Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Phân tích tác động của chính sách tiền tệ đến sản lượng và lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2010 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.96 KB, 33 trang )

Đề tài: Phân tích tác động của chính sách tiền tệ đến sản
lượng và lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2010 -2014
Chương I. LÝ THUYẾT CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.

-

-

-

-

-

-

Khái niệm, mục tiêu, công cụ của chính sách tiền tệ
1.1.
Khái niệm, phân loại
1.1.1. Khái niệm
Chính sách tiền tệ (CSTT) là quá trình quản lí cung tiền của cơ quan quản lí tiền
tệ (có thể là ngân hàng trung ương), thường là hướng tới một lãi suất mong
muốn để đạt được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế - như kiềm
chế lạm phát, duy trì ổn định tỉ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay
tăng trưởng kinh tế.
CSTT bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián
tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở, quy định mức dự trữ bắt buộc hoặc
trao đổi trên thị trường ngoại hối.
1.1.2. Phân loại
CSTT có hai loại là CSTT mở rộng và CSTT thắt chặt. Tùy theo tình hình hoạt


động của nền kinh tế và các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã được đặt ra trong mỗi
thời kỳ phát triển của nền kinh tế xã hội mà Ngân hàng Trung ương có thể thực
hiện một trong hai chính sách đó.
CSTT mở rộng: thực chất là Ngân hàng Trung ương mở rộng mức cung tiền
trong nền kinh tế, làm cho lãi suất giảm xuống qua đó làm tăng tổng cầu, nhờ
vậy mà quy mô của nền kinh tế được mở rộng, thu nhập tăng và tỷ lệ thất
nghiệp giảm. Để mở rộng được mức cung tiền, thực hiện CSTT mở rộng, Ngân
hàng Trung ương có thể thực hiện một trong ba cách sau: mua vào trên thị
trường chứng khoán, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạ thấp mức lãi suất chiết
khấu hay thực hiện cả hai hay ba cách cùng lúc.
Khi thực hiện CSTT thắt chặt, Ngân hàng Trung ương tác động làm giảm mức
cung tiền trong nền kinh tế, làm cho lãi suất trên thị trường tăng lên. Thông qua
đó, nó thu hẹp được tổng cầu, làm mức giá chung giảm xuống. Thực thi chính
sách này, Ngân hàng Trung ương sử dụng các biện pháp làm giảm mức cung
tiền bằng cách: bán ra thị trường chứng khoán, tăng mức dự trữ bắt buộc hoặc
tăng lãi suất chiết khấu, kiểm soát khắt khe đối với các hoạt động tín dụng…
Thông thường, CSTT thắt chặt được áp dụng khi nền kinh tế có mức tăng
trưởng quá cao, nền kinh tế đó đang ở tình trạng quá nóng, lạm phát có nguy cơ
bùng nổ. Trái lại, CSTT mở rộng được áp dụng khi nền kinh tế suy thoái hoặc
có mức tăng trưởng quá thấp.
1


2


1.2.
1.2.1.

Mục tiêu

Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ

Thông qua chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương góp phần quan trọng
trong việc kiểm soát lạm phát thông qua việc thực thi chính sách tiền tệ mở rộng
hay thắt chặt. Kiểm soát lạm phát trước hết ổn định giá trị đối nội của đồng tiền
tức là sức mua của nó với hàng hóa và dịch vụ trong nước. Bên cạnh đó, nó còn
được biểu hiện giá trị đối ngoại của đồng tiền, được đo bằng giá hối đoái thả
nổi.Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền cũng không đồng
nghĩa với tỷ lệ lạm phát bằng không vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển
được bởi để có một tỷ lệ lạm phát giảm xuống thì phải chấp nhận một tỷ lệ thất
nghiệp tăng lên.
1.2.2.

Tạo công ăn việc làm

Chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng đến việc sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng
đến tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu công ăn
việc làm cao không đồng nghĩa với tỷ lệ thất nghiệp bằng không. Bởi vì trong
thực tế một số người thất nghiệp là có lợi cho nền kinh tế. Đó là những người
rời bỏ công việc hiện tại để tìm một công việc mới thích hợp hơn, hoặc để theo
đuổi những mục đích khác như học tập, lao động, du lịch...Và khi họ quyết định
trở lại lao động thì phải mất một thời gian nhất định để tìm một công việc mới.
Mặt khác, thông thường để có một tỷ lệ thất nghiệp thấp thì thường phải chấp
nhận một tỷ lệ lạm phát cao. Hai mục tiêu này triệt tiêu nhau trong quá trình
thực thi chính sách tiền tệ.
1.2.3.

Tăng trưởng kinh tế


Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn gắn liền với mục tiêu việc làm cao.
Chính sách tiền tệ có thể tác động đồng thời đến hai mục tiêu này. Khi cung ứng
tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm xuống, sẽ khuyến khích
đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, làm tăng sản lượng và tăng trưởng kinh
tế. Ngược lại khi cung tiền tệ giảm, trong ngắn hạn lãi suất tăng sẽ làm hạn chế
đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà nước và doanh nghiệp sẽ
cần ít lao động hơn, làm cho mức sản lượng và tăng trưởng kinh tế chậm lại.Các
mục tiêu có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau, thúc đẩy nhau. Nhưng
trong ngắn hạn có thể xảy ra sự xung đột thậm chí là triệt tiêu lẫn nhau. Điều dễ
nhận thấy nhất là sự mâu thuẫn giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp. Nhưng
có thể khẳng định mục tiêu cơ bản nhất của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị
3


đồng bản tệ trên cơ sở đó để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn cho
thấy với các nước phát triển theo cơ chế thị trường, chính sách tiền tệ để đạt
được mục tiêu của nó cần được phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác
như chính sách tài khóa, chính sách phân phối thu nhập,..
1.3 Công cụ
1.3.1. Nghiệp vụ thị trường mở
- Khái niệm: là những hoạt động mua bán chứng khoán có giá mà chủ yếu là
tín phiếu kho bạc Nhà nước do Ngân hàng trung ương thực hiện trên thị trường
mở nhằm tác động đến cơ số tiền tệ, qua đó điều chỉnh lượng tiền cung ứng.
- Tác động : Khi Ngân hàng trung ương mua (bán) chứng khoán sẽ làm cho
cơ sở tiền tệ tăng lên (giảm đi), dẫn đến mức cung ứng tiền tăng lên (giảm đi).
Nếu thị trường mở chỉ gồm Ngân hàng trung ương thì hoạt động này sẽ làm
thay đổi lượng tiền dự trữ của các ngân hàng thương mại, nếu bao gồm cả công
chúng thì nó sẽ làm thay đổi lượng tiền mặt trong lưu thông.
1.3.2. Dự trữ bắt buộc
- Khái niệm: Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại

mà không được dùng cho vay hoặc đầu tư, mức dự trữ này do Ngân hàng trung
ương quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của khách
hàng tại các tổ chức tín dụng.
- Tác động: Việc thay đổi dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân
tiền (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các ngân hàng thương mại.
Mặt khác, tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lãi suất cho vay của hệ thống
ngân hàng thương mại. Khi tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho
vay của các ngân hàng thương mại giảm (tăng), làm cho lãi suất cho vay tăng
(giảm), từ đó làm lượng tiền cung ứng giảm (tăng).
1.3.3. Chính sách tái chiết khấu
- Khái niệm: Đây là hoạt động mà Ngân hàng trung ương thực hiện cho vay
ngắn hạn đối với các ngân hàng thương mại thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu
bằng việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu (đối với thương phiếu) và hạn mức cho
vay tái chiết khấu (cửa sổ chiết khấu)
- Cơ chế tác động: Khi ngân hàng trung ương tăng (giảm) lãi suất chiết khấu
sẽ hạn chế (khuyến khích) việc các ngân hàng thương mại vay tiền tại ngân
4


