Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN THÔNG QUA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (906.41 KB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;;
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------O0O---------

VŨ THỊ DIỄM LỆ

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN
THÔNG QUA ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN Ở
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Hà Nội, 2014
1


BỘ GIÁO
GIÁO DỤC
DỤC VÀ
VÀ ĐÀO
ĐÀO TẠO
TẠO
BỘ
TRƯỜNG ĐẠI
ĐẠI HỌC
HỌC SƯ
SƯ PHẠM
PHẠM HÀ
HÀ NỘI
NỘI


TRƯỜNG
-------o0o----------------O0O---------


LỆ
VŨTHỊ
THỊ DIỄM
DIỄM LỆ

CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ
HỌC CỦA
SINHCỦA
VIÊN
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
TỰ HỌC
SINH VIÊN
TRƯỜNG
CỘNG VIÊN
ĐỒNGỞHÀ NỘI
THÔNG
QUACAO
ĐỘI ĐẲNG
NGŨ GIẢNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG HÀ NỘI

Chuyên ngành quản lý giáo dục
Chuyên ngành quản lý giáo dục
Mã số:
Mã số:
60140114


ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS
Đàodẫn
Thịkhoa
Oanhhọc
Người
hướng
PGS.TS Đào Thị Oanh

Hà Nội, 2
Hà Nội, 2014

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, xu hướng chủ đạo trong sự đổi mới quá trình dạy
học, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, về mặt quan điểm, định hướng là chuyển
sang quan điểm dạy học tích cực (hay còn gọi tắt là dạy học lấy người học làm
trung tâm) mà ý tưởng cốt lõi là người học phải tích cực, chủ động, tự chủ trong quá
trình học tập. Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng Cộng Sản Việt Nam
khóa VIII cũng đã xác định: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học.
Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình
dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là
sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng” [4].

Trong quá trình dạy học, người học vừa là đối tượng tác động của dạy học,
vừa là chủ thể của quá trình đó. Tác động của người dạy chỉ có thể được phát huy
khi thông qua hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Chính vì vậy,
mục tiêu của quá trình dạy học cũng chính là mục tiêu của quá trình tự học. Ngoài
ra, tự học ngày nay không chỉ là một kĩ năng học tập mà đã trở thành một phẩm
chất nhân cách của con người hiện đại, là con đường tạo ra tri thức bền vững cho
người học, là cách thử thách, rèn luyện, hình thành ý chí cao đẹp ở mỗi sinh viên
trên con đường lập nghiệp.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay các trường Đại học, Cao đẳng đang áp
dụng dạy học theo học chế tín chỉ. Vì vậy, sinh viên phải chủ động trong quá trình
học tập để thu nhận kiến thức, thời gian học trên lớp là không đủ, không đáp ứng và
cung cấp các thông tin cần thiết của bài học tới sinh viên. Do đó vai trò tự học của
sinh viên càng phải được quan tâm. Hoạt động tự học của sinh viên là hoạt động
chủ động, sinh viên phải có ý thức nhận thức về nhiệm vụ tự học và tự nghiên cứu
của mình. Để có kiến thức sau này ra trường có nghề nghiệp và chính nghề nghiệp
đó nuôi sống bản thân mình thì ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường sinh viên
phải được trang bị những kiến thức cần thiết, ý thức được việc học tập của bản thân,

1


với nhiều phương pháp tự học như lên thư viện học, học theo nhóm, học trên mạng
internet.
Và để quản lý được hoạt động tự học của sinh viên, người Hiệu trưởng phải
biết cách quản lý việc tự học của sinh viên thông qua đội ngũ giảng viên, thông qua
các tổ, bộ môn, phối hợp với các khoa, đoàn thể bằng nhiều phương pháp và kinh
nghiệm của người quản lý.
Cũng như các trường Đại học, Cao đẳng khác, với mục tiêu nâng cao chất
lượng đào tạo nhằm đáp ứng nguyện vọng của người học và nhu cầu của thị trường
lao động, đồng thời tăng cường hội nhập quốc tế từ năm học 2010 - 2011 Trường

Cao đẳng cộng đồng Hà Nội bắt đầu áp dụng hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ.
Việc chuyển đổi hình thức từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo học chế tín chỉ
có giá trị như một cuộc cải cách về đào tạo trong Nhà trường, việc nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo ở Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội cốt lõi là nâng cao
chất lượng quá trình dạy học. Một trong các yếu tố quyết định chất lượng quá trình
dạy học là chất lượng hoạt động tự học của sinh viên, hoạt động tự học là hoạt động
tổ chức nhận thức nhằm đạt tới mục đích nhất định, do chính người học tiến hành
trong quá trình học tập, tự học giúp người học nâng cao tri thức kỹ năng và biến quá
trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Vì vậy, phẩm chất và năng lực của người
cán bộ tương lai phụ thuộc rất nhiều vào việc tự học của họ trong nhà trường.
Trong những năm qua Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội đã có nhiều cố
gắng trong công tác đào tạo nguồn nhân lực cho Thành phố Hà Nội và các Tỉnh lân
cận. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động tự học của sinh viên vẫn còn hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu của nhà trường. Sinh viên khi vào trường hầu hết chưa có
thói quen chủ động và tích cực trong việc tự học, chưa có kỹ năng tự học, việc học
tập chủ yếu trông chờ vào việc truyền thụ kiến thức của giảng viên. Hơn nữa sinh
viên lại thờ ơ với việc tự học, lười học, lười đọc sách báo. Trong đó, có nhiều
nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động tự học của sinh viên như: định hướng của
nhà trường, khoa, giảng viên trong quá trình đào tạo, về mặt trái của nền kinh tề thị
trường làm cho việc quản lý hoạt động tự học của sinh viên còn gặp khó khăn bất
cập. Ngoài ra, theo lộ trình đổi mới, Giáo dục đại học Việt Nam từ năm 2010 các

2


trường đại học, cao đẳng trong cả nước sẽ áp dụng hình thức đào tạo theo học chế
tín chỉ thay hình thức đào tạo theo niên chế. Hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ,
vai trò của người học được phát huy tích cực tối đa dựa trên sự giúp đỡ của giảng
viên và công tác quản lý học tập của nhà trường.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là chúng tôi cần có sự xem xét, đánh giá tình hình thực

trạng tự học của sinh viên hiện nay và những yếu tố cản trở việc nâng cao chất
lượng tự học, từ đó xác định các biện pháp nâng cao kết quả của hoạt động tự học,
đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Song, những yếu tố
cản trở việc nâng cao chất lượng hoạt động tự học của sinh viên Trường Cao đẳng
Cộng đồng Hà Nội còn rất nhiều, trong đó có sự hạn chế của công tác quản lý hoạt
động tự học. Vì vậy, xây dựng các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên
sẽ góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng đào tạo của Trường
Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tế trên, chúng tôi chọn nghiên cứu
đề tài: “Quản lý hoạt động tự học của sinh viên thông qua đội ngũ giảng viên ở
Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu lý luận, khảo sát thực trạng công tác quản
lý hoạt động tự học ở sinh viên Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội, đề tài đề xuất
một số biện pháp quản lý cho hiệu trưởng nhằm giúp nâng cao chất lượng tự học ở
sinh viên qua đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động tự học của sinh viên cao đẳng.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý của hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội
đối với hoạt động tự học của sinh viên.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi về nội dung:

3


- Luận văn nghiên cứu thực trạng quản lý của Hiệu trưởng đối với hoạt động
tự học của sinh viên với tư cách là hoạt động tiếp nối của hoạt động học tập trên lớp

(ngoài giờ học trên lớp).
- Biện pháp quản lí hoạt động tự học của sinh viên mà đề tài đề xuất để hiệu
trưởng sử dụng được hướng vào đội ngũ giảng viên đang trực tiếp giảng dạy sinh
viên. Đó là vì giảng viên là những người gần gũi sinh viên nhất, đồng thời cũng là
người có trách nhiệm phải giúp sinh viên tự học. Công tác quản lí của hiệu trưởng
đối với hoạt động tự học của sinh viên sẽ đạt hiệu quả mong muốn khi được tiến
hành thông qua đội ngũ giảng viên.
4.2. Giới hạn địa bàn nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu trên sinh viên (200 sinh viên) và giảng viên
(30 cán bộ quản lý) đang học tập và giảng dạy của hệ cao đẳng ở một số khoa
thuộc Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 10 năm 2013 đến tháng 9 năm 2014.
5. Giả thuyết khoa học
Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Cao đẳng Cộng
đồng Hà Nội đã được triển khai song kết quả còn hạn chế. Nếu vận dụng cơ sở lý
luận về tự học, đồng thời căn cứ vào thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học
của sinh viên Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội thì có thể đề xuất được một số
biện pháp quản lý hoạt động tự học ở sinh viên cho hiệu trưởng có tính phù hợp và
khả thi.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động tự học của sinh viên.
6.2. Khảo sát thực trạng quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt động tự học
của sinh viên ở Trường Cao đẳng cộng đồng Hà Nội.
6.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý cho hiệu trưởng thông qua đội ngũ
giảng viên đối với hoạt động tự học của sinh viên ở trường Cao đẳng cộng đồng Hà
nội nhằm nâng cao kết quả tự học cho sinh viên của trường.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản

4



7.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu
7.3. Phương pháp quan sát
7.4. Phương pháp chuyên gia
7.5. Phương pháp phỏng vấn sâu
7.6. Phương pháp thống kê toán học
8. Cấu trúc của luận văn:
Luận văn gồm 3 phần: Mở đầu, 3 chương và Kết luận
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động tự học của sinh viên.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên Trường Cao
đẳng Cộng đồng Hà Nội.
Chương 3: Biện pháp quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt động tự học ở
sinh viên Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội thông qua đội ngũ giảng viên.
Kết luận và khuyến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo.
Phụ lục

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA SINH VIÊN
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong lịch sử phát triển giáo dục, ngay từ thời kỳ Cổ đại các nhà giáo dục lỗi
lạc và tiêu biểu của nhân loại đã nhận ra tầm quan trọng của tự học. Điều đó thể
hiện qua việc nghiên cứu vấn đề tự học của các nhà giáo dục.
Khổng Tử quan tâm việc kích thích sự suy nghĩ, sáng tạo của người học. Ông
nói: “Bất phẫn, bất phải, bất phi, bất phát. Cứ bất ngung, bất dĩ tam ngung phản, tác

bất phục dã” (không tức giận vì muốn biết thì không gợi mở cho, không bực vì
không rõ được thì không bày vẽ cho. Vật có bốn góc, bảo cho biết một góc, mà
không suy ra ba góc khác thì không dạy nữa) [35].
Mạnh Tử đòi hỏi người học phải tự suy nghĩ, không nên nhắm mắt theo sách.
“Tận tín thư bất như vô thư” (Tin cả ở sách thì chi bằng không có sách). Người học
phải cố gắng tìm hiểu [21].
Nhà sư phạm vĩ đại J.A.Comenxki người Slovaquya đưa ra những yêu cầu
cải tổ nền giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người
học. Theo ông, dạy học là phải làm thế nào để người học thích thú học tập và có
những cố gắng bản thân để nắm lấy tri thức. Ông nói: “Tôi thường bồi dưỡng cho
học sinh của tôi tinh thần độc lập trong quan sát, trong đàm thoại và trong việc ứng
dụng tri thức vào thực tiễn” [8, tr.56].
Các Nhà giáo dục thế kỷ 18 và 19 như J.J. Rousseau Pestalogie, DiStecvec,
Usinxki khi xây dựng quan điểm dạy học đã cho rằng cần hướng cho người học
nắm lấy kiến thức bằng cách tự tìm hiểu, tự khám phá, tự tìm tòi và sáng tạo.
Những tư tưởng tiến bộ về tự học của các Nhà giáo dục tiền bối cho đến nay
vẫn còn giữ nguyên giá trị, chúng đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của nền
giáo dục hiện đại, soi đường chỉ lối cho thế hệ sau nghiên cứu về hoạt động tự học
của người học.
Nhà sư phạm nổi tiếng người Nhật T.Makiguchi, trong những năm 30 của
thế kỷ 20 đã cho rằng: “Mục đích của giáo dục là hướng dẫn quá trình học tập và

6


đặt trách nhiệm học tập vào trong tay mỗi học sinh. Giáo dục xét như là quá trình
hướng dẫn học sinh tự học” [34].
Raja Roy Singh, Nhà giáo dục người Ấn Độ cho rằng: “Sự học tập do người
học chủ đạo” [40, tr.110]. Trong hệ thống dạy học, người học vừa là chủ thể vừa là
mục đích của quá trình học tập. “Vị trí của người học ở trung tâm hay ngoại biên là

nét đặc trưng phân biệt hệ thống giáo dục này với giáo dục khác” [40, tr.111].
Trong dự thảo báo cáo về con người của thế kỷ 21, các Nhà giáo dục và
nhân văn châu Âu, châu Mỹ và châu Á đều có quan điểm thống nhất: xem thái độ
học tập và kỹ năng ứng dụng của giới trẻ đang diễn biến ra sao. Tuỳ theo đồ thị tăng
trưởng ấy như thế nào, sẽ biết được diện mạo của lớp trẻ trong tương lai và cả
gương mặt của xã hội ngày mai. Trong đó các tác giả đã đưa ra bốn thái độ học tập
và mười kỹ năng ứng dụng học vấn vào đời sống xã hội, một trong mười kỹ năng
đó là: Kỹ năng tự học, tự nâng cao trình độ cá nhân trong mọi tình huống.
Ở Việt Nam, trong công cuộc đổi mới nền kinh tế - xã hội của đất nước, đã
đặt ra những yêu cầu mới cho Giáo dục, đòi hỏi phải đổi mới Giáo dục. Một trong
những phương hướng đổi mới đó là đổi mới phương pháp dạy học. Trong những
năm gần đây chúng ta nói nhiều đến phương pháp dạy học tích cực, lấy người học
làm trung tâm với ý tưởng cốt lõi là người học phải tích cực, độc lập, tự chủ, sáng
tạo trong quá trình học tập. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với tinh thần Nghị
quyết TW2 (khóa 8) về Giáo dục : “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp Giáo dục &
Đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nề nếp tư duy sáng tạo
của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện
đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho
học sinh, nhất là sinh viên đại học. Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo
thường xuyên và rộng khắp trong toàn nhân dân, nhất là trong thanh niên” [6].
Tinh thần của Nghị quyết đã được cụ thể hoá trong Luật giáo dục, Mục 2,
Điều 4 “Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục” đã nêu rõ: “Phương pháp giáo
dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học,
bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”; Khoản b, Mục
1, Điều 36: “Yêu cầu về nội dung phương pháp giáo dục đại học và sau đại học”

