Tải bản đầy đủ (.pdf) (399 trang)

LỊCH SỬ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VIÊN CHỨC LAO ĐỘNG VÀ CÔNG ĐOÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC(1930 - 2012)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.43 MB, 399 trang )

LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG TỈNH BÌNH PHƯỚC

LỊCH SỬ
PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VIÊN CHỨC
LAO ĐỘNG VÀ CÔNG ĐOÀN

TỈNH BÌNH PHƯỚC
(1930 - 2012)

Công trình chào mừng Đại hội Công đoàn
tỉnh bình phước lần thứ IX (2013 - 2018)




Chịu trách nhiệm xuất bản
BAN THƯỜNG VỤ LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG
TỈNH BÌNH PHƯỚC
Chỉ đạo biên soạn:
Lâm Văn Phúc
Tỉnh ủy viên, Ủy viên BCH Tổng LĐLĐ Việt Nam
Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Bình Phước - Trưởng Ban chỉ đạo.
Đoàn Văn Rồi
Phó Chủ tịch Thường trực LĐLĐ tỉnh - Phó Ban chỉ đạo.
Trần Văn Lập
Phó Chủ tịch LĐLĐ tỉnh - Thành viên.
Bùi Văn Hiếu
UVTV, Trưởng Ban CS - PL LĐLĐ tỉnh - Thành viên.
Cố vấn khoa học
Tiến sỹ Lê Hữu Phước
Phó hiệu trưởng Trường Đại học KH-XH&NV TP.HCM


Ban biên soạn:
Đoàn Tấn Dũng
Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy Khối Dân chính Đảng.
Nguyễn Thanh Danh
Trưởng Phòng Lịch sử Đảng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.
Thư ký công trình:
Huỳnh Minh Thạnh
Chuyên viên Ban TG - NC LĐLĐ tỉnh Bình Phước.



LỜI NÓI ĐẦU
Bình Phước, mảnh đất kiên trung, con người cần cù,
hiền hòa, dũng cảm. Trong suốt hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, mỗi mét
đất, mỗi con người nơi đây đã gánh nhiều đạn bom, đau
thương, tang tóc nhưng vẫn vươn cao, bay xa, ngẩng cao
đầu đến ngày thắng lợi.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ tỉnh, công
nhân viên chức lao động và Công đoàn tỉnh nhà đã có
lịch sử hơn 80 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển,
góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trên quê hương Bình Phước. Đồng thời, suốt chặng đường
lịch sử đấu tranh cách mạng của công nhân viên chức và
tổ chức Công đoàn Bình Phước luôn gắn chặt với phong
trào công nhân và sự phát triển của tổ chức Công đoàn cả
nước, vì cả nước, cùng cả nước đấu tranh cho lợi ích giai
cấp và dân tộc, làm nên truyền thống anh hùng của giai
cấp công nhân Việt Nam.

Để thiết thực chào mừng Đại hội Công đoàn tỉnh Bình
Phước lần thứ IX và Đại hội XI Công đoàn Việt Nam, Ban
Thường vụ LĐLĐ tỉnh tổ chức biên soạn cuốn “Lịch sử
phong trào công nhân viên chức lao động và Công đoàn
tỉnh Bình Phước, giai đoạn 1930 - 2012”. Công trình



được viết dưới dạng sơ thảo, ghi chép lại một cách có hệ
thống quá trình đấu tranh, phát triển của phong trào công
nhân viên chức lao động và tổ chức Công đoàn tỉnh nhà
dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy Đảng, trên tất
cả các lĩnh vực chính trị tư tưởng, quân sự, kinh tế, văn
hóa xã hội… Qua đó, làm nổi bật những đặc điểm, công
lao đóng góp to lớn của lực lượng công nhân, viên chức,
lao động và tổ chức Công đoàn qua từng giai đoạn lịch sử
cụ thể.
Mong muốn của Ban Thường vụ LĐLĐ tỉnh cũng như
nguyện vọng của cán bộ Công đoàn qua các thời kỳ là
công trình sẽ giúp cán bộ, đoàn viên, CNVCLĐ tìm hiểu
truyền thống đấu tranh, xây dựng quê hương vẻ vang của
giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn mình; đồng thời
bổ sung vào kho tư liệu quý của tỉnh, góp phần giáo dục
truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ CNVCLĐ hôm nay
và mai sau, tăng thêm lòng tin về dân tộc, giai cấp, vào
con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta
đã lựa chọn, phấn đấu vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Trong quá trình biên soạn, Ban chỉ đạo, Ban Biên soạn
đã cố gắng rất nhiều trong việc sưu tầm tư liệu thành văn,

tư liệu đánh máy dưới dạng thảo, tư liệu viết tay, gặp gỡ
nhân chứng và tổ chức nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo nhằm
đảm bảo khi công trình ra mắt bạn đọc đạt chất lượng.
Song, chúng tôi ý thức được rằng do trình độ, khả năng
có hạn và trong nỗ lực hoàn thành kế hoạch biên soạn để



kịp chào mừng Đại hội Công đoàn tỉnh nhà lần thứ IX, sẽ
không tránh những thiếu sót, hạn chế nhất định. Bên cạnh,
chúng tôi coi lần xuất bản này là dịp thu thập ý kiến, để
cho lần xuất bản sau.
Vì vậy, rất mong được các đồng chí lão thành cách
mạng, lãnh đạo Công đoàn qua các thời kỳ và bạn đọc
tham gia ý kiến để chúng tôi có điều kiện hoàn chỉnh, nâng
chất lượng cuốn sách truyền thống quý báu của phong trào
công nhân viên chức lao động và Công đoàn tỉnh nhà.
Nhân dịp này, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành tới các cơ quan, đơn vị trong và ngoài tỉnh, các đồng
chí lão thành cách mạng, lãnh đạo Công đoàn các thời kỳ,
các nhân chứng lịch sử đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi hoàn
thành công trình này. Và, cũng xin trân trọng giới thiệu
cuốn “Lịch sử phong trào công nhân viên chức lao động
và Công đoàn tỉnh Bình Phước, giai đoạn 1930 - 2012”
đến với bạn đọc; đặc biệt là cán bộ, CNVCLĐ và đoàn
viên Công đoàn trong tỉnh.
Bình Phước, ngày 10 tháng 01 năm 2013.
TM. BAN THƯỜNG VỤ
LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG TỈNH BÌNH PHƯỚC
CHỦ TỊCH






