Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

THỰC TRẠNG tín DỤNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM 2012 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.58 KB, 14 trang )

THỰC TRẠNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
2012-2015
Chương 1: Giới thiệu chung
1.1: Tín dụng ngân hàng
1.1.1:Khái niệm
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng với một
bên là các chủ thể khác trong nền kinh tế, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là
người đi vay vừa là người cho vay, hay nói cách khác, ngân hàng là một trung gian
tài chính luân chuyển vốn từ nơi tạm thời thừa vốn sang nơi thiếu. (lãi suất) của
khoản vay do ngân hàng ấn định cho khách hàng vay là mức lợi tức mà khách hàng
phải trả trong suốt khoảng thời gian tồn tại của khoản vay.
1.1.2: Các hình thức tín dụng ngân hàng:
- Cho vay từng lần
-Cho vay theo hạn mức tín dụng
- Cho vay theo dự án đầu tư
- Cho vay hợp vốn
-Cho vay trả góp
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ
Ngoài các hình thức trên, để tăng tính cạnh tranh trên thị trường, thu hút khách
hàng, các ngân hàng còn có thể áp dụng nhiều hình thức cho vay khác phù hợp với
nhu cầu nguyện vọng của khách hàng.
1.2: Tăng trưởng tín dụng ngân hàng
Tăng trưởng tín dụng là sự tăng lên của các khoản cho vay cho khối tư nhân, cá
nhân, tập thể hoặc tổ chức công cộng.
Công thức tính:
(khối lượng cho vay kỳ N/khối lượng cho vay kỳ N-1)-1
Khối lượng cho vay(tín dụng) có liên hệ mật thiết với M2 cung ứng tiền tệ (money
supply) . Mức tăng của tăng trưởng tín dụng và cung ứng tiền tệ cũng xấp xỉ nhau.
1



Tăng trưởng tín dụng ngân hàng được ngân hàng trung ương thống kê, tuy nhiên ở
Việt Nam tiếp cận những thông tin như vậy hơi khó, hoặc không kịp thời, không
đều đặn.
1.3: Tác động của tín dụng ngân hàng tới nền kinh tế
Trong những năm vừa qua dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế
nước ta đang chuyển sang cơ chế thị trường có điều tiết vĩ mô nhằm thực hiện mục
tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Vì vậy ngân hàng là ngành kinh tế chủ
chốt quan trọng, chi phối và có sự ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ngành kinh tế
khác. Nhận thức được vai trò của mình, các ngân hàng thương mại nước ta đang
từng bước khẳng định sự lớn mạnh của mình trong mọi phương diện hoạt động,
đặc biệt là hoạt động tín dụng nhằm phục vụ đắc lực cho sự phát triển của các
ngành kinh tế khác trong kinh tế quốc dân.
-Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế:
Trong nền kinh tế thường xuyên có một số các doanh nghiệp có một bộ phận vốn
tiền tệ tạm thời nhàn rỗi được tách ra khỏi quá trình tái sản xuất như: tiền khấu hao
tài sản cố định để tái tạo lại tài sản cố định nhưng chưa mua vì có sự chênh lệch về
thời gian giữa việc bán sản phẩm và việc mua nguyên vật liệu, tiền trả lương cho
công nhân nhưng chưa đến hạn trả, khoản tích lũy để tái sản xuất nhưng chưa đủ
điều kiện đầu tư… các khoản này luôn được các doanh nghiệp đầu tư kiếm lời,
ngoài ra còn có tiền để dành của dân cư khi chưa có nhu cầu sử dụng, tất cả tạo
thành vốn đầu tư cho nền kinh tế, trong khi có doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn đầu
tư cho hoạt động kinh doanh, cá nhân cần vốn chi trả cuộc sống, nhà nước cần vốn
đảm bảo thu chi cho nền kinh tế.
Như vậy các ngân hàng sẽ dứng ra làm cầu nối cho những người cần vốn và những
người thừa vốn, thỏa mãn lo lắng người có vốn và cho vay lại những người thiếu
vốn, làm cầu nối cho những người có vốn và thiếu vốn gặp nhau.
-Tín dụng ngân hàng là công cụ mạnh mẽ thúc đẩy quá trình tập trung và điều hòa
vốn trong nền kinh tế:
Bằng các hình thức huy động vốn ngày càng phong phú và đa dạng cùng với việc

thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, ngân hàng đã thu hút hầu hết các nguồn vốn dù
rất nhỏ của dân chúng do đó tập trung vốn càng nhiều từ đó đáp ứng được nhu cầu
vốn của kinh tế, giúp cung ứng và điều hòa vốn tạo cho quá trình sản xuất ổn định,
thúc đẩy sản xuất tăng tốc độ chu chuyển vốn tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho
nền kinh tế.
-Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy, củng cố chế độ hạch toán kế toán.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở có hoàn trả và có lợi tức.
các doanh nghiệp vay của ngân hàng phải cân nhắc làm thế nào sử dụng vốn hiệu
2


quả nhất, muốn vậy các doanh nghiệp phải tự vươn lên thông qua các hoạt động tài
chính của doanh nghiệp qua các hoạt động hạch toán kế toán nhằm giám sát mọi
hoạt động kinh doanh, có ý thức hơn chế độ quản lý tài chính, qua đó tăng cường
củng cố chế độ hạch toán kế toán thêm vững chắc.
-Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hóa, luân
chuyển tiền tệ, điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông và kiểm soát lạm phát.
Thông qua hoạt động tín dụng, khối lượng tiền lưu thông sẽ tăng lên khi thực hiện
hoạt động cho vay và giảm xuống khi thu nợ, góp phần điều tiết khối lượng tiền
trong toàn bộ nền kinh tế. Ngân hàng sử dụng công cụ lãi suất, hạn mức tín dụng
để làm thay đổi khối lượng tiền vay, từ đó điều tiết khối lượng tiền trong nền kinh
tế và kiểm soát được lạm phát, bởi vì khi điều tiết được khối lượng tiền tức là
khống chế được tiền cho nhu cầu trao đổi và lưu thông hàng hóa, kiểm soát giá cả.
-Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện để phát triển kinh tế với các nước
Mỗi một quốc gia muốn phát triển nền kinh tế của mình thì không chỉ dựa vào tiềm
năng của đất nước mà còn phải mở rộng mối quan hệ kinh tế ra bên ngoài, tham gia
nền kinh tế thế giới, bởi không nước nào có đủ tiềm năng kinh tế mọi mặt, mà chỉ
có lợi thế so sánh của mình, do đó phát sinh mối quan hệ vay mượn chủ yếu là vốn
đầu tư nên tín dụng ngân hàng trở thành một trong những phương tiện nối liền nền
kinh tế các nước với nhau.

Chương 2: Thực trạng tín dụng ngân hàng Việt Nam từ 2012-2015
Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang diễn ra phức tạp, nền kinh tế trong nước tiếp
tục đối mặt với những khó khăn: sức mua trên thị trường thấp, khả năng hấp thụ
vốn thấp, sức ép nợ xấu còn nặng nề…những nhân tố đó đã ảnh hưởng lớn đến tốc
độ tăng trưởng tín dụng ngân hàng của Việt Nam, đặc biệt là từ năm 2012 đến nay.
2.1: Thực trạng tín dụng ngân hàng
2.1.1: Thực trạng tín dụng ngân hàng trước năm 2012
Trong năm 2011, hệ thống NHTM vẫn đạt được mức sinh lời khá ổn định, với chỉ
số ROE của nhiều ngân hàng tập trung từ 10% đến 15%, cao hơn nhiều ngành khác
trong bối cảnh kinh tế
Tỉ lệ nợ xấu năm 2011 là 3.39%, rủi ro tín dụng hệ thống ngân hàng năm trong
mức cho phép. Báo cáo đánh giá công tác thanh tra của NHNN tháng 12/2011:
Những bất cập chính của thị trường tín dụng của Việt Nam trong năm 2011:

3


(1)Tốc độ tăng trưởng tín dụng tuy đã chậm lại nhưng không đi kèm nâng cao
chất lượng tín dụng;
(2) Tín dụng cho nền kinh tế (có thể đo lường qua chỉ số Tín dụng/GDP) ở ngưỡng
không hiệu quả;
(3) Chất lượng khoản vay suy giảm mạnh, tín dụng bất động sản và ngoại tệ còn
nhiều vấn đề đáng quan ngại, mối quan hệ phức tạp giữa tín dụng chính thức và tín
dụng phi chính thức cũng như câu hỏi đặt ra về khả năng đảo nợ làm đẹp bảng cân
đối kế toán của các NHTM.
- Năng lực tài chính và quy mô hoạt động của các TCTD tăng nhanh: Tổng dư
nợ tín dụng của hệ thống các TCTD cho nền kinh tế tăng trưởng bình quân
29,4%/năm trong giai đoạn 2000 – 2010. Tổng dư nợ tín dụng của các TCTD đến
cuối tháng 9/2011 đạt gần 2,5 triệu tỷ đồng, gấp 14 lần so với năm 2000.
Hình 1: Diễn biến tăng trưởng tín dụng 2001-2012


Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước
2.1.2: Thực trạng tín dụng ngân hàng Việt Nam năm 2012-2013:
NHNN kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng thông qua việc phân nhóm tổ chức
tín dụng (TCTD) và giao chỉ tiêu tăng trưởng phù hợp với từng nhóm. Cụ thể, các
TCTD được phân loại vào bốn nhóm dựa trên đánh giá tình hình hoạt động và khả
4


năng tăng trưởng tín dụng: nhóm 1, 2, 3, 4 lần lượt được phép tăng trưởng tín dụng
tối đa 17%, 15%, 8% và không tăng trưởng.
Năm 2012 tăng trưởng tín dụng đạt 8,91% thấp nhất kể từ năm 2000 đến nay, tuy
tăng trưởng tín dụng thấp nhưng cơ cấu chuyển dịch theo hướng tích cực.
Hình 2: Diễn biến tăng trưởng tín dụng năm 2012

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước, Vietinbank Capital
Sang năm 2013 các giải pháp tín dụng tiếp tục được điều hành linh hoạt hơn theo
hướng “tái tạo” đường cong lãi suất, mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt động
của TCTD, phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Nhờ đó, cuối tháng
12/2013, tăng trưởng tín dụng gần sát mục tiêu 12%.
Hình 2: Diễn biến tăng trưởng tín dụng các tháng năm 2013

5


Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước
Sau nhiều năm bùng nổ, tăng trưởng tín dụng đã hãm phanh là một yếu tố quan
trọng để giới hạn mức độ nới lỏng của chính sách tiền tệ, hạn chế tác động bất lợi
đối với lạm phát.
2.1.3: Thực trạng tín dụng ngân hàng Việt Nam năm 2014-2015

Năm 2014 nền kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng phải
đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Tăng trưởng tín dụng năm 2014 được
NHNN đánh giá là đạt được mục tiêu đề ra nhưng vẫn chưa thực sự tạo được hiệu
quả cao cho sự hồi phục của nền kinh tế.
Kết thúc năm 2014, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống ngân hàng ước khoảng
13%, đạt mục tiêu đề ra, cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tích cực, tập
trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên.
Trong năm 2014, trong gần 3 tháng đầu năm, tín dụng tăng trưởng âm 1,05% so
với cuối năm 2013, cuối tháng 4 tăng trưởng 0,62%, cuối tháng 5 đạt 1,31%, cuối
tháng 6 đạt 3,52%, cuối tháng 7 đạt 3,68%.
Từ tháng 8 trở đi tín dụng lại có những bước tăng nhảy vọt, đến cuối tháng 8 tăng
5,82%, cuối tháng 9 đạt 7,26%, cuối tháng 10 là 7,85%, đến ngày 27-11 là 10,22%
6


và đến ngày 19-12 NHNN cho biết tín dụng đạt 11,8% kèm dự báo sẽ đạt mục tiêu
13% trong năm 2014.

