Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

QUYỀN HÀNH PHÁP và tổ CHỨC QUYỀN HÀNH PHÁP ở VIỆT NAM QUA các HIẾN PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.52 KB, 14 trang )

QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ TỔ CHỨC QUYỀN HÀNH
PHÁP Ở VIỆT NAM QUA CÁC HIẾN PHÁP.
(Executive power and executive power institutions in
Vietnam through the constitution.)

Th.s. Nguyễn Thị Hà
1. Đặt vấn đề.
Để đáp ứng cho công cuộc đổi mới đất nước, cùng với
sự chuyển biến về kinh tế, bộ máy nhà nước Việt Nam cũng
cần có sự thay đổi tương ứng sao cho phù hợp với các yêu cầu
của xã hội. Các cơ quan hành pháp là nơi chỉ đạo việc thi
hành pháp luật, trực tiếp quản lý các lĩnh vực của xã hội, có
liên quan trực tiếp đến người dân. Trong cơ chế thực hiện
quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, việc xác định chính
xác vị trí, vai trò của quyền hành pháp có ảnh hưởng rất lớn
đến các quyền khác trong cơ cấu quyền lực nhà nước và toàn
bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bài báo có thể đóng góp một phần nhỏ trong việc
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng, tổ chức
thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam. Đồng thời góp phần
nhận thức đúng đắn hơn về vị trí, vai trò, ý nghĩa của quyền
hành pháp đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước
cũng như của toàn xã hội.
2. Những vấn đề lý luận về quyền hành pháp và tổ chức
quyền hành pháp ở Việt Nam.
2.1. Khái niệm, đặc điểm của quyền hành pháp ở Việt
Nam
Khái niệm:
Quyền hành pháp là một bộ phận tạo thành cơ cấu
quyền lực nhà nước. Một cách đơn giản nhất quyền hành pháp
được hiểu là quyền thi hành pháp luật.


1


Trong cơ cấu quyền lực nhà nước quyền hành pháp là
một khái niệm chung dùng để chỉ một bộ phận quyền lực quyền thi hành pháp luật, phản ánh mối quan hệ quyền lực
giữa các bộ phận hợp thành của quyền lực nhà nước. Chủ thể
chủ yếu của quyền hành pháp là Chính phủ (cơ quan hành
pháp ở trung ương) với tính chất điển hình của cơ quan này là
thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành các hoạt động
của đời sống xã hội. Ở Việt Nam, các chủ thể thực hiện quyền
hành pháp không chỉ có Chính phủ, các cơ quan hành pháp ở
trung ương, mà một số các cơ quan nhà nước ở địa phương
cũng thực hiện quyền lực này.
Đặc điểm của quyền hành pháp
Là một trong ba bộ phận cơ bản cấu thành quyền lực
nhà nước, quyền hành pháp cũng có những đặc điểm cơ bản
của quyền lực nhà nước. Ngoài ra, nó còn có những đặc điểm
đặc thù sau đây:
Quyền hành pháp có tính quyền lực nhà nước và độc
lập tương đối so với các nhánh quyền lực khác. Ở Việt Nam
các cơ quan hành pháp là do các cơ quan dân cử lập ra, thực
hiện các hoạt động chấp hành và điều hành. Mặc dù các cơ
quan hành pháp là do cơ quan quyền lực lập ra, nhưng không
có nghĩa là quyền hành pháp chỉ là quyền phái sinh từ cơ quan
quyền lực.
Quyền hành pháp có khả năng phản ánh một cách
chính xác nhất những nhu cầu của xã hội. Quyền hành pháp
không chỉ dừng lại ở việc thi hành pháp luật mà nó còn bao
gồm cả việc quản lý, điều hành, lãnh đạo các hoạt động trong
hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là một trong các

nhánh quyền lực có sự đụng chạm mạnh nhất tới quyền và lợi
ích của công dân trong quá trình thực thi và quản lý…
2.2. Tính chất của quyền hành pháp
2


