Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

TỔNG THỂ VỀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ CƠ SỞ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.56 KB, 55 trang )

Dự thảo
ĐỀ ÁN
TỔNG THỂ VỀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ CƠ SỞ.
Phần thứ nhất
SỰ CẦN THIẾT VÀ CĂN CỨ ĐỂ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN,
I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN;
1.1. Xuất phát từ vị trí, vai trò của Hệ thống chính trị ở cấp cơ sở:
Theo Điều 118 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 quy
định cơ sở xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là cấp xã hoặc cấp cơ sở) là đơn vị
hành chính cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính 4 cấp ở nước ta. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng dạy: “Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành
chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi” 1. Cấp xã ổn định thì an
ninh, chính trị, xã hội của đất nước ổn định.
Cấp xã là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống; Chính quyền cấp
xã, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức Đoàn thể chính trị- xã hội là cầu nối trực tiếp toàn
bộ hệ thống chính trị với dân, là nơi tổ chức, vận động nhân dân thực hiện đường
lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tăng cường đại đoàn kết toàn
dân, khai thác mọi tiềm năng ở địa phương để phát triển kinh tế- xã hội, tổ chức
cuộc sống của cộng đồng dân cư.
Cán bộ cấp xã bao gồm cán bộ Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các
Đoàn thể chính trị- xã hội. Thực tiễn ở cấp xã đã khẳng định “cán bộ nào thì
phong trào nấy”; tình hình cấp xã tốt hay yếu kém chủ yếu là do cán bộ quyết
định. Cán bộ cấp xã là người trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đến với người dân và là người trực tiếp tổ chức để
nhân dân thực hiện.
1.2. Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở cần hoàn
thiện chế độ chính sách phù hợp cho cán bộ, công chức cấp xã
Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã ban hành
Nghị quyết số 17/NQ- TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 về “Đổi mới và nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”.
Nghị quyết đề ra 5 nhiệm vụ trọng tâm là: đổi mới nội dung, phương thức


lãnh đạo của tổ chức Đảng ở cơ sở; đổi mới và nâng cao hiệu lực của Chính quyền
cơ sở; đổi mới công tác của Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể nhân dân; xây dựng
1

Hồ Chí Minh toàn tập - Tập 5 - NXB Chính trị quốc gia - năm 1995, trang 371.


đội ngũ cán bộ cơ sở; đổi mới sự chỉ đạo của cấp trên đối với cơ sở. Do vậy, vấn
đề thực hiện chế độ chính sách đãi ngộ hợp lý cho cán bộ, công chức cấp xã là một
trong những nội dung cần thiết khi thực hiện nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ cơ
sở nhằm tiếp tục cụ thể hoá Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX góp phần xây dựng
hệ thống chính trị cấp xã vững mạnh và hoàn thiện bộ máy Nhà nước nói chung
trong tiến trình cải cách nền hành chính hiện nay.
1.3. Yêu cầu của thực tiễn cần có văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo
tính đồng bộ, thống nhất về chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã:
Những yếu kém, bất cập của hệ thống chính trị ở cơ sở trong thời gian qua,
có nhiều nguyên nhân: do bản thân hệ thống chính trị ở cơ sở, do toàn bộ hệ thống
chính trị; nhưng có một nguyên nhân quan trọng như ý kiến của Trung ương, Bộ
chính trị đã nhấn mạnh trong Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương 5,
khoá IX là: “Nguyên nhân chưa nhận thức đúng vai trò, vị trí của cơ sở, quan liêu,
để một thời gian quá dài không có chính sách đồng bộ đối với cán bộ, thiếu chăm
lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ cho cơ sở, không kịp thời bàn và đưa ra
những chính sách để củng cố và tăng cường cơ sở”.
Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6, khoá X cũng
đã nêu rõ nguyên nhân của những khuyết điểm, yếu kém hiện nay có nguyên nhân
khách quan, song chủ yếu là do một số nguyên nhân chủ quan, trong đó: “ việc ban
hành các quy định, hướng dẫn của trung ương về công tác xây dựng đảng còn
chậm, thiếu đồng bộ, một số quy định hướng dẫn chưa sát thực tế. Chế độ, chính
sách đối với cán bộ cơ sở còn bất cập; đội ngũ cấp uỷ viên ít được bồi dưỡng về kỹ
năng, nghiệp vụ công tác xây dựng đảng và cập nhật những kiến thức mới, nhất là

về kinh tế, xã hội và pháp luật”.
Các Nghị định của Chính phủ đối với cán bộ, công chức cơ sở (Nghị định
số 121/2003/NĐ-CP, Nghị định số 114/2003/NĐ- CP) hơn 5 năm thực hiện đã bộc
lộ nhiều bất cập từ khâu quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo, sử dụng, quản lý đến chế
độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức cơ sở. Bản thân đội ngũ cán bộ,
công chức cơ sở chưa được chuẩn bị cả về chính trị, tư tưởng, đến nâng cao năng
lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nhiều cán bộ không vượt qua được khó khăn
thử thách đã vi phạm pháp luật hoặc không được nhân dân tín nhiệm để tiếp tục
công tác.
1.4. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ:
Văn phòng Chính phủ có công văn số 5875/VPCP- VX ngày 15 tháng 10
năm 2007 thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ “ Giao Bộ Nội vụ tiếp tục
chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các
địa phương xây dựng Đề án tổng thể về chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở và
soạn thảo Nghị định thay thế Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21 tháng 10
năm 2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ ở xã, phường, thị


trấn phù hợp với nội dung các đề án sẽ trình và triển khai thực hiện Nghị quyết hội
nghị trung ương 6, khoá X, trình Chính phủ xem xét ...”.
Đề án này đề cập vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở bắt đầu từ việc xây
dựng tổng thể về chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở theo tinh thần
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khoá IX, Nghị quyết Hội nghị trung ương 6,
khoá X ; góp phần tạo ra khung pháp lý, môi trường thuận lợi, chế độ, chính sách
thống nhất phù hợp với yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước để thu hút và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
II. CĂN CỨ VÀO NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG VÀ VĂN BẢN QUY
PHẠM PHÁP LUẬT ĐỂ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN:
2.1.Nghị quyết số 17/NQ- TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị lần thứ 5, Ban
chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ

thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”;
2.2. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X;
2.3 Nghị quyết số 17/NQ- TW ngày 01 tháng 8 năm 2007, hội nghị lần thứ 5,
Ban chấp hành trung ương đảng khoá X về “Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước”;
2.4. Nghị quyết số 22/NQ- TW ngày 02 tháng 2 năm 2008 hội nghị lần thứ 6,
Ban chấp hành trung ương đảng khoá X “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”;
2.5. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003;
2.6. Luật Cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 được Chủ tịch nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam công bố ngày 28/11/2008;
2.7. Pháp lệnh thực hiện Dân chủ ở xã, phường, thị trấn;
2.8. Căn cứ các Nghị định của Chính phủ:
- Nghị định số 114/2003/ NĐ - CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán
bộ, công chức xã, phường, thị trấn;
- Nghị định số 121/2003/ NĐ - CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ
chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn;
- Nghị định số 107/2004/ NĐ - CP ngày 01/4/2004 của Chính phủ quy định
số lượng phó chủ tịch, cơ cấu thành viên Uỷ ban nhân dân các cấp;
- Nghị định số 159/2005/ NĐ - CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính
phủ về phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn;
2.9. Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ Phê duyệt
Định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn
đến năm 2010;