Lâm Văn Phúc




MỞ ĐẦU

BÌNH PHƯỚC: VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI VÀ
TRUYỀN THỐNG
Bình Phước là một tỉnh miền núi thuộc miền Đông
Nam Bộ, diện tích tự nhiên 6.871,543 km2, dân số khoảng
893.353(1) người; trong đó đồng bào dân tộc có 25.678 hộ,
với 133.256 người chiếm gần 20% dân số toàn tỉnh. Tỉnh
có 3 thị xã và 7 huyện là: Thị xã Đồng Xoài, thị xã Bình
Long, thị xã Phước Long, huyện Đồng Phú, huyện Hớn
Quản, huyện Bù Gia Mập, huyện Lộc Ninh, huyện Bù
Đăng, huyện Chơn Thành và huyện Bù Đốp. Phía Bắc giáp
tỉnh Krachê và Mun Dun Ki Ri (Vương quốc Campuchia),
phía Nam giáp tỉnh Bình Dương, phía Đông giáp tỉnh Đắc
Nông, Lâm Đồng và Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây
Ninh và Công Pông Chàm (Vương quốc Campuchia).
Tỉnh Bình Phước nằm ở phía Bắc và Tây Bắc miền
Đông Nam Bộ có tọa độ:
Bắc 12017’B (xã Bù Gia Mập - huyện Bù Gia Mập)
Nam 11020’ B (xã Tân Hòa - huyện Đồng Phú)

Đông 107025 ‘ Đ (xã Đồng Nai - huyện Bù Đăng)
Tây 106025 ‘ Đ (xã Lộc Tấn - huyện Lộc Ninh)
Địa hình tỉnh Bình Phước nằm trên sườn dốc phía
Tây Nam của cực Nam dãy Trường Sơn được bao phủ bởi
những dãy đồi đất đỏ Bazan nối thành vòng cung từ Bù Gia
(1) Số liệu Niêm giám Thống kê tỉnh Bình Phước năm 2010, trang 29. Năm
1997 dân số Bình Phước là 653.644 người




Mập đến huyện Chơn Thành (ranh giới tỉnh Bình Dương).
Đất đai màu mỡ, khí hậu và thủy văn ở Bình Phước được
thiên nhiên ưu đãi. Ngoài đất đỏ Bazan còn có những vùng
đất xám đan xen, tạo điều kiện cho các hệ động vật, thực
vật phát triển như: dầu, sao, bằng lăng, cẩm lai, gõ đỏ, gõ
mun, vên vên, trai... nhiều loại thú hoang dã như: voi, hổ,
gấu, báo, heo rừng, nai, trâu rừng, bò rừng, mễn... và nhiều
loài chim. Sự phong phú về các loài động vật, thực vật là
nguồn thực phẩm quan trọng cho cư dân vùng đất này thời
tiền sử, còn trong các cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ sau này thì “Rừng che bộ đội, rừng
vây quân thù’.
Trong suốt quá trình lịch sử, Bình Phước luôn có vị
trí hết sức quan trọng về chính trị, kinh tế và an ninh quốc phòng.
Dưới thời phong kiến nhà Nguyễn, Bình Phước thuộc
trấn Biên Hòa. Nửa cuối thế XIX, sau khi đặt ách đô hộ
tại 6 tỉnh Nam Kỳ, thực dân Pháp chia Nam Kỳ thành 4
khu vực lớn là Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bát-xắc.
Vùng đất Bình Phước thuộc khu vực Sài gòn, trong đó

vùng đất phía Đông thuộc tiểu khu Biên Hòa, vùng đất
phía Tây Nam và phía Nam thuộc tiểu khu Thủ Dầu Một.
Năm 1889, Pháp đổi các tiểu khu thành các tỉnh, Bình
Phước thuộc địa phận tỉnh Biên Hòa và tỉnh Thủ Dầu Một.
Từ đó cho đến hết thời Pháp thuộc bộ máy hành chính
cơ bản không thay đổi. Sau năm 1954, trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, vùng đất Bình Phước bị chia
cắt, sát nhập nhiều lần để phục vụ ý đồ cai trị của thực
dân đế quốc. Đến ngày 30/1/1971 Trung ương cục miền



Nam quyết định thành lập phân khu Bình Phước đến cuối
năm 1972 phân khu Bình Phước giải thể, tỉnh Bình Phước
chính thức được thành lập.
Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, để đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - văn hóa và quốc phòng an
ninh, ngày 2/7/1976 Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ra quyết định thành lập tỉnh Sông Bé bao
gồm: tỉnh Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Phước và ba xã thuộc
huyện Thủ Đức (Thành phố Hồ Chí Minh), chia thành 7
huyện, thị: Bình Long, Phước Long, Đồng Phú, Bến Cát,
Tân Uyên, Thuận An và Thị xã Thủ Dầu Một. Tháng 3
năm 1978, tách một xã của huyện Bình Long và một số
xã của huyện Phước Long để thành lập huyện Lộc Ninh.
Năm 1988 huyện Phước Long được chia thành 2 huyện Bù
Đăng và Phước Long. Ngày 1 tháng 1 năm 1997, tỉnh Bình
Phước được tái lập bao gồm 5 huyện phía Bắc thuộc tỉnh
Sông Bé cũ: Đồng Phú, Bình Long, Lộc Ninh, Bù Đăng
và Phước Long. Ngày 1/9/1999, Chính phủ ban hành Nghị

định số 90/1999/NĐ-CP về việc thành lập thị xã Đồng
Xoài. Ngày 1/1/2000, thị xã Đồng Xoài chính thức đi vào
hoạt động, tỉnh lỵ Bình Phước đặt tại thị xã Đồng Xoài.
Ngày 20 tháng 02 năm 2003 Chính phủ ra Nghị định số
17/2003/NĐ-CP về việc tái lập hai huyện Chơn Thành và
Bù Đốp thuộc tỉnh Bình Phước. Ngày 11/8/2009 Chính
phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành
Nghị quyết số 35/NQ-CP thành lập hai thị xã Bình Long và
Phước Long và tách một số xã của hai huyện Bình Long,
Phước Long, thành lập hai huyện mới là Hớn Quản và Bù
Gia Mập.