Tính chấp hành (tính chất thi hành pháp luật)
Tính chấp hành của hành pháp là khả năng làm cho
pháp luật được thực hiện trên thực tế bằng sức mạnh của nhà
nước, hay nói một cách khác là khả năng đưa pháp luật vào
đời sống của các cơ quan nắm giữ quyền hành pháp. Với tính
chất là cơ quan chấp hành của Quốc hội như Hiến pháp năm
1992 sửa đổi đã quy định, Chính phủ là chủ thể cơ bản nắm
quyền hành pháp ở Trung ương. Chính phủ có trách nhiệm
đưa pháp luật vào đời sống xã hội và đảm bảo cho mọi chính
sách pháp luật của Đảng và Nhà nước được thực hiện, và
được tuân thủ một cách nghiêm minh. Chính phủ Việt Nam
trong quá trình chấp hành Hiến pháp, pháp luật của Quốc hội,
chỉ có nhiệm vụ thực thi đúng và đầy đủ mà không có quyền “
phủ quyết” như ở một số nước tư bản. Không có tính chất
chấp hành của Chính phủ - chủ thể nắm quyền hành pháp chủ
yếu ở trung ương thì các văn bản pháp luật của nhà nước
không thể thực hiện được. Bên cạnh đó Uỷ ban nhân dân các
cấp cũng là các cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân.
Các chủ thể này thực hiện quyền hành pháp ở địa phương.
Tính hành chính Nhà nước
Ngoài tính chất chấp hành, quyền hành pháp ở Việt
Nam còn hàm chứa tính chất hành chính. Hành chính nói một
cách ngắn gọn nhất đó là hoạt động quản lý, điều hành và
phục vụ trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội

trong đó hành chính công (hành chính nhà nước) giữ vị trí đặc
biệt quan trọng. Ngoài tính chất chấp hành, các cơ quan hành
pháp ở Việt Nam còn được xác định là các cơ quan hành
chính Nhà nước, thực hiện chức năng quản lý, điều hành. Tính
hành chính làm cho quyền hành pháp có tính độc lập tương
đối, có khả năng phát huy được tính chủ động, sáng tạo của
mình trong việc quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội.
2.3. Mô hình tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam
3


Mô hình Chính phủ ở trung ương
Ở nước ta, mỗi thời kỳ khác nhau, cách tổ chức quyền
lực nhà nước cũng như quyền hành pháp có những nét khác
nhau. Chính phủ là chủ thể cơ bản nhưng không phải là chủ
thể duy nhất thực hiện quyền hành pháp. Bên cạnh Chính phủ
một số cơ quan nhà nước khác cũng thực hiện quyền hành
pháp, nhưng các cơ quan này không phải là chủ thể chủ yếu
thực hiện quyền hành pháp. Qua các thời kỳ khác nhau, chủ
thể thực hiện quyền hành pháp có sự khác nhau. Hiện nay, mô
hình tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam tập trung chủ yếu
vào Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp. Nguyên thủ quốc
gia không có nhiều thẩm quyền về lĩnh vực hành pháp giống
như Nguyên thủ quốc gia ở các nước Cộng hoà Tổng thống và
Cộng hoà lưỡng tính, cũng như theo Hiến pháp năm 1946.
Mô hình Uỷ ban nhân dân ở địa phương
Uỷ ban nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, được lập ra để thực hiện những chức năng
quản lý nhà nước ở địa phương. Uỷ ban nhân dân được tổ
chức theo ba cấp: Tỉnh (Thành phố trực thuộc trung ương và

tương đương), Huyện (quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã), Xã
(phường thị trấn). Mô hình tổ chức các đơn vị hành chính theo
cấp tạo thuận lợi cho việc chỉ đạo, triển khai mệnh lệnh quản
lý từ trên cũng như việc phân cấp quản lý cho cấp dưới.
Hiện nay mô hình quản lý địa phương ở một số nước trên thế
giới được thực hiện bởi một hội đồng (Hội đồng tự quản, Hội
đồng nhân dân), Hội đồng lập ra cơ quan chấp hành của mình
như Uỷ ban chấp hành, Uỷ ban nhân dân (Ở Việt Nam và các
nước xã hội chủ nghĩa), Thị trưởng ở Pháp, quản trị trưởng ở
Mỹ. Ở Việt Nam Mô hình tổ chức cơ quan chính quyền địa
phương theo kiểu Hội đồng nhân dân và cơ quan chấp hành
của nó được thành lập ở tất cả các đơn vị hành chính.
3. Thực trạng tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt
Nam.
4