2.10. Công văn số 5875/VPCP- VX ngày 15 tháng 10 năm 2007 của Văn
phòng Chính phủ thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ: “Giao Bộ Nội vụ
tiếp tục chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
và các địa phương xây dựng Đề án tổng thể về chế độ, chính sách đối với cán bộ

cơ sở và soạn thảo Nghị định thay thế Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21
tháng 10 năm 2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ ở xã,
phường, thị trấn phù hợp với nội dung các đề án sẽ trình và triển khai thực hiện
Nghị quyết hội nghị trung ương 6, khoá X, trình Chính phủ xem xét trong quý II
năm 2008”.
Phần thứ hai
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY; CÔNG TÁC
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ VÀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ Ở
CƠ SỞ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
I. VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ SỐ LƯỢNG, CHỨC DANH CÁN BỘ
CẤP XÃ:
1.1. Số lượng, chức danh cán bộ cấp xã ở mỗi thời điểm được Chính phủ
quy định khác nhau:
a. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp đến năm 1980:
Từ 1945 đến 1946, Uỷ ban hành chính xã; số lượng Uỷ viên ở mỗi xã, từ 5
đến 7 người;
Từ 1947 đến 1957, Uỷ ban hành chính kháng chiến xã; số lượng Uỷ viên ở
mỗi xã từ 5 đến 7 người;
Từ 1958 đến 1979, Uỷ ban hành chính xã; số lượng uỷ viên ở mỗi xã từ 5
đến 7 người;
b. Thời kỳ từ 1980 đến nay: Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân đều quy định cụ thể số thành viên Uỷ ban nhân dân mỗi cấp, trong đó cấp xã
giảm dần số thành viên Uỷ ban nhân dân (Luật năm 1983 quy định Uỷ ban nhân
dân cấp xã có từ 7 đến 9 thành viên nhưng đến Luật năm 2003 quy định Uỷ ban
nhân dân cấp xã có từ 3 đến 5 thành viên).
1.2. Số cán bộ làm công tác Đảng, công tác Hội đồng nhân dân, thành viên
Uỷ ban nhân dân, cán bộ làm công tác đoàn thể, cán bộ giúp việc cho tổ chức
Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở xã,
phường, thị trấn ngày càng được quy định rõ. Riêng thành phố Hồ Chí Minh,
Chính phủ đã cho thực hiện thí điểm mô hình tự đề xuất của thành phố từ ngày

20/3/1981 (đối với phường có 31 chức danh, đối với xã có 33 chức danh).
Hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn hiện nay, bên cạnh các tổ
chức “cứng” như: tổ chức cơ sở đảng (có các ban của Đảng); chính quyền (có Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và công chức chuyên môn); Mặt trận Tổ quốc và


các Đoàn thể chính trị - xã hội, còn có các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp
khác như: hội Người cao tuổi, hội Chữ thập đỏ, hội khuyến học, hội Người mù, hội
Chất độc da cam, hội Tù yêu nước, hội Từ thiện, hội Đông y, hội Cựu quân nhân,
hội Kế hoạch hoá gia đình, hội Làm vườn, hội Liên hiệp thanh niên, hội đình sản,
Công đoàn xã, phường, thị trấn, Ban liên lạc hưu trí... giúp việc Uỷ ban nhân dân
xã, phường, thị trấn ngoài các bộ phận công chức chuyên môn nghiệp vụ, còn các
Ban chỉ đạo và hội đồng như: Ban chỉ huy Quân sự xã, Ban Công an xã; Ban
Thanh tra nhân dân; Ban vì sự tiến bộ Phụ nữ; Trạm y tế, Đài truyền thanh; Nhà
văn hoá; Tổ thuế, trường học …và gần 30 Ban chỉ đạo: Ban chỉ đạo xây dựng đời
sống văn hoá cơ sở; xoá đói giảm nghèo; dân số, kế hoạch hoá gia đình; xây dựng
gia đình no ấm, tiến bộ hạnh phúc; phòng chống lụt, bão; tuyên truyền pháp luật;
phòng chống tệ nạn xã hội; bảo vệ môi trường; bảo vệ rừng; xây dựng trường
chuẩn Quốc gia; phòng chống dịch cúm gia cầm; phòng chống tội phạm; vận động
phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc; xây dựng quỹ vì người nghèo; xây dựng quỹ
Bảo trợ trẻ em; xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa; xây dựng xã văn hoá; xây dựng
xã, phường, thị trấn phù hợp ví trẻ em; xây dựng quỹ hỗ trợ nông dân; ban chỉ đạo
sinh hoạt hè; hội đồng nghĩa vụ quân sự; hội đồng tư vấn thuế; hội đồng tư vấn xét
giao quyền sử dụng đất; trung tâm giáơ dục cộng đồng…dưới thôn, tổ dân phố có
tổ dân vận, tổ hoà giải, tổ liên gia tự quản...
1.3. Bên cạnh những chuyển biến, tiến bộ nêu trên, Uỷ ban nhân dân một số
xã, phường, thị trấn chưa quy định chế độ làm việc cụ thể, còn sai sót trong vận
dụng quy định của pháp luật, nặng về tập quán, thói quen, tình cảm; sự chỉ đạo
điều hành thực hiện nhiệm vụ về chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển sự nghiệp
văn hoá giáo dục, y tế còn lúng túng. Một số Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn

còn biểu hiện trì trệ, kém năng động, thiếu nhậy bén, hiệu quả quản lý còn hạn chế;
một số nơi có biểu hiện dồn việc xuống cho trưởng thôn hoặc đùn đẩy công việc
lên cấp trên, nếu không có biện pháp chấn chỉnh kịp thời sẽ dẫn đến việc quan liêu
xa dân, nhất là khi cán bộ cấp xã chuyển sang chế độ công chức.
Để giải quyết một số nhiệm vụ liên quan đến các tổ chức trong hệ thống
chính trị ở cơ sở, một số chính quyền cấp xã vẫn thực hiện mô hình quyết định số
112/HĐBT ngày 15 tháng 10 năm 1981 của Hôi đồng Bộ trưởng về chức năng,
nhiệm vụ và Tổ chức Bộ máy của Chính quyền cấp xã để thành lập một số ban
giúp việc cho chính quyền cấp xã như: ban Tài chính, ban Văn hoá- Xã hội, ban
kinh tế- kế hoạch, ban chỉ huy Quân sự xã, Công an xã...
Đặc biệt điều 130 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy
định: “Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân
dân và hướng dẫn về tổ chức một số cơ quan chuyên môn để Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh quyết định phù hợp với đặc điểm riêng của địa phương”.
Tuy nhiên, hiện nay ở cấp xã chưa được điều tra xác định rõ nhiệm vụ quản
lý hành chính cụ thể để có cơ sở xây dựng bộ máy; chưa có văn bản của Chính phủ


quy định thống nhất chính quyền cấp xã tổ chức theo 3 khối như tinh thần Nghị
quyết Trung ương 5, khoá IX (Khối kinh tế - tài chính; Khối văn hoá- xã hội; Khối
nội chính), mỗi Khối bao gồm những thành phần nào để giúp ủy ban nhân dân
cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương và thực hiện một số
nhiệm vụ, quyền hạn theo sự uỷ quyền của cấp trên và theo quy định của pháp luật;
góp phần bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác từ trung
ương đến cơ sở.
II. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở CƠ SỞ
2.1 Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ ở cơ sở
Sau hơn 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX và
kết hợp thực hiện các chỉ thị, nghị quyết khác của Trung ương, công tác quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở và thực hiện chế độ,