Về khí hậu, cũng như các tỉnh Nam Bộ, khí hậu Bình
Phước thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa ổn định. Trong
năm chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa. Mùa
khô thường bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 4 (Dương lịch),
mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến cuối tháng 10. Đặc biệt ở
Bình Phước hầu như không có bão mà chỉ chịu ảnh hướng
của những cơn bão gần. Lượng mưa trung bình hàng năm
khoảng 2.400mm, rải đều trong nhiều tháng nên ít khi gây
ra lũ lụt, nếu có lũ thì nước chỉ dâng lên từ các con suối từ
1 đến 3 ngày nên nhân dân cũng dễ khắc phục.
Bình Phước có nhiều tài nguyên phong phú, trước
hết là rừng. Đầu thế kỷ XX, Bình Phước được phủ kín
cây rừng, bạt ngàn, mênh mông với nhiều gỗ quí, cùng
với nhiều loài thú rừng phong phú, có cả các loại thú
quí hiếm như: voi, tê giác, trâu rừng, bò rừng, nai, khỉ,
nhím, chồn...

Ngay khi mới đặt chân lên đất Nam Kỳ, thực dân Pháp
đã nhận thấy ngay những điều kiện khí hậu nhiệt đới và
chất đất đỏ xám của cả miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là
đất ở Bình Phước rất thích hợp với cây cao su đã xây dựng
ngành khai thác cao su ở đây rất sớm, nên diện tích rừng
dần dần bị thu hẹp lại. Trong cuộc kháng chiến chống giặc
ngoại xâm, rừng Bình Phước bị thu hẹp lại do bị bom đạn,
chất độc hóa học tàn phá cùng với việc khai thác bừa bãi
của các lực lượng lâm tặc và dân di cư tự do. Tuy vậy,
đến nay rừng và đất rừng vẫn còn khá phong phú khoảng
360.000ha, chiếm 52,68% diện tích toàn tỉnh.
Bình Phước có 3 con sông lớn chảy qua: Sông Bé,



sông Đồng Nai và sông Sài gòn, Sông Bé là phụ lưu của
sông Đồng Nai nhưng là dòng sông dài gần 200km chảy
trong lãnh thổ của tỉnh, ở phía Bắc, nơi dòng sông chảy
qua vùng cư trú của đồng bào S’ tiêng, M’nông, Sông Bé
được gọi là sông Đaklung, xuôi về phía Nam đồng bào
Kinh gọi là Sông Bé. Nhìn chung, Sông Bé không thuận
lợi cho việc giao thông đường thủy vì mùa khô nước bị
cạn, có chỗ mực nước hạ thấp còn khoảng 1mét, về mùa
mưa nước chảy xiết, lòng sông có nhiều đá ngầm, nhiều
ghềnh thác nên tàu thuyền lớn không thể đi được. Ngoài
sông còn có hàng trăm hồ đập lớn, nhỏ, đủ nước phục
vụ cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt.
Ngày nay, việc khai thác các dòng sông ở Bình Phước
để làm thủy điện rất thuận lợi; trên Sông Bé có thuỷ điện
Thác Mơ với công suất 150MW đã và đang hoạt động rất

tốt, Thủy điện Cần Đơn đã đi vào vận hành với công suất
72MW, thủy điện Phú Miêng với công suất 70MW. Tiềm
năng thủy điện Bình Phước còn rất lớn, đang chờ bàn tay
của con người xây dựng. Thác Mơ (Phước Long) không
chỉ có thủy điện để phục vụ cho nhân dân mà còn là một
cảnh đẹp thiên nhiên thơ mộng và trong tương lai nơi đây
là một khu du lịch đẹp của Bình Phước. Ngoài Sông Bé,
phía Tây Bình Phước còn có sông Sài Gòn bắt nguồn từ
phía Bắc Lộc Ninh, đoạn chảy qua địa phận Bình Long
gần 50km.
Bình Phước có nhiều khoáng sản phong phú, khoáng
(1) Quốc lộ 14 đi qua Bình Phước từ ngã tư Chơn Thành đến Cây Chanh (Đắk Lắk
)dài 112,8 km; Quốc lộ 13 từ cầu Tham Rớt đến cửa khẩu Hoa Lư dài 79,9 km;
đường ĐT 741 từ Bàu Trư (Bình Dương) đến xã Phú Nghĩa (Đăk Lắk) dài 92,8km)

10


sản phi kim loại khá đa dạng: sét cao lanh, sét gạch ngói,
cát, đá xây dựng, đá vôi... Đá vôi có trữ lượng lớn, chất
lượng tốt có khả năng khai thác hàng năm từ 1,4 đến 2
triệu tấn, cung cấp nguyên liệu cho sản xuất xi măng. Tỉnh
đang thi công xây dựng và đi vào hoạt động sản xuất Nhà
máy xi măng Thanh Lương - Tà Thiết với số vốn đầu tư
250 triệu USD. Vị trí nhà máy xi măng rất thuận lợi trong
việc tiêu thụ sản phẩm xi măng (trong nước và xuất khẩu
sang Campuchia. Ở Bình Long có loại đá vôi biến chất
thành đá hoa, màu sắc và cấu trúc đẹp, độ cứng cao, có
già trị về nghệ thuật và kinh tế, dùng để trang trí nhà cửa,
tạc tượng làm đồ trang sức... Ngoài ra, còn có đá ba-dan