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Trong năm 2015, tín dụng đã tăng khá mạnh, vượt xa chỉ tiêu dự kiến đưa ra đầu
năm.
-

Trong tháng 10/2015, các giải pháp tín dụng tiếp tục được điều hành linh hoạt
theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn, chất lượng tín dụng, gắn liền với

-

xử lý nợ xấu.
Tăng trưởng tín dụng trong 10 tháng đầu năm 2015 cao hơn so với cùng kỳ các

năm 2011-2014. Tính đến ngày 26/10/2015, tín dụng đối với nền kinh tế tăng
0,37% so với tháng trước, tăng 12,51% so với đầu năm và tăng 19,09% so với cùng
kỳ 2014.
Điểm khác của tín dụng năm 2015, đó là không còn tình trạng tăng trưởng giật cục
như những năm trước. Ngay từ đầu năm, tăng trưởng tín dụng đã ở mức dương. Cụ
thể, 5 tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đạt 4,3%. Đây là mức
tăng trưởng cao nhất trong 3 năm gần đây. Cùng kỳ năm 2013 và 2014, tăng trưởng
7


tín dụng tương ứng chỉ ở mức là 1,04% và 0,53%. Đến hết tháng 6 tăng trưởng tín
dụng đạt 6,28% và tăng lên 7,32% vào ngày 20/7. Cùng kỳ năm 2014 tăng trưởng
tín dụng tính đến tháng 7 mới đạt 3,15%. Theo bà Nguyễn Thị Hồng-Phó Thống
đốc Ngân hàng Nhà Nước tại cuộc họp báo thông báo về kết quả điều hành chính
sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2015, tăng trưởng tín dụng vượt chỉ tiêu
kế hoạch và cán đích với con số 18%.

Nguồn: Bizlive
2.2: Đánh giá thực trạng tín dụng ngân hàng năm 2012-2015
2.2.1: Thành tựu
- Năm 2012, tăng trưởng tín dụng thấp nhưng cơ cấu đã chuyển dịch theo hướng
tích cực. Cụ thể, tín dụng bằng VND trong năm tăng 8,92% trong khi tín dụng bằng
ngoại tệ giảm 3,51%; tín dụng đối với xuất khẩu, nông nghiệp – nông thôn tăng cao
hơn mức tăng trưởng tín dụng chung. Vê xu hướng tiền gửi, năm 2012 xu hướng
dịch chuyển tiền gửi ngoại tệ sang tiền gửi VND liên tục được duy trì. Theo đó tình
trạng đô la hóa được đẩy lùi một bước, tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ/ M2 giảm còn
dưới 13%. Ngân hàng Nhà nước nhận định “ thị trường ngoại tệ tự do gần như
không còn hoạt động công khai.

8



- Bước sang năm 2013, tăng trưởng tín dụng đạt gần sát mục tiêu 12%. Điều này
thể hiện nỗ lực rất lớn của ngành ngân hàng bởi nếu nhìn vào tốc độ tăng trưởng tín
dụng các tháng năm 2013 thì có thể thấy rằng, tín dụng mới chỉ bắt đầu tăng trưởng
dương từ quý II. Cơ cấu tín dụng đã từng bước được hợp lý, hiệu quả và an toàn
hơn, đã tập trung được vốn vào các lĩnh vực ưu tiên. Nhờ đó, tăng trưởng kinh tế
vẫn ở mức hợp lý và các ngân hàng đã bắt đầu có lãi trở lại, ngay cả những ngân
hàng nhỏ. Với mức tăng 6,04%, CPI 2013 thấp nhất trong vòng 10 năm qua. Đây là
một thành công trong điều hành chính sách tiền tệ, có ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt
động của các ngân hàng thương mại. Tăng trưởng tín dụng đã hãm phanh là yếu tố
quan trọng để hạn chế tác động bất lợi đối với lạm phát. Năm 2013, nợ xấu tiếp tục
tăng lên, nhưng tốc độ đã được hãm lại. Đến cuối tháng 11/2013, tỷ lệ nợ xấu theo
báo cáo của các tổ chức tín dụng là 4,55%, chỉ tăng 19% so với mức tăng tới 67%
cùng kỳ 2012. Đặc biệt, Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam
(VAMC) ra đời bắt đầu có tác dụng đáng kể đến việc xử lý nợ xấu.
- Với sự điều hành linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết
tiền tệ phù hợp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, năm 2014 tăng trưởng tín dụng
ngân hàng đã đạt được mục tiêu đề ra, cơ cấu tín dụng tiếp tục chuyển dịch théo
hướng tích cực, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các lĩnh
vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. Các chương trình, chính sách tín dụng
ngành, lĩnh vực đã được ngân hàng triển khai kịp thời, góp phần tăng trưởng kinh
tế. Các giải pháp xử lý nợ xấu đã được ngành Ngân hàng triển khai quyết liệt, nợ
xấu tiếp tục được xử lý.
- Năm 2015 mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức,NHNN đã thể
hiện sự chủ động, linh hoạt trong điều hành CSTT trên cơ sở chỉ đạo của Chính
phủ và phù hợp với sự thay đổi của lớn của tình hình thực tế. Những kết quả đạt
được cho thấy năm 2015 tiếp tục là năm thành công trong việc điều hành CSTT,
đóng góp quan trọng trong việc dy trì ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát cả năm ở
mức thấp khoảng 1-2%, đánh dấu thời kì ỏn định lạm phát dài nhất trong một thập