chính sách đối với cán bộ cơ sở đã có một số chuyển biến tiến bộ và đạt được kết
quả bước đầu về số lượng, chất lượng, cụ thể như sau:
Theo số liệu điều tra năm 2005, tổng số cán bộ, công chức cấp xã toàn quốc
có 192.438 người (trong khi đó cán bộ, công chức hành chính ở Bộ, ngành Trung
ương, ở cấp tỉnh, cấp huyện của cả nước có 195.422 người). So với dân số tại thời
điểm điều tra (toàn quốc 83.119.600 người) thì cán bộ, công chức cấp xã chiếm
0,23% dân số. Như vậy, cứ 10.000 dân có 23 cán bộ, công chức cấp xã và 24 cán
bộ, công chức hành chính từ Trung ương đến địa phương. So với diện tích tự nhiên
(toàn quốc 32.992.918 km2) bình quân cứ 10km2 có 06 cán bộ công chức hành
chính và cũng có gần 06 cán bộ, công chức cấp xã, trong đó:
+ Cán bộ chuyên trách giữ chức vụ bầu cử (sau đây gọi tắt là cán bộ chuyên
trách) có 111.124 người = 57,75% so với tổng số;
+ Công chức chuyên môn cấp xã (sau đây gọi tắt là công chức) có 81.314
người = 42,25% so với tổng số;
+ Cán bộ, công chức là nam giới: 161.240 = 83,79%; nữ giới: 31.198 =
16,21%; người dân tộc thiểu số: 41.936 = 21,79%; đảng viên: 162.932 = 84,67%;
tôn giáo: 7.469 = 3,88%.
- Về độ tuổi của cán bộ, công chức :
+ Cán bộ chuyên trách giữ chức vụ bầu cử: dưới 30 tuổi có 7.716 người =
6,94 %; từ 30- 45 tuổi có 42.397 = 38,15%, từ 46- 60 tuổi có 55.535 = 49,98% và
trên 60 tuổi có 5.476 = 4,93%;
+ Công chức: dưới 30 tuổi có 20.243 người = 24,89%, từ 30- 45 tuổi có
39.215 = 48,23%, từ 46- 60 tuổi có 21.486 = 26,42% và trên 60 tuổi có 370 =
0,46%.


- Về cán bộ nữ: tỷ lệ bình quân 16,21%. Một số nơi tỷ lệ khá cao như thành
phố Hồ Chí Minh 40%, Hà nội 29%; một số tỉnh chỉ dưới 8% như: Sơn La, Quảng
Ngãi, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cà Mau.
- Về Đảng viên: tỷ lệ đảng viên 84,67% nhưng không đồng đều, nhiều địa

phương trên 90% như: Hải phòng, Hải dương, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Bắc
Ninh, Ninh Bình, Vĩnh Phúc; nhưng có nơi chỉ đạt 60% như: Khánh Hoà, Gia Lai,
Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa- Vũng Tàu.
- Trình độ văn hoá: chưa biết chữ có 253 = 0,13%, tiểu học 5644= 2,93%,
THCS 41.343= 21,48%, THPT 145.198= 75,45%. Nhìn chung trình độ học vấn
của đội ngũ cán bộ cơ sở còn thấp, một số tỉnh, thành còn có cán bộ trình độ học
vấn tiểu học, nhất là các tỉnh miền núi, Tây nguyên như: Lai Châu 42%, Lào Cai
30%, Hà Giang 20%, Kon Tum 21%.
- Trình độ chuyên môn: số cán bộ có trình độ trên đại học 64 = 0,04%; Cao
đẳng& Đại học 17.391= 9,04%; Trung học 62.295 = 32,37%; Sơ cấp 18.886 =
9,81%. Còn lại 93802 = 48,74% chưa được đào tạo về chuyên môn. Số cán bộ có
trình độ đại học ở các thành phố khá cao như: thành phố Hà Nội trên 33%, thành
phố Hồ Chí Minh 21%, Đà Nẵng 19%, Hải Phòng 14%. Các tỉnh trung du, miền
núi, Tây nguyên, Tây Nam Bộ tỷ lệ này chỉ dưới 2%.
- Trình độ lý luận chính trị: cán bộ có trình độ cao cấp, cử nhân chính trị là
7.847= 4,09%; trung cấp 73.429 = 38,15%; sơ cấp 44.106 = 22,94%; còn lại
67.056 = 34,82% chưa được đào tạo về lý luận chính trị.
- Trình độ quản lý hành chính nhà nước và ngoại ngữ, tin học của đội ngũ
cán bộ ở cơ sở còn rất thấp: 55,53% chưa được đào tạo về quản lý hành chính nhà
nước; 98,81% chưa có trình độ ngoại ngữ và trên 87% chưa có trình độ tin học.
- Kiến thức An ninh- Quốc phòng: mới có 37.277 = 19,37% cán bộ được bồi
dưỡng kiến thức về An ninh; 23.048 = 12,16% cán bộ được bồi dưỡng kiến thức về
Quốc phòng.
- Về thâm niên công tác: số cán bộ có thâm niên công tác giữ chức vụ hiện
tại dưới 5 năm 12.411 = 64,49%; từ 5 - 10 năm có 46.415 = 24,11%; trên 10 năm
có 21.912 = 11,38%.
- Về thời gian công tác nói chung của cán bộ: dưới 5 năm có 95.172 =
49,74%; từ 5- 10 năm có 64.745 = 33,65%; từ 16 - 30 năm có 27.039 = 14,05%;
trên 30 năm có 4.933 = 2,56%.
- Về nguồn cán bộ: có 100.508= 90,45% cán bộ chuyên trách giữ chức vụ

bầu cử là người tại chỗ; 3.585 =3,23% là cán bộ tăng cường; 7.026 = 6,03% là cán
bộ hưu trí, mất sức (một số nơi cán bộ hưu trí, mất sức tham gia đông như Hà Nội,
Đà Nẵng 19%, thành phố Hồ Chí Minh 14%).


Nhìn chung, trình độ các mặt của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã hiện tại
còn nhiều bất cập và thấp so với yêu cầu của thực tế.
* Về cán bộ không chuyên trách cấp xã, cán bộ thôn, tổ dân phố: toàn quốc
có 764.733. Trong đó cán bộ không chuyên trách cấp xã: 197.025; cán bộ thôn, tổ
dân phố, công an viên: 567.708. Nhìn chung, chất lượng đội ngũ cán bộ không
chuyên trách thấp, chưa đáp ứng được với nhiệm vụ được giao (nhất là ở các vùng
Tây Bắc, Tây Nguyên).
2.2 Công tác đào tạo, bồi dưỡng;
- Theo số liệu thống kê, trong 5 năm thực hiện Quyết định số 74/2001/QĐTTg ngày 7 tháng 5 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2001- 2005; tổng số lượt cán bộ, công
chức cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng cả nước đạt 976.000 lượt người; việc nâng
cao trình độ và năng lực hoạt động cho cán bộ, công chức cấp xã có vai trò đặc biệt
quan trọng trong nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước,
đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội, góp phần phục vụ tốt mục tiêu của
chương trình tổng thể cải cải cách hành chính và chiến lược cán bộ của Đảng. Số
cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng tăng lên gấp 3 lần so với giai
đoạn 1996- 2000, trong đó số được đào tạo trình độ trung cấp chuyên môn trở lên
tăng gấp 2 lần so với thời điểm năm 2000. Những năm gần đây đã thực hiện đào
tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức và kỹ năng hoạt động thực thi công vụ chuyên
sâu theo chức danh như các khoá bồi dưỡng kỹ năng cho Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp xã, đào tạo tiếng dân tộc, thiểu số cho gần 3.500 lượt cán bộ, công chức;
quý 4/2004, quý 1/2005 các địa phương đã tiến hành đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
kiến thức và kỹ năng hoạt động cho đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp trong đó đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp xã là 267.960/278.960 đại biểu, đạt 96%.
- Năm 2006, kết quả đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức cấp xã về lý