chiếm nửa diện tích đá toàn tỉnh, chùng sĩ ba - dan lộ ra ở
nhiều nơi được dùng làm vật liệu xây dựng rất tốt.
Tài nguyên nước ngầm của Bình Phước có giá trị lớn.
Dù là tỉnh miền núi nhưng qua thăm dò địa chất thì nguồn
nước ở Bình Phước phong phú , chất lượng nước tốt, đủ khả
năng cung cấp cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt.
Bình Phước có 2 trục đường giao thông chiến lược
quan trọng là Quốc lộ 14 và Quốc lộ 13 (l), nối liền Bình
Phước với Tây Nguyên. Thành phố Hồ Chí Minh và Vương
quốc Campuchia. Bên cạnh 2 con đường chiến lược còn
có đường ĐT 741, ĐT 751, ĐT 752, ĐT 753, ĐT 754. .
. Hiện nay đường giao thông đã nối liền từ tỉnh đến các
huyện, xã và các vùng lân cận. Đặc biệt, đường Hồ Chí
Minh - Công nghiệp hóa đi ngang qua Bình Phước khá
dài, tạo thuận lợi cho Bình Phước có điều kiện hơn trong
việc giao lưu văn hóa, buôn bán với các tỉnh Tây Nguyên
các tỉnh miền Trung...
11


Như trên đã trình bày Bình Phước là một vùng đất
được thiên nhiên ưu đãi là yếu tố thuận lợi cho việc quy tụ
con người ngay từ thời tiền sử. Con người hái lượm những
sản phẩm của rừng, đánh bắt cá ở các sông, suối, săn bắt
các loài thú. Đất đai màu mỡ thuận tiện cho con người tiến
hànhtrồng trọt và chăn nuôi. Sự phong phú các mỏ khoáng
sản phi kim loại như: đá sa thạch, diệp thạch, đá Basaltem
đá cuội là nguyên liệu để chế tác các công cụ lao động,
sinh hoạt.
Các loại đất sét là nguyên liệu cho việc sản xuất đồ

gốm. Các nhà khảo cổ học trong và ngoài nước đã phát
hiện những rìu đá mài nhẵn bốn mặt hay còn gọi là rìu tứ
diện ở Bình Long, Lộc Ninh, Phước Long, Bù Đăng. Di
tích thành đất đắp hình tròn là một loại hình di chỉ khảo cổ
ở nước ta lần đầu tiên được biết đến vào những năm 1930
khi người Pháp khai thác vùng đất đỏ để trồng cao su.
Năm 1958 học giả L.Malleret cho công bố những nghiên
cứu bước đầu, ông đã thống kê bằng bản đồ không ảnh 12
công trình thành đất cổ trên lãnh thổ Bình Phước. Đến năm
1999 Bảo tàng tỉnh đã phối hợp với Trung tâm khảo cổ học
- Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí
Minh phát hiện thêm 6 di tích mới, nâng tổng số thành đất
cổ ở Bình Phước lên 18, phân bố ở các huyện Lộc Ninh,
Bình Long, Phước Long. Qua khai quật dưới lòng đất, các
nhà khảo cổ đã tìm thấy gần 1.000 hiện vật bằng đá gồm:
rìu, mũi đục, dao, bàn mài, mảnh đàn đá. . . Những thành
đất cổ ở Bình Phước chứng tỏ những khu vực cư trú của
người Việt Cổ vào thời kỳ đồ đá chuyển sang đồ đồng cách
đây 2 đến 3 ngàn năm. Tại Lộc Ninh nhân dân đã phát hiện
12


1 trống đồng nằm sâu trong lòng đất. Bằng phương pháp
khoa học, các nhà khảo cổ kết luận trống đồng Lộc Ninh
có niên đại cùng với trống đồng Đông Sơn ở miền Bắc
nước ta. Gần đây, 2 chiếc trống đồng được phát hiện ở xã
Thọ Sơn (Bù Đăng) và xã Long Hưng (Phước Long) ngày
24/4/1998 có niên đại cách đây từ 1.900 đến 2.200 năm.
Từ những chứng cứ trên cho thấy từ thuở xa xưa trên
vùng đất Bình Phước ngày nay đã có con người sinh sống.

Những con người ấy thuộc bộ tộc nào ? Và cuộc sống của
họ ra sao? thì các nhà khoa học đang nghiên cứu. Chỉ biết
rằng cho đến thế kỷ XVI chủ nhân của vùng đất là cư dân
thuộc các dân tộc ít người S’tiêng, Châu ro, M’nông, Tà
mun... Họ sống du canh, du cư, sống chủ yếu bằng việc
săn bắt thú rừng, hái lượm trái cây có sẵn, tỉa lúa nương.
Họ sống rải rác theo từng buôn sóc. Bộ lạc S’tiêng là
những người có công khai phá vùng đất từ núi Bà Đen đến
thượng nguồn sông Sài Gòn, vùng núi Bà Rá và vùng hữu
ngạn sông Đồng Nai là vùng đất xưa của người Châu ro.
Sang đầu thế kỷ XVII, vùng đất này đón nhận thêm những
người Khơ –me và dân di cư từ các tỉnh miền Trung, miền
Bắc vào, bởi không chịu nổi sự áp bức, bóc lột của chế độ
phong kiến, mắc tội “nghịch mạng với triều đình” và trốn
sưu thuế, binh dịch... Theo chân người Việt, một số người
Hoa cũng bắt đầu du nhập vào Bình Phước.
Đến thời Pháp, qua những lần khai thác thuộc địa,
người ở địa phương không đủ sức phục vụ cho các đồn
điền rộng lớn của Pháp, buộc chúng phải ra miền Bắc,
miền Trung tuyển mộ người mà chúng gọi là “mộ phu”
hay “chiêu mộ nhân công giao kèo”. Nhưng trước và
13


sau năm 1929, đối tượng tuyển mộ của chúng ở miền Bắc,
miền Trung cũng có sự khác nhau; trước năm 1929, chủ
yếu là mộ những thanh niên trai trẻ chưa lập gia đình, sau
năm 1929 chủ yếu mộ các hộ gia đình. Sự thay đổi này
bắt nguồn từ ý đồ bảo đảm lâu dài nguồn nhân lực cho các
đồn điền, đồng thời hạn chế sức đấu tranh của công nhân.

