Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tình yêu lứa đôi trong ca dao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.63 KB, 30 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ca dao là một bộ phận của văn học dân gian , kho tàng qúi giá của đất nước đã
vượt qua thử thách của thời gian để trở thành một thành tố quan trọng trong nền văn
học Việt Nam. Có rất nhiều mảng đề tài về ca dao như: ca dao về tình cảm gia đình,
ca dao tình yêu quê hương đất nước, ca dao về sản xuất lao động, ca dao sản vật thiên
nhiên, nhưng không thể bỏ qua mảng đề tài “Tình yêu đôi lứa trong ca dao Đồng
bằng sông Cửu Long”. Từ xưa đến nay tình yêu luôn là một đề tài vô tận của văn
chương, các nhà thơ nổi tiếng viết về tình yêu như: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên, Xuân Quỳnh, Nguyễn Bính... tùy vào mỗi phong cách mà nhà thơ
có cách cảm nhận về tình yêu khác nhau, trong bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính
có hai câu thơ, mang nỗi niềm cảm xúc của một người đang yêu, nhớ nhung đến phát
bệnh:
“Nắng mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Xuân Diệu thốt lên rằng:
“ Làm sao sống được mà không yêu,
Không nhớ không thương một kẻ nào”.
Đó là cách cảm nhận về tình yêu trong thơ ca có một sự mạnh mẽ, dám thổ lộ hết
cảm xúc của mình, đến với “Tình yêu lứa đôi trong ca dao Đồng bằng sông Cửu
Long” không hoa mĩ trau chuốt mà thể hiện một cách rất là bình dị mộc mạc, dễ hiểu,
rất thật với cuộc sống và gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày, chàng trai yêu mà
chẳng dám thổ lộ tình cảm , nhếnh nhác bằng hành động ngắt cọng ngò:
“Đưa tay anh ngắt cọng ngò,
Thương em đứt ruột giả đò ngó lơ”.
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất thấp, kênh rạch chằng chịt, dòng sông là vẻ
đẹp của thiên nhiên tạo hóa, cho nên ta có thể dễ dàng bắt gặp hình ảnh những cây
cầu khỉ bắc ngang những con sông nhỏ, những con đò đưa khách sang sông, bến
nước...đó là những hình ảnh quá quen thuộc, rất là gần gũi với người dân miệt sông
nước, chính vì điều kiện tự nhiên không thuận lợi nên tạo thành một khoảng cách cho
các cuộc gặp gỡ của các đôi nam nữ đang yêu nhau. Hình ảnh cây cầu đã được phổ


nhạc, nếu đã là người dân miệt sông nước thì chắc hẳn ai cũng đã nghe qua bài hát
“Cây cầu dừa ”rất nổi tiếng do nhạc sĩ Hàn Châu sáng tác, đó là hình ảnh của một cô
gái xa quê đã lâu, nhưng về quê lại không đi qua được cầu dừa, đó là một hình ảnh rất
thực nhưng lại ngộ nghĩnh và đáng yêu. Không chỉ dừng lại ở đó cây cầu đã đi vào
trong “ ca dao tình yêu”, bằng sự mời mộc chân thành của chàng trai:
“Bắc cầu cho kiến leo qua,
Cho ai bên ấy sang nhà tôi chơi”.
Để tìm hiểu con người và tình cảm gắn bó chân thành của con người Đồng bằng
sông Cửu long. Nơi tôi được sinh ra và lớn lên và là vùng đất hoang sơ, huyền bí
“muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh tựa bánh canh” là mảnh đất được hình thành sau
nhất của bản đồ Việt Nam. Là nơi tạo nên tình yêu của những chàng trai hiền lành


chất phác, thiệt thà đáng yêu, bên cạnh đó với những cô gái tuổi mới trăng tròn, đang
độ tuổi biết yêu , e thẹn, nụ cười hồn nhiên, mang chút gì đó dễ thương của người
miền Tây. Các anh chàng cô gái cũng rất mạnh mẽ và táo bạo trong tình yêu. Vì thế
tôi muốn đi sâu tìm hiểu mảng đề tài “ Tình yêu đôi lứa trong ca dao Đồng bằng sông
Cửu Long” người dân vùng sông nước đã góp nhặt những tiếng nói ân tình cho tâm
hồn người Việt bằng những hình ảnh quen thuộc mang tính biểu trưng của vùng đất
được mệnh danh là “ Chín Rồng”.

2. Lịch sử vấn đề
Ca dao là kho tàng qúi giá về tinh thần của người Việt Nam. Bởi thế ca dao luôn là
đề tài đối các nhà nghiên cứu văn học dân gian nói riêng và những người đam mê văn
học nói chung.
Lịch sử vấn đề nghiên cứu về ca dao nói chung là vấn đề được nhiều người quan
tâm tìm hiểu. Sau đây là một số công trình nghiên cứu:
Năm 1986, Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh có công trình Ca
dao – dân ca Nam Bộ bài viết đã thể hiện đặc điểm cũng như tính chất của ca dao
Nam Bộ là luôn gắn liền với quê hương đất nước, lao động sản xuất tình duyên gia

đình hay là bằng hữu bằng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc: “Trong văn học
dân gian có một bộ phận sáng tác bằng thể thơ dân tộc kết hợp chặt chẽ với các làng
điệu âm nhạc, để diễn đạt các khía cạnh khác nhau trong cảm nghĩ con người về quê
hương đất nước, lao động sản xuất, tình duyên, gia đình quan hệ bằng hữu các vấn
đề xã hội đó là một bộ phận của Ca dao - dân ca Nam Bộ [1;19]
Năm 1992, Nguyễn Xuân Kính có công trình Thi pháp ca dao. Bài viết này, tác giả
đã phân tích đầy đủ các yếu tố thi pháp của ca dao như ngôn ngữ, thể thơ, kết cấu,
thời gian và không gian nghệ thuật… đã cho ta cái nhìn đầy đủ và cụ thể hơn về nghệ
thuật trong ca dao Việt Nam cũng như sự khác biệt cơ bản của loại hình văn học dân
gian với các loại hình văn học khác: “Xét về mặt thi pháp bên cạnh những đặc điểm
giống thơ của các tác giả thuộc dòng văn viết, ca dao có những đặc điểm riêng biệt.
Ngôn ngữ ca dao là sự kết hợp giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ đời thường, về thể thơ
95% ca dao cổ truyền được sáng tác theo thể lục bát, thời gian nghệ thuật trong ca
dao là thời gian hiện tại, diễn xướng, không gian nghệ thuật chủ yếu là không gian
trần thế, đời thường, bình dị”[3;289]
Năm 2007, Bích Hằng có công trình nghiên cứu Ca dao Việt Nam trong đó có
nhận định “ Ca dao Việt Nam là viên ngọc qúy luôn tỏ sáng trong kho tàng văn hohjc
dân gian việt Nam. Với ngôn ngữ tinh tế, sinh động, duyên dáng, giàu hình tượng và
đày chất thơ, ca dao luôn đi vào lòng người, được người người thuộc nhớ, trau chuốt
và truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác”[3;5]
Nghiên cứu về ca dao nói chung có rất nhiều công trình như đã nêu trên. Riêng về
tình yêu lứa đôi trong ca dao Đồng bằng sông cửu Long thì có công trình nghiên cứu:
Năm 1997, Chu Xuân Diên có công trình Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu
Long bài viết này tác giả đã bao quát tương đối đầy đủ các loại chính của văn học dân
gian Đồng bằng sông Cửu Long như truyện địa danh và các sản vật địa phương,
truyện loài vật, truyện liên quan đến lịch sử và văn hóa, ca dao - dân ca… Nó cho ta
biết thực trạng tồn tại của văn học dân gian trong nhân dân thuộc một vùng được xác


định cả về không gian và thời gian: “Vùng văn học dân gian đã được biết đến cuối

thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX qua các tài liệu sách báo. Từ sau thế kỉ XX đặc biệt là những
thập niên gần đây đã làm phong phú rất nhiều những hiểu biết về văn học dân gian
này”[4;3]
Đối với đề tài “ Tình yêu đôi lứa” tôi muốn hướng người đọc đến với cái nhìn rộng
hơn, đa chiều về con người và vùng đất Đồng bằng sông Cửu Long.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài, chúng tôi hướng đến mục đích sau: khám phá, thể hiện, nét đẹp
về tình yêu lứa đôi trong ca dao Đồng bằng.
Chỉ ra được nét đặc sắc về nghệ thuật thể hiện tình yêu đôi lứa trong ca dao Đồng
bằng sông Cửu Long.
Làm rõ nét riêng của ca dao Đồng bằng sông Cửu Long khi viết về tình yêu lứa
đôi.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: nội dung ca dao rất phong phú đa dạng nhưng do yêu cầu
của đề tài người viết chỉ tìm hiểu “Tình yêu lứa đôi trong ca dao”.
Phạm vi nghiên cứu: những bài ca dao viết về tình yêu trong cuốn văn học nhân
gian Đồng bằng sông Cửu Long của khoa Ngữ Văn Trường Đại học Cần Thơ.

