tế quy hoạch thủy sản, đã có
trên 70 loài hải sản phải đưa vào danh sách đỏ Việt Nam, khoảng 85 loài hải sản ở trong
tình trạng nguy cấp với nhiều mức độ khác nhau, trong đó nhiều loài vẫn đang là đối
tượng khai thác.
Từ năm 2005 trở lại đây, nhờ nằm giữa vùng sinh thái vừa mặn vừa ngọt, nhiều
sông, kênh rạch lớn thông ra cửa biển nên ĐBSCL đã phát triển mạnh nghề nuôi tôm sú,
tôm thẻ chân trắng, tôm càng xanh, cua, cá kèo, cá lồng bè trên biển, nuôi nghêu, sò vùng
bãi triều, nuôi cá nước ngọt, nước lợ vùng ven biển, rừng ngập mặn… Mỗi năm toàn
vùng ĐBSCL thả nuôi khoảng 30 tỷ con tôm sú giống. Phần lớn ở các địa phương vùng
biển ĐBSCL đều hình thành các cơ sở sản xuất con giống phục vụ cho nuôi trồng thủy
sản. Một số địa phương đã xây dựng và nhân rộng mô hình nuôi tôm sinh thái kết hợp với
trồng rừng (tôm – rừng) và phát triển du lịch nhằm tạo ra sản phẩm tôm sạch, góp phần
chống biến đổi khí hậu “nước biển dâng”, tạo cuộc sống cho người dân ven biển theo
hướng bền vững; phát triển mạnh diện tích nuôi các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao
trên cơ sở tận dụng tối đa diện tích mặt nước, bãi bồi, sông rạch, với quy hoạch hợp lý
nhằm tạo ra sản lượng ngày càng tăng và đảm bảo môi trường. Riêng tỉnh Kiên Giang,
trong năm 2012 có 163.761 ha nuôi tôm quảng canh (84.702 ha) và nuôi tôm công
nghiệp (1.361 ha). Tính đến tháng 6 - 2013 tỉnh Bạc Liêu phát triển diện tích nuôi trồng
thủy sản rộng lên 125.000 ha. Hoặc như huyện Gò Công – Tiền Giang, hiện nay có 13 xã
nuôi tôm sú với diện tích gần 3.500 ha, hàng năm thả gần nửa tỷ con tôm sú giống, bình
quân năng suất 5 tấn/ha/năm - đối với mô hình nuôi công nghiệp.
Nghề nuôi nghêu ở ĐBSCL chủ yếu tập trung phát triển mạnh ở vùng ven biển
thuộc hai tỉnh Bến Tre và Tiền Giang. Hiện nay, diện tích nuôi nghêu tại đây đã phát
9


triển lên đến hàng ngàn héc – ta, sản lượng từ 80.000 đến 100.000 tấn. Bến Tre có 65 km

bờ biển, trong đó có những bãi bồi nuôi nghêu kéo dài hàng chục cây số, như bãi nghêu
huyện Bình Đại, hoặc ven các cửa sông Cổ Chiên, Hàm Luông. Tiền Giang có khoảng
15.000 ha đất bãi bồi, có lợi thế rất lớn về nuôi nghêu, tập trung ở huyện biển Gò Công
Đông.
Hàng chục năm qua, nhân dân vùng ven biển Tiền Giang, Bến Tre đã sớm khai thác
các bãi bồi ven biển đưa vào nuôi nghêu, làm giàu cho bà con sống trên vùng đất nhiễm
mặn, có một thời cuộc sống hết sức khó khăn. Đây còn là vùng nguyên liệu quan trọng
phục vụ ngành chế biến thủy sản xuất khẩu của ĐBSCL. Chỉ riêng nguồn lợi từ chế biến
nghêu, mỗi năm bà con tại đây thu lợi vài trăm tỉ đồng.
Nhằm cụ thể hóa chủ trương nuôi trồng thủy hải sản bền vững, gần đây, các tỉnh
ven biển ĐBSCL ngày càng đa dạng hóa vật nuôi, khuếch trương mô hình nuôi luân vụ
tôm sú với cá kèo hoặc tôm càng xanh trên ao tôm sú. Mô hình này tỏ rõ tính ưu việt nhờ
giải quyết được ô nhiễm môi trường, khắc phục mầm bệnh đồng thời cho hiệu quả cao.
Đây là hướng phát triển bền vững trong nỗ lực xóa đói giảm nghèo và giúp nông dân làm
giàu nhanh chóng.
Ngoài ra, ở các eo, vịnh và đảo biển ĐBSCL nhờ môi trường và nguồn nước trong
sạch, khí hậu ôn hòa, nên người dân trên các đảo và vùng ven biển đang tập trung phát
triển mạnh nghề nuôi các loại cá lồng bè trên biển. Trong đó, loại cá mú sao là loại cá
“hảo hạng” nhất, mang lại giá trị kinh tế rất cao. Bà con ngư dân bắt cá mú sao và mú đen
(cá nhỏ) đưa vào lồng bè nuôi chỉ trong 10 - 12 tháng. Cá mú là một loại thực phẩm cao
cấp, một đặc sản có giá trị xuất khẩu cao và đang được phát triển nuôi rầm rộ trên vùng
biển ĐBSCL, nhất là ở vùng biển Kiên Giang.
Phần lớn các tỉnh ven biển ĐBSCL xác định phát triển du lịch biển đảo và du lịch
sinh thái ven biển là ngành kinh tế quan trọng. Trong đó, tập trung vào du lịch sinh thái
rừng ngập mặn, rừng tràm, các cồn cửa sông, bãi ven biển và du lịch trên các cụm đảo
gần bờ. Kết hợp khai thác tài nguyên rừng với phát triển nuôi thủy hải sản và phát triển
du lịch sinh thái.
Hiện nay, dải rừng ngập mặn vùng hệ thống các cửa sông Cửu Long và ven biển kế
cận, từ Cửa Tiểu, Cửa Đại, Cửa Ba Lai, Cửa Hàm Luông, Cửa Cổ Chiên, Cửa Cung Hầu,
Cửa Định An, Cửa Tranh Đề, Cửa Mỹ Thạnh… từ lâu đời vốn đã từng là “Lá chắn thần