3.1. Tổ chức quyền hành pháp theo Hiến pháp 1946
Quyền hành pháp theo Hiến pháp năm 1946 được thể
hiện qua nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước, Chính phủ
và Nội các (chủ thể của quyền hành pháp). Mặc dù Hiến pháp
năm 1946 đã ít nhiều đề cập đến Chính phủ - với tư cách là cơ
quan nắm quyền hành pháp ở trung ương nhưng không quy
định rõ ràng, cụ thể các hình thức hoạt động của cơ quan này
mà chủ yếu quy định cho Chủ tịch nước rất nhiều quyền hạn
trong lĩnh vực hành pháp. Hoạt động chủ yếu của Chính phủ
thông qua hoạt động của Chủ tịch nước. Chủ tịch nước là
người đứng đầu cơ quan hành pháp, nắm quyền hành pháp ở
trung ương. Chủ tịch nước vừa nắm giữ những quyền hạn của
một nguyên thủ quốc gia, vừa nắm giữ những quyền hạn của

người đứng đầu cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc.
Hội đồng nhân dân lúc này được xác định là “cơ quan
thay mặt cho dân”, các Ủy ban hành chính là “cơ quan hành
chính vừa thay mặt cho dân vừa đại diện cho Chính phủ”. Về
tính chất, Ủy ban hành chính lúc này mặc dù có cấp do Hội
đồng nhân dân bầu ra và có trách nhiệm thi hành các nghị
quyết của Hội đồng nhân dân nhưng chưa xác định là cơ quan
chấp hành của Hội đồng nhân dân mà là cơ quan hành chính
vừa thay mặt cho dân vừa đại diện cho Chính phủ.
3.2. Tổ chức quyền hành pháp theo Hiến pháp năm 1959

Theo Hiến pháp này quyền lập pháp thuộc về Quốc
hội, quyền hành pháp thuộc về Chủ tịch nước và Chính phủ.
Chế định Chính phủ có sự thay đổi tên gọi, nó được đổi thành
Hội đồng Chính phủ, là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là
cơ quan hành chính cao nhất của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa.
Về cơ bản, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước bị
thu hẹp hơn so với Hiến pháp năm 1946. Theo đó, Chủ tịch
5


nước đã tách khỏi Chính phủ và không còn là người đứng đầu
Chính phủ, lãnh đạo Chính phủ nữa mà trở thành nguyên thủ
quốc gia, đại diện cho đất nước trong lĩnh vực đối nội và đối
ngoại. Chủ tịch nước chỉ có chức năng là người đại diện, hợp
thức hóa các văn bản mà Quốc hội và Hội đồng Chính phủ
thông qua và chỉ còn ảnh hưởng nhất định tới quyền hành
pháp thông qua việc Chủ tịch nước khi nào xét thấy cần thiết
mới tham gia và chủ tọa phiên họp của Hội đồng Chính phủ.

Chức năng nguyên thủ quốc gia được tách khỏi chức năng
hành pháp, song Chủ tịch nước vẫn còn quyền hành pháp
tượng trưng thông qua việc tham dự và chủ tọa các phiên họp
của Hội đồng Chính phủ khi xét thấy cần thiết. Trong giai
đoạn này nguyên tắc tập trung quyền lực vào Quốc hội đã
được áp dụng ở nước ta làm cho lập pháp chiếm ưu thế và
được coi trọng hơn hành pháp.
Chính quyền địa phương vẫn tiếp tục được củng cố và
phát triển. Hội đồng nhân dân được thành lập ở tất cả các cấp
và được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương. Hội đồng nhân dân bầu ra Ủy ban hành chính là cơ
quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương. Nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tổ chức bộ máy nhà nước được tăng cường.
3.3. Tổ chức quyền hành pháp theo Hiến pháp năm
1980
Theo Hiến pháp năm 1980 nguyên tắc tổ chức quyền
lực nhà nước theo hướng tập quyền đã được quán triệt một
cách triệt để, quan điểm làm chủ tập thể được thể hiện rõ.
Quốc hội là cơ quan nhà nước có quyền lực tối cao, có vai trò
chi phối tuyệt đối đối với các cơ quan khác trong bộ máy nhà
nước. Quốc hội được xây dựng theo đúng tinh thần cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất thống nhất các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp và giám sát, là “tập thể hành động”. Hội
6