kỷ qua, đồng thời hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đạt trên 6,5% là mức cao nhất trong 5
năm gần đây. Sự an toàn, ổn định của hệ thống các TCTD đã được duy trì và cải
thiện cơ bản, đã thực hiện các bước cơ cấu toàn diện các NHTM yếu kém. Bên
cạnh đó, các giải pháp xử lý nợ xấu đã phát huy tác dụng, góp phần quan trọng
nâng cao chất lượng tín dụng và giảm tỉ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ. Đến
30/11/2015, khoảng 99,6% nợ xấu cả các TCTD tại thời điểm cuối tháng 9/2012 đã
được xử lý, chất lượng tín dụng đã được cải thiện.
2.2.2. Mặt hạn chế và những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong hoạt
động tín dụng ngân hàng
9


- Tốc độ tăng vốn huy động của các tổ chức tín dụng thấp hơn tốc độ tăng trưởng
dư nợ tín dụng, gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng trong việc cân đối vốn. Hệ
thống ngân hàng Thương mại Việt Nam chiếm một vị trí chiến lược trong việc đáp
ứng nhu cầu vốn đối với nền kinh tế. Nhận thấy tầm quan trọng của tín dụng đặc
biệt tín dụng trung – dài hạn đối với việc phát triển kinh tế, xã hội, các Ngân hàng
Thương mại cũng đang triển khai nhiều biện pháp để có những bước chuyển dịch
về cơ cấu tín dụng, tăng dần tỉ trọng cho vay trung – dài hạn với phương châm: “
Đầu tư chiều sâu cho doanh nghiệp cũng chính là đầu tư cho tương lai của ngân
hàng”. Tuy nhiên, thực tế hoạt động trung – dài hạn còn đang gặp nhiều khó khăn,
nổi cộm vẫn là vấn đề hiệu quả tín dụng trung – dài hạn còn thấp, rủi ro cao, dư nợ
tín dụng trung – dài hạn trong các ngân hàng thương mại vẫn chiếm tỉ trọng không
cao lắm cao so với yêu cầu. Điều đó nói lên rằng, vốn đầu tư cho chiều sâu vẫn
chưa đáp ứng được đòi hỏi bức thiết ngày càng cao của nên kinh tế. Ngoài ra tỷ lệ
nợ quá hạn ngày càng cao, cho vay ra nhưng không thu hồi được cả gốc lẫn lãi nên
đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng
nói riêng.
- Trong nền kinh tế thị trường, tính rủi ro đối với hoạt động tín dụng có xu hướng
tăng lên. Thể hiện ở chỗ tổng số vốn bị nợ quá hạn tăng lên, xuất hiện những khoản