7


cũng nêu: “Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự

học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn
luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, ứng dụng ” [7].
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học”.
Người khuyên: “Không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự
động học tập” [32,18].
Nguyên Tổng bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam Đỗ Mười đã nhấn
mạnh: “Tự học, tự đào tạo là một con đường phát triển suốt đời của mỗi con người
trong điều kiện kinh tế – xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau; đó cũng là truyền
thống quý báu của người Việt Nam và cả dân tộc Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả
giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng lực tự học, sáng tạo của người học,
khi biến được quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục” [30].
Công tác quản lý của Hiệu trưởng với hoạt động của sinh viên là một khía
cạnh trong hoạt động giáo dục đào tạo. Gần đây, một số luận văn thạc sĩ, luận án
tiến sĩ đã đề cập đến vấn đề tự học ở những khía cạnh khác nhau, ví dụ, chỉ ra
những yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức tự học của sinh viên; chỉ ra những điểm
yếu của sinh viên trong tổ chức tự học; đề xuất các biện pháp nâng cao kĩ năng tự
học ở sinh viên; đề xuất các biện pháp quản lí của các tổ chức đoàn thể trong trường
cao đẳng nhằm giúp nâng cao khả năng tự học ở sinh viên. Cụ thể một số luận văn
như: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của sinh viên Học viên
Quân y” của tác giả Quản Thành Minh, “Biện pháp quản lý hoạt động tự học của
sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Yên Bái” của tác giả Nguyễn Thị An....
Những công trình nghiên cứu trực tiếp về cách quản lý hoạt động tự học ở sinh viên
của Hiệu trưởng dường như còn rất ít. Vấn đề này thường được đề cập đến như là
một nội dung nhỏ trong một số nghiên cứu thuộc lĩnh vực giáo dục học hay tâm lí
học. Vì vậy, việc sưu tầm tài liệu để tham khảo về vấn đề quản lý của Hiệu trưởng
đối với hoạt động tự học của sinh viên khá hạn chế.
Các nghiên cứu đi trước cho thấy tự học ngày càng có vai trò quan trọng đối
với phát triển giáo dục nói chung và nhu cầu nắm vững tri thức của mỗi cá nhân nói
riêng. Việc nghiên cứu đề xuất các biện pháp hữu hiệu để tổ chức có hiệu quả hoạt


8


động tự học cho người học mang ý nghĩa thiết thực đối với lợi ích trước mắt và lâu
dài vì không chỉ giúp sinh viên rèn luyện, nâng cao tính độc lập, sáng tạo trong học
tập, tự chủ trong cuộc sống, mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền giáo
dục nước nhà, làm rút ngắn khoảng cách để vươn lên ngang tầm các quốc gia tiên
tiến.
Trong trường Cao đẳng, hiệu trưởng là người giữ vai trò quan trọng, nắm giữ
mọi quyền hạn và ra các quyết định, chính sách liên quan đến toàn bộ hệ thống nhà
trường. Hiệu trưởng là người trực tiếp xây dựng kế hoạch, chỉ đạo hoạt động của
các phòng ban, khoa, tổ chuyên môn như một nội dung trọng yếu. Với tư cách là
người đóng vai trò chủ đạo trong quá trình hoạt động của một tổ chức giáo dục,
người hiệu trưởng trường cao đẳng còn được trang bị cả những kiến thức tâm lý xã
hội để có thể vận dụng vào quản lý hiệu quả các hoạt động của sinh viên đang theo
học tại trường, trong đó có hoạt động tự học.
Ở góc độ quản lý hoạt động tự học của sinh viên đã được một số tác giả nghiên
cứu, tuy nhiên quản lý hoạt động tự học của sinh viên thông qua đội ngũ giảng viên
tại Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội thì chưa được đề cập đến. Chính vì vậy,
chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên của cho luận văn thạc sĩ là: “Quản lý hoạt động tự
học của sinh viên thông qua đội ngũ giảng viên ở Trường Cao đẳng Cộng đồng
Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Trường Cao đẳng trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam
1.2.1. Loại hình và mục tiêu đào tạo của trường Cao đẳng
Trường Cao đẳng là một đơn vị cơ sở của ngành Giáo dục và Đào tạo thuộc
hệ thống giáo dục quốc dân nước ta, được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ Cao đẳng.
Theo Luật Giáo dục (2005, sửa đổi bổ sung 2009): Đào tạo trình độ cao đẳng được
thực hiện từ hai đến ba năm học tùy theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng
tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ một năm rưỡi đến
hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành [17].

Các loại hình trường cao đẳng bao gồm: Trường cao đẳng công lập và
Trường cao đẳng tư thục trong đó Trường cao đẳng công lập do Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo quyết định thành lập. Nguồn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và kinh

9


phí cho các hoạt động của trường, chủ yếu do ngân sách Nhà nước bảo đảm. Còn
Trường cao đẳng tư thục do tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh
tế hoặc cá nhân đầu tư và được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định thành
lập. Nguồn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, và kinh phí hoạt động của trường là nguồn
vốn ngoài ngân sách nhà nước.
Với các loại hình trường cao đẳng thì mục tiêu đào tạo trình độ cao đẳng
không khác biệt, được thể hiện cụ thể tại Điều lệ trường Cao đẳng như sau:
Nhà trường đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức
phục vụ nhân dân; có khả năng tự học, kỹ năng giao tiếp và làm việc theo nhóm; có
sức khoẻ đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhà trường đào tạo người
học có kiến thức chuyên môn vững vàng, kỹ năng thực hành cơ bản, có thái độ và
đạo đức nghề nghiệp đúng đắn, chú trọng rèn luyện kỹ năng và năng lực thực hiện
công tác chuyên môn, có khả năng tìm kiếm và tham gia sáng tạo việc làm.
1.2.2. Nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của trường cao đẳng
a, nhiệm vụ của trường Cao đẳng
Trường Cao đẳng là nơi cung cấp, đào tạo ra nguồn nhân lực có tay nghề cho
xã hội, chính vì vậy mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành nhiều chính sách, quy
định đối với loại hình đào tạo này. Loại hình trường Cao đẳng có rất nhiều nhiệm
vụ và chức năng nhưng nhiệm vụ và chức năng chính là đào tạo nhân lực trình độ
cao đẳng có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp
phù hợp, đáp ứng nhu cầu của xã hội, có khả năng hợp tác trong hoạt động nghề
nghiệp, tự tạo được việc làm cho mình và cho xã hội.
Trường Cao đẳng thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ do các cơ

quan, tổ chức có thẩm quyền giao; kết hợp đào tạo với nghiên cứu khoa học, triển
khai nghiên cứu khoa học; phát triển và chuyển giao công nghệ, thực hiện các loại
hình dịch vụ khoa học, công nghệ và sản xuất; sử dụng có hiệu quả kinh phí đầu tư
phát triển khoa học và công nghệ. Trong nhà trường thực hiện dân chủ, bình đẳng,
công khai trong việc bố trí và thực hiện các nhiệm vụ đào tạo, khoa học, công nghệ
và hoạt động tài chính; quản lý giảng viên, cán bộ, công nhân viên; xây dựng đội ngũ
giảng viên của trường đủ về số lượng, đảm bảo yêu cầu về chất lượng, cân đối về cơ