kỳ”, ngăn chặn biết bao cơn công phá của thiên tai từ Biển Đông đổ vào châu thổ được
bảo tồn, phục hồi để tránh các tác động do biến đổi khí hậu. Các cánh rừng ngập mặn sẽ
là vùng đệm tối ưu giúp nâng cao hiệu lực ngăn ngừa và giảm thiểu sức tàn phá của gió
bão, cường triều, sóng lớn và nước biển dâng, đất đai xói lở, các cấu trúc sinh cảnh đa
dạng sinh học bị hủy diệt.
Các tỉnh ven biển ĐBSCL coi rừng ngập mặn là “Lá chắn sinh học” trong tiến trình
phát triển bền vững. Do đó, các tỉnh phát triển rừng ngập mặn theo cả hai giải pháp lâm
sinh trồng và tái sinh tự nhiên. Điển hình như tại Sóc Trăng, hệ sinh thái rừng ngập mặn
và tài nguyên vùng ven biển này đã đóng một vai trò rất quan trọng đối với sinh kế của
10


người dân bản địa cũng như an ninh môi trường và phát triển kinh tế xã hội của địa
phương.
Nhìn chung, các ngành kinh tế biển ở các tỉnh ven biển ĐBSCL đã có nhiều nỗ lực
trong công tác phát triển nghề nuôi thủy hải sản, vận tải, du lịch biển… Nhờ vậy, trong
những năm vừa qua, vùng biển ĐBSCL được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khá quy mô
và đồng bộ, gắn với chiến lược phát triển kinh tế biển của vùng và cả nước, để ĐBSCL
không chỉ là vựa lúa, trái cây mà còn là vùng mạnh về biển, giàu lên từ biển.
4. Một số giải pháp phát triển bền vững kinh tế biển ở ĐBSCL đến năm 2020
Thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW về “Chiến lược Biển Việt Nam đến năm
2020”, Nghị quyết số 21/NQ-TW của Bộ chính trị, ngày 20/1/2005 và Quyết định số
939/QĐ-TTg ngày 19/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế xã hội vùng ĐBSCL đến năm 2020, trong đó có những mục tiêu phát
triển bền vững nền kinh tế biển ĐBSCL như: “Phát triển mạnh kinh tế biển và phát triển
các lĩnh vực văn hóa xã hội tiến kịp mặt bằng chung của cả nước, là địa bàn cầu nối để
chủ động hội nhập, giao thương, hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực; bảo đảm
vững chắc an ninh, chính trị, quốc phòng và trật tự an toàn xã hội”. Trong đó, có các mục
tiêu cụ thể cơ bản như: “Bảo vệ hệ sinh thái biển và ven biển, hệ thống các vườn quốc
gia, khu bảo tồn thiên nhiên; chủ động phòng, tránh nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của bão,