nợ đợt điều chỉnh kỳ hạn, được giãn nợ… mà cũng còn nằm ngoài khoản nợ dài
hạn. Hiện nay vấn đề nợ tồn đọng, nợ xấu là vấn đề rất khó khăn cần tiếp tục giải
quyết. Cơ sở pháp lý trong việc xử lý tài sản thế chấp liên quan đến nợ xấu hiện
nay chưa đồng bộ, nhiều khách hàng cố tình gây cản trở việc phát mại tài sản,
không giao nộp tài sản thế chấp cho ngân hàng, hay trốn chạy khiến cho việc xử lý,
thu hồi nợ xấu gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
- Mặc dù một số ngân hàng đã có quan tâm đến việc đưa ra những loại cho vay cụ
thể phù hợp với yêu cầu khách hàng nhưng trên thực tế hiện nay các loại cho vay
của ta còn ít mới chỉ đáp úng phần nào nhu cầu của khách hàng, số lượng sản phẩm
tín dụng quá ít ỏi so với ngân hàng thương mại thế giới.
- Tuy tín dụng ngân hàng phục vụ đối tượng chính sách đạt được những kết quả
đáng khích lệ nhưng nó còn một số tồn tại vướng mắc, nhất là khả năng thu hồi vốn
rất thấp, nợ quá hạn ngày càng ra tăng. Nhiều ngân hàng chi thu được một phần lãi
phát sinh , còn vốn gốc chỉ thu được một phần không đáng kể. Thực trạng này
không những làm suy yếu năng lực tài chính của ngân hàng Thương mại mà nguy
hại hơn, nó đã hình thanh trong tâm trí một số người dân tư tưởng ỷ lại, cho rằng,
nguồn vốn ưu đãi của Chính phủ nên chậm trả nợ ngân hàng khi đến hạn. Hậu quả
của việc vay chính sách đã gây ra gánh nặng tài chính cho các ngân hàng thực thi
chính sách.
10


Chương 3: Một số kiến nghị giải pháp
3.1. Mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ và tín dụng ngân hàng năm 2016
-Thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách
tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục
tiêu đề ra (dưới 5%), bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế ở mức hợp lý (khoảng 6,7%). Điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với diễn
biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế.
-Tăng trưởng tín dụng năm 2016 sẽ ở mức phù hợp, với mục tiêu tăng khoảng 1820%, gắn với nâng cao chất lượng tín dụng. Đẩy mạnh vệc xử lý nợ xấu theo cơ

chế thị trường, nghiên cứu, hoàn thiện mô hình VAMC…
- Quản lý thị trường ngoại tệ, thị trường vàng, để tiếp tục giảm tình trạng đô la hóa,
vàng hóa nền kinh tế, đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt.
3.2. Một số giải pháp giúp tăng trưởng tín dụng hiệu quả
Từ những thành tựu, hạn chế và mục tiêu năm 2016 nêu trên cần thiết phải có
những giải pháp để khắc phục, giải quyết những khó khăn hạn chế của tín dụng
ngân hàng trong những năm qua và tạo tiền đề để hoàn thành những mục tiêu năm
2016 đã đề ra.
-

Hoạt động cấp và xử lý tín dụng:
Có cơ chế chính sách cấp tín dụng mới đối với những khách hàng có nợ xấu,
nhưng có phương án sản xuất - kinh doanh có hiệu quả.Đối với những khoản cấp
tín dụng mới này, cần có cơ chế phù hợp về điều kiện vay vốn. Trong đó, lưu ý về
điều kiện về khả năng tài chính và điều kiện về tài sản bảo đảm tiền vay. Theo qui
định hiện hành (Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN của NHNN) về điều kiện cho
vay, thì khách hàng phải có khả năng tài chính để trả nợ vay và phải có tài sản bảo
đảm tiền vay. Rõ ràng, với khách hàng có nợ xấu thì tại thời điểm vay vốn khách
hàng không có khả năng tài chính để trả nợ vay (nếu có khả năng, thì đã không bị
nợ xấu). Khách hàng cũng không thể có tài sản bảo đảm tiền vay. Vì tài sản của
doanh nghiệp lại đang được bảo đảm cho những khoản nợ xấu chưa thể trả nợ cho
ngân hàng. Theo chúng tôi, về điều kiện bảo đảm khả năng tài chính, cần qui định
theo hướng là khách hàng phải chứng minh được nguồn tiền có được để trả nợ khi
đến hạn. Về tài sản bảo đảm tiền vay, cần hướng dẫn các TCTD áp dụng việc sử
dụng tài sản hình thành từ vốn vay. Nếu giải quyết được 2 vấn đề cơ bản này, thì
mới có thể thúc đẩy tăng trưởng tín dụng có kết quả. Tuy nhiên, với các tổ chức tín
dụng cho vay, cần phải thẩm định và bảo đảm rằng dự án, phương án sản xuất 11