Do vậy, người Kinh ở Bình Phước tăng nhanh, hình thành
tầng lớp công nhân bị bóc lột hết sức nặng nề, mỗi ngày
người công nhân phải làm tới 1 2 tiếng đồng hồ. Có hôm
8 - 9 giờ đêm họ mới được về nhà. Cho nên công nhân cao
su thường có câu thơ chua chát:
“Con không biết mặt cha
Chó không biết mặt chủ nhà “
Thời kỳ Mỹ - Ngụy, một bộ phận tín đồ công giáo
di cư từ miền Bắc vào, được Ngụy quyền bố trí ở các
khu dinh điền, khu trù mật nhằm tạo cơ sở xã hội cho sự
thống trị của chúng. Năm 1956, chính quyền Ngô Đình
Diệm thành lập tỉnh Phước Long, tỉnh Bình Long rồi ép
buộc, dụ dỗ nhân dân từ các tỉnh miền Trung vào, làm
thay đổi cơ cấu dân cư ở Bình Phước. Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, các cấp ủy Đảng. chính quyền
của tỉnh Bình Phước tập trung chỉ đạo kháng chiến chống
giặc ngoại xâm, củng cố vùng giải phóng; mặt khác cũng
rất chú ý đến khối công - nông liên minh làm nòng cốt
cho mặt trận thống nhất đoàn kết toàn dân, tiến hành cuộc
kháng chiến thắng lợi, góp phần cùng nhân dân cả nước
giải phóng miền Nam.
14


Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, dân số của
tỉnh Bình Phước tăng nhanh. Ngoài những người dân đến
để xây dựng vùng kinh tế mới, số cán bộ, bộ đội công tác ở
vùng này trong kháng chiến đến khi hòa bình thì ở lại làm
ăn sinh sống và những người dân ở các tỉnh thành trong cả
nước đến đây lập nghiệp. Chủ yếu là làm trang trại, trồng

trọt, chăn nuôi.
Hiện nay, Bình Phước có đủ dân cư của 63 tỉnh thành
trong cả nước làm ăn, sinh sống, cho nên Bình Phước được
xem là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam với những bản
sắc văn hóa đa dạng, làm phong phú thêm cho nền văn hóa
của tỉnh . Nói đến nền văn hóa truyền thống ở Bình Phước,
cần hết sức chú ý đến nền văn hóa truyền thống lâu đời
của cư dân bản địa và tiêu biểu là người dân tộc S’tiêng.
Bình Phước nói riêng, Đông Nam Bộ nói chung hay cả
vùng Tây Nguyên rộng lớn, điều có nền văn hóa nghệ
thuật mang tính cộng đồng cao. Toàn thể cộng đồng làm
chủ nền văn hóa trong tất cả các khâu: sáng tác, chế tác,
trình diễn và thưởng thức. Nhân dân sáng tác nên những
bài dân ca nhỏ đến các sử thi dài. Nhân dân cũng là những
nhà điêu khắc làm nên nhà cửa với hoa văn chạm khắc hấp
dẫn. Họ chế tác nhạc cụ và sử dụng điêu luyện các nhạc
cụ đó. Trong các buổi sinh hoạt văn hóa chung như cúng
được mùa, cúng cầu mưa, hiến sinh trâu bò...thì mọi người
đều cùng chung lo công việc và đều được hưởng thụ như
nhau không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo...
Tín ngưỡng của cộng đồng S’tiêng, M’nông, Khơ me,
Tà mun, Châu ro... ở Bình Phước là tín ngưỡng đa thần. Và
khi người kinh xuất hiện thì ở Bình Phước có thêm các đạo
15


giáo như: Đạo Phật, Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài,
Hòa Hảo...
Đạo Phật được truyền bá vào tỉnh Bình Phước từ cuối
thế kỷ thứ XVI, khi những cư dân người kinh đầu tiên từ

các tỉnh phía Bắc đến định cư vùng đất này. Đến nay cả
tỉnh có 81.332 tín đồ . Hầu hết những người theo đạo Phật
đều có lòng yêu nước, tích cực tham gia kháng chiến đánh
giặc ngoại xâm.
Đạo Thiên Chúa vào Bình Phước từ đầu thế kỷ thứ
XVII khi các nhà truyền đạo theo chân các thương nhân
đến vùng đất này. Đạo Thiên Chúa phát triển nhanh nhất
là thời kỳ Mỹ Diệm cầm quyền. Chúng đã dụ dỗ lôi kéo
những người theo đạo vào Bình Phước và bố trí ở những
nơi xung yếu để phục vụ cho những âm mưu thâm độc
của chúng. Hiện nay, đạo Thiên Chúa có 72.628 tín đồ,
đạo Tin Lành có 48.125 tín đồ. Đa số đồng bào theo đạo
Thiên Chúa và Tin Lành là người lao động tốt, yêu nước,
bất khuất chống giặc ngoại xâm, không xa vào âm mưu,
cạm bẫy của kẻ thù.
Đạo Cao Đài được truyền vào Bình Phước trong những
thập niên 30 của thế XX tín đồ Cao Đài trong tỉnh hiện nay
có 2582 người. Trong chiến tranh, một số tên phản động
đã bị Mỹ - Ngụy lôi kéo, chống lại cách mạng. Hiện nay,
tuyệt đại bộ phận người có đạo làm ăn chân chính, góp
phần xây dựng đất nước. Ngoài ra, tỉnh còn có 68 người
theo Phật giáo Hòa Hảo, 310 người theo Hồi giáo.
Bình Phước là một trong những tỉnh có điều kiện phát
16