hàng trung ương, làm cho khả năng cho vay của ngân hàng thương mại giảm
(tăng). Từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm (tăng). Mặt khác
khi Ngân hàng trung ương muốn hạn chế ngân hàng thương mại vay chiết khấu
của mình thì thực hiện việc khép cửa sổ chiết khấu lại.
Ở các nước có thị trường chưa phát triển (thương phiếu chưa phổ biến làm
công cụ tái chiết khấu) thì Ngân hàng Trung ương còn thực hiện nghiệp vụ này
thông qua việc cho vay tái cấp vốn ngắn hạn đối với các ngân hàng thương mại.
1.3.4. Quản lí hạn mức tín dụng
- Khái niệm: là việc Ngân hàng trung ương quy dịnh tổng mức dư nợ của
các ngân hàng thương mại không được vượt quá một mức nào đó trong một thời
gian nhất định (thường là một năm) để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung

tiền của mình.
- Cơ chế tác động: Đây là công cụ điều chỉnh trực tiếp đối với lượng tiền
cung ứng, việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế
có quan hệ thuận chiều với quy mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của ngân
hàng thương mại.
1.3.5 Ngoài ra còn có các công cụ khác:
Chính sách tỷ giá hối đoái:
Sự can thiệp của ngân hàng Trung ương vào tỷ giá (mua, bán ngoại tệ)
 cung tiền thay đổi, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng thay đổi.
 Khung lãi suất
 Biên độ dao động của tỷ giá mua bán ngoại tệ
 Chính sách quản lý ngoại hối (tự do hay quản lí chặt ngoại hối).
2. Cơ chế hoạt động của CSTT đến sản lượng, lạm phát
2.1.
Chính sách tiền tệ mở rộng
- Nguyên nhân: khi nền kinh tế suy thoái, thất ngiệp gia tăng
- Mục tiêu của chính phủ:
+ Ổn định kinh tế
+ Giảm thất nghiệp
 làm cung tiền tăng, sản lượng tăng, lạm phát tăng
Kết quả: nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng tại mức sản lượng tiềm năng, toàn
dụng nhân công


-

-

Chính sách tiền tệ thắt chặt
Nguyên nhân: được sử dụng khi nền kinh tế tăng trưởng nóng, lạm phát gia tăng

2.2.

-

5


Mục tiêu của chính phủ:
+ Kiềm chế lạm phát
+ Ổn định mưc sản lượng
 làm cung tiền giảm, sản lượng giảm, lạm phát giảm
Kết quả: kinh tế đạt trạng thái cân bằng tại mức sản lượng tiềm năng, toàn dụng
nhân công, không gây lạm phát.
3. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc sử dụng các công cụ của
chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế:
3.1. Tình hình lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc
năm 2011:
Có thể nói năm 2011 là một năm đầy biến động đối với nền kinh tế Trung Quốc
với mức lạm phát cao nhất và tốc độ tăng trưởng kinh tế đầy khó khăn.
Ngay từ nửa cuối năm 2010 lạm phát ở Trung Quốc đã diễn biến hết sức phức
tạp, bước sang năm 2011, CPI liên tục tăng cao và đạt mức kỷ lục 6,5% vào
tháng 7 - mức cao nhất trong vòng 37 tháng. Sau khi đạt mức kỷ lục trong tháng
7, CPI đã liên tục suy giảm và mức độ suy giảm ngày càng lớn. Mặc dù vậy,
tính chung cả năm 2011 CPI vẫn tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn
nhiều so với mục tiêu đề ra là 4%
Diễn biến lạm phát ở Trung Quốc năm 2011
-

-


-

-

-

Thán Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng
g1
2
3
4
5
6
CPI 4.9% 4.9%
5.4% 5.3% 5.5%
6.4%
Thán Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng
g7
8
9
10
11
12
CPI 6.5% 6.2%
6.1% 5.5% 4.2%
4.1%
Nguồn: Số liệu của Cục Thống kê Nhà nước Trung Quốc qua các tháng
Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này cũng lâm vào khủng
hoảng không kém. Năm 2011, tốc độ tăng trưởng theo quý đã liên tục giảm sút,
quý I là 9,7%; quý II là 9,5%; quý III là 9,1%; quý IV là 8,9%. Tính chung cả

năm GDP tăng trưởng 9,2%. Nếu phân theo ngành nghề thì khu vực I (nông
nghiệp) tăng trưởng 4,5%; khu vực II (công nghiệp và xây dựng) tăng trưởng
10,6%; khu vực III (dịch vụ) tăng trưởng 8,9%.
Một số liệu thống kê khác cũng cho thấy những động lực thúc đẩy kinh tế tăng
trưởng đang suy giảm, cả năm đầu tư cho cơ sở hạ tầng tăng trưởng 5,9% giảm
đến 14,3% so với cùng kì năm trước. Bên cạnh những giảm sút của đầu tư và
tiêu dùng còn phải kể đến xuất khẩu. Năm 2011, thặng dư thương mại của
Trung Quốc có xu hướng thu hẹp, chỉ chiếm 2% GDP và chiếm chưa đến 4,3%
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Cả năm tỷ lệ đóng góp trong tăng trưởng GDP
6


của xuất khẩu ròng còn âm (-5,8%), của tiêu dùng là 51,6% và của đầu tư là
54,2%.
3.2. Giải pháp của Trung Quốc
Với tình hình trên thì việc kiềm chế lạm phát và thúc đấy tăng trưởng kinh tế
là ưu tiên số 1 trong hoạch định và thực thi chính sách của Trung Quốc. Ngân
hàng Nhân dân Trung Quốc (PBC) đã đưa ra những mục tiêu và công cụ của
chính sách tiền tệ để giải quyết bài toán khó trên.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ được Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đưa
ra lúc bấy giờ là duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Cũng giống như NHNN Việt Nam, PBC sử dụng các công cụ: dự trữ bắt
buộc, thị trường mở, tái chiết khấu, tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá để thực hiện
chính sách tiền tệ.
Một là, công cụ dự trữ bắt buộc: Năm 2011, để kiềm chế lạm phát, kiểm soát
tăng trưởng kinh tế và tổng phương tiện thanh toán(M2), PBC điều chỉnh tăng
tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Cụ thể ngày 20/6, PBC đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp
dụng đối với các tổ chức tín dụng lớn lên mức 21,5%/năm, các tổ chức tín dụng
nhỏ và vừa lên 19,5%/năm.
Việc áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc được phân thành hai khối là: các tổ chức

tín dụng lớn chịu tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hơn, các tổ chức tín dụng nhỏ chịu tỷ
lệ dự trữ bắt buộc thấp hơn.
Hai là, công cụ nghiệp vụ thị trường mở: PBC đã rút bớt 83 tỷ nhân dân tệ
(12,7 tỷ USD) đang lưu hành trên thị trường thông qua các nghiệp vụ thị trường
mở. Kho dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc vốn đã lớn nhất thế giới, nay tiếp tục
tăng lên mức cao kỉ lục mới 3.047 tỷ USD, tăng 24,4% so với cùng kì năm
trước.
Ba là, công cụ tái chiết khấu: Tái chiết khấu là công cụ hỗ trợ vốn ngắn hạn
cho các tổ chức tín dụng, không phải là kênh cung ứng vốn chủ yếu của PBC
đối với các tổ chức tín dụng. Lãi suất tái chiết khấu do PBC quy định trong từng
thời kỳ. Trong năm 2011, PBC đã tăng lãi suất tái chiết khấu từ mức 1,8% lên
2,25%.
Bốn là, công cụ tái cấp vốn: PBC thực hiện cho vay tái cấp vốn đối với các
NTM mà không cần cầm cố bằng giấy tờ có giá.
Năm là, lãi suất: Nối tiếp việc tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, lãi suất cơ bản
ở Trung Quốc cũng được điều chỉnh. Lãi suất cho vay thời hạn 1 năm lên mức
7