10


cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhà
trường là nơi đăng ký, tổ chức triển khai kiểm định chất lượng giáo dục và chịu sự
quản lý chất lượng của cơ quan kiểm định chất lượng giáo dục. Loại hình đào tạo
trường Cao đẳng tuyển sinh, tổ chức quá trình đào tạo, công nhận tốt nghiệp, cấp
văn bằng, chứng chỉ theo đúng quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Nhà trường có trách nhiệm phát hiện và bồi dưỡng nhân tài trong những người học
và trong đội ngũ cán bộ giảng viên của trường. Nhà trường quản lý, sử dụng đất đai,
cơ sở vật chất, trang thiết bị và tài sản theo quy định của pháp luật và phối hợp với
các tổ chức, cá nhân và gia đình của người học trong hoạt động giáo dục. Nhà trường còn tổ
chức cho giảng viên, cán bộ, nhân viên và người học tham gia các hoạt động xã hội
phù hợp với ngành nghề đào tạo. Chăm lo đời sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng,
hợp pháp của cán bộ, giảng viên nhà trường. Bên cạnh đó, trường Cao đẳng còn
phải giữ gìn và phát triển những di sản văn hoá dân tộc. Nhà trường có trách nhiệm
thực hiện chế độ báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ quan quản lý các cấp về các
hoạt động của trường theo quy định hiện hành và công khai những cam kết của
trường về chất lượng đào tạo, chất lượng đào tạo thực tế của trường, các điều kiện
đảm bảo chất lượng và thu chi tài chính hàng năm của trường. Nhà trường hoạt
động và thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
b. Cơ cấu tổ chức của trường Cao đẳng

Cơ cấu tổ chức của trường cao đẳng bao gồm:
1. Hội đồng Trường hoặc Hội đồng Quản trị (đối với trường tư thục);
2. Hiệu trưởng và các Phó Hiệu trưởng;
3. Ban kiểm soát (đối với trường tư thục);
4. Hội đồng khoa học và đào tạo và các Hội đồng tư vấn khác;
5. Các phòng ban chức năng;
6. Các khoa và bộ môn trực thuộc;
7. Các bộ môn thuộc khoa;
8. Các tổ chức nghiên cứu và phát triển;
9. Các cơ sở phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học;
10. Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam;

11


11. Các đoàn thể và tổ chức xã hội.
1.2.3. Đặc điểm tâm lí – xã hội của sinh viên cao đẳng
Sinh viên là những người đang theo học ở các trường đại học, cao đẳng - nơi
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Thuật ngữ
“sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng Latin là “Student” - có nghĩa là người học tập,
nghiên cứu, người đi tìm kiếm, khai thác tri thức. Theo “Từ điển giáo dục học”:
“Sinh viên, người học của một cơ sở giáo dục Cao đẳng, Đại học. Có thể phân loại
sinh viên đại học theo những phạm trù khác nhau: Sinh viên tập trung, sinh viên
chính quy, sinh viên không tập trung….” [34]. Hiểu một cách chung nhất: Sinh viên
Việt Nam là những người đang học tại các trường Đại học, Cao đẳng trong và ngoài
nước, đang tích cực tích lũy tri thức, nghề để đáp ứng nguồn nhân lực cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đặc điểm tâm lý – xã hội của sinh viên cao đẳng:
Sinh viên thuộc nhóm lứa tuổi từ 17 đến 23 tuổi. Đây là giai đoạn cơ thể
phát triển hoàn chỉnh, ổn định và là giai đoạn sung sức nhất của cuộc đời. Hệ thần

kinh cấp cao đã hoàn thiện tạo điều kiện phát triển và hoàn thiện các chức năng tâm
lí bậc cao. Do đó khả năng hoạt động trí tuệ của sinh viên về cơ bản đã đạt đến trình
độ của người trưởng thành, thể hiện ở khả năng lập luận logic, khả năng phán đoán,
tưởng tượng, các ý tưởng trừu tượng…
Về mặt tâm lý xã hội, một đặc điểm quan trọng của lứa tuổi này là sự phát
triển của tự ý thức, giúp sinh viên có thể tự điều chỉnh nhận thức và thái độ đối với
bản thân, giúp họ có thể đưa ra các quyết định đúng đắn, qua đó là điều kiện để phát
triển và hoàn thiện nhân cách.
Giai đoạn này, sinh viên có nhu cầu mở rộng mối quan hệ xã hội. Điều này
đòi hỏi ở họ những cách ứng xử mới, chững chạc và đúng đắn, qua đó giúp họ thể
hiện sự tự quyết nghề nghiệp rõ hơn, thúc đẩy quá trình học tập nghề nghiệp của họ
theo hướng tích cực, hiệu quả hơn. Đây là một trong những yếu tố quan trọng góp
phần phát triển ý thức và khả năng tự học ở sinh viên cao đẳng.
Ở lứa tuổi sinh viên, những chín muồi về thể lực đã bắt đầu được chuyển
sang sự trưởng thành về phương diện tâm lí và xã hội: Là giai đoạn ổn định về tính

12


cách và có vai trò xã hội của một người lớn thực thụ. Sinh viên thể hiện tính độc
lập, tự lập và tự quản cao trong hoạt động, nhất là hoạt động học tập. Trong quá
trình học tập dưới sự hướng dẫn của giảng viên, sinh viên chủ động, tích cực và tự
giác học tập, tự nghiên cứu để lĩnh hội và làm chủ kiến thức. Còn khi không có
giảng viên, họ hoàn toàn có đầy đủ những điều kiện bản thân để tổ chức việc tự học,
bởi phần lớn trong số họ có động cơ học tập rõ ràng (là học nghề để kiếm sống và
phục vụ xã hội), đồng thời có khả năng thực hiện những hành động đòi hỏi sự quyết
tâm, ý chí mạnh mẽ.
Khác với học sinh phổ thông, bên cạnh hoạt động chủ đạo là học tập, lĩnh hội
tri thức của thầy, người sinh viên còn phải có nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu trên
cơ sở tư duy độc lập. Về bản chất, quá trình học tập của sinh viên ở bậc đại học là

quá trình nhận thức có tính nghiên cứu. Bản chất tâm lí của tự học là sự huy động
đồng thời các chức năng tâm, sinh lí, xã hội của một người vào quá trình học tập mà
không có sự giám sát của người khác: Sinh viên phải tập trung chú ý cao độ; phải sử
dụng trí nhớ dài hạn để huy động các kiến thức, kinh nghiệm đã có; phải tưởng
tượng để hình dung ra kết quả cuối cùng của nhiệm vụ cần giải quyết; phải tự thúc
đẩy mình kể cả khi gặp những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp; phải biết thông qua
các mối quan hệ với bạn bè, thầy cô giáo để bổ sung những thiếu hụt của bản thân
về kiến thức, kĩ năng…nhằm giải quyết hiệu quả nhiệm vụ được giao…Tất cả
những yêu cầu trên đây, về mặt lí thuyết, sinh viên cao đẳng đều đã có và đó là
những tiền đề tốt giúp họ có thể làm tốt việc tự học. Trong những năm gần đây,
thực hiện chủ trương đổi mới giáo dục đại học, nhiều trường cao đẳng đã và đang
triển khai phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ. Phương thức đào tạo này coi
trọng vai trò trung tâm của sinh viên, tạo cho sinh viên năng lực chủ động, sáng tạo
trong phương pháp học của mình do đó sẽ giúp thúc đẩy mạnh mẽ hơn hoạt động tự
học ở sinh viên cao đẳng.
1.3. Hoạt động tự học
1.3.1. Khái niệm tự học
Trong các giáo trình, tài liệu, các tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về
tự học.