kinh doanh có hiệu quả; đồng thời, kiểm soát được dòng tiền của khách hàng vay

để thu nợ. Nếu không, bẫy cấp tín dụng dưới chuẩn và bài toán xử lý nợ xấu lại lặp
lại.
-Xử lý nợ xấu quyết liệt, đồng bộ, đúng lộ trình:
Một là, hoàn thành việc xây dựng phương án, mục tiêu, lộ trình và giải pháp xử lý
nợ đối với từng khách hàng thuộc nhóm “khách hàng nhạy cảm”. Nhóm khách
hàng nhạy cảm ở đây bao gồm khách hàng là sân sau của các ông chủ, lãnh đạo các
TCTD, các chủ sở hữu chéo ngân hàng, các tập đoàn, tổng công ty. Với nhóm
khách hàng này, nếu để ung nhọt nợ xấu phát tán, nguy cơ dẫn đến đỗ bể các
NHTM chủ nợ là rất lớn. Vì thế, cần xây dựng các kịch bản xử lý nợ cho từng
khách hàng riêng biệt. Đây là vấn đề hết sức lớn và phức tạp, phải đặc biệt lưu tâm
lựa chọn phương án tôi ưu, không chủ quan nóng vội, nhưng phải cương quyết,
đúng lộ trình.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động mua, bán nợ xấu cho Công ty VAMC. Với
những khách hàng có nợ xấu bán cho VAMC, cần tạo cơ chế thuận lợi để khách
hàng được xem xét cấp tín dụng mới. Theo qui định tại Điều 19 Thông tư
19/2013/TT-NHNN thì khách hàng vay có khoản nợ xấu bán cho VAMC và có
phương án sản xuất, kinh doanh, dự án đầu tư có hiệu quả được TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài xem xét, cấp tín dụng theo thỏa thuận và quy định của pháp
luật. Với qui định qui định này thì trong 5 điều kiện vay vốn qui định tại Quyết
định 1627/2001/QĐ-NHNN của NHNN, khách hàng vay vốn sẽ không bảo đảm ít
nhất 2 điều kiện. Đó là điều kiện về năng lực tài chính và bảo đảm tiền vay (như đã
nêu ở kiến nghị cơ chế xử lý tín dụng nêu trên).
Ba là, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia mua nợ
xấu của các TCTD. Quyết định 59/2006/QĐ-NHNN là cơ sở pháp lý cho việc bán
nợ các TCTD Việt Nam cho người nước ngoài. Nếu người nước ngoài tham gia
mua bán nợ xấu, giá trị thực của các khoản nợ sẽ được đánh giá xác thực, tính minh
bạch cao, điều cần thiết cho việc xác định chính xác mặt bằng giá nợ xấu của các
TCTD. Nhưng quan trọng hơn, việc có được tiền từ nước ngoài để đẩy nhanh xử lý
nợ xấu các TCTD Việt Nam, là giải pháp hữu hiệu lúc này.
Bốn là, khẩn trương đánh giá, nghiên cứu và kiến nghị việc kiện toàn hành lang

pháp lý đủ thông thoáng cho quá trình xử lý nợ. Hiện tại, qui chế về mua bán nợ,
xử lý tài sản bảo đảm tiền vay đối với các khoản nợ bán cho VAMC đang từng
12