6,31% từ mức 6,06%, lãi suất tiền gửi thời hạn 1 năm lên mức 3,25% từ mức
3%.
Sáu là, công cụ tỷ giá: Hiện Trung quốc đang thực hiện việc quản lý tỷ giá
theo một rổ tiền tệ của các đối tác thương mại chính. Bên cạnh đó, việc điều
hành chính sách tỷ giá thuộc nhiệm vụ của Vụ Chính sách tiền tệ của PBC vì
theo quan điểm của PBC trong việc điều hành chính sách tiền tệ, kênh tỷ giá
cũng là một kênh quan trọng trong cơ chế truyền dẫn và có tác động qua lại với
các kênh khác.
Với việc đưa ra và thực hiện những giải pháp trên giúp cho những khó khăn
của nhà nước Trung Quốc trên cơ bản được đẩy lùi. Đến đầu năm 2012, chỉ số
CPI đã giảm xuống mức 4,5%. Lạm phát giá cả các loại hàng hóa phi thực

phẩm hạ nhiệt xuống 1,8%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng 7,8% so với cùng kì
năm trước. Đây là 1 dấu hiệu tốt cho thấy nền kinh tế Trung Quốc đang dần
được phục hồi. Tuy còn chậm nhưng đảm bảo vức chắc tốc độ tăng trưởng, đẩy
lùi lạm phát.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực mà những giải pháp trên mang lại,
còn có những hạn chế, cụ thể là việc thay đổi tính linh hoạt dẫn tói chính sách
rối loạn, sự không chắc chắn của các khoản đầu tư, đặc biệt khi lãi suất nhạy
cảm. Thêm vào đó, lãi suất có tính phản hồi vì lãi suất là chi phí và chịu ảnh
hưởng của lạm phát làm giảm sự thịnh vượng.
Mặc dù còn nhiều bất cập xong các công cụ của chính sách tiền tệ đã giúp
nhà nước Trung Quốc thoát khỏi tình trạng khó khăn, đẩy lùi lạm phát, tăng
trưởng kinh tế. Điều này rất đáng để các nước đang phát triển trong đó có Việt
Nam học tập.

Chương II. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN
SẢN LƯỢNG VÀ LẠM PHÁT


Năm 2010

Chính sách tiền tệ năm 2010
Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Ngân hàng nhà nước đã
quản lý tốt qua 4 lĩnh vực:
Dự trữ bắt buộc: Điều hành lượng tiền cung ứng thông qua các công cụ CSTT
để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của các NTTM và nền kinh tế, tác động làm
giảm mặt bằng lãi suất thị trường. Trong đó nổi bật là việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống
2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng, linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở với khối
1.




8








lượng lãi suất hợp lý và giảm lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, hoán đổi ngoại
tệ cũng như tái cấp vốn trực tiếp cho NHTM có quy mô nhỏ nhằm ổn định thị
trường tiền tệ.
Tái cấp vốn, tái chiết khấu và lãi suất: Thực hiện cho vay theo cơ chế lãi suất
thỏa thuận bằng VNĐ, điều hành linh hoạt các mức lãi suất, kết hợp với các
biện pháp khác để điều tiết mặt bằng lãi suất thị trường phù hợp.
Hỗ trợ lãi suất: Thực hiện các giải pháp hỗ trợ khu vực nông nghiệp, nông thôn
gói kích thích kinh tế theo nghị quyết của chính phủ, trong đó tập trung chỉ đạo
các tổ chức tín dụng mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả tín dụng, đơn
giản hóa thủ tục cho vay, tập trung vốn cho vay chi phí sản xuất, kinh doanh
khu vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tỷ giá: Điều hành tỷ giá và thực hiện các biện pháp quản lý ngoại hối chống
suy giảm dự trữ ngoại hối Nhà nước, kiểm soát nhập siêu và ngăn ngừa nguy cơ
rủi ro về thanh khoản ngoại tệ và tỷ giá. Trong năm 2010, NHNN đã 2 lần điều
chỉnh tăng tỉ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng, quy định mức lãi suất
tiền gửi tối đa bằng USD 1%/năm của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng, kiểm
soát chặt chẽ việc mua, cho vay, thanh toán ngoại tệ…
2. Tác động đến sản lượng và lạm phát
• Lạm phát 2010:

Năm 2010 kinh tế Việt Nam một lần nữa lại chứng kiến sự biến động mạnh
của lạm phát và những bất ổn đi kèm cần phải cân bằng hài hòa giữa tăng
trưởng và bình ổn lạm phát. Mục tiêu về lạm phát của năm là 7-8% và thực hiện
là 11,8%. Vào cuối năm, mức lạm phát dài hạn ở mức khoảng 8%. Năm 2010
lạm phát mục tiêu đề ra là 7-8%, thấp hơn nhiều so với mức bình quân đề ra của
3 năm trước đó (2007-2009: 13,9%). Điều này cho thấy kỳ vọng quá cao của
Chính phủ. Do vậy NHNN bắt buộc phải cắt giảm cung tiền và giảm tăng
trưởng tín dụng đột ngột gây ra các hệ quả không như mong muốn.
Sản lượng 2010:



Tổng sản phẩm trong nước tăng khoảng 6,5%, chỉ số giá tiêu dùng tăng
không quá 7%, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế ở mức thấp,
tổng cầu của nền kinh tế gia tăng do tác động theo độ trễ của CSTT nới lỏng
trong năm 2009 và mở rộng đầu tư vào năm 2010. Tổng sản lượng lương thực
có hạt trong năm ước đạt 44,6 triệu tấn và tăng 2,9% so với năm 2009.
3.

Đánh giá chính sách tiền tệ năm 2010

9



o

o

Việc bơm tiền ra để đầu tư kích thích tăng trưởng kinh tế, song hệ số ICOR

cao nguy cơ lạm phát là khó tránh khỏi. Tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2009
đã ở mức 38% gấp 7 lần tốc độ tăng trưởng GDP, cao hơn nhiều so với mức
chênh lệch 3.5 lần giữa mức độ tăng tín dụng bình quân và tốc độ tăng GDP
trong 5 năm trước. Đây là sức ép gây ra lạm phát trong năm nay. Ngoài ra
CSTT thắt chặt, cung tiền giảm từ đó làm lãi suất cân bằng tăng lên. Lãi suất
tăng sẽ làm giảm chi tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu ròng do vậy làm giảm tổng
cầu, mà tổng cầu giảm sẽ làm giảm GDP thực tế và mức giá chung. Từ đó gây
tác động đến sản lượng và lạm phát.
Thành công: Thị trường tiền tệ trong năm 2010 tương đối ổn định và diễn biến
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Cụ thể:
Về tổng phương tiện thanh toán đến 31/12/2010 tăng 25,3& so với cuối năm
2009, huy động vốn tăng 27,2%. Nếu trừ hư số do tỉ giá và giá vàng tăng thì
tổng phương tiện thanh toán tăng 23%, huy động vốn tăng 24,5%.
Về điều hành lãi suất, cơ chế lãi suất thỏa thuận và cùng với các biện pháp điều
hành tiền tệ linh hoạt của Ngân hàng nhà nước, lãi suất huy động và cho vay
VND của các NHTM giảm dần (mức giảm khoảng 1%).
Hiện nay, các ngân hàng đã thực hiện đồng thuận lãi suất huy động VND
không vượt quá 14%/năm; lãi suất cho vay bình quân 15,27%/năm. Lãi suất huy
động và cho vay bằng Đô la Mỹ tăng khoảng 0,5%/năm so với cuối năm 2009,
hiện lãi suất huy động bình quân ở mức 4,08%/năm, lãi suất cho vay bình quân
ở mức 6,26%/năm.