luận chính trị, quản lý nhà nước, chuyên môn, kỹ năng lãnh đạo quản lý, ngoại
ngữ, tin học, tiếng dân tộc đựơc 137.494 lượt người; bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ
không chuyên trách cấp xã và thôn, tổ dân phố được 91.310 lượt người.
- Năm 2007,kết quả đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức cấp xã về lý
luận chính trị, quản lý nhà nước, chuyên môn, kỹ năng lãnh đạo quản lý, ngoại
ngữ, tin học, tiếng dân tộc đựơc 183.021 lượt người; bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ
không chuyên trách cấp xã và thôn, tổ dân phố được 134.812 lượt người.
Tóm lại: Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở trong những năm qua
mặc dù đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ, nhưng cũng tồn tại những
yếu, kém bất cập:
+ Nội dung chương trình đào tạo bồi dưỡng còn chậm đổi mới, chưa cập nhật
kịp thời những thay đổi từ thực tiễn; giáo trình, tài liệu phục vụ cho công tác đào
tạo, bồi dưỡng còn thiếu.


+ Cơ sở vật chất và kinh phí phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cơ sở còn thiếu;
+ Chế độ, chính sách cho người học còn chậm đổi mới chưa động viên kịp
thời người học (nhất là cán bộ, công chức ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam
Bộ).
2.3 Công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ;
Thời gian qua, công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ của hệ thống
chính trị ở cơ sở đã được các cấp uỷ Đảng quan tâm chỉ đạo tích cực; nhiều xã,
phường, thị trấn đã xây dựng được quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt và Ban chấp
hành Đảng bộ xã, phường, thị trấn nhiệm kỳ 2005- 2010. Những năm gần đây việc
thực hiện chế độ cử tuyển để đào tạo cán bộ, công chức theo địa chỉ và khuyến
khích, thu hút sinh viên đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp
có chuyên môn phù hợp về địa phương công tác được một số tỉnh xác định là
những biện pháp quan trọng để tiến tới chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở
(đặc biệt ở các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ ).

Tỉnh Lào Cai hợp đồng với 175 sinh viên trong đó bố trí đảm nhận các chức
danh chuyên môn cấp xã 60 sinh viên, làm công tác xoá đói giảm nghèo thực hiện
chương trình 135 được 46 sinh viên; tỉnh Hà Giang bố trí được 262 sinh viên về
công tác ở xã; Nghệ An 360, Thành phố Hồ Chí Minh 280, Tuyên Quang 200,
Khánh Hoà 90, Quảng Ngãi 84, Trà Vinh 64, Đà Nẵng 60, Ninh Thuận 19...
Thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập tiểu ban quy hoạch cán bộ dài hạn,
thực hiện tuyển chọn học sinh, sinh viên khá, giỏi có khả năng phát triển để đưa đi
đào tạo, bồi dưỡng hoặc đưa về cơ sở làm việc theo chế độ công chức dự bị, ngoài
ra còn luân chuyển 114 cán bộ của Quận về công tác tại phường, luân chuyển 132
cán bộ giữa các phường. Các tỉnh khác cũng thực hiện luân chuyển cán bộ về cơ sở
như: Nghệ An 120 cán bộ, Quảng Ninh 40, Đăk Lăk 34, Kon Tum 33, Phú Yên
20...nhiều cán bộ luân chuyển về cơ sở đã phát huy tác dụng, có bước trưởng
thành, góp phần đưa phong trào địa phương từ yếu, kém vươn lên.
Về tạo nguồn cán bộ cơ sở : Các địa phương còn chú ý tới đối tượng tạo
nguồn cán bộ cho cơ sở bao gồm những người đã sản xuất tại địa phương (đặc biệt
các em là con em người dân tộc thiểu số), người đã được đào tạo ở các trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp tình nguyện về địa phương công tác, bộ
đội hết nghĩa vụ quân sự cho đi đào tạo ở nhiều loại hình: dài hạn, ngắn hạn, tập
trung, tại chức ở các trường của trung ương, tỉnh, huyện.
* Tóm lại: Công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ cơ sở trong những năm qua
mặc dù đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ, nhưng cũng tồn tại một số vấn
đề:


Công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ cơ sở tuy đã được quan tâm nhưng
trong một thời gian dài còn thiếu và yếu, chưa chủ động, chưa tích cực, chưa đều ở
tất cả các địa phương.
III. ĐÁNH GIÁ CỤ THỂ VỀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ ĐẢNG,
CHÍNH QUYỀN, MẶT TRẬN VÀ CÁC ĐOÀN THỂ Ở CƠ SỞ QUA CÁC THỜI KỲ:


3.1.Trước khi có Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21 tháng 10 năm
2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,
phường, thị trấn:
Để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế- xã hội, chế độ, chính sách đối
với cán bộ cơ sở từ năm 1945 đến nay luôn được sửa đổi, bổ sung theo hướng ngày
càng đổi mới; việc quy định về chế độ, chính sách qua các thời kỳ luôn gắn liền
với việc quy định chức danh, số lượng, tiêu chuẩn cán bộ:
3.1.1.Giai đoạn từ 1945 đến trước tháng 6 năm 1975:
- Sắc lệnh số 22- A ngày 18 tháng 2 năm 1946 của Chủ tịch nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà sửa đổi điều 65 sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 tổ chức các Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định: các công chức được bầu vào Uỷ ban
hành chính xã có thể vừa làm công chức vừa tham gia vào Uỷ ban hành chính xã,
nhưng chỉ được lĩnh hoặc lương công chức hoặc phụ cấp của Uỷ viên hành chính
xã.
Thời kỳ này mỗi xã có 01 Uỷ ban hành chính gồm có 5 Uỷ viên chính thức
(01 chủ tịch, 01 Phó Chủ tịch, 01 Thư ký, 01 thủ quỹ , 01 Uỷ viên) và 02 Uỷ viên
dự khuyết; phân công như sau: Hành chính, Tư pháp; Xã hội, y tế, cứu tế, tài
chính; Kinh tế, giao thông, địa bạ; Giáo dục, tuyên truyền, khánh tiết; Trị an và
Quân vụ .
3.1.2. Giai đoạn từ tháng 6/1975 đến tháng 5/1993:
Cán bộ cấp xã (từ đây gọi chung là cán bộ xã) giai đoạn này thực hiện theo
Quyết định số 130/CP ngày 20/6/1975 của Hội đồng Chính phủ; Các thông tư
hướng dẫn số 45- BT ngày 24/3/1976 và số 196- BT ngày 8/9/1977 của Bộ trưởng
Phủ thủ tướng; Quyết định 111- HĐBT ngày 13/10/1981 của Hội đồng Bộ trưởng,
Thông tư hướng dẫn số 01- TCCP- CQ ngày 12/1/1982 của Ban Tổ chức cán bộ
Chính phủ; Nghị định số 235/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng;
Thông tư hướng dẫn số 74- ĐP/TCCP ngày 26/11/1985 của Ban Tổ chức cán bộ
Chính phủ.
Đặc điểm của giai đoan này là đất nước ta đã hoàn toàn giải phóng, chế độ,
chính sách thực hiện thống nhất trong toàn quốc; nền kinh tế của nước ta vừa trải

qua giai đoạn dài có chiến tranh, gặp nhiều khó khăn, trì trệ; cơ chế quản lý hành
chính quan liêu bao cấp nặng nề. Năm 1986 Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới đất
nước, nền kinh tế nước ta vẫn trong giai đoạn suy thoái nhưng đã có dấu hiệu khởi
sắc.