triển kinh tế bền vững: tỉnh nằm cạnh địa bàn kinh tế trọng
điểm cả nước, trong nhóm của vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam, có nhiều tiềm năng và lợi thế, tốc độ phát triển
cao, môi trường đầu tư hấp dẫn. Dựa vào điều kiện tự nhiên

và tiềm năng sẵn có, Bình Phước xác định cơ cấu kinh tế
của tỉnh là nông - lâm nghiệp, dịch vụ, công nghiệp; Đẩy
mạnh chương trình xuất khẩu trong đó chú trọng các mặt
hàng chủ lực của tỉnh như: cao su, điều, tiêu, cà phê, cây
ăn quả; thực hiện tốt các chương trình quốc gia và của tỉnh
trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, chăm sóc sức khỏe,
giáo dục đào tạo . . .
Giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở Bình
Phước trẻ, dồi dào, có đức tính cần cù, chịu khó, thông
minh, sáng tạo, tỷ lệ trẻ chiếm số đông là nguồn lực hết
sức quan trọng để đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh, góp phần cùng cả nước thực hiện công nghiệp hóa
- hiện đại hóa thành công .
***

17


CHƯƠNG I
THỰC DÂN PHÁP CHIẾM ĐóNG BÌNH PHƯỚC
Và SỰ RA ĐỜI ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TRƯỚC
KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM THÀNH LẬP
I CHÍNH SÁCH KHAI THÁC THUỘC ĐỊA VÀ
SỰ HÌNH THÀNH ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN LAO
ĐỘNG TỈNH BÌNH PHƯỚC:
Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược nước ta,
đến tháng 6/1862, Triều đình Huế ký Hiệp ước nhường
hẳn 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ (Biên Hòa, Gia Định, Định
Tường) cho Pháp. Từ năm 1861 thực dân Pháp chiếm
đóng Thủ Dầu Một và bắt đầu thiết lập bộ máy cai trị của

chúng ở đây. Từ đó, chúng luôn tìm cách mở rộng phạm
vi chiếm đóng lên phía Bắc như: Bù Đốp, Hớn Quản,
Bà Rá... (Bình Phước ngày nay) nơi cư trú của đồng bào
các dân tộc S’tiêng, M’nông, Khơ me, Châu ro, Mạ, Tà
mun.. .. Nhưng mãi đến năm 1892, chúng mới lập được
bộ máy cai trị của quận Chơn Thành (sau đổi thành quận
Hớn Quản) gồm 6 tổng 50 buôn làng. Năm 1898, chúng
đặt thêm một số đồn bót nhỏ ở vùng Bù Đốp, Chơn Thành,
Bà Rá... giao cho ngụy quân đóng giữ.
Cùng với việc thiết lập bộ máy cai trị, thực dân Pháp
tiến hành chính sách khai thác về kinh tế nhằm vơ vét tài
nguyên và bóc lột sức lao động của nước ta để làm giàu
cho chính quốc. Công cuộc khai thác thuộc địa được đẩy
mạnh hơn đặc biệt sau chiến tranh thế giới lần thứ I. Thực
dân Pháp ráo riết thi hành nhiều chính sách và thủ đoạn
18


nhằm khuyến khích bọn tư bản Pháp đến miền Đông Nam
Bộ nói riêng và cả Đông Dương nói chung cướp đất của
nông dân mở đồn điền. Bức thư của Đen cat xê (Delcassé)
Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp gửi Toàn quyền Đông Dương
ngày 23/6/1894 có ghi “Khai mở những miền đất rộng rãi
mà ta đã chiếm được, lập những đồn điền nông nghiệp,
phát triển lực lượng sản xuất thuộc địa và do đó mà phát
triển quan hệ thương mại với nước Pháp, cải thiện hay
là lập ra đường giao thông và những đường xâm nhập.
Trong sự nghiệp này vai trò chính là vai trò của sáng kiến
tư nhân. Song sáng kiến tư nhân vẫn được khuyến khích,
được ủng hộ bởi Chính phủ và nhân viên Chính phủ’? (l)

Sắc lệnh 7/1888 và nhất là Sắc lệnh 18/8/1896 của
Toàn quyền Đông Dương cho phép tư bản Pháp chiếm đất,
đoạt đất của nông dân để khai thác lập đồn điền cao su.
Bình Phước thuộc miền Đông Nam Bộ, là vùng đất
có điều kiện thổ nhưỡng thích hợp nhất và lý tưởng nhất
cho việc trồng cây cao su. Ngoài lớp đất đỏ màu mỡ, vùng
đất này nằm sâu trong đất liền, tránh được những trận bão
và các cơn lốc dữ dội từ Biển Đông thổi vào; độ cao thích
hợp cho năng suất mủ cây so với vùng ven biển hoặc rét
cao Tây Nguyên; giao thông thuận tiện hơn với trục lộ 13
vừa mới hình thành. Đây là vùng đất mà hầu hết các buôn
sóc đồng bào dân tộc đều đã có sự xâm nhập nghiên cứu
và truyền giáo của các giáo sĩ Pháp vào cuối thế kỷ XIX
và đầu thế kỷ XX. Từ cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp đã
(1) GS Trân Văn Giàu. Giai cấp công nhân Việt Nam - NXB Sự Thật Hà Nội
1975, trang 32.