o

o



o


Về thị trường ngoại tệ, thị trường vàng đã ổn định, nguồn cung ngoại tệ được
cải thiện đáng kể, tỷ giá diễn biến phù hợp với mục tiêu khuyến khích xuất
khẩu, góp phần hạn chế nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế (đến
ngày 15/12/2010, tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân hàng thương mại tăng
5,53% so với cuối năm 2009. Giá vàng trong nước diễn biến tương đối sát với
giá vàng thế giới, sự chênh lệch ngày càng được thu hẹp.
Về hoạt động tín dụng: tính đến 31/12/2010 ước tăng 29,81% so với cuối năm
2009, trong đó tín dụng VND tăng 25,3%, tín dụng ngoại tệ tăng 49,3%. Nếu
trư hư số do tỷ giá và giá vàng tăng thì tổng dư nợ tăng 27,6%, trong đó, tín
dụng VND tăng 25,3% tín dụng ngoại tệ tăng 37,7%.
Hạn chế: Mặc dù năm 2010 đã được phục hồi sau những năm khủng hoảng
toàn cầu nhưng nhìn chung chưa thực sự ổn định và còn tiềm ẩn nhiều yếu tố
bất lợi có ảnh hưởng nhiều mặt đến kinh tế tài chính ở nước ta như:
o Kết cấu hạ tầng còn yếu kém, hiệu quả đầu tư thấp
Các cân đối về CSTT chưa vững chắc: bội chi lớn, nhập siêu cao, cán cân thanh
toán tổng thể vẫn còn thâm hụt, dự trữ ngoại tệ giảm, lãi suất cho vay cao.


Năm 2011
10


1.

Chính sách tiền tệ năm 2011

Năm 2011 nhà nước ta sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt. Các công cụ sử
dụng:
- Lãi suất: Sau khi tăng lãi suất (LS) cơ bản tháng 11/2010, điều chỉnh
giảm giá VND (giảm 9,3% giá trị VND so với USD) và thu hẹp biên độ dao

động (từ +- 3% xuống +-1%) vào ngày 11/2/2011, Nghị quyết 11 ngày
24/2/2011 tiếp tục siết chặt CSTT, đồng thời áp dụng một loạt giải pháp hành
chính hỗ trợ, cụ thể như: kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới
20%, tổng PTTT khoảng 15-16%; tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát
triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ
trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu
vực phi sản xuất; qui định các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được
mua khi có nhu cầu hợp lý; Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng;
Tăng cường kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về thu đổi ngoại tệ,
kinh doanh vàng;...
- Vấn đề tỉ giá và tăng trưởng tín dụng:
Năm 2011 thực sự là “năm thử lửa” đối với điều hành chính sách tiền tệ,
tài khóa, do những bất ổn vĩ mô mang lại. Bám sát Nghị quyết 11 với trọng tâm
là giảm tổng cầu, cùng với sự “thắt lưng buộc bụng” của tài khóa, chính sách
tiền tệ cũng phải theo hướng này. Cụ thể, trong dịp Tết 2011 lượng tiền gửi tăng
mạnh so với Tết 2010, vì vậyNHNN đã quyết định tăng mức tiền mặt ra lưu
thông và chuyển tiền đến những khu vực có nhu cầu lớn. Và, “thắng lợi đầu tiên
là đã thành công trong việc rút về lượng tiền cung ứng phục vụ Tết Nguyên
đán”.
Với sự can thiệp của NHNN thì tính đến hết năm 2010, kết quả đạt được
cụ thể đó là: tín dụng phi sản xuất (gồm: cho vay bất động sản, chứng khoán,
tiêu dùng) chiếm tỷ trọng 17 -18% tổng tín dụng. Còn mức tăng tín dụng hai
tháng đầu năm tăng khoảng 3.27% nhưng trong đó có hư số do điều chỉnh tỷ giá
ngày 11/2/2011.
Bên cạnh đó NHNN còn điều chỉnh tỷ giá tăng lên, quy đổi ngoại tệ đã
được quy đổi sang VND theo tỷ giá mới. Từ đó làm cho một bộ phận tín dụng
tăng lên, kéo theo tăng tín dụng cả hệ thống. Tuy nhiên vẫn còn nhiều mối lo.
Có ba vấn đề được đặc biệt chú ý là lãi suất cao, thanh khoản kém khi Ngân
11



hàng Nhà nước thực hiện thắt chặt tiền tệ, và việc đưa kinh doanh vàng vào
khuôn khổ luật pháp.
2.

Các tác động của chính sách tiền tệ năm 2011 đến sản lượng và lạm phát:
a, Lạm phát:
Năm 2010

Tính chung trong cả năm 2010, giáo dục là nhóm tăng giá mạnh nhất
trong rổ hàng hóa tính CPI (gần 20%). Tiếp đó là hàng ăn (16,18%) và nhà ở vật liệu xây dựng (15,74%). Bưu chính viễn thông là nhóm duy nhất giảm giá
với mức giảm gần 6% trong năm 2010.

Năm 2011:

12


Tổng sản phẩm trong nước (GDP) chín tháng năm 2011 ước tính tăng
5,76% so với cùng kỳ năm 2010. CPI cả nước tháng 10 tăng 21.59% so với
cùng kỳ năm trước và tăng 17.05% so với tháng 12 năm 2010. Tính chung 10
tháng, CPI tăng 18.5% so với cùng kỳ năm trước.


Chỉ số lạm phát năm 2011 tăng cao so với 2010
b, Sản lượng
- Do phải tập trung mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô
nên tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2011 có bị ảnh hưởng,
ước đạt 5,57%.

- Sản xuất công nghiệp tiếp tục đà tăng trưởng cao hơn chỉ tiêu, kế
hoạch đề ra. Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 6/2011 theo giá cố định tăng
15,2% so với cùng kỳ năm trước, tính chung 6 tháng đầu năm 2011 tăng 14,3%
so với cùng kỳnăm 2010.
- Sản xuất nông nghiệp tiếp tục có sự phát triển ổn định. Trong 6 tháng
đầu năm 2011, ước giá trị sản xuất nông, lâm, nghiệp và thủy sản theo giá cố
định tăng 3,7% so với cùng kỳnăm 2010.
- Đối với khu vực dịch vụ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2011 ước đạt trên 911 nghìn tỷđồng, tăng 22,6%
so với cùng kỳ năm 2010. Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 6
tháng đầu năm 2011 tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước.
- Tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2011 tăng 30,3% so với
cùng kỳ năm trước và gấp hơn 3 lần chỉ tiêu kế hoạch đã được Quốc hội thông
13


qua (10%). Đặc biêt, nhập siêu tháng 6/2011ước đạt 0,4 tỷ USD, bằng 5,1% kim
ngạch xuất khẩu, đây là tỷlệ nhập siêu thấp nhấp trong vòng 6 tháng qua.
3.

Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ tới sản lượng và lạm phát
a, Kết quả đạt được:

Quá trình điều hành chính sách tài chính tiền tệ thời gian qua đã chứng tỏ
được vai trò hết sức quan trọng của nó đối với nền kinh tế VN. Các công cụ
được sử dụng tương đối linh hoạt, bám sát các mục tiêu đã đề ra trong từng thời
kỳ, và vì vậy đã đạt được những thành công nhất định:
✓ Đã chủ động kiểm soát và điều tiết tốc độ gia tăng tổng phương tiện
thanh toán, thực hiện mục tiêu kiềm chế đẩy lùi lạm phát, ổn định giá trị tiền tệ,
làm giảm đáng kể khối lượng tiền mặt trong lưu thông

✓ Kiểm soát được gia tăng khối lượng tín dụng đối với nền kinh tế
định

✓ Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán hàng năm nhìn chung giữ ổn

✓ Đã thực hiện tốt yêu cầu ổn định tỷ giá ngoại tệ, cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế, góp phần ổn định giá cả nói chung.
b, Một số hạn chế
 Đối với kinh tế vĩ mô:

- Diễn biến kinh tế và thị trường thế giới có nhiều rủi ro, khó dự báo
được chính xác mức độ ảnh hưởng đối với kinh tế trong nước, do độ mở cao của
nền kinh tế nước ta (năm 2010, kim ngạch xuất-nhập khẩu so với GDP là
140,9%).
- Chênh lệch “âm” khá lớn giữa tiết kiệm và đầu tư so với GDP trong
nhiều năm (2010: -11,5%; 2009: -10,8%; 2008: -13,1%), phải huy động vốn từ
nước ngoài để bù đắp, hiệu quả đầu tư thấp, gây sức ép đối với lãi suất thị
trường và các cân đối vĩ mô (năm 2009, nhiều nước ASEAN có chênh lệch
“dương”, Thái Lan: 9,9%, Philippines: 1%, Singapore: 21,1%, Indonesia:
0,8%,...).
- Chỉ số giá tiêu dùng 2010 tăng ở mức cao (tăng 11,75%) là do chi phí
đẩy, gia tăng tổng cầu và yếu tố tâm lý, tác động tiêu cực đối với hoạt động sản
xuất - kinh doanh và an sinh xã hội, nhất là đời sống của những người làm công
ăn lương, có thu nhập thấp.
14


- Nhập siêu ở mức cao, do cơ cấu kinh tế chậm thay đổi và diễn biến
phức tạp của kinh tế thế giới, làm tăng áp lực lên cán cân thanh toán quốc tế, tỷ
giá và lạm phát (nhập siêu 2010 là 12,4 tỷ USD, cao hơn năm 2009; trong khi

phần lớn các nước ASEAN xuất siêu).
- Tình trạng đô-la hóa trong nền kinh tế, các thị trường (bất động sản,
chứng khoán, ngoại hối...) diễn biến phức tạp và cơ chếquản lý chưa được đồng
bộ.
 Đối với điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng:

- Việc điều hành chính sách tiền tệ đảm bảo hài hòa giữa ổn định kinh tế
vĩ mô và tăng trưởng kinh tế cho nên khả năng linh hoạt chưa ở mức cao
- Thị trường tiền tệ và ngoại hối chưa ổn định, kỷ cương pháp luật trên
thị trường chưa nghiêm.
- Tỷ trọng tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất (kinh doanh chứng
khoản, bất động sản, tiêu dùng) giảm chậm; tín dụng có sức ép tăng, nếu không
kiểm soát chặt chẽ sẽ vượt xa mục tiêu 25%, ảnh hưởng xấu đến lạm phát và
cán cân thanh toán quốc tế.
Năng lực tài chính, quản trị kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các
TCTD còn hạn chế; tính tương trợ cộng đồng và liên kết hệ thống TCTD còn
yếu, nợ xấu tăng.


Năm 2012

1. Chính sách tiền tệ năm 2012
Nhà nước tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt và chính
sách tài khóa thắt chặt để kiềm chế lạm phát điều hành các công cụ.
Công cụ lãi suất
Lãi suất là một trong những công cụ gián tiếp để điều hành CSTT, NHNN
thông qua công cụ này để điều khiển mức cung tiền cho nền kinh tế, nhằm đạt
được mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền của quốc gia. Chính
sách, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN được định hướng theo nguyên tắc
đảm bảo các mục tiêu của CSTT: kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế

và ổn định kinh tế vĩ mô.
a.

-

Cơ chế điều hành các loại lãi suất năm 2012 được điều chỉnh linh hoạt:
Các lãi suất chủ chốt của NHNN được điều hành theo cơ chế: “trần” là lãi suất
tái cấp vốn, “sàn” là lãi suất chiết khấu, biên độ giao động +/- 2% để điều tiết
15


-

-

thị trường, lãi suất cơ bản và lãi suất thị trường mở được ấn định biến động
trong biên độ giữa lãi suất tái cấp vốn(trần) và lãi suất chiết khấu(sàn).
Các lãi suất điều hành của NHNN và lãi suất huy động vốn của NHTM được
điều chỉnh giảm xuống theo xu hướng giảm thấp của CPI (3/2012-10/2012),
đảm bảo nguyên tắc thực dương, nguồn vốn huy động 10 tháng tăng +14.2%,
thanh khoản của hệ thống Ngân hành được cải thiện bằng nguồn vốn hút vào từ
nền kinh tế chứ không phải từ nguồn tái cấp vốn như năm 2011
Cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với lãi suất huy động vốn trên 12 tháng và lãi suất
cho vay trung dài hạn Cơ chế lãi suất huy động lãi suất thỏa thuận được thực
hiện theo Thông tư 19/2012/TT-NHNN ngày 8/6/2012: “Lãi suất tiền gửi có kỳ
hạn 12 tháng trở lên do TCTD ấn định trên cơ sở cung cầu vốn thị trường”.
b. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Từ năm 2009 -2012, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các TCTD đối với tiền gửi
VND cố định 3% và không thay đổi.
Tái cấp vốn

Theo quy định hiện hành, NHNN sử dụng công cụ Tái cấp vốn để cấp tín
dụng cho các TCTD theo các hình thức: cho vay có đảm bảo bằng giấy tờ có
giá, chiết khấu giấy tờ có giá và cho vay lại hồ sơ tín dụng, nhằm mục đích:
cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng. Ngân
hàng Nhà nước đã ban hành được hệ thống các văn bản pháp lý đầy đủ và đồng
bộ về chính sách, cơ chế nghiệp vụ tái cấp vốn phù hợp với các quy định của
pháp luật hiện hành, làm cơ sở để điều hành của NHNN và thực hiện đối với các
TCTD. Thông qua các hình thức tái cấp vốn:cho vay đảm bảo giấy tờ có giá,
chiết khấu giấy tờ có giá và cho vay lại hồ sơ tín dụng, công cụ tái cấp vốn của
NHNN đã phát huy được vai trò chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề rủi ro
thanh khoản cho các NHTM trong thời gian qua.
c.