3.1.2.1.Về số lượng và đối tượng cán bộ xã:
Giai đoạn này số lượng cán bộ xã được quy định theo quy mô xã và xem xét
các yếu tố cụ thể về tình hình chính trị, kinh tế, dân số, địa dư của xã để quyết
định.
Theo quyết định số 130/CP xã được bố trí từ 5 đến 6 cán bộ chuyên trách, từ
9 đến 10 cán bộ nửa chuyên trách tùy theo loại xã. Đến Nghị định 235/HĐBT tùy
theo loại xã được bố trí trong khoảng từ 20 đến 30 cán bộ (không kể cán bộ y tế).
Đối tượng cán bộ xã được quy định cụ thể từng chức danh, bao gồm cán bộ đảng,
chính quyền (gồm Hội đồng nhân dân và các cán bộ thuộc Ủy ban nhân dân), cán
bộ phụ trách công tác Mặt trận, Thanh niên, Phụ nữ; ở phía Nam có thêm chức
danh Bí thư Nông hội; cán bộ Y tế xã.
Theo quy định chung của Nhà nước, UBND các tỉnh quyết định việc bố trí
số lượng và các chức danh cán bộ cụ thể.
3.1.2.2. Về chế độ đối với cán bộ cơ sở:
Chế độ sinh hoạt phí của cán bộ xã trong giai đoạn này có một số lần điều
chỉnh, sửa đổi:
- Theo Quyết định số 130/CP, mức sinh hoạt phí được quy định dựa vào 3
yếu tố: theo chức danh, theo quy mô xã, là cán bộ chuyên trách hoặc nửa chuyên
trách (cán bộ nửa chuyên trách mức sinh hoạt phí hưởng bằng ½ cán bộ chuyên
trách).
- Theo Quyết định số 111- HĐBT, cán bộ xã được hưởng mức sinh hoạt phí
khá cao, tùy theo chức danh và thâm niên công tác (Bí thư đảng ủy, Chủ tịch
UBND hưởng ngang mức lương Trưởng phòng huyện; Phó Bí thư và Phó Chủ tịch
UBND hưởng ngang mức lương Phó Trưởng phòng huyện; Trưởng các đoàn thể

ngang Ủy viên thường trực của tổ chức đoàn thể cấp huyện; cán bộ, nhân viên của
UBND hưởng ngang mức lương cán sự, nhân viên của huyện có cùng trình độ…).
- Theo Nghị định số 235- HĐBT, mức sinh hoạt phí được quy định dựa vào
các yếu tố tương tự như Quyết định 130/CP. Các cán bộ nửa chuyên trách được
hưởng sinh hoạt phí bằng ½ cán bộ chuyên trách.
Cán bộ xã còn được hưởng một số chế độ khác:
- Tại Quyết định 130/CP quy định cán bộ xã chỉ cần có 15 năm công tác giữ
các chức vụ trưởng, phó ngành trở lên, trong đó có 5 năm là cán bộ chuyên trách,
nửa chuyên trách (được tính cả thời gian làm chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán
trưởng HTX, thời gian hoạt động trước cách mạng tháng tám), nếu đủ điều kiện về
tuổi đời theo quy định (nam 55 tuổi, nữ 50 tuổi), khi “ già yếu nghỉ việc” được
hưởng trợ cấp hàng tháng. Chính phủ cũng quy định những trường hợp được xét
giảm tuổi khi nghỉ công tác (ốm đau, bệnh tật...).


Ngoài chế độ già, yếu nghỉ việc, theo quy định của Chính phủ, cán bộ xã còn
được hưởng các chế độ đào tạo bồi dưỡng, chế độ khen thưởng, chế độ khám chữa
bệnh và bảo vệ sức khoẻ, chế độ trợ cấp khó khăn, mai táng phí, chế độ gửi con
vào nhà trẻ đối với cán bộ xã là nữ...
- Kể từ Quyết định số 111- HĐBT, thời gian công tác tại các hợp tác xã, bưu
điện xã không được tính gộp vào thời gian là cán bộ xã để giải quyết chế độ khi
nghỉ việc.
Nhìn chung các chế độ, chính sách của nhà nước đối với cán bộ xã trong giai
đoạn khá thông thoáng, cả về đối tượng cán bộ xã và chế độ chính sách. Việc bảo
đảm các chế độ của cán bộ xã do ngân sách cấp xã tự cân đối là chủ yếu, thiếu thì
ngân sách cấp huyện, tỉnh hỗ trợ, kể cả trợ cấp hàng tháng khi nghỉ việc của cán bộ
xã. Các chức danh cán bộ được quy định cụ thể, tạo sự thống nhất trong cả nước.
Cán bộ y tế xã là một bộ phận không tách dời của đội ngũ cán bộ xã, thậm chí từ
khi thực hiện Quyết định 111-HĐBT cán bộ y tế xã được hưởng sinh hoạt phí
tương đương cán bộ y tế của nhà nước cùng nghiệp vụ, chuyên môn đào tạo. Có

thể khẳng định: Quyết định 130/CP là một bước ngoặt lịch sử về chế độ, chính
sách đối với cán bộ xã, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước đối với cán bộ
xã. Nhiều chế độ lần đầu tiên được quy định, đặc biệt là chế độ trợ cấp hàng tháng
khi nghỉ việc tạo sự phấn khởi, yên tâm công tác đối với cán bộ xã. Chế độ trợ cấp
hàng tháng khi nghỉ việc còn được áp dụng hồi tố đối với những trường hợp đã
nghỉ trước khi Quyết định 130/CP có hiệu lực, góp phần tạo sự công bằng về mặt
chính sách cán bộ.
Quyết định 111-HĐBT năm 1981 là một bước cải tiến rất lớn về chế độ sinh
hoạt phí đối với cán bộ xã, khẳng định rõ vị trí cán bộ xã, đồng thời đã có sự phân
biệt, tách bạch giưa những người ở khu vực sản xuất kinh doanh với những người
cán bộ xã do ngân sách xã đài thọ.
Tuy nhiên, một số chế độ chưa có quy định cụ thể như chế độ quản lý, sử
dụng, kỷ luật cán bộ. Số lượng cán bộ xã giai đoạn này khá đông do không quy
định chặt chẽ. Bộ máy hành chính cấp xã nhiều ban, trạm cồng kềnh. Nền kinh tế
đất nước đang trong thời kỳ khó khăn nhất là khu vực nông thôn mà việc chi trả
các chế độ đối với cán bộ xã chủ yếu do ngân sách xã đảm nhiệm, trong khi nguồn
thu ngân sách xã có hạn, không đủ sức cân đối các khoản chi theo chế độ cho cán
bộ xã, phường, thị trấn. Việc xét quyết định cán bộ được hưởng chế độ trợ cấp khi
nghỉ việc theo hai quyết định trên thuộc thẩm quyền cấp huyện, có phần chưa chặt
chẽ, mức trợ cấp hàng tháng lại không lớn và do ngân sách địa phương chi trả. Mặt
khác, cán bộ xã nếu không đủ điều kiện về tuổi đời và thời gian công tác theo quy
định thì khi nghỉ việc lại không được hưởng chế độ gì. Vì vậy đã có nhiều trường
hợp không đủ điều kiện theo quy định cũng được chính quyền địa phương giải
quyết chế độ trợ cấp hàng tháng khi nghỉ việc, không chấp hành đúng quyết định
của chính phủ.