đồng Bộ trưởng thực hiện chức năng hành pháp qua sự bảo
đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật, tổ chức thực hiện
kế hoạch và ngân sách nhà nước, thống nhất quản lý việc cải

tạo, xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân, việc xây
dựng và phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật...
Theo Hiến pháp năm 1980 quyền hành pháp vẫn được ghi
nhận, nhưng có sự thay đổi lớn, nó không còn độc lập với lập
pháp. Vì quyền hành pháp được nhập lại với quyền lập pháp
và thuộc về cơ quan lập pháp.
3.4. Tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam theo
Hiến pháp năm 1992
Điều 2 Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “ Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp”. Lần đầu tiên trong Hiến pháp của
nước ta có sự quy định khá rõ ràng về các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Quyền hành pháp ở nước ta không
được tuyên bố và giao cho một cơ quan cụ thể nào mà nó
được thực hiện bởi nhiều chủ thể như Chủ tịch nước, Chính
phủ, các cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan hành pháp ở
địa phương.
3.4.1. Nguyên thủ quốc gia – Chủ tịch nước – một
chủ thể của quyền hành pháp.
Các Hiến pháp của nước ta có sự khác nhau trong việc
quy định về chế định Nguyên thủ quốc gia (Chủ tịch nước).
Chủ tịch nước là một khâu rất quan trọng trong việc kết nối,
liên kết, phối hợp hoạt động giữa Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ. Chủ tịch nước thực hiện
cả hoạt động lập pháp và hành pháp và tư pháp. Chủ tịch nước
có ảnh hưởng đến quyền hành pháp chủ yếu thông qua các
quyền như quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi
7



nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ (Khoản 3
Điều 103), căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc Ủy ban
thường vụ Quốc hội ra quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ. Chủ tịch nước có quyền tham dự các
phiên họp của Chính phủ khi cần thiết nhưng không có quyền
chủ tọa phiên họp của Chính phủ như quy định trong Hiến
pháp năm 1959.
3.4.2. Chính phủ - chủ thể cơ bản của quyền hành
pháp
Chính phủ là thiết chế có vị trí và vai trò to lớn trong
cơ chế quyền lực nhà nước. Pháp luật còn quy định rõ ràng
cách thức hoạt động của Chính phủ - chủ thể cơ bản của
quyền hành pháp, góp phần làm cho hành pháp được thực thi
có hiệu quả hơn.
Hiến pháp năm 1992 quy định Chính phủ là cơ quan
chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính
phủ không còn là cơ quan hành chính cao nhất của Quốc hội
nữa mà là của nhà nước. Chính phủ Việt Nam thể hiện chức
năng chấp hành và điều hành. Phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của Chính phủ về cơ bản giống như trước, nhưng có một số
điều chỉnh quan trọng thể hiện sự tăng cường vị trí, vai trò của
Chính phủ theo hướng là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất có tính độc lập nhất định trong lĩnh vực này. Chính phủ
là cơ quan thực hiện chức năng quản lý chung, trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
3.4.3. Các cơ quan hành pháp ở địa phương
Cơ quan chính quyền địa phương được Hiến pháp năm

1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
năm 1994 và năm 2003 xác định vẫn gồm có Hội đồng nhân
8


dân và Ủy ban nhân dân. Hội đồng nhân dân có vai trò rất lớn
trong việc tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật của các cơ
quan nhà nước cấp trên cũng như xây dựng kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội địa phương. Vị trí pháp lý và nhiệm vụ của
Ủy ban nhân dân các cấp được xác định rất rõ trong Hiến
pháp, Ủy ban nhân dân là cơ quan trực tiếp thực thi nhiệm vụ
đưa Hiến pháp và pháp luật vào đời sống trong địa bàn mình
quản lý.
4. Đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong quy định của
các Hiến pháp về vị trí, vai trò của quyền hành pháp và
cách tổ chức thực hiện quyền hành pháp.
4.1. Ưu điểm và hạn chế của Hiến pháp năm 1946
Việc quy định cho Chủ tịch nước rất nhiều quyền hạn,
chính là sự điều chỉnh hợp lý từ mô hình bộ máy nhà nước
dân chủ nhân dân cấp độ cao xuống cấp độ thấp hơn, phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945. Do tình hình phức tạp của đất nước
trong giai đoạn đó cần phải thiết lập và thực thi một bộ máy
hành chính mạnh mẽ và sáng suốt, có tính độc lập, chủ động
trong việc điều hành đất nước, lãnh đạo cuộc kháng chiến đi
đến thắng lợi. Chế định Chủ tịch nước được quy định khá đặc
biệt. Sự quy định địa vị pháp lý của nguyên thủ quốc gia trong
Hiến pháp năm 1946 là một sáng tạo lịch sử, thích ứng với mô
hình chính thể Cộng hòa Dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, còn áp
dụng một số yếu tố phân quyền phù hợp với điều kiện của chế