5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp khảo sát: khảo sát các bài có liên quan đến đề tài.
Phương pháp thu thập và xử lí tài liệu: tìm kiếm các tài liệu có liên quan đến đề
tài.
Phương pháp phân tích: phân tích rõ những vấn đề trong ca dao.
Phương pháp bình giảng: làm sáng tỏ kết hợp với đánh giá các bài ca dao, nhằm
mục đích chỉ ra cái hay cái đẹp trong ca dao.
Ngoài ra người viết còn kết hợp thêm các thao tác: chứng minh, giải thích, so
sánh, bình luận…



Chương 1
VÀI NÉT VỀ VÙNG ĐẤT CON NGƯỜI
VÀ CA DAO ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
1.1 Vài nét về vùng đất và con người Đồng bằng sông Cửu Long
1.1.1 Vùng đất Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
Đồng bằng sông Cửu Long nằm ở hạ nguồn của lưu vực sông Mê Kông có diện
tích khoảng bốn mươi ngàn ki lô mét vuông. Thời kì Pháp thuộc bị chia làm sáu tỉnh hay
còn gọi là: lục tỉnh Nam Kì (Vĩnh Long, Hà Tiên, An Giang, Gia Định, Định Tường và
Biên Hòa). Ngày nay nước ta phân chia lại địa giới hành chính nên chia thành mười ba
tỉnh gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Cần Thơ,
Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau.
ĐBSCL là một trong những đồng bằng lớn của cả nước, ruộng đất phì nhiêu, là
nguồn sản xuất và xuất khẩu lương thực lớn thứ hai (sau Đồng bằng sông Hồng), vùng
đất này thấp, trũng và tương đối bằng phẳng, khí hậu nhiệt đới gió mùa mát mẻ, nắng
sáng mưa chiều, khí hậu điều hòa, quanh năm có hai mùa mưa nóng và lạnh rõ rệt thích
hợp cho sản xuất nông nghiệp lúa nước.
Thiên nhiên ĐBSCL mang nhiều sắc thái độc đáo rất dễ phân biệt với các vùng đất
khác, ta có thể dễ dàng bắt gặp hình ảnh những con kênh, rạch đan xen vào nhau, uốn
quanh những vườn trái cây trĩu quả, sum sê. Dưới bầu trời xanh những đàn cò trắng bay
thẳng cánh ngoài những cánh đồng mênh mông bát ngát chạy hút mắt người, ở đây bốn
mùa đông vui như đô thị trên bến dưới thuyền, tạo cho cảnh vật nơi đây thật là hữu tình.
Cảnh vật nơi đây thật độc đáo đã tác động trực tiếp vào tâm tư, tình cảm của những người
mới lại đây khai hoang, tạo nên một mảng ca dao đặc sắc:
“Chiều chiều én liệng trên trời,
Rùa bò dưới đất khỉ ngồi trên cây”.
Do nằm ở hạ nguồn của lưu vực sông Mê Kông hằng năm đến mùa con nước lên
tháng chín, tháng mười đổ về hạ nguồn mang theo một lượng phù sa màu mỡ bồi tụ cho
những cánh đồng, con sông. Các loài thủy sản (cá, tôm...) cũng theo con nước về để tìm
kiếm thức ăn, mang lại một nguồn lợi nhuận lớn cho những người dân quanh năm lênh
đênh trên sông nước mỗi khi con nước lớn lũ về.

Nói đến đến ĐBSCL là nói đến một thực tại lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ nói
chung và ĐBSCL nói riêng:
“Tới đây xứ sở lạ lùng,
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê”.
Vào thế kỉ XVI, miền hạ lưu sông Cửu Long còn gọi là một vùng bị bỏ rơi, dân
cư thưa thớt, phần lớn diện tích là bùn lầy ẩm thấp, khí hậu khắc nghiệt, muỗi mòng
nhiều, chim, rắn, cá sinh sôi nảy nở, cỏ dại, lau sậy um tùm, trông rất ghê tợn. Mùa mưa
nước chảy mạnh những cơn lụt thường xuyên làm sạt lở bờ cõi, có cù lao thì sụp xuống
mất dạng nhưng những nơi khác thì cồn nhỏ lại nổi lên...


Sang thế kỉ thứ XVII, XVIII, ĐBSCL bắt đầu được người Việt và các dân tộc di
cư, dưới sự lãnh đạo của triều đình phong kiến (các chúa Nguyễn) đã chính thức khai
khẩn vùng đất ĐBSCL. Trong quá trình khai thác các vua triều Nguyễn cho cho đào
nhiều kinh rạch để thuận tiện cho việc giao thông đi lại, thuận tiện cho phát triển kinh tế.
Đến năm 1858 thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên chiếm bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng)
tiến hành thôn tính nước ta, từ đây chúng tiến hành khai thác triệt để vùng đất này nhằm
để trục lợi từ nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào phong phú.
Mặc dù được hình thành sau nhất của bản đồ Việt Nam. Có lẽ do thiên nhiên ưu
đãi nên vùng đất này cá, tôm... nhiều vô số kể, người dân có thể dùng những dụng cụ thô
sơ như: lưới, gọ, chài, câu... để đánh bắt thủy sản, chỉ cần bỏ ra chút thời gian là có thể
bắt được nhiều cá, tôm về nhà làm một bữa ăn thịnh soạn cho cả gia đình, hoặc nhiều quá
có thể đem đi bán kiếm thêm thu nhập. Về với vùng đất Tháp Mười ta có thể cảm nhận
được sự phong phú, đa dạng:
“Đồng Tháp Muời cò bay thẳng cánh,
Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm”.
Không dừng lại ở đó, dưới nước thì cá tôm thi nhau bơi lội để đi tìm kiếm thức ăn,
trên bầu trời thì những đàn chim cũng vội vã đi tìm mồi khi mặt trời vừa hé nắng, những
vườn cây trái trĩu quả mỗi khi đến mùa. Đặc biệt mỗi vùng có một loại trái cây đặc sản
đem lại thương hiệu nổi tiếng cho vùng như: cam Long Tuyền, quýt Cái Bè (Tiền

Giang ), măng cụt Cái Mơn ( Bến Tre), công việc làm vườn rất gian nan cực khổ, muốn
trồng được một cây cho đến khi ra quả, người nông dân phải bỏ ra rất nhiều tâm huyết, từ
giai đoạn chiết cành, ươm hạt giống, rồi mới đem trồng, chăm nom kĩ càng, tùy theo mỗi
loài cây mà thời gian cho trái mau hay chậm, thông thường là khoảng bốn đến năm năm
là cây cho trái. Dù cực khổ nhưng họ vui vì họ đã tạo nên một đặc sản riêng, mỗi người
khi thưởng thức thì không quên được vùng đất đã tạo ra loại trái cây đó:
“Quýt Cái Bè nổi tiếng ngọt ngây,
Ai ăn vào nhớ mãi miền Tây”
Điều kiện địa lí và lịch sử đã làm cho vùng đất ĐBSCL có những nét đáng lưu ý
về văn hóa, đây là nơi cư trú của các dân tộc như: Kinh, Hoa, Khmer, Chăm. Số dân gần
14,2 triệu người (1995) chiếm khoảng 24% tổng dân số cả nước. Khoảng 8% là người
dân tộc: Khmer (khoảng 850.000 người), Hoa (khoảng 234.000 người),
Chăm( khoảng10.000 người). Dân tộc Kinh chiếm đa số. Biểu hiện dễ thấy là họ cùng sử
dung song ngữ, đa ngữ, nhưng tiếng Việt vẫn là tiếng nói phổ biến, sự ảnh hưởng qua lại
còn thể hiện ở nhiều phương diện khác như ăn mặc, xây cất nhà cửa, lễ hội. Người Việt
sử dụng món canh chua trong bữa cơm là quá trình học hỏi từ dân tộc Khmer, phá lấu của
người Hoa, bún mắm của người Miên, cà ri của người Ấn... coi ngày tốt để dựng nhà,
dựng vợ gả chồng là quá trình học hỏi từ dân tộc Hoa, ngoài ra còn có các lễ hội cổ
truyền như lễ hội “Ooc om bok” của dân tộc Khmer, Tết cổ truyền của dân tộc Hoa và
Kinh, ảnh hưởng trong tiếng nói của người Việt, chẳng hạn như các từ lì xì, xính xái, xí
muội xuất phát từ tiếng Hoa, cà ràng (bếp nấu cơm), cà ròn, xà quần, mình ên, hoặc một
số từ địa danh như: Chắc cà đao (Prek Pơđao, rạch có cây mọc sừng). Chiếc phảng, chiếc
nóp trở thành thân thiết với người dân đồng bằng. Ngược lại chiếc áo bà ba của người
Việt trở nên gần gũi hơn với các dân tộc. Về phương diện văn học có một số nét gặp gỡ


giữa truyện dân gian Việt và Khmer, hiện tượng truyện Tàu, truyện Tàu phổ biến trong
giải trí văn nghệ ở Đồng bằng sông Cửu Long là điều dễ hiểu.
Các dân tộc cùng chung sống đoàn kết, mỗi dân tộc có một sắc thái riêng, tạo cho
nền văn hóa ĐBSCL đa dạng trong sự thống nhất chung của văn hóa Việt Nam.