19


đóng đồn binh khá vững chắc ở Lộc Ninh, Hớn Quản, Bù
Đốp và núi Bà Rá; khai thác vùng này còn có lợi cho thực
dân Pháp trong việc chuẩn bị tạo thế xâm nhập vùng Đông
Nam Campuchia.
Với công việc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của
thực dân Pháp, với những điều kiện về đất đai, địa hình
và các yếu tố về kinh tế, quân sự, chính trị... các công ty
tư bản Pháp đã ưu tiên số một vào khai thác vùng đất đỏ
Bazan của Bình Phước để trồng cây cao su.
Sau khi thử nghiệm vườn ươm cao su thành công ở

Bàu Ông Yệm (Lai Khê - Bến Cát - Bình Dương) cây cao
su được trồng ở Việt Nam. Thực dân Pháp đã nhận thức
được giá trị của vùng đất đỏ Bazan trải dài suốt từ Đông
sang Tây trên vùng đất Bình Phước ngày nay. Cho nên tư
bản Pháp thành lập hàng loạt công ty để khai thác cao su.
Như Công ty Đất Đỏ (Plantation des Terres Rouges) thành
lập năm 1910 trụ sở đóng ở Sài Gòn, những đồn điền lớn
của công ty này đều ở Bình Phước như đồn điền Quản Lợi,
Xa Cam, Xa Cát, Xa Trạch... Công ty C.EXO (Societé des
caoutchoucs d’Extreme Orient) tức Công ty Viễn Đông ra
đời năm 1911, có hai đồn điền lớn nhất là Lộc Ninh và Đa
Kia. Công ty S.I.P.A (Societé Indochinoise des Plantations
d’hévéas) tức là Công ty cao su Đông Dương thành lập
năm 1910 trụ sở tại Paris, đối tượng chủ yếu khẩn hoang
canh tác đất đai ở Viễn Đông; đặc biệt là Đông Dương và
chủ yếu trồng cao su, công ty này chủ yếu trồng cao su ở
Biên Hòa, có một vài đồn điền nhỏ ở Bình Phước ngày nay.
Công ty Michelin (Socíet des Plantation et pneumatiques
20


Michelin au Việt Nam) ra đời năm 1917 đặt văn phòng chỉ
đạo tại Dầu Tiếng - Bình Dương, công ty này lập nhà máy
chế biến săm, lốp xe tại Việt Nam có hai đồn điền lớn nhất
là Dầu Tiếng và Phú Riềng, ngoài ra còn có một vài công
ty nhỏ khác.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ I ( 1914 - 1918), thực
dân Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa trên quy mô lớn,
chúng tăng cường đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, đẩy
nhanh quá trình tập trung ruộng đất về tay bọn “Colon”.

Thực dân Pháp đã ban hành Nghị định 18/9/1926 cho
phép tư bản có thể xin cấp đất, không.phải mất tiền và
khỏi nộp thuế về sản phẩm thu hoạch có diện tích từ
300ha trở lại. Sắc luật tháng 11/1928 của Chính phủ Pháp
lại xóa bỏ mọi hạn chế về diện tích chiếm hữu và nới rộng
quyền hạn cấp đất của các cấp chính quyền thuộc địa.
Vì vậy các công ty tư bản Pháp ồ ạt đầu tư vốn vào
kinh doanh ngành cao su. Các đồn điền càng vụt tăng
diện tích. Nếu năm 1918 , Nam Kỳ mới có 7.000ha cao
su thì đến cuối năm 1921 đã lên đến 29.000ha (gấp 4
lần). Trong đó vùng Bình Phước ngày nay có diện tích
cao nhất. Nhưng đến năm 1929 thì con số này tăng lên
kinh khủng là 84.000ha và đến năm 1930 là 1 25.707ha
gấp 18 lần diện tích năm 1918 . Số mủ cao su cũng tăng
từ 150 đến 200 tấn năm 1914, lên 10.309 tấn năm 1929.
Trong thời kỳ này, trên địa bàn tỉnh Bình Phước ngày
nay hàng loạt những đồn điền cao su mới được thành lập.
Ở Lộc Ninh chủ sở Đờ La Lăng mở rộng đồn điền cao
su của Công ty cao su Xét - Xô lên l0.000ha, Công ty
21


Michelin thành lập đồn điền cao su mới ở Phú Riềng và
Dầu Tiếng cũng được mở rộng, diện tích cao su ở vùng đất
xám pha cát ở Bến Cát, Tân Uyên, Phước Hòa... cũng đã
tăng nhanh. Công ty cây trồng Nhiệt đới khai thác giống
cao su vùng Đa Kia (Phước Long). Trong đó có những đồn
điền lớn là Quản Lợi, Lộc Ninh, Dầu Tiếng, Phú Riềng,
Xa Cam, Xa Cát... Đến năm 1930 tổng số công nhân cao
su trong cả nước ước lượng đã lên 60.000 người (chưa kể

những người ăn theo trong gia đình) và riêng các đồn điền
thuộc địa bàn Bình Phước, số lượng công nhân cao su ở
mức trên dưới 30.000 người, chiếm 1/2 công nhân cao su
của cả nước.
Cùng với sự phát triển của tư bản cao su, chế độ mộ
phu theo hợp đồng là điều kiện quan trọng để hình thành
và phát triển số lượng công nhân cao su của cả nước và
Bình Phước. Sự ra đời của ngành khai thác cao su, đội
ngũ công nhân ở các thị trấn, thị tứ cũng bắt đầu hình
thành. Tuy có khác nhau về ngành nghề, số lượng ít hơn
công nhân cao su nhiều nhưng giai cấp công nhân ở Bình
Phước cùng chung cảnh ngộ bị sự áp bức bóc lột của bọn
tư bản Pháp và địa chủ. Cho nên, họ có tiếng nói chung là
đoàn kết đấu tranh chống lại sự hà khắc của bọn chủ.
Về nguồn gốc, thành phần và sự phát triển về số lượng
của đội ngũ công nhân cả nước đều thể hiện rõ nét trong
đội ngũ công nhân Bình Phước. Các đặc điểm ấy cơ bản
phù hợp với những đặc điểm của giai cấp công nhân Việt
Nam; như tinh thần cách mạng triệt để do xuất thân từ
những thành phần cùng khổ nhất của xã hội, dễ dàng thiết
22


lập khối liên minh công nông do đa số có nguồn gốc xuất
thân nông dân. Cũng do đặc điểm trên trong quá trình diễn
ra các phong trào đấu tranh cách mạng, lực lượng công
nông luôn đoàn kết gắn bó với nhau, hòa quyện lẫn nhau
cuốn hút các tầng lớp xã hội khác tạo thành sức mạnh tổng
hợp to lớn trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong
kiến tay sai giành độc lập dân tộc.