Nghiệp vụ thị trường mở
Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc mua,
bán giấy tờ có giá đối với tổ chức tín dụng. Các loại giấy tờ có giá được phép
giao dịch thông qua nghiệp vụ thị trường mở hiện nay là: Tín phiếu NHNN, tín
phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu địa phương do UBND
thành phố Hà nội, UBNN thành phố Hồ Chí Minh phát hành.
d.

Trong thời gian qua, nghiệp vụ thị trường mở phát triển nhanh, quy mô ngày
càng được mở rộng, góp phần giải quyết khó khăn về nguồn vốn thanh toán và
kinh doanh cho các TCTD, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tác
động đến tổng lượng tiền cung ứng (M2) trong nền kinh tế, theo mục tiêu của
chính sách tiền tệ. Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá, NHNN tác
động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết
16



lượng tiền tệ cung ứng và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường theo mục
tiêu giảm lãi suất huy động và cho vay của TCTD, giải quyết khó khăn cho
doanh nghiệp
e. Kiểm soát hạn mức tín dụng
Năm 2012 là lần đầu tiên NHNN quyết định phân bổ hạn mức tín dụng cho
từng NHTM theo các tiêu chí: chất lượng tài sản nợ, tài sản có, quy mô vốn,
năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro, chất lượng nhân lực và tuân thủ các
quy định. Theo đó, các nhóm được phân loại bởi NHNN được áp dụng các hạn
mức như sau: Nhóm thứ 1tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 17%; nhóm thứ 2
tăng trưởng tín dụng ở mức tối đa 15%; nhóm 3 được tăng trưởng 8%; nhóm 4
thuộc diện phải cơ cấu lại, không được tăng trưởng tín dụng.
2. Tác động đến sản lượng và lạm phát
Năm 2012 là năm có tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp nhất trong 10 năm liên
tiếp. Nhưng nếu nhìn riêng từng quý trong năm 2012 thì thấy quý sau tăng
trưởng hơn quý trước. Điều này cho thấy nền kinh tế có dấu hiệu tự chuyển
biến, cộng thêm sự tác động của điều hành chính sách kinh tế vĩ mô.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp
Tốc độ tăng GDP năm 2012 chỉ đạt hơn 5,03% (thấp nhất trong nhiều năm
trở lại đây), chỉ cao hơn so với tốc độ tăng trưởng 4,77% năm 1999 nhưng lại
thấp hơn cả tốc độ tăng 5,32% năm 2009. Rõ ràng những bất ổn kinh tế vĩ mô
tích tụ trong mấy năm gần đây đã buộc Việt Nam phải chuyển trọng tâm chính
sách từ ưu tiên tăng trưởng kinh tế sang ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế
lạm phát.
GDP quí I chỉ tăng có 4,64%, quí II nhích lên 4,8% và quí III tăng 5,05% đều là những quí có tốc độ tăng trưởng thấp hơn hẳn trong vòng 5 năm qua,
song Việt Nam vẫn cố duy trì mục tiêu tăng trưởng ban đầu 6-6,5% và chỉ chấp
nhận không thể đạt được mục tiêu này vào mấy tháng cuối năm.
Biểu hiện rõ nhất của cố gắng tăng trưởng là tiếp tục đẩy mạnh đầu tư mặc
dù hiệu quả đầu tư chưa được cải thiện và chương trình cơ cấu lại đầu tư, trong
đó tập trung cơ cấu lại đầu tư công diễn ra chậm chạp do gặp nhiều trở ngại cả
từ tư duy, quy hoạch, cơ chế quản lý cũng như kiểm tra giám sát. Tổng vốn đầu

tư toàn xã hội quí I-2012 đột ngột tăng lên 36,2% GDP từ mức 34,6% GDP năm
2011 trước khi giảm chút ít xuống 34,5%GDP sau 6 tháng, rồi lại tăng lên
35,8% GDP sau 9 tháng, tuy thấp hơn hẳn mức đầu tư giai đoạn 2006-2010
nhưng vẫn tương đương giai đoạn 2001-2005.
17


Do tốc độ tăng GDP năm 2012 thấp hơn hẳn so với giai đoạn 2001-2005
nên hiệu quả đầu tư chung đột ngột tăng vọt và ICOR chỉ hạ xuống dưới 6 khi
tổng mức đầu tư toàn xã hội cả năm 2012 còn khoảng 33,5%. Đáng chú ý là tỷ
trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước năm 2012 vẫn duy trì ở mức
trên dưới 37% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó vốn đầu tư từ NSNN vẫn
chiếm khoảng 54% chứng tỏ chương trình cơ cấu lại đầu tư công chưa có
chuyển biến rõ rệt.

Tổng cầu và lạm phát tăng thấp
Năm 2012 tổng cầu tiêu dùng tuy có cải thiện hơn so với năm 2011 nhưng
vẫn tăng thấp hơn so với những năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch
vụ tiêu dùng tăng 16% so với năm 2011 (loại trừ yếu tố giá tăng 6,2%) chỉ bằng
một nửa so với giai đoạn 2007-2010. Hệ quả là mặc dù sản xuất công nghiệp
chững lại với chỉ số sản xuất công nghiệp chỉ tăng 5,9%, song do sức mua tăng
chậm với chỉ số tiêu thụ hàng công nghiệp chế biến chế tạo chỉ tăng khoảng
3,6% nên chỉ số hàng tồn kho của nhóm hàng này tăng tới hơn 20,1% so với
cùng kỳ năm trước.

18


3. Nhận xét tổng quát về CSTT năm 2012
a.


Những kết quả tích cực

Thứ nhất, các chỉ tiêu tiền tệ tăng trưởng hợp lý (tổng phương tiện thanh
toán cả năm 2012 tăng khoảng 20%, tín dụng tăng khoảng 7%) phù hợp với
mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức thấp 6,81%, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế ở mức 5,03%.
Thứ hai, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay đã giảm mạnh về mức định
hướng của NHNN đề ra ngay từ đầu năm, nhưng với lộ trình giảm nhanh hơn
dự kiến, phù hợp với diễn biến kinh tê vĩ mô, đặc biệt là diễn biến của lạm phát.
Lãi suất huy động giảm từ 3 - 6%/năm, lãi suất cho vay giảm 5 - 9%/năm so với
cuối năm 2011 và đã trở về với mức lãi suất cuối năm 2007.
Thứ ba, tuy tín dụng tăng trưởng thấp, nhưng cơ cấu tín dụng chuyển dịch
theo hướng tích cực, phù hợp với chủ trương của Chính phủ. Đến ngày
20/12/2012, tín dụng tăng 6,45% so với cuối năm 2011, trong đó tín dụng bằng
VND tăng 8,92%, tín dụng bằng ngoại tệ giảm 3,51%; tín dụng đối với xuất
khẩu, nông nghiệp, nông thôn tăng cao hơn tăng trưởng tín dụng chung, tỷ trọng
dư nợ cho vay đối với lĩnh vực không khuyến khích giảm so với cuối năm 2011.
Thứ tư, tính đến ngày 20/12/2012 dư nợ cho vay bằng VND có mức lãi suất
trên 15%/năm chỉ chiếm tỷ trọng 18,7%, giảm so với mức 65% trước ngày
15/7/2012.
Thứ năm, thanh khoản của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) được cải
thiện, số dư tiền gửi của TCTD tại NHNN luôn cao hơn so với yêu cầu dự trữ
bắt buộc, tỷ lệ tín dụng/huy động vốn bằng VND giảm xuống mức khoảng 95%;
lãi suất trên thị trường liên ngân hàng giảm mạnh từ 10 - 11%/năm so với cuối
năm 2011 và hiện ổn định ở mức thấp.
Thứ sáu, nợ xấu của các TCTD sau khi tăng mạnh vào những tháng đầu
năm đã được khống chế và từng bước xử lý.
Thứ bảy, thị trường ngoại hối và tỷ giá ổn định, đến ngày21/12/2012 tỷ giá
mua trung bình của các ngân hàng thương mại (NHTM) giảm 0,96% so với cuối