1.1.2. Con người Đồng bằng sông Cửu |Long
Tính cách của người dân ĐBSCL nói riêng và Nam Bộ nói chung có những nét
tương đồng và được quan tâm. Người dân ĐBSCL tất nhiên phải mang những đặc điểm
tính cách Nam Bộ. Đó là tính năng động sáng tạo, tình yêu nước nồng nàn, hào phóng
hiếu khách, trọng nhân nghĩa, bộc trực thẳng thắn
Tính năng động sáng tạo: tính cách này thể hiện khá rõ ở nhiều khía cạnh khác
nhau, thích nghi với vùng đất mới, các yếu tố văn hóa vật chất và tinh thần cũng được cải
biến để hòa hợp với vùng đất mới. Chính vì điều này đã tạo cho người dân ĐBSCL có
những nét tương đối độc đáo so với các vùng miền khác. Sống giữa sông ngòi kênh rạch
chằng chịt, từ bao đời nay con người đã gắn bó với sông gạch trong các sinh hoạt thường
ngày của mình. Con người nơi đây đã sáng tạo ra vô số những từ ngữ có liên quan đến
sông nước. Họ mượn hình ảnh của những con đò, bến sông, dòng nước... để diễn đạt tình
cảm của mình:
“Nước rong nước chảy tràn đồng,
Tơ duyên sẵn có chỉ hồng chưa se”.
Là vùng đất kênh rạch chằng chịt nên cá nhiều vô số kể “ cá nổi đầu như mù u
chín rụng ” nói đến ĐBSCL thì phải nói đến vùng đất Cà Mau:
“U Minh, Rạch Giá thị quá sơn trường,
Dưới sông sấu lội trên rừng cọp đua”.
Trong buổi đầu khai phá đâu có những phương tiện công cụ hiện đại như: rà điện,
chài điện... mà người dân phải tự tay mình làm ra những công cụ thô sơ để đánh bắt thủy
sản và chế biến thủy sản. Việc này được thực hiện khi thiên nhiên đa dạng và phong phú,
người dân tự chế ra các phương tiện bắt đại trà, vô con nào bắt sạch con đó như: hàng
đãy, xây nò gọ, đặt lộp, lú, giăng lưới, nơm tre, câu giăng, kéo lưới... rất nhiều các công
cụ mà người dân tạo ra để bắt được cá, ngoài ra họ còn sáng tạo ra ra các dụng cụ đánh
bắt chủng loại tức là để đánh bắt một loài thủy sản duy nhất như: họ dùng ống tre bịt hai
đầu lại và dùng tre trẻ nhỏ để đan thành hom còn gọi là trúm ( bắt lươn ), hay là dùng trễ
( bắt tôm), câu (các loại cá, cua..) xom (lươn), thụt (bắt lịch)...trong thực tế còn rất nhiều
hình thức để bắt cá hơn nữa, chẳng hạn câu nhấp cá lóc, đơn giản là dùng một cái cần
câu, thường dùng mồi ốc và một con vịt mới nở khoảng năm, sáu ngày sau đó buộc con

vịt vào dây cách lưỡi câu khoảng hai lóng tay, tìm bầy lòng ròng mới nở để nhấp cá lóc,
khi nhấp con vịt phát ra tiếng kêu lúc đó con cá lóc tưởng con vịt sẽ ăn con con của nó sẽ
táp cục mồi gần chân con vịt thế là bắt được con cá lóc. Ngoài ra còn có các loại câu
giăng, rê chài... còn có một loại đánh bắt rất đơn giản người ta hay gọi là “ Tay không
đánh giặc” đó là mò, chỉ dùng hai bàn tay nhưng để bắt được cá đòi hỏi người bắt phải
rất chuyên nghiệp, nhanh tay. Còn đối với động vật rừng thì họ sáng tạo ra các loại bẫy
như: rập đất (bẫy chuột), bẫy heo, giàn ná thung, cũng thể hiện trí thông minh sáng tạo
của con người. Trong truyện dân gian “Bác Ba Phi”, Bác cũng đã ứng dụng sự thông


minh sáng tạo của mình trong truyện “Cọp xay lúa” dùng sức của con cọp để xay lúa
cho cả nhà.
Phải nói rằng vùng đất phương Nam từ khi bắt đầu khai phá và phát triển trải qua
mấy thế kỉ nay vẫn là vùng đất sôi động nhất, những người đặt chân đến đây đều là
những người năng động sáng tạo bất chấp sự khắc nghiệt của thiên nhiên.
Thời hoang sơ người dân thể hiện sự thông minh sáng tạo của mình để đánh bắt
thủy sản, động vật... họ bắt nhiều nhưng không bắt hết, để lại cá nhỏ cho mùa sau, sinh
sôi nảy nở. Nhưng dần theo thời gian xã hội ngày càng phát triển sự sáng tạo của con
người cũng phát triển họ không dùng những công cụ thô sơ để đánh bắt mà thay vào đó là
những dụng cụ đánh bắt cá tự chế tối tân như : rà điện, đẩy te, chài điện, hoặc dùng mìn...
tất cả những sinh vật nhỏ bé, thiên nhiên hoang dã đang bị hủy hoại trong bàn tay của con
người.
Không chỉ năng động sáng tạo mà con người ĐBSCL còn có một tình yêu nước
nồng nàn và thắm thiết, tinh thần yêu nước của người dân đồng bằng thể hiện từ bao đời
nay của các nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
Một tình yêu nước của cụ Nguyễn Trung Trực, khi bị giặc Pháp đem ra xử bắn ông
đã ngang nhiên tuyên bố rằng: “ Khi nào người Nam hết cỏ, mới hết người Nam chống
Tây” câu nói khẳng khái của ông được truyền tụng đến bây giờ.

Ngoài ra còn có các nhà thơ, nhà văn tiêu biểu như: Phan Văn Trị, Bùi Hữu
Nghĩa... những anh hùng như: Nguyễn Việt Hồng, Võ Duy Dương, Hồ Huân
Nghiệp...Những tấm gương đó với sự hi sinh cao cả vì nước quên mình, đã hun đúc một ý
chí, một tấm lòng để tên tuổi của họ còn lưu danh rạng ngời khi nói về vùng đất Nam Bộ
nói chung và ĐBSCL nói riêng
Từ quá khứ hướng đến hiện tại, chúng ta ít khi bắt gặp những hình ảnh của những
người anh hùng cầm súng đánh giặc để bảo vệ non sông đất nước mà tình yêu nước của
họ thể hiện bằng tình yêu quê hương xứ sở, yêu ruộng đồng, con đò...về vùng đất Cần
Thơ ta có thể cảm nhận được sự tinh khiết, trong trắng của vùng đất này:
“ Cần Thơ gạo trắng nước trong,
Ai đi đến đó lòng không muốn về”.
Do nặng tình với quê hương nên những gì thuộc về quê hương đất nước, địa danh
là hùng vĩ, anh hùng Trương Định được người dân nhớ mãi trong lòng
“Gò Công anh dũng tuyệt vời,
Ông Trương đám lá tối trời đánh Tây”.
Từ trong lao động và kết quả lao động, người ta có thể hân hoan tự hào, cất cao
tiếng hát tự hào về vẻ đẹp trù phú của quê hương mình:
“Ai đi Châu Đốc, Nam Vang,
Ghé qua Đồng Tháp bạt ngàn bông sen”.
Tình yêu quê hương, yêu lao động... đã giúp họ vượt những vất vả của cuộc sống
cơ cực với tinh thần lạc quan. Ngày nào lao động trên ruộng đồng, buôn bán trên
sông...nhưng họ vẫn ca hát đối đáp, tình quê mộc mạc nhưng rất thấm đậm nghĩa tình:


“Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi,
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê”.
Hào phóng và hiếu khách: đây là một nét đặc trưng của người dân ĐBSCL. Có lẽ
thiên nhiên hào phóng nên con người nơi đây cũng rất hào phóng trong việc tiêu xài tiền
bạc, họ tiêu xài không tiết kiệm “làm bao nhiêu ăn hết nhiêu” hay chuyện “ngày mai để
mai lo” hoặc “xài xả láng sáng về sớm” .Trong tất cả các mối quan hệ diễn ra trong cuộc

sống hàng ngày, tính cách này luôn được bộc lộ một cách rõ ràng, sinh động, chẳng hạn
như sự mời mộc của một người về Đồng Tháp chơi và thưởng thức, chia sẻ những món
ăn đồng quê như món bông súng chấm với nước cá kho, hoặc món canh chua cá linh nấu
với bông điên điển:
“Muốn ăn bông súng cá kho,
Thì về Đồng Tháp ăn cho đã thèm”.
hay:
“Canh chua điên điển cá linh,
Ăn chỉ một mình thì chẳng biết ngon”.
Trong tính cách ăn uống của người dân đồng bằng là “Thảo ăn” gặp bữa là mời
thật, chứ không mời lơi, mời cho có lệ, có khi mời không ăn, còn giận bị xem là khinh
thường, ăn một tí cũng làm cho gia chủ vui lòng, hoặc đang nhậu mà có người quen đi
ngang rủ vô làm vài ly, lai rai “Vào ba ra bảy” đó là cách đặt của những người sành nhậu
đặt ra, mới vào thì uống liên tục ba cái, còn nhà có việc bận, hay chuyện gì đó phải uống
bảy ly mới được phép về, đó là nét riêng và độc đáo. Cách ăn uống của họ không cầu kì
có gì ăn nấy, không tính toán chi li, đặc biệt là tính hiếu khách “Bạn đến nhà không gà
thì vịt” không có gà có vịt thì đãi bằng món dân giã khác như cá lóc nướng trui, uống với
rượu, miễn sao “Vừa lòng khách đến, đặng lòng khách đi”.
“Bắt con cá lóc nướng trui,
Làm mâm rượu trắng đãi người bạn xa”.
Hiếu khách còn thể hiện qua tình hàng xóm láng giềng “bán anh em xa mua láng
giềng gần” những buổi lễ tiệc như: đám giỗ, đám cưới, đám hỏi, tân gia, thôi nôi, đầy
tháng... họ đều mời mọc hàng xóm với sự chân thành, thắm thiết, họ đến chia vui với
nhau cũng vì cái nghĩa cái tình, vì lòng hiếu khách của gia chủ.
Cũng chính vì yếu tố tâm lí này mà người dân vùng sông nước được mọi người
cho rằng: họ có tính hào phóng, hiếu khách, trọng tình nghĩa. Trọng nhân nghĩa là một
đức tính tốt đẹp của con người ĐBSCL, hàng xóm đôi khi xảy ra mâu thuẫn, nhưng họ
không để bụng những chuyện nhỏ, mỗi khi có chuyện cần giúp họ liền sẵn sàng giúp đỡ
nhiệt tình. Lục Vân Tiên khi cứu Kiều Nguyệt Nga thoát khỏi bọn Phong Lai“ Làm
người há dễ trông người trả ơn”, đức tính trọng nghĩa khinh tài là một đức tính cao cả

mà mỗi con người vùng đất này luôn hướng đến:
“Ngọc lành ai nỡ bán rao,
Chờ người quân tử em giao nghĩa tình”
hay:
“Lòng qua như sắt, nói chắc một lời,
Bạc tiền chẳng trọng chỉ trọng người tình chung”.