được hoàn thiện, phù hợp với thực tiễn. Nhưng qui chế mua bán nợ giữa các
TCTD, tổ chức với tổ chức và cá nhân khác, qui định của pháp luật về xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay đang là điểm nghẽn trong hoạt động thu hồi nợ của TCTD. Thực
tế xử lý nợ của các TCTD cho thấy rằng, trong trường hợp khách hàng không đồng
thuận, một TCTD phải mất không dưới 2 năm để xử lý bảo đảm tiền vay là bất
động sản để thu hồi nợ. Nếu tình trạng này không được cải thiện, thì việc đẩy
nhanh thu hồi nợ là rất khó thực hiện.
- Tiếp tục đẩy mạnh quá trình mua bán, sáp nhập (M&A) các TCTD. Ưu tiên bán,
sáp nhập các TCTD yếu kém vào TCTD tốt để bảo đảm có đủ năng lực tài chính xử
lý nợ xấu. Bởi, với những ngân hàng yếu kém, năng lực tài chính đã suy kiệt, thì
càng để lâu, nợ xấu càng trầm trọng. Hơn nữa, với năng lực quản trị rủi ro của
những TCTD yếu kém, nếu không được M&A vào TCTD tốt, thì có được trợ giúp
xử lý nợ xấu, nguy cơ tái lập nợ xấu mới là hiện hữu. Mặt khác, thông quan M&A
ngân hàng, những ung nhọt của nợ xấu, nợ nhóm khách hàng nhạy cảm, sở hữu
chéo sẽ lộ diện, qua đó ngân hàng sau mua bán, sáp nhập sẽ có phương án xử lý tối
ưu với sự trợ giúp của NHNN. Tăng trưởng tín dụng với chất lượng tốt chỉ có được
khi nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng lành mạnh và thực hiện có hiệu quả quá
trình tái cấu trúc hệ thống các TCTD.
- Cuối cùng, duy trì lạm phát ổn định ở mức thấp để tiếp tục giảm mặt bằng lãi
suất. Mặt bằng lãi xuất cho vay bình quân từ trên 20% năm, giảm nhanh xuống
dưới 9% là thành quả tuyệt vời của ngành ngân hàng và sự hỗ trợ cao của Quốc
hội, Chính phủ, Bộ tài chính trong việc chỉ đạo, phối hợp đồng bộ với các chính
sách tài chính vĩ mô khác. Việc giảm sâu lãi suất vay vốn giúp doanh nghiệp tiết
giảm chi phí, hạ giá thành sản xuất, tăng năng lực canh tranh. Tuy nhiên, mặt bằng
lãi xuất cho vay của nước ta vẫn còn cao so với mặt bằng lãi xuất cho vay của các

nước trong khu vực và trên thế giới. Theo hiệu ứng Fisher thì muốn giảm mặt bằng
lãi suất chung của nền kinh tế xuống x%, thì phải tỷ lệ lạm phát phải giảm tương
ứng. Tuy nhiên, muốn giảm thấp và duy trì ổn định lạm pháp, cần phải có sự phối
hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Mặt khác, trong điều
kiện kinh tế mở của nước ta, lạm phát còn chịu ảnh hưởng bởi các vấn đề của kinh
tế thế giới. Lưu ý, giá máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu của nước
ta trong những năm qua giảm đáng kể, mà điển hình là giá dầu trong thời gian gần
đây đóng vai trò tích cực trong việc giảm thấp chỉ số CPI của nước ta. Khi mà diễn
biến giá các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu tăng, thì duy trì chỉ số CPI ở mức thấp
của Việt Nam sẽ gặp khó khăn, kéo theo mặt bằng lãi suất tăng.
13


Danh sách tài liệu tham khảo
1.
2.

Giáo trình Kinh tế tiền tệ ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước
3.

/>
option=com_content&view=article&id=21675:nganh-ngan-hang-a-iu-hanh-chinhsach-tin-t-hiu-qu&catid=35:tin-tai-chinh-ngan-hang&Itemid=55
4.
5.

Bizlive
Tạp chí kinh tế và dự báo

14




×