năm 2011 tình trạng đô la hóa giảm (tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện
thanh toán là 13,2%, thấp hơn mức 15,8% tại thời điểm cuối năm 2011).
Thứ tám, sau một năm quyết liệt triển khai cơ cấu lại hệ thống các TCTD,
rủi ro hệ thống từng bước được kiểm soát, nguy cơ đổ vỡ hệ thống từng bước
đẩy lùi. Hoạt động của các TCTD về cơ bản an toàn, hoạt động lành mạnh, trật
tự kỷ cương thị trường đã được khôi phục lại và duy trì ổn định.
19


b. Những mặt còn hạn chế
Cụ thể do tỉ lệ nợ xấu cao khiến chi phí của ngân hàng tăng mạnh khi phải
dự phòng rủi ro lớn. Đồng thời các ngân hàng thương mại cũng dè dặt và chặt
chẽ hơn trong việc cho vay đối với doanh nghiệp. Như vậy có thể thấy về mặt
danh nghĩa, lãi suất cho vay tuy có giảm nhưng nguồn vốn tín dụng vẫn chưa
thực sự đến được với doanh nghiệp.
Ngoài ra, vẫn còn một bộ phận các ngân hàng thương mại đang gặp vấn đề
về thanh khoản nhưng do không đủ điều kiện để tham gia vào thị trường liên
ngân hàng nên phải tiếp tục nâng lãi suất huy động kì hạn trên 12 tháng lên cao
để đẩy mạnh huy động nhằm giải quyết vấn đề thanh khoản.
"Nói tóm lại trên thị trường tiền tệ hiện nay đang có sự phân hóa về thanh
khoản khá rõ ràng giữa hai nhóm, nhóm những ngân hàng lớn trong tình trạng
dư thừa thanh khoản và nhóm những ngân hàng nhỏ thiếu thanh khoản."
Nhìn chung vấn đề tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, tiến trình tái cơ cấu ngân
hàng thương mại đang diễn ra chậm chạp. Nhưng theo các chuyên gia, quan
trọng hơn là trong quá trình thực hiện cần thường xuyên có những đánh giá về
những mặt được, và chưa được của quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.
Tăng trưởng tín dụng thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra là do các nhân tố
bên ngoài cầu tín dụng ngoài lãi suất; nợ xấu gia tăng; thanh khoản của một số
NHTM cổ phần gặp khó khăn; một số TCTD chưa chấp hành nghiêm các quy
định lãi suất huy động tối đa của NHNN.

Đối với việc giảm lãi suất và áp trần lãi suất cho vay cho tất cả các đối
tượng mục tiêu nền tảng của nước ta vẫn là kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô.
Trong chiều hướng chung, có thể chúng ta kiềm chế lạm phát, nhưng nguy cơ
lạm phát vẫn tăng trở lại là không nhỏ. Do vậy, mỗi bước đi của NHNN về lãi
suất phải thận trọng.
Trong năm 2012, NHNN cam kết bình quân mỗi quý giảm 1% lãi suất, song
có những giai đoạn giảm rất nhanh xuống 9%/năm do biến động lạm phát không
lớn. Đến tháng 9 lạm phát tăng cao bất thường, do đó chỉ khi NHNN đánh giá
chắc chắn lạm phát tháng 11, tháng 12 ở mức kiểm soát được thì mới giảm lãi
suất xuống 8%/năm.


Năm 2013

1.

Bối cảnh 2013
20


Năm 2012, với hệ quả của các biện pháp giảm tổng cầu (chính sách tiền tệ
và tài khóa thắt chặt theo Nghị quyết 11 của Chính phủ) đã tác động kìm hãm
sức mua của thị trường và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Số lượng doanh nghiệp
(DN) ngưng hoạt động, phá sản, giải thể có xu hướng tăng nhanh từ đầu năm.
Khó khăn dồn cả sang năm 2013:


Bước vào năm 2013, tuy tình hình có cải thiện hơn, nhưng về cơ bản nền kinh tế
đang đối diện với 4 thách thức ngắn hạn




Cộng với đó là, trong năm 2013 tình hình kinh tế thế giới còn diễn biến thất
thường, có tác động bất lợi đối với những nền kinh tế có độ mở lớn như nền
kinh tế Việt Nam.
2.

Thực trạng của chính sách tiền tệ

Trong 6 tháng đầu năm 2013, Chính phủ đã sử dụng chính sách tiền tệ thắt
chặt nhằm kiềm chế lạm phát và hạn chế những ảnh hưởng xấu của nền kinh tế
thế nhưng nguy cơ tăng cao trở lại của lạm phát vẫn tiềm ẩn khi mức tăng thấp,
nợ xấu chưa giải quyết được, tăng trưởng thấp, nhiều doang nghiệp giải thể
hoặc tạm ngừng hoạt động vì thế nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm kích thích
tăng trưởng, cụ thể như sau:
+ Chính phủ đang có nhiều nỗ lực để tạo niềm tin cho thị trường thông qua
một “gói giải pháp hỗ trợ thị trường” nhằm: giải quyết hàng tồn kho; xử lý nợ
xấu và tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản. Ba vấn đề này có quan hệ
nhân quả với nhau, nên không thể giải quyết riêng rẽ. Ngày 07/01/2013, Chính
phủ đã ban hành Nghị quyết 01 và 02 để hỗ trợ thị trường.
+ Khác với gói giải pháp kích cầu thực hiện năm 2009, gói giải pháp hỗ trợ
thị trường lần này tập trung vào khâu xử lý “điểm nghẽn” của tín dụng và tăng
sức mua của thị trường, trong đó quan tâm đặc biệt đến tồn kho sản phẩm bất
động sản. Cụ thể, với các giải pháp về tín dụng áp dụng biện pháp cho vay mới
các DN có khả năng tồn tại và phát triển; các DN đang thực hiện các dự án nhà
ở đang có thị trường…; ngăn chặn xu hướng tăng số DN phải ngưng hoạt động,
giải thể do thiếu vốn lưu động; mở rộng tín dụng tiêu dùng; giảm lãi suất huy
động tiền gửi và lãi suất cho vay; áp dụng nhiều biện pháp để xử lý nợ xấu,
trong đó có việc thành lập định chế mua bán nợ của Nhà nước (VAMC).
+ Đồng thời, Chính phủ tiếp tục thực hiện biện pháp hoãn thời hạn nợp

thuế, thời hạn nộp tiền sử dụng đất, miễn giãm thuế... Tại Kỳ họp thứ 5 (tháng
5-6/2013), Quốc hội đã sửa đổi một số điều của Luật Thuế thu nhập DN và Luật
21


Thuế giá trị gia tăng nhằm miễn giảm thuế cho một số đối tượng để kích thích
thị trường và giảm khó khăn cho DN. Áp dụng thuế suất thu nhập DN là 22% từ
tháng 1/2014 và 20% từ tháng 01/2016 để khuyến khích DN mở rộng đầu tư,
giảm 50% thuế giá trị gia tăng cho nhà giá thấp….
Các công cụ của chính sách tiền tệ được nhà nước sử dụng là:
- Nghiệp vụ thị trường mở: điều chỉnh linh hoạt, kịp thời theo cả hai chiều
mua, bán kết hợp với phát hành tín phiếu NHNN để kiểm soát các chỉ tiêu tiền
tệ theo mục tiêu lạm phát, hỗ trợ thanh khoản, giảm mặt bằng lãi suất, ổn định
tỷ giá và thị trường ngoại hối trong điều kiện NHNN thực hiện mua ngoại tệ để
tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, đấu thầu tăng nguồn cung vàng cho nền kinh tế
và thực hiện tất toán huy động vàng
- Thay đổi lãi suất chiết khấu: Điều hành lãi suất theo hướng chủ động, dẫn
dắt thị trường và bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, tiếp tục giảm mặt bằng
lãi suất, góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế ở mức hợp lý
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: tiếp tục giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho 7 tổ chức tín
dụng và tái cấp vốn để khuyến khích các tổ chức tín dụng hỗ trợ vốn tín dụng
cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Tính đến ngày 30/9/2013, dư nợ tín dụng
đối với các lĩnh vực nông, lâm và thủy sản tăng 16,75%.
3.