Đất rộng người thưa nếu không có tinh thần trọng nghĩa hào hiệp thì con người
khó tồn tại, tính hào hiệp gắn liền với tình yêu thương con người:
“Liều mình vào chốn trông gai,
Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân”.
Người dân sông nước họ rất qúy trọng bạn bè. Bạn bè sa sút, túng quẫn càng qúi
trọng hơn, ghét bọn giàu sang quyền thế, xu nịnh quyền tước, đất lành thì chim đậu, đất
hung dữ chim bay đi, thích nhau rồi thì làm không công, giúp đỡ người nghèo để lấy
tiếng.
Bộc trực thẳng thắn: ít nói chuyện dài dòng, ròng vo tam quốc, rào trước đón sau,
cũng vì cái tính thật thà mà người dân nơi đây bị bọn thống trị lợi dụng, trải qua mấy thế
kỉ nay tính cách ấy vẫn đứng vững như kiềng ba chân, vẫn không thay đổi, tính mộc mạc,
thẳng thắn ấy, thường được nhắc đến nhiều trong ca dao:
“Có thương thì thương cho chắc
Bằng trục trặc thì trục trặc luôn
Đừng theo cái thói ghe buôn
Khi vui thì ở, khi buồn thì đi”.
hay:
“Bên dưới có sông bên trên có chợ,
Hai đứa mình kết nghĩa vợ chồng nghen”
“Anh thương em thì thương cho trót
Anh không bỏ sót cái nghĩa chung tình
Anh thương em thì em để dạ

Chứ gái đa tình chắc em chẳng thương anh”.
Tính bộc trực thẳng thắn còn thể hiện trong lời ăn tiếng nói hằng ngày. Gặp
chuyện bất bình không vừa ý thì nói ngay không cần suy nghĩ, cũng chẳng sợ ai giận, nói
ra như đinh đóng cột, một là một, hai là hai. Sai thì nhận mình sai, dám làm dám nhận đó
là một đức tính tốt mà mỗi người nơi đây ai cũng có.
Lịch sử dù có thăng trầm đến đâu nhưng dù thế nào đi nữa tính cách con người Đồng
bằng sông Cửu Long vẫn thế, một tình yêu quê hương đất nước nồng nàn, tính tình hào
phóng, giữ chữ tín, đặt việc nhân nghĩa làm đầu.
1.2. Vài nét về ca dao Đồng bằng sông Cửu Long
1.2.1. Khái niệm
Trong “ Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu Long” của Khoa Ngữ Văn Đại
học Cần Thơ có quan niệm: “Văn học dân gian Đồng bằng sông Cửu Long là văn học
dân gian được sưu tầm ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là những sáng tác nghệ thuật
truyền miệng được lưu truyền ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Nghĩa là nó có thể
được dân nhân sáng tác trong suốt mấy thế kỉ qua trên vùng đất mới, song nó còn là
“Vốn văn hóa cổ truyền” được cất giữ trong trí nhớ của những người đi mở cõi từ các
địa phương khác tụ họp về đây. Nói đơn giản hơn, đó là những tác phẩm truyền miệng
được sưu tầm, ghi chép từ chính những người hiện đang sinh sống trong vùng đọc lại.
[4;9]


1.2.2. Đặc điểm ca dao Đồng bằng sông Cửu Long
Đặc điểm ca dao về phần hình thức vừa vần, lại vừa thanh toát, không gò ép lại
giản dị và tươi tắn. Nghe như lời nói thường mà nhẹ nhàng, gọn gàng mà lại chải chuốt,
miêu tả về tình cảnh sâu đậm, sâu sắc của tình yêu đôi lứa. Có thể nói tả cảnh, tả tình
không một hình thức văn chương nào có thể so sánh được với ca dao.
Về nội dung ca dao - dân ca Đồng bằng sông Cửu Long có những nét riêng so với
ca dao - dân ca Bắc Bộ. Ca dao - dân ca ở đây ghi lại một khung cảnh thiên nhiên hoang
sơ nhưng giàu có sản vật luôn ưu đãi con người. Điều đáng lưu ý là thiên nhiên có một
lực hút cực mạnh đối với tất cả các thể loại văn học dân gian ĐBSCL đặc biệt là đối với

ca dao dân ca. Thiên nhiên vừa là đối tượng phản ánh vừa là đối tượng nghệ thuật trong
ca dao:
“Cà Mau khỉ khọt trên bưng,
Muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh tựa bánh canh”.
Thể hiện tính cách Nam Bộ, ca dao - dân ca ĐBSCL có một nét riêng biệt trong
nội dung so với thể loại này ở vùng khác. Tính Nam Bộ được hình thành từ hoàn cảnh
lịch sử, địa lí, văn hóa Nam Bộ. Tính cách này được thể hiện qua nếp sống nhận thức và
thể hiện bằng ca dao - dân ca.
Ngôn ngữ ca dao ĐBSCL mang đậm tính ngôn ngữ dân tộc. Nhờ biết dựa vào
ngôn ngữ dân tộc, khai thác ngôn ngữ dân tộc mà ca dao - dân ca ĐBSCL rất giàu bản
sắc. Ngôn ngữ ca dao vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa mang sắc thái địa phương, ca dao
ngôn ngữ Bắc Bộ thì nhẹ nhàng tình tứ:
“Người về em chẳng cho về
Em nâng vạt áo em đề câu thơ”.
Ca dao ĐBSCL thì bộc lộ một cách bộc trực rõ ràng dứt khoát:
“Anh về em nắm vạt áo anh la làng
Anh bỏ chữ thương chữ nhớ giữa đàng cho em”.
Về ngôn ngữ, ca dao - dân ca ĐBSCL có sử dụng từ Hán Việt và điển tích. Những
bài hát có từ ngữ Hán Việt là “ hò văn”, bài hát có điển tích gọi là “hò truyện” .
Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật dễ nhận thấy của ca dao ĐBSCL là hình ảnh mang
đậm màu sắc vùng sông nước. Bên những con sông điển tích như sông Ngân, sông
Tương, còn có những con sông tượng trưng như sông Giang Hà, cụ thể như sông Tam
Giang, sông Vàm cỏ...Trên sông nước có ghe xuồng những hình ảnh này được đưa vào
trong ca dao:
“Con ơi đừng khóc má rầu,
Bữa mai mốt ghe bầu tới nơi”.
hay:
“Anh tưởng giếng sâu anh nối sợi dây cụt
Ai dè giếng cạn nó hụt cái sợi dây
Qua tới đây không cưới được cô hai mày

Qua chèo ghe ra biển đợi nước đầy qua chèo ghe chở vô”
Nếu thân phận người phụ nữ Bắc Bộ thường được ví như: hạt mưa sa, tấm lụa đào
như một loại hàng hóa:


“Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài cát, hạt ra ruộng cày”
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?”.
Người phụ nữ ở ĐBSCL được ví như trái bần trôi:
“Thân em như trái bần trôi
Sóng dập gió dìu biết tấp vào đâu”.
Bên cạnh hình ảnh sông nước, ca dao - dân ca ĐBSCL còn gây được cảm xúc nhờ
vào những hình ảnh gắn liền với miệt vườn: bần, mù u...
“Mù u bông trắng
Lá quấn nhụy huỳnh”.
Bên cạnh hệ thống nhóm chữ mở đầu truyền thống của ca dao - dân ca cả nước
như: ai, thân em, anh về, ta- mình, mình- ta... ca dao - dân ca ĐBSCL còn dùng hệ thống
nhóm chữ mở đầu riêng như: nước rong, hai đứa mình, qua, bậu... và hệ thống câu mở
đầu riêng như: Ba phen quạ nói với diều...
Ca dao – dân ca ĐBSCL sử dụng hết các loại thể thơ truyền thống nói chung và
thiên về thơ biến thể, thể thơ tổng hợp. Thể thơ tổng hợp đó là sự kết hợp của nhiều thể
thơ khác nhau như: thể vãn kết thúc bằng bằng tám chữ:
“Gió bấc hiu hiu
Sến kêu thì rét”.
Câu lục bát:
“Nội trong lục tỉnh Nam Kì
Thấy em ăn nói nhu mì anh thương”.
Cùng với thể loại văn vần, văn xuôi, với những nét riêng cho ta thấy một vùng văn
học đã và đang tồn tại.

Tóm lại, ĐBSCL nói riêng và Nam Bộ nói chung là vùng đất mà người Việt tham
gia khai phá từ thế kỉ XVII trở lại đây. Lịch sử khai phá ba trăm năm khiến nó được xem
là vùng đất mới so với mấy nghìn năm tồn tại của đất nước Việt Nam. Con người nơi đây
mang trong mình truyền thống văn hóa dân tộc, đồng thời, hoàn cảnh lịch sử tự nhiên, xã
hội đặc thù đã góp phần tạo nên những nét riêng trong đời sống tính cách của họ.