13


N.A Rubakin nói: "Tự đi tìm lấy kiến thức - có nghĩa ta tự học" ; Tự học (Self
- learning) là quá trình người học nỗ lực chiếm lĩnh tri thức bằng hành động của
chính mình, hướng tới mục đích nhất định.
Trong cuốn "Học tập hợp lí" R.Retxke chủ biên, coi "Tự học là việc hoàn
thành các nhiệm vụ khác không nằm trong các lần tổ chức giảng dạy" [32, Tr. 97].
Theo Giáo sư Đặng Vũ Hoạt và Tiến sĩ Hà Thị Đức trong cuốn "Lý luận dạy
học đại học" thì "Tự học” là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại học. Đó là

một hình thức họat động nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức
và kỹ năng do chính người học tự tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc
không theo chương trình và sách giáo khoa đã được quy định (14,Tr.142 ).
Theo Giáo sư - Viện sĩ Nguyễn Cảnh Toàn: "Tự học là tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) và có
khi cả cơ bắp (khi sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ,
tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến
thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi
đỗ, biết biến khó khăn thành thuận lợi …) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào
đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình” [38, Tr. 59,60].
Thực chất tự học là một quá trình học tập, một quá trình nhận thức không
trực tiếp có thầy giáo, đó là một quá trình “lao động khoa học” vất vả hơn nhiều so
với có thầy giáo hướng dẫn. Có thể nói quá trình tự học của người học là một quá
trình tự nỗ lực, quyết tâm, tích cực để đạt được mục tiêu học tập. Nếu thiếu sự nỗ
lực thì người học không thể đạt kết quả tốt, đây cũng chính là điều kiện để người
học nâng cao chất lượng học tập của bản thân và các nhà trường nâng cao chất
lượng giáo dục.
Đối với sinh viên, hoạt động tự học có thể diễn ra ở mọi lúc mọi nơi. Cứ khi
nào sinh viên huy động mọi khả năng nhận thức hiện có của mình, tiến hành các
hoạt động tìm tòi, khám phá tự giác, đứng trước mọi hiện tượng của thế giới khách
quan là khi đó họ đang tiến hành tự học.
Tự học ở trình độ Đại học, Cao đẳng là một trong những hình thức tổ chức
dạy học cơ bản có tính độc lập cao và mang đậm nét sắc thái cá nhân nhưng có quan

14


hệ chặt chẽ với quá trình dạy học. Nội dung của tự học rất phong phú, bao gồm toàn
bộ những công việc học tập do cá nhân và có khi do tập thể sinh viên tiến hành
ngoài giờ học chính khoá hoặc do bản thân sinh viên độc lập tiến hành ngay trong

giờ chính khoá như: Đọc sách ghi chép theo cách riêng, làm bài tập, tham gia các
hoạt động thực tế…
Tự học còn là hình thức học tập có tính chất cá nhân, do bản thân học sinh nỗ
lực học tập ở trên lớp hay ngoài lớp học và diễn ra khi học sinh còn ngồi trên ghế
nhà trường hoặc trong suốt cả cuộc đời. Cho nên: Tự học đó là việc học tập độc lập
của học sinh - sinh viên diễn ra song song với quá trình dạy học, có liên quan mật
thiết với quá trình này. Có lúc dựa vào chương trình sách giáo khoa đã được ấn
định, có lúc không bám sát chương trình, vào sách, tự đề thêm nhiệm vụ, sử dụng
thêm tài liệu lý luận và thực tiễn tuỳ theo hứng thú khoa học và nghề nghiệp, tuỳ
theo khuynh hướng và khả năng, tuỳ theo trình độ nhận thức của bản thân về nhiệm
vụ và trách nhiệm, cuối cùng tuỳ theo thói quen làm việc độc lập của mỗi cá nhân.
Như vậy cốt lõi của học tự học và khi xem xét đến mối quan hệ giữa dạy và
học thì dạy chỉ là ngoại lực, còn tự học là nhân tố quyết định đến bản thân người
học – nội lực. Nhưng quá trình dạy cũng có ý nghĩa rất lớn và ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình học. Do vậy, trò là chủ thể, trung tâm, tự mình chiếm lĩnh tri thức,
chân lý bằng hành động của mình, tự phát triển bên trong. Thầy là tác nhân, hướng
dẫn, tổ chức, đạo diễn cho trò tự học. Người thầy giỏi là người dạy cho trò biết tự
học. Người trò giỏi là người biết tự học sáng tạo suốt đời.
Năng lực tự học là nội lực phát triển bản thân người học. Thầy dạy, cốt lõi là
dạy cách học, cách tư duy. Tác động dạy của thầy là ngoại lực đối với sự phát triển
của người học. Theo quy luật phát triển của sự vật, ngoại lực dù là quan trọng đến
đâu, lợi hại đến mấy cũng chỉ là nhân tố giúp đỡ, thúc đẩy, tạo điều kiện; nội lực
mới là nhân tố quyết định sự phát triển bản thân sự vật. Tác động dậy của thầy dù là
quan trọng đến mức “không thầy đố mày làm nên” vẫn là ngoại lực hướng dẫn, trợ
giúp, tạo điều kiện cho trò tự học, tự phát triển và trưởng thành... trò là chủ thể, tự
mình xử lý thông tin bên ngoài thành tri thức bên trong con người mình bằng cách