độ dân chủ nhân dân (tức dân chủ rộng rãi, đa dạng các lợi
ích, các nhóm xã hội)
4.2. Ưu điểm và hạn chế của Hiến pháp năm 1959
Theo Hiến pháp năm 1959 Chủ tịch nước đã không còn
nằm trong cơ cấu của Chính phủ, người đứng đầu Chính phủ
là Thủ tướng Chính phủ. Đây cũng là lần đầu tiên trong Hiến
9


pháp quy định “Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất”. Việc tổ chức cơ quan chấp
hành, hành chính cao nhất cũng không hoàn toàn lệ thuộc vào
Quốc hội, vì Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất nhưng vẫn là cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa. Điều này làm cho Hội đồng Chính phủ còn tương đối độc
lập trong lĩnh vực hành chính nhà nước. Đây cũng là một ưu
điểm của Hiến pháp năm 1959 vì nó vẫn thể hiện được sự
phân công tương đối rành mạch, rõ ràng giữa các cơ quan
trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, tạo điều kiện cho
các cơ quan hành chính nhà nước phát huy được vai trò quản
lý và điều hành các hoạt động xã hội của mình. Hiến pháp
năm 1959 theo quan điểm lịch sử đó là “bước lùi” thích hợp
cho cơ chế nhà nước chưa hoàn toàn là xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, Hiến pháp năm 1959 vẫn có nhiều điểm cần phải tiếp
tục khắc phục, hoàn thiện.
4.3. Ưu điểm và hạn chế của Hiến pháp năm 1980
Mặt tích cực trong cơ chế quyền lực nhà nước theo
Hiến pháp năm 1980 là vẫn tiếp tục duy trì nguyên tắc bảo
đảm thống nhất quyền lực, bảo đảm thực sự quyền lực nhân

dân. Đồng thời tập trung quyền lực vào Quốc hội và Hội đồng
nhân dân, là cơ sở để đảm bảo quyền lực nhân dân. Tuy nhiên,
Hiến pháp năm 1980 cũng đã bộc lộ rất nhiều hạn chế. Về chế
định Chủ tịch nước qua một thời gian đã tỏ ra không mấy hiệu
quả bởi có những công việc trong lĩnh vực hành pháp đòi hỏi
phải quyết định nhanh chóng thì Hội đồng nhà nước không
đáp ứng được yêu cầu. Thẩm quyền của Hội đồng nhà nước
bao gồm những thẩm quyền của cơ quan thường trực của
Quốc hội cộng với những thẩm quyền của Nguyên thủ quốc
gia. Sự thống nhất hai cơ quan này tạo nên sự tập quyền thái
quá trong tay một cơ quan duy nhất, dễ dẫn đến sự lạm quyền
10


của cơ quan đó. Hội đồng Chính phủ được thay bằng Hội
đồng Bộ trưởng, là cơ quan chấp hành và hành chính nhà
nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước. Tính chất này
đã làm cho Hội đồng Bộ trưởng không còn tính độc lập tương
đối mà lệ thuộc hoàn toàn vào Quốc hội. Trong cơ cấu quyền
lực nhà nước cũng thiếu sự phân công, phối hợp rành mạch
giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
4.4. Ưu điểm và hạn chế của Hiến pháp năm 1992
Hiến pháp năm 1992 đã hoàn thiện hơn trong nguyên
tắc tổ chức quyền lực nhà nước. Cũng bắt đầu từ đây các khái
niệm quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, đi
liền với nó là việc sử dụng các thuật ngữ cơ quan lập pháp, cơ
quan hành pháp, cơ quan tư pháp để chỉ các cơ quan trong bộ
máy nhà nước được sử dụng chính thức và rộng rãi.
Hiến pháp năm 1992 thể hiện sự tăng cường chế độ thủ