Chương 2

NHỮNG CUNG BẬC CẢM XÚC TÌNH YÊU
TRONG CA DAO ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Người nông dân nhờ có lao động mà sản xuất được lương thực, xây dựng được
xóm làng. Họ yêu tha thiết những cái họ đã làm ra, những cái họ xây dựng nên. Có thể
nói trong lao động, tình yêu thường được nảy nở, và nảy nở thắm thiết hơn là tình yêu
nam nữ. Ca dao về tình yêu đôi lứa là nhóm có số lượng bài lớn nhất và cũng có nhiều
bài hay nhất trong kho tàng ca dao được sưu tầm và tuyển chọn. Trong ca dao, tình yêu
đôi lứa được thể hiện ở mọi cung bậc cảm xúc sâu kín, rất đa dạng, tinh tế, chân thật.
2.1. Sự gặp gỡ và lời tỏ tình trong ca dao Đồng bằng sông Cửu Long
2.1.1. Sự gặp gỡ
ĐBSCL là vùng đất kênh, rạch chằng chịt, người dân nơi đây nhận thấy dòng
sông là vẻ đẹp của thiên nhiên tạo hóa, cho nên dòng sông, con đò, bến nước… là những
hình ảnh khá thân thuộc với người dân nơi đây, chính vì điều kiện tự nhiên không thuận
lợi nên tạo thành một khoảng cách cho các đôi nam nữ đang yêu nhau. Cây cầu là hình
ảnh dễ dàng bắt gặp nhất, nó không chỉ là phương tiện cho người dân đi lại, mà nó còn là
nơi gặp gỡ của các chàng trai, cô gái. Cây cầu đã đi vào trong ca dao dân gian và trở
thành một hình ảnh đặc trưng. Câu ca dao sau thể hiện niềm khát vọng được gần gũi, sự
mời mọc chân thành đối với người mình yêu, đặc biệt là họ được gặp gỡ nhau, sau những
ngày xa cách:
“Bắc cầu cho kiến leo qua,
Cho ai bên ấy qua nhà tôi chơi”.

Cây cầu thể hiện niềm yêu thương, trìu mến. Còn cành hồng biểu tượng cho tình
yêu mãnh liệt, sự kiêu sa, chung thủy, cành hồng được ví như vẻ đẹp của người con gái,
hay nói đúng hơn là tấm lòng của chàng trai dành cho cô gái:
“Cô kia cắt cỏ một mình,
Muốn sang anh ngã cành hồng cho sang”.
Nhưng tưởng lâu ngày không gặp, việc trước tiên họ sẽ nói rất nhớ nhau lắm.
Nhưng đôi nam nữ này lại không như vậy, mà thay vào đó là thái độ ân cần, quan tâm,
hỏi han sức khỏe cha mẹ hai bên, thể hiện một phẩm chất đáng quý:
“Anh gặp em vừa mừng vừa hỏi,
Phụ mẫu ở nhà mạnh giỏi hay không?
Tại gia đàng phụ mẫu em cũng được bình an,


Em xin hỏi lại: phụ mẫu của bạn lang thế nào?
Điều ước không bao giờ thành hiện thực, người ta vẫn hay thường nói “Ước mơ
vẫn là mơ ước mà thôi”. Nhưng vì tình yêu mãnh liệt dành cho người yêu, anh chàng ước
một chiếc cầu dải yếm, gần gũi và chân tình, để nàng bước qua chiếc cầu đó để ghé sang
nhà mình chơi:
“Ước gì sông rộng một gang,
Bắc cầu dải yếm cho nàng sang chơi”.
Với mong muốn được lấy người mình yêu, các chàng trai thường sử dụng lối nói
bóng bẩy, với niềm khao khát cháy bỏng trong tình yêu. Lời tỏ tình của chàng trai hình
như lúc nào cũng gắn thêm từ “ước”, ước là mong muốn được và sẽ có được:
“Ước gì anh hóa ra cơi,
Để cho em đựng cau tươi, trầu vàng.
hay:
“Ước gì anh hóa ra gương,
Để cho em cứ ngày thường em soi”.
Tóm lại, gặp gỡ chỉ mới là giai đoạn bắt đầu của tình yêu, lần đầu gặp gỡ luôn
đem lại ấn tượng đẹp trong suy nghĩ của mỗi người.

2.1.2. Lời tỏ tình
ĐBSCL là vùng đất canh tác nông nghiệp là chủ yếu, nam nữ thường gặp nhau
trong công việc. Quanh năm tay lấm, chân bùn, cuộc sống cực khổ mệt nhọc, nên khi thổ
lộ tình cảm, lời tỏ tình của họ cũng gắn liền với cảnh lao động. Lời tỏ tình của chàng trai
thật hồn nhiên, ngộ nghĩnh:
“ Cô kia đi đường này với ta
Trồng đậu, đậu tốt; trồng cà, cà sai,
Cô kia đi đường này với ai,
Trồng bông, bông héo, trồng khoai, khoai hà”.
hay:
“Cô kia cắt cỏ một mình
Cho anh cắt với chung tình làm đôi,
Cô còn cắt nữa hay thôi
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng”.
Chàng trai này tỏ tình thì lại giàu tính dí dỏm, hài hước, thể hiện tinh thần lạc
quan. Tuy nói dí dỏm, hài hước nhưng không phải là cách nói chơi, mà đó là một lời tỏ
tình có ngụ ý, chân tình:
“Bên dưới có sông, bên trên có chợ,
Hai đứa mình kết nghĩa vợ chồng nghen”.
Tự nhiên không biết gì về nhau, chỉ mượn hình ảnh sông với chợ rồi đòi kết nghĩa
vợ chồng, cô gái này cũng e dè, sinh nghi, nhưng cũng có chút niềm tin dành cho chàng
trai:
“Anh thương em, nói thiệt em nhờ,
Anh đừng nói gạt em chờ hết duyên”.


Bằng tình yêu chân thật của mình, chàng trai liên tục khen ngợi cô gái hết lời, thể
hiện sự quyết tâm và chứng minh tình yêu của mình là chân thật không giả dối và mong
sao cô gái có thể chấp nhận tình cảm:
“Anh là trai út trong nhà,

Anh đi kén vợ đằng xa quê người,
Thấy em đẹp nói, miệng cười,
Đẹp người, đẹp nết, lại tươi răng vàng,
Vậy nên anh mới gởi thơ sang”.
Anh đây quyết lấy được nàng mới thôi”.
hay:
“Bông cúc ngả ngang con bướm vàng nhân nhụy,
Thấy miệng em cười hữu ý anh thương”.
Nhưng cô gái này cũng chưa chịu tin, và quyết thử lòng chàng trai thêm một lần
nữa:
“Anh đừng môi miếng, miếng môi,
Ở đây anh nói vậy chớ có đôi ở nhà”
Và cũng tự tin về bản thân mình, không chỉ có mình chàng trai để ý mà còn có
nhiều người để ý, thương nhớ cô gái:
“Anh ơi nắng mới, sợ buổi trưa chiều,
Phận em là gái, cũng nhiều người thương”.
Cô gái này cũng có chút hài hước, để chọc ghẹo lại chàng trai, biểu chàng phải tìm
được con cá trê phải có vảy, con tép phải có gan…những thứ mà ngược với quy luật của
tự nhiên, tạo hóa thì mới chịu theo làm vợ chàng:
“Anh về kiếm vảy con cá trê vàng,
Kiếm gan con tép bạc thì nàng theo không.
Em về tìm vú con công,
Tìm đuôi con cóc mới hòng theo anh”.
Biết là không thể nào tìm được những thứ mà nàng yêu cầu. Nhưng để chứng
minh tình cảm của mình, chàng trai lại tỏ tình theo cách khác. Anh rất khôn khéo ở chỗ
đã dùng hình ảnh sợi dây tơ hồng để tỏ tình, nghe theo lí thì cô gái này khó mà có thể từ
chối tình cảm thêm một lần nữa. Dây tơ hồng là một vật quan trọng tượng trưng cho tình
nghĩa vợ chồng, lời tỏ tình như một lời cầu hôn mà chàng trai muốn gởi đến cô gái,
nhưng cũng hết lời khên ngợi cô gái thêm một lần nữa:
“Cổ tay em vừa trắng lại vừa tròn

Mó vào mát lạnh như hòn tuyết đông
Đôi ta xứng vợ xứng chồng
Duyên trời đã định tơ hồng đã xe”.
Và lần này cô gái chấp nhận tình cảm của chàng, nhưng nàng cũng sẵn sàng vứt
bỏ đi nếu chàng không thật lòng:
“Anh thương em thì thương cho chắc,
Bằng trục trặc thì trục trặc luôn,
Đừng như con thỏ nọ đứng ở đầu truông


Khi vui giỡn bóng, khi buồn giỡn trăng”.
hay:
“Anh thương em thì thương cho trót
Anh không bỏ sót cái nghĩa chung tình”.
Là con trai khi thích một cô nàng nào đó và chủ động tỏ tình trước là chuyện bình
thường. Nhưng cô gái này lại tỏ tình với chàng trai trước, điều này chứng tỏ rằng các cô
gái đồng bằng ĐBSCL không e thẹn như các cô gái Bắc Bộ mà họ có cá tính rất mạnh
mẽ, hồn nhiên, lanh lợi:
“Anh kia gánh lúa một mình,
Cho em gánh với hai mình cho vui,
Anh còn gánh nữa hay thôi,
Cho em gánh với làm đôi bạn tình”.
Trong ca dao Bắc Bộ chiếc áo là vật làm tin để thộ lộ tình cảm đôi lứa yêu nhau:
“Hôm qua tát nước đầu đình,
Để quên chiếc áo trên cành hoa sen”.
hay:
“Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối mẹ, qua cầu gió bay”
Đối với ca dao ĐBSCL chiếc áo cũng là vật để làm tin và cũng là vật để chàng trai
tỏ tình:

“Áo anh rách lỗ bằng sàng,
Mẹ già anh yếu, cậy nàng vá may”.
Những bài ca dao tỏ tình sẽ còn động mãi trong lòng người dân cả nước nói chung
và ĐBSCL nói riêng. Bằng những lời tỏ tình hồn nhiên của tình yêu đôi lứa, những hình
ảnh mộc mạc, thân quen. Mong rằng mọi người sẽ gìn giữ và phát huy những giá trị văn
hóa truyền thống dân tộc.
2.2. Nỗi nhớ nhung và tương tư trong ca dao Đồng bằng sông Cửu Long
2.2.1.Nỗi nhớ nhung
Khi yêu người ta mong được gặp gỡ người yêu của mình mỗi ngày. Đó là tâm lí
chung của các đôi nam nữ đang yêu nhau, nhưng có nỗi khổ nào gặp người mình yêu mà
người đó lại giả đò ngó lơ, chắc có lẽ ai được đặt trong tình huống đó sẽ rất buồn:
“Bắp non xao xác trổ cờ,
Người thương đứng đó giả lơ không chào”.
Hay :
“Anh muốn vãng lai, sợ nàng mang tai tiếng.
Giả khách qua đường, sớm viếng tối thăm”.
Thương dữ lắm rồi nhưng chàng trai còn chưa dám nói, còn ngại ngùng. Lúc gặp
gỡ tảng lờ vô tình như không để ý đến, hành động ngắt cọng ngò là hành động đáng yêu,
ngộ nghĩnh của các chàng trai miệt vườn:
“Thò tay mà ngắt cọng ngò,
Thương em đứt ruột giả đò ngó lơ”.