15



học, cách tư duy của chính mình. Thầy là tác nhân hướng dẫn, tổ chức, đạo diễn cho
trò biết cách tự học chữ, tự học nghề, tự học nên người
Nhìn chung, các quan niệm đều cho rằng: Tự học là quá trình học với sự tích
cực, chủ động, độc lập cao của người học, thông qua các thao tác trí tuệ, chân tay,
bằng cả ý chí, nghị lực và sự say mê học tập của mỗi cá nhân để chiếm lĩnh tri thức,
kinh nghiệm của nhân loại biến thành tri thức, vốn sống, kinh nghiệm của bản thân
và đạt được các mục tiêu học tập.
Từ nghiên cứu các cách hiểu của những tác giả đi trước, đề tài đưa ra cách
hiểu theo nghĩa rộng và cách hiểu theo nghĩa hẹp về tự học như sau:
- Theo nghĩa rộng, tự học là quá trình người học tự quyết định việc lựa chọn
mục tiêu học tập, nội dung học tập, cách thức học tập, các hoạt động học tập và
các hình thức, phương pháp kiểm tra đánh giá thích hợp. Từ đó tổ chức xây dựng,
kiểm tra, kiểm soát tiến trình học tập của cá nhân mình. Nhìn chung, tự học theo
nghĩa này được hiểu là quá trình học tập một cách tự giác, chủ động và độc lập
nhằm chiếm lĩnh tri thức, kinh nghiệm lịch sử xã hội.
- Theo nghĩa hẹp, tự học là quá trình người học giải quyết các nhiệm vụ học
tập theo yêu cầu của giáo viên ở ngoài giờ học trên lớp, hay, là quá trình người học
tự giác, độc lập giải quyết một cách hiệu quả những nhiệm vụ học tập mà giáo viên
giao cho. Theo cách hiểu này thì tự học được xem như một giai đoạn hay một khâu
của quá trình học tập.
Trong đề tài này, khái niệm tự học theo nghĩa hẹp được quan tâm vận dụng
vào nghiên cứu.
1.3.2. Khái niệm hoạt động tự học
Về bản chất, hoạt động tự học là quá trình nhận thức mang tính cá nhân,
không có người hướng dẫn, giám sát, người học hoàn toàn tự giác, độc lập, tự điều
khiển việc thực hiện các nhiệm vụ học tập do mình đề ra, nhằm đáp ứng nhu cầu
hiểu biết của bản thân. Có thể đưa ra một số nét đặc trưng của hoạt động tự học như
sau:
- Thể hiện vai trò hoàn toàn chủ động, tự giác của người học
- Là một hoạt động có mục đích, có kế hoạch rõ ràng


16


- Có nội dung đa dạng
- Diễn ra trong môi trường khác nhau, bối cảnh phong phú
- Sử dụng các phương pháp, phương tiện đa dạng
- Kết quả hoạt động tự học được đánh giá thông qua kết quả thực hiện các
nhiệm vụ học tập cụ thể…
Trong trường cao đẳng, hoạt động tự học là một bộ phận của quá trình sư
phạm tổng thể, đồng thời là quá trình động, chịu sự tác động của các yếu tố bên
ngoài và bên trong, cần có sự kết hợp giữa điều khiển của giáo viên với tự điều
khiển của sinh viên. Do vậy, hoạt động tự học đòi hỏi phải được quản lý từ phía
giảng viên, bên cạnh sự tự quản lý của sinh viên nhằm tạo nên sự phối hợp nhịp
nhàng làm cho hoạt động dạy và học trở thành một chu trình kín.
Nghiên cứu hoạt động tự học như là một hình thức tổ chức hoạt động dạy
học ở đại học, theo Phạm Viết Vượng thì “Tự học là hình thức học ngoài giờ lên lớp
bằng nỗ lực cá nhân theo kế hoạch học tập chung và không có mặt trực tiếp của
giảng viên. Tự học thường được tiến hành tại gia đình hay thư viện, cách học là
hoàn toàn độc lập theo phương pháp tự nghiên cứu. Nội dung công việc tự học là
bài học cũ, chuẩn bị bài mới và làm các bài tập vận dụng kiến thức, làm các bài tập
sáng tạo khác” [50];[33].
Nhìn chung, các tác giả quan niệm rằng tự học là học với sự độc lập và tích
cực, tự giác ở mức độ cao, tự học là quá trình trong đó, chủ thể là người học tự biến
đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng các thao tác trí tuệ hoặc chân tay
nhờ cả ý chí, nghị lực và sự say mê học tập của cá nhân nhằm tích lũy kiến thức cho
bản thân người học từ kho tàng tri thức của nhân loại, biến những kinh nghiệm này
thành kinh nghiệm và vốn sống của cá nhân người học.
Có thể khẳng định rằng, hoạt động tự học của sinh viên là một hoạt động
không thể thiếu và đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình học tập ở

bậc Cao đẳng. Hoạt động tự học là hoạt động bắt buộc đối với sinh viên. Sinh viên
muốn có thông tin, muốn hiểu rõ một vấn đề nghiên cứu thì học trên lớp là chưa đủ.
Vì vậy, tự học là quá trình sinh viên tìm tòi những kiến thức, kỹ năng, thông qua kế

17


hoạch tự học, nội dung tự học, phương pháp tự học để đạt được kết quả tốt trong
việc học tập.
Khi chuyển sang phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ, kế hoạch học tập
cụ thể phụ thuộc vào chính bản thân người học. Sinh viên có nhiệm vụ và quyền
được lựa chọn môn học, thời gian học, tiến trình học tập nhanh, chậm phù hợp với
điều kiện của mình. Phương thức này tạo cho sinh viên năng lực chủ động trong
việc lập kế hoạch học tập khoa học, xác định thời gian, phương tiện, biện pháp để
thực hiện các mục tiêu đề ra trong kế hoạch học tập đó. Khi đó người sinh viên phải
ý thức xây dựng kế hoạch tự học, tự nghiên cứu sao cho quá trình học tập hiệu quả
nhất. Hình thức tổ chức dạy học trong phương thức tín chỉ qui định hoạt động tự
học của sinh viên như là một thành phần bắt buộc trong thời khóa biểu và là một nội
dung quan trọng của đánh giá kết quả học tập.
Từ đó, đề tài đưa ra cách hiểu về “Hoạt động tự học” là quá trình cá nhân
tự giác, độc lập tổ chức thực hiện một chuỗi các hành động liên tiếp nhau, bắt đầu
từ xác định mục đích tự học cho đến tự kiểm tra đánh giá kết quả tự học để rút kinh
nghiệm, điều chỉnh việc tự học nhằm giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ học tập
của bản thân.
Còn “Hoạt động tự học của sinh viên cao đẳng” là quá trình mỗi sinh viên
cao đẳng tự giác, độc lập tổ chức thực hiện một chuỗi các hành động, từ xác định
mục đích tự học cho đến kiểm tra đánh giá kết quả tự học nhằm giải quyết có hiệu
quả các nhiệm vụ học tập nghề nghiệp của bản thân.
1.3.3. Vai trò của tự học đối với sinh viên đại học, cao đẳng
Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học ở Đại học nói riêng giảng viên

luôn giữ một vai trò quan trọng đặc biệt không thể thiếu được đó là sự tổ chức, điều
khiển, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh. Nhưng thực tế cho thấy
rằng, dù giảng viên có kiến thức uyên thâm đến đâu, phương pháp giảng dạy hay
đến mấy nhưng học sinh không chịu đầu tư thời gian, không có sự nỗ lực lao động
của cá nhân, không có niềm khao khát với tri thức, không có niềm say mê học tập,
không có kế hoạch và phương pháp học tập hợp lý, không có sự tự giác tích cực
trong học tập thì việc học tập không đạt kết quả cao được .