lũ, thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Đầu tư hoàn chỉnh hệ thống giao thông
ra biên giới, hệ thống đồn trạm biên phòng và các khu vực phòng thủ, các khu dân cư và
hạ tầng kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ biên giới, hải đảo…”(17)
Trên các diễn đàn khoa học gần đây, kinh tế biển(18) được xác định có 9 lĩnh vực: (1)
Dầu khí, khoáng sản, năng lượng (2) Thuỷ, hải sản (3) Vận tải biển (4) Công trình biển
(5) Du lịch (6) Công nghiệp chế tạo (7) Dịch vụ biển (8) Nghiên cứu khoa học biển, giáo
dục – đào tạo về biển (9) Phòng thủ quốc phòng – an ninh. Với quan điểm Kinh tế biển
xanh phải gắn phát triển kinh tế biển với yêu cầu phát triển bền vững, đảm bảo môi
trường, ứng phó biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Do đó để phát triển bền vững kinh
tế biển ĐBSCL đến năm 2020, trong thời gian tới, chúng ta cần tiến hành đồng bộ nhiều
giải pháp, trong đó cần tập trung vào các giải pháp sau:
Thứ nhất, thực hiện tốt chính sách liên kết
Để phát triển bền vững nền kinh tế biển ở ĐBSCL, trước hết phải thực hiện tốt
chính sách liên kết giữa các tỉnh, thành trong vùng và liên vùng trong chiến lược phát
triển chung của cả nước. Việc liên kết cần được tổ chức theo cơ chế, mô hình liên kết
hiệu quả, từ đầu tư các công trình trọng điểm vùng như cảng biển, khu kinh tế ven biển,
phát triển kinh tế biển, du lịch biển đảo đến kết nối các công trình đầu tư và phát triển
kinh tế biển của các tỉnh, thành, tránh đầu tư dàn trãi, lãng phí.
Thứ hai, phát triển kết cấu hạ tầng biển, phát triển mạnh giao thông vận tải biển để
đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu hàng hoá
17()

Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng ĐBSCL đến năm 2020, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
tại Quyết định số 939/QĐ-TTg ngày 19/7/2012.
18()
Diễn đàn kinh tế biển Việt Nam lần thứ 4 (2013) diễn ra tại Hà Tĩnh

11



Ưu tiên đầu tư “Tứ giác động lực” – Cần Thơ – Cà Mau – Kiên Giang – An Giang,
gắn kết yêu cầu phát triển kinh tế nông nghiệp với công nghiệp, kinh tế biển, ứng phó
biến đổi khí hậu; kết nối giữa phát triển kinh tế biển trong vùng với khu hành lang kinh tế
Campuchia, Thái Lan. Đẩy mạnh việc phát triển các đô thị ven biển trong vùng để làm
nền tảng phát triển toàn diện nền kinh tế biển (19). Xây dựng Cần Thơ thành trung tâm hậu
cần logistic của vùng, Kiên Giang thành trung tâm nghề cá và dịch vụ lớn của cả nước.
Xây dựng Phú Quốc thành “đặc khu kinh tế biển mang tầm cỡ quốc tế” như định hướng
của Bộ Chính trị(20). Nâng công suất hoạt động hệ thống cảng biển ĐBSCL, khẩn trương
xây dựng các cảng biển nước sâu, qui mô lớn có thể tiếp nhận các tàu biển trọng tải lớn
từ 50.000 – 100.000 DWT. Tăng cường hợp tác quốc tế về đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển dịch vụ hàng hải, phát triển thương
mại biển, đảo và vùng ven biển có trọng điểm để sớm hình thành một số trung tâm
thương mại mạnh tại các đô thị ven biển vùng ĐBSCL. Duy trì tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu hải sản cao, ổn định và bền vững, cải thiện cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ
trọng mặt hàng chế tạo, sản phẩm chế biến.
Thứ ba, tập trung phát triển du lịch đảo và du lịch ven biển
Du lịch và giải trí biển là một lĩnh vực hoạt động kinh tế biển quan trọng ở ĐBSCL.
Các hoạt động kinh tế du lịch đảo và du lịch ven biển ở ĐBSCL trong những năm vừa
qua đã đóng góp đáng kể về thu nhập cũng như giảm thất nghiệp, xoá đói nghèo, bảo đảm
an ninh quốc gia vùng biển. Du lịch biển ở ĐBSCL có tiềm năng kinh doanh lớn, nhưng
ngành du lịch các tỉnh thành ven biển vẫn chưa có những sản phẩm dịch vụ đặc sắc, có
tính cạnh tranh cao so với khu vực và quốc tế, chưa có khu du lịch biển tổng hợp đạt qui
mô và trình độ quốc tế.
Thứ tư, tăng cường khai thác và nuôi trồng hải sản, đẩy mạnh phát triển công
nghiệp – tiểu thủ công nghiệp
Tăng cường khai thác và nuôi trồng hải sản, bảo đảm và cải thiện kế sinh nhai cho
dân cư sống ở vùng nông thôn ven biển và hải đảo; mở rộng thêm diện tích những nơi
thuận lợi nhất cho nghề muối. Cần đẩy mạnh phát triển công nghiệp ven biển ở ĐBSCL,
trước hết là khai thác và chế biến dầu mỏ, khí đốt.
Thứ năm, phát triển kinh tế biển gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái biển đảo