Không chỉ chàng trai mới như vậy, ai ngờ các cô gái cũng chẳng tốt lành bao
nhiêu, qua câu ca dao sau ta có thể thấy được điều đó:
“Giả đò mua khế bán chanh,
Giả đi đòi nợ, thăm anh cho đỡ buồn”.
Với tình yêu mãnh liệt, chàng trai này vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến, chỉ vì
mong nhớ, bằng hành động “Chui lòn”, chốn cha mẹ để gặp được người mình yêu:
“Anh thương em cởi áo vo tròn,

Chờ cha mẹ ngủ, chui lòn cửa sau”.
Lỡ nhớ nhung, tương tư bây giờ chẳng biết phải làm sau, nỗi đau kể sao cho
xiết.Những với cá tính mạnh mẽ của mình, chàng trai bị đứt tay không biết là sâu hay cạn
đáng lẽ phải kêu than. Những chàng không than vãn một tiếng, còn cách xa một chút thôi
trong lòng rất đau như bị ai đó cắt vào tay, khứa vào lòng:
“Đứt tay mấy chút chẳng đau,
Xa nhau một chút như dao cắt lòng”.
Không có nỗi nhớ nào giống nỗi nhớ nào cả: nhớ cha, nhớ mẹ… cũng chưa chắc
gì bằng nỗi nhớ người yêu, nhớ đến từng cử chỉ, hành động vẫn nhớ đến hình bóng người
yêu:
“Thương cha thương mẹ có khi,
Thương em lúc đứng, lúc đi, lúc ngồi,
Thương cha thương mẹ có hồi,
Thương em lúc đứng lúc ngồi cũng thương”.
Dù cha mẹ có rầy mắng hay cùng lắm xin chịu chết để được gần nàng:
“Anh thương em trầu hết lá lươn,
Cau hết nửa vườn cha mẹ nào hay,
Dầu mà cha mẹ có hay
Nhất đánh, nhì đầy hai lẽ mà thôi,
Gươm vàng để đó em ơi,
Chết thì chịu chết chứ lìa đôi anh không lìa”
Nỗi nhớ còn được thể hiện qua khoảng thời gian chiều chiều, buổi chiều là buổi
buồn nhất trong ngày, báo hiệu một ngày sắp hết và nỗi nhớ càng lại được dâng lên, sự
trông ngóng nhớ thương:
“Chiều chiều ra đứng bờ ao,
Nước kia không khát, khát khao duyên chàng”.
hay:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Ngõ thì thấy ngõ, người không thấy người”.
Tiếp nối khoảng thời gian chiều chiều, mà khoảng thời gian đêm đêm dài vô tận,

không biết tâm sự giãi bày cùng ai, đành than thở một mình:
“Đêm đêm vuốt bụng thở dài
Thở ngắn bằng chạch, thở dài bằng lươn”.
“Đêm khuya nguyệt lặn sao tàn


Sương sa gió lạnh, không thấy mình vãng lai.”
Không chỉ dùng thời gian để làm nổi bật lên nỗi nhớ của mình, chàng trai còn
dùng những từ ngữ pha lẫn chút hài hước, nghe qua có vẻ hóm hỉnh, như một lời nói
bông đùa, nhưng tình yêu đó xuất phát từ tận đáy lòng của người con trai:
“Anh thương em thương dại thương dột,
Thương lột da óc, thương tróc da đầu,
Ngủ đi thì nhớ, thức dậy thì thương,
Giục ngựa buông cương lên đường thương lộ,
Hỡi ông trời, mới ngộ lại xa”.
Những chàng trai vùng sông nước cũng rất là táo bạo, sau những ngày nhớ nhung.
Hôm nay gặp được người mình yêu mừng lắm, liền hôn một cái, nhưng sợ làng xóm láng
giềng họ hay:
“Đôi ta mới gặp hôm nay
Cho hun một cái em hai đừng phiền,
Có hun thì cho hun liền,
Đừng có làm lộ láng giềng họ hay”.
Đọc qua ta thấy ca dao, nhớ nhung ở ĐBSCL không mang nặng lễ giáo phong kiến
so với các vùng miền khác. Yêu thì họ dám thổ lộ tình cảm của mình, nhưng cũng đôi khi
họ dấu trong lòng. Nhưng đó là một tình yêu của nhưng con người hồn nhiên, thật thà,
chất phác, của những tâm hồn trong sáng, chân thành, giản dị và vô cùng tinh tế.
2.2.2. Nỗi tương tư
Tình yêu trong ca dao là thứ tình yêu lành mạnh, thắm thiết, hồn nhiên vượt ra
ngoài lễ giáo phong kiến, thứ xiềng xích muốn kìm hãm đời đời cho “Nam nữ thụ thụ bất
thân”. Ca dao đã ghi lại tất cả các chặng đường của tình yêu, các khía cạnh của tình yêu,

các trạng thái tình cảm của nam nữ thanh niên với những trắc trở, khó khăn, do đời sống
và chế độ phong kiến gây nên. Ca dao trữ tình là một thiên tình ca muôn điệu.
Tương tư là một trạng thái tâm lí vô cùng bất ổn với những ai đang yêu. Trong bài
thơ “Tương tư" của nhà thơ Nguyễn Bính ta thấy được nỗi tương tư của nhà thơ khi bước
vào con đường tình yêu:
“Nắng mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Không biết gởi gấm nỗi niềm tương tư của mình vào đâu,cô nàng đành gởi gấm
vào những câu trong ca dao, như muốn bày tỏ hết cảm xúc của mình bằng loạt điệp từ
“Khăn”:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn chùi nước mắt…
Hay tình cảm của đôi nam nữ này chẳng hạn, cô nàng thầm thương trộm nhớ
người con trai nhưng không dám thổ lộ tình cảm của mình, để rồi đêm về nằm suy tư,
trằn trọc:
“Anh thương em, em nào có biết,


Em thương anh, anh chẳng có hay
Đêm nằm trách bóng đèn tây,
Trông trời mau sáng, giả khuây tấm lòng”.
hay:
“Tre già vì bởi nhện giăng,
Đêm khuya vì bởi khăng khăng nhớ chàng
Buồn trông lửa tắt nhan tàn
Dế kêu rủ rỉ thương chàng sầu riêng”.
Còn anh chàng cũng chẳng thấm khá gì hơn cô gái cũng tương tư. Vì lụy tình mà

sanh ra đau bệnh để hồn dạo chơi xuống tới địa phủ, một màn tra hỏi nhưng cũng pha lẫn
chút hài hước, dí dỏm của Diêm Vương:
“Anh đau tương tư nằm trên bộ vạt
Hồn anh thất lạc, thác xuống Diêm đình.
Diêm Vương ổng hỏi sự tình,
Tui lụy vì tình, tui mới thác oan.
Khi đã đi vào con đường tình yêu thì làm chuyện gì cũng nhớ,nằm cũng nhớ, ngủ
cũng nhớ, ăn cũng nhớ để rồi tương tư:
“Ăn cơm ba chén lưng lưng,
Uống nước cầm chừng để dạ thương em”.
“Vắng mặt em ăn vàng cũng đắng,
Gặp mặt em rồi, ăn hạt muối trắng cũng ngon.
“Trực nhìn mở mắt trông ra,
Nàng đâu không thấy, úi chu cha là buồn”.
Như đã nói ở trên tương tư là một trạng thái tâm lí bất ổn. Khi yêu rồi họ không
làm chủ bản thân mình, tâm trí lúc nào cũng nhớ đến người mình yêu, biểu hiện bằng
những hành động ăn không ngon, ngủ không yên… nhưng không phải thế mà ta phê phán
họ. Vì khoảng cách địa lí mà họ không được gặp nhau, họ thương nhau bằng một tình yêu
chân thật và khao khát muốn gặp người mình yêu nên chúng ta hãy hiểu và thông cảm
cho họ.
2.3. Lời thề nguyền và hẹn ước trong ca dao Đồng bằng sông Cửu Long
2.3.1. Lời thề nguyền
Trong tình yêu vì xa cách nhau để rồi mang nỗi nhớ tương tư, sầu muộn cho nhau,
nhưng họ hi vọng vào ngày mai hạnh phúc, được bên nhau.
Ca dao Bắc Bộ phần lớn ảnh hưởng từ “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Nhưng ca
dao ĐBSCL cũng có phần nhỏ ảnh hưởng:
Đã nguyền hai chữ đồng tâm,
Càng dày nghĩa trước, càng thêm ân tình”.
Nhưng phần lớn ảnh hưởng từ truyện “Lục Vân Tiên” của cụ Đồ Chiểu. Trong ca
dao , có nhiều câu mượn sự tích và nhân vật trong Lục Vân Tiên để thể hiện tình cảm:

“Lòng lại dặn lòng dầu non rờn biển cạn


Dạ lại dặn dạ, dầu đá nát vàng lòa,
Em quyết nói gương chị Nguyệt Nga,
Mặc ai phinh dỗ em chẳng sa lời nguyền”.
Yêu nhau thì không bất chấp không gian có gian như thế nào, miễn sao làm cho
người mình yêu được vui lòng:
“Yêu nhau mấy núi cũng trèo”
Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”.
Giống như “Anh ở đầu sông em ở cuối sông” .Nhưng anh chàng này rất mực yêu
thương cô nàng, thề nguyện với nhau:
“Anh ở ngoài vàm, anh có lòng anh đợi,
Em ở trong ngọn, em có dạ đợi trông.
Dương gian, âm phủ cũng cộng đồng,
Sống sao thác vậy, anh vẫn giữ một lòng với em”.
Tình yêu của đôi nam nữ này thật vĩ đại, họ thề nguyền sống với nhau đến trăm
năm:
“Thương nhau cắt tóc mà thề
Khó nghèo cũng chịu chớ hề bỏ nhau
Thương nhau tạc một chữ tình,
Trăm năm thề quyết, bạn mình có nhau”.
Tình yêu của cô gái dành cho chàng trai thật sâu đậm. Muối là một loại gia vị mặn,
biểu tượng cho sự son sắt, còn chanh là một loại quả vị có vị chua, thế nhưng muối làm
sao có thể ngọt, chanh làm sao có thể thanh thì mới dám bỏ người con trai, qua đó hai
hình ảnh đó muốn nói lên sự chung thủy của người con gái đối với người mình yêu:
“Chừng nào muối ngọt chanh thanh,
Em đây mới dám bỏ anh đi lấy chồng”.
hay:
“Cũng liều cắn ớt nhai rừng,

Chua cay mặn ngọt ta đừng quên nhau”.
Vì thương anh nên cô gái kêu anh đi học chữ sau này thành đạt có công danh sự
nghiệp, nên em luôn chờ:
“Anh về anh học chữ nhu
Chín thu em đợi, mười thu em chờ,
Anh gáng công anh học, chứ đâu có để bơ thờ,
Ở nhà em gìn giữ, chớ em hững hờ chắc anh xa”.
Nhưng khi đi học , chàng luôn bâng khuâng, lo lắng cho người mình yêu. Khi xa
nhau nhưng vẫn nhớ những gì mình nói, không sai lời nguyền của mình:
“Anh xa em chưa đầy một tháng,
Nước mắt lai láng hai mươi tám đêm ngày”.
Bao giờ cho sóng bỏ gành
Cù lao bỏ bể thì anh bỏ nàng”.
Do sợ sự thay lòng đổi dạ, nên nam nữ yêu nhau hay thề nguyền. Mặc dù, chỉ là
một câu nói nhưng nó đem đến một sự tin tưởng tuyệt đối. Thề nguyền cũng như là một


vật gì đó để làm tin cho cả hai người, để làm tăng sức mạnh cho hai người đang yêu, để
họ có thể tiếp tục mơ ước và thêu dệt tình yêu để đi đến hôn nhân.
2.3.2. Lời hẹn ước
Tình yêu đôi lứa vùng miệt vườn sông nước làm cho người đọc đi hết cảm xúc
này đến hết cảm xúc kia. Hết thề nguyền rồi họ lại hẹn ước.
Tình yêu của cô gái này thật giản dị, không biết tặng gì cho người mình thương để
làm vật hẹn ước, nên đành cầu cho trời đừng nắng, đừng mưa:
“Anh về, em chẳng biết lấy chi đưa,
Vái trời đừng nắng, đừng mưa cho anh về”.
Yêu nhau rồi, thì họ chỉ cần một vật để làm tin, cô gái bèn kêu chàng trai phải viết
tờ giao kèo để hẹn ước:
“Anh có thương em thì làm giấy giao kèo,
Thò tay điểm chỉ dẫu nghèo cũng ưng”.

Không bao giờ có quan niệm tình yêu vững bền mà gắn liền với vật chất. Nhưng
vật chất đã len lỏi vào trong những ngõ ngách, của đời sống có khi nó là phương tiện để
tạo nên tình yêu bền vững:
“Anh thương em thì đem bạc đem tiền
Chuộc duyên em lại kết nguyền với anh”.
Một lần nữa hình ảnh cây cầu lại xuất hiện, chứng cho lòng thủy chung son sắt của
người con gái đang yêu:
“Bên này sông, em bắc cây cầu mười hai tấm ván,
Bên kia sông, em lập cái quán hai tầng,
Ba nơi đi nói không ưng,
Bán buôn nuôi mẹ, cầm chừng đợi anh”.
Hình như người con gái khi yêu luôn thề nguyền, hẹn ước để cho người con trai
tin là họ không giả dối. lọc lừa. Đó là đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam từ bao
đời nay nói chung. Thừa hưởng những đức tính tốt đẹp đó, người phụ nữ ĐBSCL cũng
sắt son, một lòng một dạ đối với người mình yêu. Nhưng những bậc nam nhi thì “Trai
năm thê bảy thiếp” đó là một hủ tục lạc hậu cần được bỏ đi, mà thay vào đó những anh
chàng miệt vườn cũng thủy chung son sắt với người mình yêu và là người có thể gắn bó
với mình đến răng long đầu bạc. Đây là tình cảm riêng của người chồng đối với vợ:
“Dẫu rằng da trắng tóc mây
Đẹp thì đẹp vậy dạ nàng không ưa
Vợ ta dầu có quê mùa
Thì ta vẫn cứ sớm trưa vui cùng”.
“Ba mươi sáu cái răng đóng trăn cái lưỡi,
Anh là người quân tử, ăn một đọi, nói một lời,
Giơ tay phân chứng có trời,
Anh đây nhất nguyện ở đời với em”.
Ca dao hẹn ước cho ta thấy sự vĩnh cửu, bất diệt trong tình yêu. Đó là lời thủ thỉ
ân tình của đôi lứa đang yêu nhau. Các chàng trai cô gái điều thể hiện những cung bậc



cảm xúc trong tình yêu, đôi khi không như mong muốn có sự ngang trái trong tình yêu.
Nhưng họ vẫn hướng về một tương lai tốt đẹp hơn, luôn có hoài bão và ước mơ của riêng
mình.
2.4. Nỗi đau khổ và oán trách khi tình yêu không trọn vẹn
2.4.1. Nỗi đau khổ
Trong cuộc sống không phải ai cũng có được một tình yêu trọn vẹn, có những đôi
nam nữ yêu nhau đi đến hôn nhân, hưởng được hạnh phúc, sống với nhau đến “Răng
long đầu bạc” mà không hề xa nhau. Nhưng lại có những cuộc tình éo le ngang trái,
không như ý muốn. Họ phải xa cách nhau trong nỗi đau khổ, bị guồng bỏ, bị lừa dối tình
cảm, sự phụ bạc, hoặc do cha mẹ đôi bên ngăn cấm…Bây giờ họ biết oán trách ai, đành
trách ông tơ, bà nguyệt, thầm trách số phận của mình sau hẩm hiu. Có những đôi không
mong ước nhà cao cửa rộng, cuộc sống giàu sang phú qúy, mà họ chỉ ước “Một mái nhà
tranh hai quả tim vàng” đều đó cũng là quá khó thành hiện thực.
Ngoài tình cảm vợ chồng son sắt, thì vợ chồng phải đồng cam cộng khổ, chia sẻ
khổ cực trong lao động. Như vậy tình cảm vợ chồng mới được thắt chặt và bền vững:
“Con chim kêu nhớ thương, con gà gáy nhớ
Đạo vợ nghĩa chồng ai nỡ đành xa”.
hay:
“Có mặt mình ăn muối cũng ngon,
Không mặt mình, ăn có cũng héo hon trong lòng”.
Người xưa quan niệm “áo làm sao mặc qua khỏi đầu”. Lễ giáo phong kiến cha mẹ
đặt đâu con ngồi đó, cha mẹ ngăn cấm. Là con gái đâu được quyền lựa chọn quyết định
hôn nhân của mình, mà phải tuân theo lệnh sắp đặt của cha,me. Vì thế, họ rất đau khổ,
không đến được với người mình yêu:
“Bởi vì cha mẹ không thương,
Cố lòng ép uổn lấy tuồng vũ phu
Tham vàng gả kẻ giàu ngu
Cho nên em lỡ đường tu thế này”.
hay:
“Anh đi ngang nhà nhỏ,

Lóng tai nghe rõ
Phụ mẫu đánh nàng
Nhà đóng cửa then ngang,
Anh biết làm sao vô đặng cứu nàng một phen”.
Nhưng cãi lời cha mẹ, cô gái không chịu lấy chồng vì “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép
duyên”:
“Bị ép duyên nên phải kêu trời,
Gá duyên ai gá, bỏ tiếng đời em mang”.
Cha mẹ quyết định thì con cái ai dám cãi lời. Cãi lời cha mẹ thì sẽ mang tội bất
hiếu, nên cũng đành ngậm ngùi chấp nhận:
“Xót xa như muối đổ vào lòng,
Đắng cay như ngậm bồ hòn vẫn phải gượng vui”.