18


Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của hoạt động tự học luôn luôn giữ một vị trí
rất quan trọng trong quá trình học tập của người học. Tự học là yếu tố quyết định
chất lượng và hiệu quả của hoạt động học tập. Tự học huy động các chức năng tâm
lý. Tự học khác với học có người hướng dẫn. Ở đây tự học phải xuất phát từ bản
thân người học từ ý trí, động cơ, súc cảm thì hoạt động tự học mới đạt kết quả cao.
Khi bàn về vai trò của tự học Tổng bí thư Đỗ Mười đã phát biểu: "Tự học, tự
đào tạo là con đường phát triển suốt cuộc đời của mỗi người, trong điều kiện kinh
tế, xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau đó cũng là truyền thống quý báu của người
Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng cao khi
tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biến được quá trình giáo dục thành
tự giáo dục. Quy mô giáo dục được mở rộng khi có phong trào "toàn dân tự học"
[Trích thư gửi Hội thảo khoa học nghiên cứu phát triển tự học, tự đào tạo ngày
6/1/1998].
Tự học được xuất phát từ chính nhu cầu muốn học hỏi, muốn gia tăng sự
hiểu biết để làm việc và sống tốt hơn của mỗi người, là hình thức học tập không thể
thiếu được của sinh viên đang học tập tại các trường đại học, cao đẳng.
Ở trung học phổ thông, học sinh chỉ cần vững kiến thức thầy cô dạy trên lớp
và làm bài tập được giao, giáo viên liên tục có những bài kiểm tra, đánh giá dành
cho học sinh. Tuy nhiên khi học lên học ở bậc cao đẳng thì yêu cầu hoạt động học

tập của sinh viên đã khác hẳn, trong đó tự học là phương pháp, cách thức cơ bản mà
sinh viên phải thực hiện thường xuyên. Đối với sinh viên cao đẳng, học có phương
pháp là vô cùng quan trọng. Giảng viên đóng vai trò là người hướng dẫn, cung cấp
tài liệu, hướng dẫn đề tài, sinh viên phải tự biết cách sắp xếp thời gian và trình tự
nghiên cứu những kiến thức cơ bản và mở rộng tìm hiểu những vấn đề liên quan.
Thêm vào đó, không còn sự giám sát gắt gao của giáo viên, sinh viên phải tự nỗ lực
để có thể đạt hiệu quả cao trong kì thi kết thúc môn học.
Học ở Cao đẳng, Đại học đòi hỏi sinh viên phải tiếp thu một khối lượng kiến
thức lớn và khó cho nên ngoài thời gian học trên lớp sinh viên phải tự học, tự
nghiên cứu ngoài giờ lên lớp để mở rộng và đào sâu tri thức. Cũng chính thông qua
hoạt động tự học này đã giúp rất nhiều cho sinh viên trong quá trình học tập. Tự học

19


giúp sinh viên nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và nghề nghiệp trong tương lai.
Chính trong quá trình tự học, sinh viên đã từng bước biến vốn kinh nghiệm của loài
người thành vốn tri thức riêng của bản thân. Hoạt động tự học đã tạo điều kiện cho
sinh viên hiểu sâu tri thức, mở rộng kiến thức, củng cố ghi nhớ vững chắc tri thức,
biết vận dụng tri thức vào giải quyết các nhiệm vụ học tập mới. Tự học không
những giúp sinh viên không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập khi còn
ngồi trên ghế nhà trường mà còn giúp họ có được hứng thú, thói quen và phương
pháp tự học thường xuyên để làm phong phú thêm, hoàn thiện hơn vốn hiểu biết của
mình. Giúp họ tránh được sự lạc hậu trước những biến đổi không ngừng của khoa
học và công nghệ trong thời đại ngày nay. Tự học thường xuyên, tích cực, tự giác,
độc lập không chỉ giúp sinh viên mở rộng đào sâu kiến thức mà còn giúp sinh viên
hình thành được những phẩm chất trí tuệ và rèn luyện nhân cách của mình. Tạo cho
họ có nếp sống và làm việc khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc
phê phán, hứng thú học tập và lòng say mê nghiên cứu khoa học. Trong quá trình
học tập ở trường Đại học, nếu bồi dưỡng được ý chí và năng lực tự học cần thiết thì

sẽ khơi dậy được ở sinh viên tiềm năng to lớn vốn có trong họ, tạo nên động lực nội
sinh của quá trình học tập, vượt lên trên mọi khó khăn, trở ngại bên ngoài. Khả
năng tự học chính là nhân tố nội lực, nhân tố quyết định chất lượng đào tạo.
1.3.4. Đặc điểm hoạt động tự học của sinh viên
Vấn đề tự học được đặt ra có ý nghĩa rất lớn, rất thời sự khi chúng ta chủ
trương tiến hành xây dựng một xã hội học tập, học tập thường xuyên, học tập suốt
đời. Thực chất tự học nói chung và tự học của sinh viên cao đẳng nói riêng là một
quá trình học tập, một quá trình nhận thức không trực tiếp có giáo viên, đó là một
quá trình “lao động khoa học” tiệm cận với phương pháp nghiên cứu. Có thể nói
quá trình tự học của sinh viên là một quá trình tự nỗ lực, quyết tâm, tích cực để đạt
được mục tiêu học tập. Nếu thiếu sự nỗ lực thì sinh viên không thể đạt kết quả tốt,
đây cũng chính là điều kiện để sinh viên nâng cao chất lượng học tập của bản thân
và các trường đại học nâng cao chất lượng giáo dục.
Để làm tốt nhiệm vụ của người học, sinh viên cần phải quan tâm đến những
vấn đề sau: phương pháp (cách) nghe giảng, cách ghi chép, cách đọc giáo trình,

20


sách, tài liệu tham khảo, tự xây dựng, quản lí thực hiện kế hoạch học tập cá nhân,
phương pháp tư duy, kỹ năng phân tích, tổng hợp, kỹ năng giải quyết vấn đề,…Tự
học ở trình độ cao đẳng có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giáo dục và tự
giáo dục. Nó thể hiện rõ nét ý thức tự giáo dục của sinh viên trong cuộc sống, đặc
biết là trong quá trình lập thân, lập nghiệp. Nó giúp sinh viên tự lực nắm vững tri
thức, kỹ năng kỹ xảo về nghề nghiệp và tương lai. Trong quá trình tự học mỗi sinh
viên tự vận động, từng bước chuyển hóa vốn kinh nghiệm, tri thức của loài người đã
tích lũy trong quá trình lịch sử thành vốn tri thức riêng của bản thân. Trong quá
trình đó, sinh viên đã thể hiện cao vai trò chủ thể nhận thức của mình, kết hợp và
thống nhất một cách hài hòa vai trò chủ thể nhận thức với vai trò đối tượng điều
khiển trong dạy học. Tự học không những giúp sinh viên không ngừng nâng cao