Môi trường biển là mặt nước ven bờ, lãnh hải, vùng kinh tế đặc quyền - những vùng
biển Việt Nam có chủ quyền. Môi trường biển là một chức năng gồm cả công nghiệp và
địa lý. Do đó, phát triển kinh tế biển ở ĐBSCL phải gắn liền với bảo vệ môi trường sinh
thái biển đảo. Xây dựng, phát triển và bảo vệ nghiêm ngặt hệ thống rừng ngập mặn
phòng hộ ven biển - cửa sông Cửu Long, để hệ thống rừng này thực sự là lá chắn sinh
học của tiến trình phát triển bền vững toàn vùng ĐBSCL.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
19()

Kinh tế biển bao gồm 9 lĩnh vực: (1) Dầu khí, khoáng sản, năng lượng (2) Thuỷ, hải sản (3) Vận tải biển (4)
Công trình biển (5) Du lịch (6) Công nghiệp chế tạo (7) Dịch và biển (8) Nghiên cứu khoa học biển, giáo dục – đào
tạo về biển (9) Phòng thủ quốc phòng – an ninh
20()
Kết luận số 60-KL/TW ngày 16-4-2013 của Bộ Chính trị về kết quả sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội ghị
lần thứ tư BCH Trung ương Đảng khoá X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020

12


1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 21/NQTW, ngày 20/1/2003 về phương hướng, nhiệm vụ,
giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh - quốc phòng vùng ĐBSCL
thời kỳ 2001 - 2010.
2. Bộ Chính trị (2013) Kết luận số 60-KL/TW ngày 16-4-2013 của Bộ Chính trị về kết
quả sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội ghị lần thứ tư BCH Trung ương Đảng
khoá X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo số 2320/BC-BKHVĐT ngày 06/4/2012 về tình hình
phát triển và Công tác điều phối phát triển các vùng kinh tế trong điểm giai đoạn
2012 – 2015.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1976) Báo cáo Đại hội VI http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Thủ tướng Chính phủ (2008) Quyết định số 1353/QĐ-TTg Về việc phê duyệt Đề án
“Quy hoạch phát triển các Khu kinh tế ven biển của Việt Nam đến năm 2020”.
10. Trần Hoàn Kim (Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh) (2013) Trà Vinh phát triển kinh tế
ven biển – Báo Nhân dân - />11. Đỗ Nam (2013) Sóc Trăng đầu tư phát triển kinh tế biển, Báo Nhân dân
- />12. Thủ tướng Chính phủ (2008) Quyết định số 163/2008/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch
tổng thể KT-XH tỉnh Cà Mau đến năm 2020
13. Trung tâm thông tin dữ liệu biển và hải đảo Việt Nam - http: //vodic.vn
14.

13


TÓM TẮT
ĐBSCL nằm trong tiểu vùng sông Mekong, ba mặt tiếp giáp biển, nằm trong khu
vực có nhiều đường giao thông hàng hải quốc tế quan trọng.
Nhiều năm qua, các tỉnh thành vùng biển ĐBSCL đã đẩy mạnh phát triển kinh tế
biển, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng cụm công nghiệp ven biển, cải thiện môi trường
ven biển phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Mặc dù, nền kinh tế biển ĐBSCL có nhiều lợi thế quan trọng, nhưng chỉ dừng lại
ở sự khai thác tài nguyên thô, dựa vào trình độ kỹ thuật, công nghệ thấp, không dám
vươn ra biển khơi.
Do đó, để nền kinh tế biển ĐBSCL phát triển cần có những giải pháp và định
hướng chiến lược phát triển bền vững như: thực hiện tốt chính sách liên kết; phát triển

kết cấu hạ tầng biển, phát triển mạnh giao thông vận tải biển để đáp ứng nhu cầu xuất,
nhập khẩu hàng hoá; tập trung phát triển du lịch đảo và du lịch ven biển; tăng cường
khai thác và nuôi trồng hải sản, đẩy mạnh phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp;
phát triển kinh tế biển gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái biển đảo.

14



×