3.1.3. Giai đoạn từ tháng 6/1993 đến tháng 12 năm 1997:
Chế độ, chính sách ở cấp cơ sở giai đoạn này thực hiện theo Nghị định số
46/CP ngày 23/6/1993 của Chính phủ và Thông tư số 22 Liên bộ/TT ngày

09/10/1993 của Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ và Bộ Tài chính; Nghị định số
50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ và Thông tư số 97/TTLB/TCCBCP-BTC
ngày 16/8/1995 của Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ và Bộ Tài chính.
Trong giai đoạn này các văn bản về chế độ chính sách đối với cán bộ xã tập
trung vào một số vấn đề trọng tâm đó là việc giảm bớt số lượng và đối tượng
hưởng chế độ sinh hoạt phí; ổn định và chuyên môn hoá một số cán bộ chuyên
môn của Uỷ ban nhân dân cấp xã và sửa đổi quy định về chế độ trợ cấp đối với cán
bộ khi nghỉ việc.
3.1.3.1. Về số lượng và đối tượng cán bộ xã:
- Nghị định 46/CP ngày 23/6/1993 của Chính phủ quy định tuỳ theo quy mô
dân số để bố trí số lượng cán bộ Đảng, HĐND, UBND (từ 8-11 người). Theo quy
định này số lượng cán bộ xã sẽ giảm được khoảng 50% so với trước đây, gỉảm chi
khá lớn đối với ngân sách cấp xã. Việc quy định các đoàn thể chính trị – xã hội
được cấp kinh phí cho hoạt động và sinh hoạt phí (thay cho quy định cấp trưởng
của các tổ chức này hưởng sinh hoạt phí trước đây) nếu thực thi được sẽ giúp cho
việc quản lý đội ngũ cán bộ xã dành mạch hơn, tiết kiệm chi ngân sách, tuy nhiên
có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này tiến tới việc phải điều chỉnh sau đó.
- Nghị định 50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ (thay thế Nghị định 46/CP)
nhằm từng bước thực hiện Nghị quyết Trung ương VIII khoá 7; kiện toàn chính
quyền cấp xã, giải quyết vấn đề ngân sách và từng bước chuyên nghiệp hoá một số
vị trí công tác ở xã, đồng thời cải thiện một bước đời sống cán bộ xã phù hợp điều
kiện kinh tế đất nước. Về số lượng và đối tượng cán bộ xã hưởng sinh hoạt phí
được tăng thêm so với Nghị định 46/CP. Tuỳ thuộc vào dân số, vị trí địa lý, điều
kiện khó khăn cụ thể, xã được bố trí từ 17-25 cán bộ đảng, chính quyền (quy định
rõ 4 cán bộ chuyên môn của UBND) và cấp trưởng của 5 đoàn thể chính trị xã hội
(Nghị định 46/CP không quy định). Quy định này là phù hợp với thực tế hơn so
với Nghị định 46/CP.
3.1.3.2 Về chế độ đối với cán bộ xã.
- Theo Nghị định 46/CP, sinh hoạt phí đối với cán bộ xã chỉ có 3 mức:
Bí thư đảng uỷ và Chủ tịch UBND mức 160.000 đ/tháng; Phó Bí thư, Phó

Chủ tịch UBND mức 140.000 đ/ tháng; các chức danh khác 120.000đ/tháng. Cán
bộ nghỉ công tác hưởng trợ cấp hàng tháng trước đây nay chỉ có 2 mức phụ cấp: Bí
thư, Chủ tịch UBND 40.000đ/tháng; các chức danh khác 30.000đ/tháng. Việc quy
định này là chưa sát thực tế, mức phụ cấp quá thấp, không tương xứng với nhiệm
vụ.


Nghị định quy định cán bộ xã thuộc các đối tượng theo quy định khi nghỉ
việc chỉ được xét hưởng chế độ trợ cấp một lần nếu có thời gian công tác ở xã liên
tục từ 10 năm trở lên và không bị kỷ luật từ cảnh cáo trở lên. Bãi bỏ chế độ trợ cấp
hàng tháng khi nghỉ việc. Những quy định trên đây tác động rất lớn đến tâm tư,
tình cảm của cán bộ xã. Họ có mặc cảm cho rằng bị phân biệt, đối xử, không được
bình đẳng như cán bộ của cấp tỉnh, cấp huyện. Chính những quy định chưa sát hợp
trên đây làm cho nghị định có tính khả thi thấp, việc tổ chức triển khai thực hiện
gặp nhiều vướng mắc, khó khăn, kém hiệu quả. đây cũng là một trong những
nguyên nhân quan trọng gây ra sự thiếu yên tâm, kém phấn khởi công tác đối với
cán bộ xã; là nguyên cớ để nhiều cán bộ xã kém phẩm chất lợi dụng chức quyền,
lợi dụng cơ chế thị trường để trục lợi cá nhân. Những cán bộ xã liêm khiết mà nghỉ
công tác trong giai đoạn này thì chịu thiệt thòi về chế độ. Đã có rất nhiều kiến
nghị, đề nghị Chính phủ sửa đổi Nghị định này không chỉ từ cấp cơ sở. Chính vì
vậy, chỉ sau 2 năm ban hành, thấy được sự bức xúc từ thực tế khách quan, Chính
phủ đã ban hành Nghị định 50/CP ngày 26/7/1995 thay thế Nghị định 46/CP.
Theo Nghị định 50/CP, chế độ sinh hoạt phí được phân thành 4 mức theo các
chức danh cán bộ và đã được nâng cao hơn so với trước. Cán bộ xã được hưởng
phụ cấp tái cử cùng một chức vụ sau 5 năm công tác. Tuy các quy định này đã thể
hiện sự cải tiến một bước so với Nghị định số 46/CP, song mức sinh hoạt phí so
với mặt bằng chung thì vẫn còn thấp, chưa đáp ứng nguyện vọng cán bộ xã, chế độ
phụ cấp tái cử quy định “cứng” hơn với chế độ tái cử ở các cấp khác.
Nghị định 50/CP cũng quy định chế độ sinh hoạt phí của cán bộ xã đương
chức, trợ cấp hàng tháng của cán bộ xã nghỉ chế độ theo quyết định 130/CP và

quyết định 111-HĐBT do ngân sách xã chi trả, nếu thiếu thì ngân sách cấp trên hỗ
trợ. Cán bộ xã thuộc đối tượng được nhà nước quy định nếu có ít nhất 5 năm công
tác liên tục là cán bộ xã và không bị kỷ luật từ hình thức cảnh cáo trở lên, khi nghỉ
công tác cũng chỉ được xét trợ cấp một lần, không hưởng trợ cấp hàng tháng. Đây
cũng chính là 2 vấn đề tồn tại.
Thứ nhất: ngân sách cáp xã không tự cân đối được, cả nước mới chỉ khoảng
30% số đơn vị hành chính cấp xã tự cân đối được ngân sách. Mặt khác, nhiều địa
phương cấp huyện và tỉnh cũng chưa đủ khả năng cân đối được ngân sách dẫn đến
tình trạng “nợ đọng” sinh hoạt phí và trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã khá phổ
biến ở nhiều nơi, gây tác động thiếu an tâm công tác đối với cán bộ xã; dẫn đến
tình trạng có xu hướng đùn đẩy việc của xã cho cán bộ thôn, bản, khu dân cư, tổ
dân phố làm thay nhiệm vụ của cán bộ xã.
Thứ hai, Chính phủ không quy định chế độ “già yếu nghỉ việc” được hưởng
trợ cấp hàng tháng như Quyết định 130/CP và Quyết định 111-HĐBT. Đối với cán
bộ xã thuộc các đối tượng theo quy định của nhà nước khi nghỉ việc chỉ được
hưởng chế độ trợ cấp một lần nhằm tạo khả năng tự điều tiết đối với ngân sách cấp
xã, giảm đối tượng cán bộ hưởng trợ cấp thường xuyên khi nghỉ việc, bớt gánh