trưởng và trách nhiệm cá nhân bằng việc phân định nhiệm vụ,
quyền hạn của tập thể Chính phủ và của cá nhân Thủ tướng.
Đây cũng là điểm mới so với các quy định trong các bản Hiến
pháp trước, là một phương pháp hữu hiệu để xây dựng một
Chính phủ hành pháp mạnh mẽ. Tuy nhiên, nhiệm vụ quyền
hạn của cá nhân Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ trong
nhiều trường hợp không được phân định rõ ràng. Luật cần
phải quy định rõ ràng hơn trách nhiệm, quyền hạn cho từng
chủ thể nắm quyền hành pháp, tạo điều kiện cho quyền hành
pháp được tổ chức thực hiện tốt, phát huy được chức năng, vai
trò của hành pháp với xã hội và sự phát triển của Nhà nước.
Hiến pháp năm 1992 đã bắt đầu quá trình tổ chức lại cơ
cấu Chính phủ theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực bằng quá
trình sáp nhập, điều chuyển chức năng và tổ chức lại các cơ
quan thuộc Chính phủ theo hướng không còn các cơ quan
thuộc Chính phủ làm chức năng quản lý nhà nước, mà chỉ còn
11


cơ quan làm chức năng chuyên môn, sự nghiệp. Tuy nhiên, cơ
cấu tổ chức của Chính phủ vẫn còn vẫn còn cồng kềnh, số
lượng các Bộ, cơ quan ngang Bộ còn nhiều. Sự tồn tại của các
Phó Thủ tướng phụ trách các khối Bộ và liên Bộ đã làm giảm
đi trách nhiệm của các Bộ trưởng phụ trách các ngành, và lĩnh
vực trên toàn vẹn lãnh thổ đất nước, mà đúng ra theo quy định
của Hiến pháp, họ là những người phải chịu trách nhiệm.
Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân năm 1994 và năm 2003 đã đặt nền
móng cho việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương theo
hướng gọn nhẹ, có hiệu lực trong điều hành, quản lý các lĩnh

vực của đời sống xã hội ở địa phương. Nhưng so với nhiều
nước trên thế giới thì cách thức tổ chức cơ quan chính quyền
địa phương giống nhau ở tất cả các cấp hành chính đã tạo ra
một hệ thống cơ quan chính quyền địa phương rập khuôn,
cứng nhắc, không phân biệt được sự khác nhau trong quản lý
hành chính nhà nước ở đô thị, nông thôn, miền núi, hải đảo,
và cũng không bảo đảm được tính quản lý hành chính tập
trung cao từ trung ương xuống địa phương. Để phát huy hơn
nữa vai trò của các cơ quan nhà nước ở địa phương trong việc
thực hiện quyền lực nhà nước, chúng ta cần phải khắc phục
những hạn chế, yếu kém của các cơ quan này.
Kết luận
Trong điều kiện đổi mới hiện nay quyền hành pháp của
Việt Nam cần tiếp tục được xây dựng theo hướng đề cao vai
trò của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân. Đồng thời tăng cường
trách nhiệm của người đứng đầu hành pháp, thực hiện tinh
giảm bộ máy hành pháp, đề cao tính độc lập, năng động, chủ
động trong hoạt động quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời
sống xã hội, gắn vai trò của Chính phủ với Chủ tịch nước.
12


Việc tổ chức thực hiện tốt quyền lực nhà nước nói chung
và quyền hành pháp nói riêng là điều kiện thúc đẩy sự ổn
định chính trị và làm cho xã hội ổn định, kinh tế phát
triển bền vững, tránh được những xung đột trong xã hội
và phát huy được hiệu quả của từng loại quyền.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Quốc

hội, ngày 09 tháng 11 năm 1946.
2. Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Quốc
hội, ngày 31 tháng 12 năm 1959.
3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Quốc hội, ngày 18 tháng 12 năm 1980.
4. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Quốc hội, ngày 15 tháng 04 năm 1992.
5. Hiến Pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 theo Nghị quyết
số 51/2001/QH10, Quốc hội khóa X, ngày 25 tháng 12
năm 2001.
6. Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, Quốc hội, ngày 14 tháng 07 năm 1960.

13


7. Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội, ngày 04 tháng 07
năm 1981.
8. Luật số 32/2001/QH10, Tổ chức Chính phủ, Quốc hội,
ngày 25 tháng 12 năm 2001.
9. Luật số 11/2003/QH11, Tổ chức Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân, Quốc hội, ngày 26 tháng 11 năm
2003.

14




×