hay:
“Cha mẹ sao nghĩ chẳng lâu,
Để thương để nhớ, để sầu cho cả hai”.
Nỗi đau của người phụ nữ vì người đàn ông phụ bạc, rẻ rúng mình:
“Anh nghiêng tai dưới gió
Cho thiếp kể công khó cho anh nghe,
Từ ngày anh đau ban cua lưỡi trắng,
Miệng đắng, cơm ôi
Công em, bồng đứng đỡ ngồi,
Bây giờ anh ở bạc ông trời nào để anh”
Tóm lại, tình yêu là phải có đau khổ và hạnh phúc, giai đoạn đầu khi yêu được gặp
gỡ nhau sau những ngày xa cách lúc đó cảm giác hạnh phúc vô cùng, không sao tả được.
Nhưng tình yêu nào đau phải cũng trọn vẹn có hạnh phúc cũng sẽ có đau khổ. Nhưng đau
khổ nhất là chính những lời thề nguyền, hẹn ước ngày trước họ đã hứa với nhau, hoặc do
bị ép duyên. Để rồi đem đến sự đau đớn tột cùng cho hai người.
2.4.2. Nỗi oán trách

Có những đôi nam nữ yêu nhau thắm thiết tưởng chừng họ sẽ bên nhau mãi mãi
nhưng không có duyên nên họ không đến được với nhau. Có duyên mà không có nợ để
rồi oán trách số phận sao trớ trêu. Sau đây là lời chê trách khá thẳng thắn các cô gái, chê
trách những ai bạc bẽo với mình:
“Có duyên bán mắc hơn dù,
Không duyên tiền chục tiền bù không ham”.
Cũng là chê trách nhưng chàng trai chê trách có phần nhẹ nhàng hóm hỉnh hơn:
“Chiều chiều lo bảy lo ba
Lo duyên trổ muộn, lo gì hết duyên
Còn duyên anh cưới con heo
Hết duyên anh cưới con mèo cụt đuôi”.
hay:
“Còn duyên con đỉa con đeo,
Hết duyên con đỉa nằm queo bờ vùng”.
Nỗi tương tư, vì lỡ duyên không đến được với nhau của chàng trai qua từ xưng hô
bậu:
“Bậu có chồng như cá vô lờ,
Tương tư nhớ bậu dật dờ năm canh”.
hay:
“Bậu về kẻo mẹ bậu trông,
Kẻo con bậu khóc, kẻo chồng bậu ghen”
Trách ông tơ, bà nguyệt dẫn đường đưa lối, sao không đưa họ đi đến hôn nhân mà
giữa đường đứt gánh. Bây giờ họ biết trách ai, tự hỏi mình:
“Anh đi ngang cầu sắt,
Anh nắm tay em thật chắc,
Miệng hỏi gắt chung tình,


Bướm xa bông tại nhụy, anh xa mình tại ai?
Cây cằn vì bởi trái sai,

Anh xa em bởi vì bà mai ít lời”.
hay:
“Bắt ông tơ đánh sơ vài chục,
Duyên nợ sờ sờ, ông ngủ gục chẳng so”.
Cũng có cách nói hài hước dí dỏm, anh chàng trách móc vì lỡ duyên nên có những
hành động khó hiểu không chỉ mang yếu tố gây cười mà nó còn mang lại sự cảm thông
cho người đọc:
“Anh tưởng giếng sâu anh nối sợi dây dài,
Ai dè giếng cạn nó hụt cái sợi dây,
Qua tới đây không cưới đươc cô hai mày,
Qua chèo ghe ra biển, đợi nước lớn đầy hoa chèo trở vô”.
Tình cảm vợ chồng thủy chung son sắt:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng,
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau”
Nhưng đến lời trách móc cũng mang đậm chất triết lí:
“Ngỡi nhân mỏng dính,
Như cách chuồn chuồn,
Khi vui nó đậu, khi buồn nó bay,
Đường dài ngựa chạy cát bay.
Ngỡi nhân thăm thẳm mỗi ngày một xa”
Sau khi thành vợ chồng, người chồng bỗng sinh thói trăng hoa, bỏ bê vợ con cô
đơn mong chờ:
“Gió đua bụi chuối sau hè,
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ
Con thơ tay ẵm tay bồng
Tay dắt mẹ chồng, nách cặp con dao”.
Và những lời than thở, hận trách về những cuộc hôn nhân không đẹp mà hiện tại
chỉ là một gánh nặng. Lời than trách ấy không của một riêng ai, mà cả hai cùng than thở,
khi không tìm được hạnh phúc trong cuộc sống hôn nhân:
“Gái có chồng như gông đeo cổ,

Trai có vợ như nhợ buộc chân”.
Tình yêu và hôn nhân cũng như tất cả các hiện tượng trong cuộc đời điều có tính
hai mặt. Cuộc sống là sự nỗ lực không ngừng, cố gắng vượt khó. Chính việc nỗ lực ấy
làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn. Qua ca dao, tình yêu được thể hiện một cách lãng mạn
trữ tình, những lời tỏ tình thú vị dễ thương, nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ, sự
oán trách nhau khi tình yêu không trọn vẹn. Dù có trắc trở, hờn trách nhau thế nào thì
tình yêu vẫn là một tiếng nói khát vọng hạnh phúc của con người từ xưa cho đến ngàn đời
sau. Mà điều ấy được ông cha ta thể hiện một cách rõ nhất qua những câu ca dao thật đẹp
và chan chứa tình người.


Chương 3

THUẬT NGHỆ THỂ HIỆN TÌNH YÊU ĐÔI LỨA
TRONG CA DAO ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
3.1. Cách xưng hô của tình yêu đôi lứa trong ca dao Đồng bằng sông Cửu Long
Trong ca dao ĐBSCL cách xưng hô của tình yêu đôi lứa thể hiện tình cảm bộc
bạch, nỗi lòng của đôi lứa đang yêu nhau. Trong quá trình tìm hiểu đó, việc dùng từ xưng
hô để gọi nhau, góp phần thể hiện bao cung bậc tình cảm của con người trong cuộc. Ta có
thể thường thấy những cặp từ xưng hô ngôi thứ nhất trong ca dao như xưng bằng thiếp
gọi bằng chàng:
“Ai làm bầu bí đứt dây,
Thiếp ở bên này chàng ở bên kia”
hay:
“Chèo mau để thiếp gặp chàng,
Hai ta hiệp lại cho thành một đôi”.
Đây là cách xưng hô của cô gái: anh – thiếp:
“Anh giơ roi đánh thiếp sau đành,
Nhớ khi đói khổ, rách lành có nhau”.
Nếu cô gái xưng anh – thiếp thì chàng trai cũng có cách xưng hô cho riêng mình là

anh – nàng:
“Ba bốn bữa rày anh có bụng trông,
Kẻ lên người xuống mà không thấy nàng”.
hay:
“Anh ngó lên trời thấy đám mây bạch,
Ngó xuống rạch thấy cá trạch đỏ đuôi.
Nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược,
Anh mảng thương nàng biết được hay không”.
Cách xưng hô mà ta thường thấy nhất để thể hiện tình cảm của chàng trai là xưng
anh gọi em:
“Anh vô duyên xấu phước, chết trước chung tình,
Anh hóa ra con nhạn bạch, đậu nhánh dương đình chờ em”
hay:
“Anh đây một vợ hai con
Lấy thêm em nữa cho tròn một mâm”.
Cô gái ngược lại xưng em gọi anh:
“Anh thương em thì thương cho chắc,
Có bỏ thì bỏ cho luôn.
Chứ đừng theo lối ghe buôn,
Nay đi, mai ở cho buồn dạ em”.


Không chỉ dùng ngôi thứ nhất để xưng hô mà các đôi nam nữ đang yêu, còn sử
dụng ngôi thứ hai để xưng hô. Cách xưng hô bậu – qua mang đậm sắc thái địa phương và
thường thấy nhất:
“Bậu có thương qua,
Khăn mu soa đừng đội,
Hát bội đừng mê,
Cái dê đừng mắc,
Tứ sắc đừng ham,

Ruộng rẫy lo làm
Dẫu làm em thất, bậu giùm cho em”.
Có khi xưng hô cả hai ngôi, ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai xen lẫn vào nhau, bên
nào cũng được. Cặp từ xưng hô mình – tôi:
“Bấy lâu mình bắc, tôi đông,
Bây giờ như bướm gặp ong vui vầy”.
Hoặc cách xưng hô của cô gái em – mình:
“Bấy lâu nay em còn nghi ngại,
Bữa nay kêu đại bằng mình.
Phụ mẫu hay đặng, không lẽ giết mình với em”.
Cặp xưng hô đó – đây:
“Đó có đôi, ngồi ăn một ngựa,
Đây một mình, biết dựa vào ai?
hay:
“Đó than đó thở, sao không mắc cỡ còn lại phân trần?
Đó chê đây duyên nợ không gần
Đó kiếm nới chốn khác, sao còn lần đến đây?”.
Bên cạnh những cách xưng hô dược nói ở trên, ta còn bắt gặp những cách xưng hô
mà ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai được ẩn đi:
“Bấy lâu mang tiếng chịu lời,
Dẫu xa nhau chăng nữa, tại ông trời biểu xa”.
hay:
“Chim quyên đậu lái ghe bầu,
Miệng kêu bớ bảy xuống lầu trao thư”.
Ngoài ra còn có các loại từ tượng trưng mà đôi bên xưng hô ví von:
“Thuyền dời nào bến có dời
Khăng khăng một lời quân tử nhất ngôn”.
hay:
“Bước vô vườn hái ớt, hái trầu,
Hỏi thăm lê lựu, mãng cầu chín chưa”.

Tóm lại cách xưng hô trong ca dao tình yêu đôi lứa ĐBSCL hết sức phong phú và
đa đạng. Chúng ta có thể thấy những nét riêng mang đậm tính địa phương và phản ánh lời
ăn tiếng nói, tâm tư tình cảm của con người vùng sông nước.


×