Bên cạnh những đặc điểm chung, đội ngũ công nhân
lao động Bình Phước còn có những đặc điểm riêng như
công nhân Bình Phước chủ yếu là công nhân cao su, lao
động nông nghiệp bị chi phối tính thời vụ và các thao tác
lao động đơn giản, tỷ lệ lao động kỹ thuật rất ít cho nên
những tập quán, tác phong phần nào còn nặng tư tưởng
nông dân. Địa bàn làm việc chủ yếu ở các đồn điền nằm
giữa các vùng heo hút, rất ít điều kiện tiếp xúc với những
thành tựu khoa học, văn hóa, dẫn đến sự yếu kém về trình
độ văn hóa, kỹ thuật của người công nhân.
II. ĐỜI SỐNG CÙNG CỰC CỦA CÔNG NHÂN
LAO ĐỘNG VÀ NHỮNG CUỘC ĐẤU TRANH CỦA
HỌ TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
RA ĐỜI
1. Đời sống cùng cực của công nhân lao động
Sau chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, số lượng công
nhân cao su ở các đồn điền thuộc địa bàn Hớn Quản, Lộc
Ninh, Bà Rá tăng lên rất nhanh. Nguồn gốc công nhân
đồn điền cũng có sự thay đổi cùng với sự phát triển của
việc khai thác cao su. Do yêu cầu phát triển nhanh của
các đồn điền cao su, dân địa phương không đủ cung cấp
23


cho các đồn điền, buộc tư bản Pháp phải ra tận miền Bắc,
miền Trung tuyển mộ.Chúng thường gọi là “mộ phu” hay
“Contrat”, do thiếu công nhân chuyên nghiệp có một số
đồn điền mộ phu từ các thuộc địa của Hà Lan. Đến năm
1922 đồn điền cao su Lộc Ninh vẫn sử dụng công nhân
người Chà-và (Java nás) tức mộ phu từ Inđônêsia thuộc

loại công nhân có tay nghề cao.
Người dân phu được tuyển mộ phải chịu sự quản lý
chặt chẽ ngay từ khi ký tên vào giấy giao kèo. Bọn cai
mộ tập trung dân phu đưa lên tàu lửa, tàu thủy hoặc ô tô
về các đồn điền. Hệ thống cai trị của giới chủ đồn điền
hết sức chặt chẽ và khắc nghiệt. Đứng đầu đồn điền là
chủ đồn điền (bao gồm chủ nhất và chủ nhì) chủ đồn điền
có bộ phận chuyên môn giúp việc . Dưới các chánh giám
thị (Xu vây dăng xếp).Các chánh giám thị điều khiển các
giám thị viên. Các giám thị viên chỉ huy các cai theo dõi
các kíp sản xuất, mỗi kíp có khoảng 10 công nhân.
Công nhân đồn điền bị áp bức bóc lột hết sức nặng
nề và bị đối xử vô cùng tàn nhẫn, chế độ làm việc ngày từ
10g đến 12g. 3 giờ sáng, kẻng báo thức, 5 giờ sáng phải
tập trung ra điểm danh để lấy mủ cao su, chiều về tới nhà
đã 8-9 giờ đêm. Lao động cực nhọc như vậy vậy mà, cơm
ăn không đủ no, quần áo không lành. Một ngày chủ Tây
phát 800gr gạo lức, 300 gram khô mắm, giao cho thầy xu
phân phát cho công nhân, nên bọn họ một phần cắt xén,
(1) Hồi ký của Nguyễn Mạnh Hồng. Tài liệu lưu trữ tại phòng Lịch sử Đảng
- Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Phước .
(2) (Trần Tử Bình. Phú Riềng Đỏ, NXB Lao động, Hà Nội 1965, trang 36)

24


một phần chọn những thức ăn ngon tốt giữ lại, gạo xấu,
khô móc giao cho công nhân. Người công nhân lao động
suốt ngày nặng nhọc, hết ngày về đến nhà trời tối mịt. Họ
phải “… vội vã vác ống nứa ra suối lấy nước và kiếm dăn

ba cây củi khô về nhóm lửa nấu cơm. Thế rồi dần con cá
khô nướng lên, khen khét, đăng đắng, ăn chập ăn chuội.
Bữa nào khỏe người thì cố kiếm lá Văn Khôi, lá Bứa ngoài
rừng nấu canh suông ăn đỡ xót ruột...” (1) Còn chỗ ở “mỗi
làng đồn điền xây dựng mấy dãy Ba-rac,mỗi Barac là chỗ
sinh sống của 50 công nhân. Bên trong Barac chúng ván
gỗ ngăn thành 10 lán, mỗi lán vuông vức mỗi bề 5 mét.
Chúng dồn chia nhau cứ 5 người 1 lán, ngủ trên sàn gỗ dài,
nấu cơm ngay trong lán. Trong lán chật chội đến nổi chỉ
đặt được bàn chân mỗi khi ra vào. Điều kiện vệ sinh thì lại
rất thấp kém. Mưa thì lội, nắng thì chói chang...”
Bên cạnh các cuộc sống khó khăn, người công nhân
đồn điền phải chịu nhiều hình phạt khắc nghiệt như cúp
lương, bớt lương… những công nhân có vợ đẹp đều bị
chủ Tây hành hạ và hãm hiếp, khi bệnh tật không có thuốc
điều trị lâu ngày dẫn đến tàn phế, tử vong. Ở các đồn điền
cao su Quản Lợi, Xa Cam,Xa Trạch, Xa Cát… thuộc công
ty cao su Đất Đỏ tính ra cứ 100 công nhân thì có 19 người
chết 37 người bị bệnh nặng. Ở đồn điền An Lọc tuổi thọ
của nam nhân công không quá 30 tuổi, có 95% phụ nữ
công nhân bị sẩy thai và ốm đau. Nhiều trẻ em hai đến ba
tuổi đã mắc bệnh sưng lá và lách phù thận. Thật là một
điều chua cay, tủi nhục cho thân phận người công nhân.
Cảnh khốn khó bần cùng được người công nhân đồn
25


×