chất lượng và hiệu quả học tập khi còn ở trường mà trong tương lai, người sinh viên
sẽ trở thành người cán bộ có năng lực, hứng thú, thói quen và phương pháp tự học,
tự nghiên cứu thường xuyên cập nhật tri thức giải quyết được các yêu cầu bức xúc
của cuộc sống đặt ra, tránh được sự lạc hậu trước sự phát triển ngày càng gia tăng
của xã hội trong thời đại ngày nay. Tự học – một hoạt động của sinh viên giúp cho
chính người học vươn lên trong cuộc sống, tự khẳng định mình bằng các đức tính
kiên trì, chịu khó, xây dựng ý chí phấn đấu vì khoa học, vì cuộc sống, sớm xác định
được định hướng, niềm tin và lòng say mê nghiên cứu khoa học. Tự học ở bậc đại
học có nội dung đa dạng, phong phú, vì vậy đòi hỏi sinh viên phải rất chủ động
trọng việc xây dựng kế hoạch một cách khoa học, cụ thể với ý thức trách nhiệm cao.
Nội dung tự học bao gồm toàn bộ những công việc học tập do cá nhân và có thể do
tập thể sinh viên tiến hành ngoài giờ học chính khóa. Có thể nói khối lượng công
việc tự học của sinh viên là rất lớn, tính chất hoạt động đa dạng. Thời gian sinh viên
dành cho tự học tương đối nhiều, tỷ lệ thường là 1-1 so với thời gian học trên lớp
tương ứng khoảng 28- 30 tiết một tuần. Vì vậy, trong thời gian biểu của sinh viên
thường nảy sinh nhiều khó khăn khi giải quyết mâu thuẫn giữa các vấn đề sau:
Thời gian học và thời gian tự học;
Thời gian tự học và thời gian thực hiện các hoạt động khác (vui chơi thể
thao, sinh hoạt văn hóa – xã hội);
Khối lượng công việc và chất lượng công việc;

21


Khối lượng công việc và sức khỏe;
Khối lượng, chất lượng công việc và điều kiện vật chất.
Chính vì vậy, hoạt động tự học cần phải có kế hoạch khoa học, thời gian biểu
hợp lý thì mới đem lại hiệu quả, chất lượng, đồng thời góp phần thúc đẩy chất
lượng tự học, tự nghiên cứu như mong muốn.
Ngoài ra còn phải kể đến các trở ngại của sinh viên trong quá trình tự học

như: Tính thụ động của sinh viên, lười đọc sách, ôn bài ở nhà, chỉ đợi đến giờ lên
lớp là vào học, không đầu tư kiến thức chuyên môn mặc dù đã có trang bị giáo
trình, bài giảng sẵn có trong tay. Sinh viên chỉ học những gì giáo viên nêu ở lớp,
nếu giáo viên tóm tắt vấn đề thì sinh viên mới nắm được, đây là kiểu học ở bậc phổ
thông, mang tính từ chương. Sinh viên chưa nắm được phương pháp tự học và cách
học ở bậc đại học, nhất là bước chuẩn bị nội dung ở nhà cho lần lên lớp kế tiếp.
Một trở ngại lớn nữa là vấn đề mưu sinh, sinh viên gặp phải điều kiện kinh tế khó
khăn, phải đi làm thêm, đôi khi không dự lớp và không có thời gian tự học, vì thế
chất lượng học tập kém và không theo nổi việc học. Vấn đề ngoại ngữ là một trở
ngại lớn đối với việc sinh viên tự học. Khi đã bước sang năm thứ 2 và 3, tất yếu là
sinh viên cần phải đọc thêm nhiều tài liệu chuyên môn, đa phần là sách nước ngoài,
tài liệu tiếng Việt không nhiều, vì thế sinh viên không thể tích lũy kiến thức chuyên
ngành theo kiểu tự học qua sách, tài liệu chuyên môn ngoại ngữ. Sinh viên khó
khăn trong việc học nhóm do thời khóa biểu khác nhau. Thiếu kỹ năng trong làm
việc nhóm, đôi khi còn đùn đẩy cho nhau, chưa phát huy hết tính tự giác trong học
tập. Nhà trường không có phòng cho sinh viên tự học đặc biệt là học nhóm.
1.3.5. Một số yêu cầu đối với hoạt động tự học của sinh viên cao đẳng
Trên cơ sở quỹ thời gian nói chung và quỹ thời gian tự học nói riêng, sinh
viên cần phải xây dựng được kế hoạch tự học, nội dung tự học và phương pháp tự
học, trong đó xây dựng được kế hoạch chi tiết thời gian tự học và phải đảm bảo một
số yêu cầu như sinh viên đảm bảo thời gian tự học cho từng môn tương xứng với
kiến thức của môn học đó. Không ức chế, đảm bảo xen kẽ, luân phiên một cách hợp
lý các dạng tự học, các môn có tính chất khác nhau. Chống mỏi mệt và tái sản xuất
sức khỏe, đảm bảo xen kẽ, luân phiên giữa tự học và nghỉ ngơi một cách hợp lý.
Sinh viên có kế hoạch và thời gian biểu tự học một cách mềm dẻo. linh hoạt. Nội

22


dung tự học lợp lý, có nội dung chương trình rõ ràng, biết khai thác các thông tin

qua tài liệu, sách vở, qua thầy cô, bạn bè. Nội dung tự học phải phù hợp.
Sinh viên cao đẳng phải được trang bị kiến thức về tự học bằng nhiều
phương pháp khác nhau như học nhóm, học trên thư viện, học ngoài xã hội.
Hoạt động tự học đòi hỏi sinh viên phải nắm được cách thức làm việc độ lập
trong các hoạt động như đọc sách, tự lực hoàn thành các loại bài tập… Tất nhiên,
cách thức làm việc độc lập không phải có sẵn, tự nó đến với con người mà phải tập
mới có, nhất là đối với hoạt động trí óc, hoạt động phức tạp, đòi hỏi phải đầu tư rèn
luyện. Nó sẽ được hình thành dần dần trong quá trình tập luyện kiên trì và có hệ
thống, trên cơ sở tự giác học tập.
Tập trung tư tưởng cũng là khâu quan trọng. Tập trung tư tưởng để làm việc
là một vấn đề khó, thập chí là nan giải đối với nhiều người. Hiện nay trong xã hội
công nghiệp, lao động trí óc lại càng yêu cầu sự tập trung tư tưởng. Đây là thói quen
tốt phải rèn luyện rất nhiều thì mời nâng cao hiệu suất làm việc, chất lượng tự học
như mong muốn. Để tập trung tư tưởng cần phải có sự say mê, hứng thú, tạo được
cảm giác thoải mái khi học tập. Đảm bảo xen kẽ, luân phiên một cách hợp lý các
môn học, đảm bảo tính mềm dẻo mang lại hiệu quả cao nhất.
Tập trung tư tưởng tốt thì sẽ tiết kiệm thời gian. Để tiết kiệm thời gian, cần
phải: làm việc một cách tự giác, tránh học tập lơ là, hời hợt. Sinh viên phải biết cách
tổ chức ngăn nắp nơi tự học, tạo điều kiện dễ dàng nhanh chóng tìm kiếm được
những thứ cần dùng (sách, vở, giầy, các phương tiện kỹ thuật …) tránh bừa bãi, lộn
xộn.
1.4. Quản lí hoạt động tự học của sinh viên
1.4.1. Khái niệm quản lí
Quản lý là một trong những hoạt động cơ bản nhất của con người, xét từ
những phạm vi cá nhân, tập đoàn đến quốc gia hoặc nhóm quốc gia. Trong tất cả
các lĩnh vực của đối tượng xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển đều phải
dựa vào sự nỗ lực của một tổ chức từ một nhóm nhỏ đến phạm vi rộng lớn hơn ở
tầm quốc gia, quốc tế đều phải thừa nhận và phải chịu sự quản lý nào đó.
Có rất nhiều quan niệm về quản lý, theo những cách tiếp cận khác nhau:


23


×