nặng đối với ngân sách xã. Song với quy định này, cán bộ xã cho rằng họ chưa
được hưởng sự công bằng về chế độ, chính sách như cán bộ các cấp khác, tâm lý
thiếu phấn khởi khi đương chức cũng như khi nghỉ công tác. Mặt khác chế độ như
vậy cũng là một trở lực, không tạo được sức hút đối với tầng lớp trẻ được đào tạo
chính quy, có trình độ chuyên môn tham gia công tác và gắn bó với cấp cơ sở, nhất
là ở nông thôn, xu hướng thoát ly địa phương khá phổ biến.
3.1.3.3.Nhận xét: Có thể nhận thấy chủ trương của Chính phủ trong quá trình
ban hành hai Nghị định 46/CP và Nghị định 50/CP nhằm tinh giảm, gọn nhẹ bộ
máy cấp xã và tiết kiệm chi ngân sách đối với cấp xã là hết sức rõ ràng. Nhưng về
mức sinh hoạt phí và chế độ chính sách khác là chưa thực sự phù hợp với thực tiễn
và đặc thù của nước ta. Việc hoạch định chế độ, chính sách đối với cán bộ xã thiếu

đồng bộ, toàn diện nên các chế độ, chính sách ban hành chưa thể hiện được sự kế
thừa, tính khả thi không cao, thiếu sự ổn định, chưa tương xứng với vai trò to lớn
của cấp cơ sở. Chính phủ đã sớm nhìn nhận được những mặt tồn tại, vì vậy đã tiến
hành việc điều chỉnh và sửa đổi.
3.1.4. Giai đoạn tháng 1/1998 đến trước khi có Nghị định số 121/2003/NĐCP:
Giai đoạn này thực hiện theo các Nghị định của Chính phủ: Nghị định số
09/1998/NĐ- CP ngày 23/01/1998 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 50/CP ngày
26/7/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị
trấn; Nghị định số 58/1998/NĐ- CP ngày 13/8/1998 về chế độ bảo hiểm y tế; Nghị
định số 40/1999/NĐ- CP ngày 23/6/1999 về Công an xã; Nghị định số
46/2000/NĐ- CP ngày 12/9/2000 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số
35/CP ngày 12/6/1996 của Chính phủ quy định chi tiết thực hiện Pháp lệnh dân
quân tự vệ.
3.1.4.1. Về số lượng và đối tượng cán bộ xã:
- Theo điều 1 Nghị định số 09/1998/NĐ- CP, số lượng cán bộ xã quy định
theo dân số. Xã dưới 10.000 dân: 17- 19 cán bộ; xã từ 10.000 dân đến 20.000 dân:
19 đến 21 cán bộ; xã có trên 20.000 dân, cứ thêm 3.000 dân thêm 01 cán bộ, tối đa
không quá 25 cán bộ.
Đối tượng cán bộ Đảng, Chính quyền, Mặt trận, Đoàn thể được hưởng sinh
hoạt phí gồm:
+ Bí thư, Phó Bí thư đảng uỷ;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Các thành viên UBND;
+ Bốn chức danh chuyên môn: Địa chính, Tư pháp, Tài chính- Kế toán, Văn
phòng UBND và các chức danh khác thuộc UBND.


+ Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc và truởng các đoàn thể: Hội phụ nữ, Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân.
- Theo Nghị định số 40/1999/NĐ- CP, công an xã gồm Trưởng Công an, Phó

trưởng công an và Công an viên (mỗi thôn, ấp, bản bố trí một người).
- Theo Nghị định số 46/2000/NĐ- CP, Ban chỉ huy quân sự xã gồm Chỉ huy
trưởng (Xã đội trưởng), Phó chỉ huy trưởng (Xã đội phó) và Chính trị viên (do Bí
thư đảng uỷ kiêm nhiệm).
3.1.4.2. Về chế độ:
a..Chế độ sinh hoạt phí được quy định cụ thể đối với từng chức danh cán bộ
đảng, chính quyền, Chủ tịch Mặt trận và Trưởng các đoàn thể. Sinh hoạt phí có
nhiều mức: Mức đối với Bí thư đảng uỷ; mức đối với Chủ tịch HĐND và Chủ tịch
UBND; mức đối với Phó Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch UBND, Chủ tịch Mặt trận
và Trưởng các đoàn thể, Xã đội trưởng và trưởng Công an xã; mức đối với Uỷ
viên UBND; mức đối với 4 chức danh chuyên môn (có bằng cấp chuyên môn
hưởng theo ngạch, bậc; không có bằng cấp hưởng mức 154.000 đồng/tháng); mức
đối với các chức danh khác; mức đối với công an viên (bằng 1/3 mức của trưởng
Công an).
Chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã được cân đối từ ngân sách nhà nước
và được cấp qua kho bạc nhà nước cấp huyện.
b. Các chế độ khác:
- Cán bộ xã được thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội: khi nghỉ việc được trợ
cấp một lần hoặc thường xuyên tuỳ theo thời gian đóng bảo hiểm, được hưởng chế
độ mai táng phí khi chết. Thời gian công tác liên tục từ năm 1997 trở về trước nếu
giữ chức danh cán bộ theo quy định của nhà nước thì cũng được tính là có tham gia
bảo hiểm xã hội.
- Cán bộ xã còn được hưởng các chế độ đào tạo bồi dưỡng, công tác phí,
khen thưởng, theo quy định của nhà nước.
- Theo quy định tại Nghị định số 58/1998/NĐ- CP về chế độ bảo hiểm y tế,
cán bộ đương nhiệm được thực hiện chế độ bảo hiểm y tế như cán bộ công chức
nhà nước.
3.1.4.3.Nhận xét:
a. Những mặt tích cực: Những chế độ, chính sách đối với cán bộ xã quy định
tại các Nghị định của Chính phủ sau hơn 5 năm thực hiện đã thể hiện những mặt

tích cực:
- Mức sinh hoạt phí của cán bộ xã và mức trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ
xã đã nghỉ việc theo Quyết định 130/CP và Quyết định 111- HĐBT trước đây được
điều chỉnh rõ rệt, nhìn chung có sự hợp lý hơn trước. Chế độ sinh hoạt phí của cán