Tác động của chính sách tiền tệ tới sản lượng và lạm phát

Xét đồ thị biểu diễn IS - LM để thấy rõ tác động của nó:


22


Giả sử nền kinh tế ban đầu đạt trạng thái cân bằng trong ngắn hạn tại (Y 0,i0),
do tình hình kinh tế thế giới còn diễn biến thất thường, có tác động bất lợi đối
với những nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế Việt Nam.
Lúc này Chính phủ đã phải nới lỏng chính sách tiền tệ, IS dịch chuyển sang
phải, khi đó điểm cân bằng mới được xác định tại điểm (,), tại đó
>
>
Khi đó đường LM dịch chuyển sang phải, điểm cân bằng mới được xác định
tại () , tại đó
>



Tác động của chính sách tiền tệ thắt chặt trong 6 tháng đầu năm:



Tác động tới sản lượng:

+ Tổng sản phẩm trong nước (GDP) sáu tháng đầu năm 2013, ước tăng
4,9% so với cùng kỳ năm 2012, tăng sấp xỉ mức tăng cùng kỳ 2012 (4,93%)
nhưng thấp hơn nhiều mức tăng 6,22% của cùng kỳ 2010 và mức tăng 5,9% của
cùng kỳ 2011.
+ Tổng thu ngân sách Nhà Nước từ đầu năm đến 15/6/2013 ước đạt 324,4
nghìn tỷ đồng, bằng 39,8% dự toán năm. Tổng chi NSNN ước đạt 409,1 nghìn
tỷ đồng, bằng 41,8% dự toán năm.
+ Tăng trưởng tín dụng đạt khoảng 3,8-4% so với cuối năm 2012 và gấp

hai lần mức tăng cùng kỳ năm trước.
+ Kim ngạch xuất khẩu đạt 62 tỷ USD, tăng 16,5%
+ Kim ngạch nhập khẩu đạt 63,4 tỷ USD, tăng 17,4%


Tác động tới lạm phát:

23


Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2013 tăng 2,4% so với tháng 12/2012 và tăng
6,69% so với cùng kỳ năm trước, lạm phát cơ bản được kiềm chế… Tuy đạt
được những kết quả nhất định nhưng nền kinh tế vẫn còn phải đối mặt với nhiều
khó khăn và ẩn chứa những rủi ro tác động đến kinh tế vĩ mô. Nợ xấu chưa
được giải quyết. Lạm phát dù đang ở mức an toàn nhưng vẫn tiềm ẩn những
biến động khó lường
 Tác động của chính sách tiền tệ lỏng trong 6 tháng cuối năm:


Tác động tới sản lượng:

+ Do chi tiêu tiêu dùng hàng lâu bền thường được tài trợ một phần bằng đi
vay, do vậy lãi suất thấp hơn sẽ khuyến khích người tiêu dùng tăng chi tiêu tiêu
dùng lâu bền từ đó sẽ kích thích sản xuất sản lượng tăng
+Giá cổ phiếu tăng có thể khuyến khích người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn
cho hàng tiêu dùng lâu bền (KMR đã tăng từ mức 2.500 đồng/cp vào tháng
11/2012 lên mức 10.500 đồng/cp vào ngày 27/11/2013 (mức tăng gấp 4 lần
trong một năm). Nếu so sánh từ cuối năm 2012 tới nay, KMR tăng 148%).
+ Chi phí đầu tư rẻ hơn có thể mở rộng đầu tư, tổng cầu tăng làm tăng sản
lượng và giá cả (danh mục đầu tư chứng khoán của VietinBank tính đến cuối

năm 2013 tăng 13,68% so với cuối năm 2012, đạt 86.774 tỷ đồng)


Tác động đến lạm phát:

+ Lạm phát được kiểm soát ở mức 6,04% thấp hơn so với năm 2012
(6,81%). Tăng trưởng kinh tế quý sau cao hơn quý trước
+ Kiềm chế lạm phát, ổn định và tăng trưởng kinh tế: quý III tăng 5,54%;
quý IV tăng 6,04%.

24


+ Trong nền kinh tế khủng hoảng, bởi sự suy giảm của tốc độ chu chuyển
tiền tệ tạo cho các NHTW có thể tăng cung tiền mà không gây ra lạm phát
+ Liều lượng của chính sách tiền tệ sẽ phụ thuộc vào dự đoán về lạm phát.
Nếu lạm phát được dự đoán quá thấp so với thực tế diễn ra, thì lãi suất có thể bị
giữ ở mức thấp quá lâu và không có khả năng kiềm chế lạm phát
+ Môi trường đầu tư ổn định, thúc đẩy nhu cầu đầu tư và đảm bảo sự phân
bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả
+ Nghiệp vụ thị trường mở cửa chính sách tiền tệ, NHNH phát hành (hoặc
mua vào) tín phiếu kho bạc có thời hạn 3, 6 hoặc 12 tháng với lãi suất hấp dẫn
cho các tổ chức tín dụng thường là các NHTM
+ Dự trữ bắt buộc, giúp NHTW chủ động trong việc điều chỉnh lượng cung
tiền cung ứng và tác động của nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng
nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền),
song tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm
chạp, phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh
doanh của NHTM
+ Chính sách tái chiết khấu, khi NHTW giảm lãi suất tái chiết khấu sẽ

khuyến khích việc các NHTM vay tiền tại NHTW làm cho khả năng cho vay
của các NHTM tăng từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế tăng
4.

Đánh giá chính sách tiền tệ năm 2013



Kết quả đạt được:

+ Mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong công tác điều hành của NHNN là lạm
phát đã được kiềm chế, diễn biến theo xu hướng giảm và khá ổn định. Nếu lạm
phát của năm 2012 là 6,81% thì lạm phát của năm 2013 chỉ ở mức 6,04% - mức
thấp nhất trong vòng 10 năm trở lại đây.
+ Chính sách lãi suất được điều hành phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô,
đặc biệt là diễn biến của lạm phát. Tính chủ động của công cụ lãi suất trong việc
truyền dẫn tín hiệu tới thị trường đã được cải thiện rõ nét. Trong năm 2013, các
mức lãi suất điều hành của NHNN được điều chỉnh giảm hai lần. Hiện tại, lãi
suất tái cấp vốn được điều chỉnh giảm từ mức 9%/năm xuống còn 7%/năm; lãi
suất tái chiết khấu từ 7%/năm xuống còn 5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong
25


×