bộ xã và trợ cấp hàng tháng được ngân sách nhà nước bảo đảm chi trả qua hệ thống
kho bạc cơ bản khắc phục tình trạng “nợ đọng” triền miên diễn ra ở nhiều nơi
trước đây. Điều này, thể hiện sự quan tâm, cố gắng rất lớn của Chính phủ.
- Bốn chức danh chuyên môn của UBND được tiếp tục khẳng định mục tiêu
chuyên môn hoá, ổn định lâu dài bằng việc có những quy định chặt chẽ trong tuyển
dụng, quản lý, sử dụng và chế độ sinh hoạt phí được vận dụng theo ngạch, bậc
lương của cán bộ khu vực hành chính có cùng trình độ chuyên môn đào tạo và
cũng được xét nâng mức sinh hoạt phí cứ sau 5 năm công tác.
- Có nhiều chế độ mới được quy định: Chế độ bảo hiểm xã hội khi nghỉ việc,
tính thời gian tham gia bảo hiểm xã hội từ năm 1997 trở về trước; chế độ đào tạo,
bồi dưỡng, công tác phí, khen thưởng, bảo hiểm y tế. Đây là những chế độ mà
trước đây chưa từng được thực hiện, tạo sự động viên rất lớn đối với cán bộ. Có thể
nhận thấy rõ Nghị định 09/1998/NĐ- CP và các Nghị định của Chính phủ về cán
bộ xã ban hành 3 năm qua đã giải quyết tương đối cơ bản về chế độ, chính sách đối
với cán bộ cơ sở, là một bước tiến so với trước đây, tạo được sự yên tâm phấn khởi
công tác đối với đại bộ phận cán bộ đang ở cấp cơ sở, khích lệ cán bộ xã chịu khó
rèn luyện, học tập nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất.
b. Những tồn tại:
Tuy nhiên, các Nghị định ban hành trong giai đoạn 1998- 2001 cũng bộc lộ
khá rõ một số tồn tại, chưa giải quyết được một cách nhất quán, công bằng, có tình
có lý, thống nhất trong cả nước và giữa các loại cán bộ, biểu hiện ở các mặt sau
đây:
- Việc quy định số lượng cán bộ xã chỉ tính theo quy mô dân số là chưa thực
sự phù hợp với tình hình thực tế. Đối với xã quá ít dân cư (dưới 1.000 dân) thì quy

dịnh số lượng cán bộ 17 là nhiều; xã có quá đông dân cư (trên 30.000 dân) và lại
có địa hình tự nhiên và tình hình kinh tế- xã hội phức tạp thì số lượng cán bộ tối đa
25 thì lại là ít, phát sinh tư tưởng muốn chia tách thêm đơn vị hành chính để giảm
nhẹ công việc, lại được tăng thêm cán bộ. Quy định Phó công an và công an viên,
Phó xã đội chung cho cả nước khi thực hiện có sự phát sinh mới về số lượng cán
bộ xã và chế độ, chính sách cũng chưa hợp lý.
- Cấp hành chính cơ sở gồm 3 loại hình xã, phường, thị trấn. Ba loại hình này
có những khác biệt căn bản trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội, văn hoá, truyền thống,
quan hệ dân cư. Theo yêu cầu cải cách hành chính, Nghị định 09/1998/NĐ- CP
chưa thể hiện được sự phân biệt, khác nhau giữa xã và phường, thị trấn cả về khối
lượng công việc và nguyên tắc quản lý để có chế độ, chính sách cán bộ với từng
mô hình quản lý hành chính.
- Về quy định mức sinh hoạt phí, tuy đã có sự điều chỉnh lại mức sinh hoạt
phí phân theo chức vụ, chức danh công tác, nhưng chưa đạt được sự tương quan về
quyền lợi- vai trò- trách nhiệm giữa các cán bộ trong cùng xã, phường, thị trấn và


sự tương quan giữa cấp xã với cấp huyện. Qua kết quả khảo sát và điều tra cán bộ
xã, phường, thị trấn có nhiều ý kiến cho rằng mức sinh hoạt phí của trưởng các
đoàn thể nhân dân bằng mức Phó chủ tịch HĐND, Phó chủ tịch UBND là chưa sát
thực tế đối với cấp xã. Quy định mức sinh hoạt phí đối với cán bộ chuyên môn
không có bằng cấp đào tạo là quá thấp so với công việc và trách nhiệm họ phải
đảm nhận hàng ngày và so với cán bộ xã khác là quá thiệt thòi. Quy định mức phụ
cấp đối với công an viên ở thôn cao hơn mức của trưởng thôn dẫn đến nhiều vấn đề
nảy sinh mới trong quá trình thực hiện.
- Mức sinh hoạt phí đối với cán bộ xã nhìn chung còn thấp. Cán bô xã tái cử
2 đến 3 nhiệm kỳ vẫn chỉ được hưởng một mức phụ cấp tái cử 5% so với mức sinh
hoạt phí hiện giữ là chưa công bằng so với cấp huyện, tỉnh.
- Chức danh cán bộ xã không có sự quy định thống nhất qua các thời kỳ,
trước đấy lại do địa phương quy định cụ thể. Do đó, việc thực hiện chế độ bảo

hiểm xã hội đối với cán bộ xã của tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
đối với thời gian công tác trước năm 1998 đều có vướng mắc với ngành bảo hiểm
xã hội, đến nay vẫn chưa tháo gỡ được.
- Về chế độ bảo hiểm xã hội đối với cán bộ xã, phường, thị trấn chỉ gồm trợ
cấp khi nghỉ việc và mai táng phí. Một số chế độ khác về bảo hiểm xã hội không
được thực hiện thống nhất theo Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị
định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ, cụ thể là cán bộ xã, phường, thị
trấn không được hưởng chế độ ốm đau, thai sản, tuất...chế độ hưởng bảo hiểm xã
hội khi cán bộ xã, phường, thị trấn bị kỷ luật cũng chưa được quy định rõ.
3.2. Từ khi có Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21 tháng 10 năm 2003
của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường,
thị trấn đến nay:
- Nội dung cơ bản của Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21/10/2003
của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị
trấn, quy định:
“Chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức cấp xã
1. Cán bộ chuyên trách cấp xã quy định tại khoản 1, điều 2 của Nghị định
này được hưởng chế độ tiền lương như sau:
a) Bí thư đảng uỷ, Bí thư chi bộ cấp xã (nơi chưa thành lập Đảng uỷ xã); hệ
số 2,0 mức lương tối thiểu;
b) Phó Bí thư Đảng uỷ, Phó Bí thư chi bộ cấp xã (nơi chưa thành lập đảng
uỷ cấp xã), Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân: hệ số 1,9 mức
lương tối thiểu;


c) Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Thường
trực đảng uỷ (nơi chưa có Phó Bí thư chuyên trách công tác đảng), Chủ tịch Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc: hệ số 1,8 mức lương tối thiểu;
d) Bí thư đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Phụ nữ, Chủ
tịch Hội nông dân, Chủ tịch Hội cựu chíên binh: hệ số 1,7 mức lương tối thiểu;

đ) Các chức vụ trên nếu được tái cử, kể từ nhiệm kỳ thứ 2 (từ tháng 61 trở
đi) được hưởng phụ cấp thêm 5% hàng tháng theo mức lương chức vụ đảm nhiệm;
e) Trường hợp công chức cấp xã được bầu giữ các chức vụ qua bầu cử nếu
xếp lương theo chức vụ bầu cử mà thấp hơn mức lương của chức danh chuyên môn
hiện hưởng thì được hưởng lương chức vụ đó và bảo lưu hệ số chênh lệch giữa
mức lương chuyên môn và mức lương chức vụ.
2. Công chức cấp xã được hưởng chế độ tiền lương như sau:
a. Công chức cấp xã tốt nghiệp đào tạo đại học trở lên phù hợp chuyên môn
của chức danh được hưởng lương theo bảng lương hành chính, ngạch chuyên viên;
tốt nghiệp trung cấp phù hợp chuyên môn của chức danh được hưởng lương theo
ngạch cán sự; tốt nghiệp sơ cấp phù hợp chuyên môn của chức danh được hưởng
lương theo ngạch nhân viên văn thư. Được nâng lương theo niên hạn như đối với
cán bộ, công chức ngạch tương ứng ở cấp huyện trở lên.
b. Người đang tập sự công chức cấp xã được hưởng 85% lương theo các
ngạch công chức tương ứng; thời gian hưởng lương tập sự thực hiện theo quy định
hiện hành của nhà nước;
c. Công chức cấp xã đang công tác chưa tốt nghiệp đào tạo chuyên môn theo
quy định thì được hưởng: hệ số lương bằng 1,09 mức lương tối thiểu.
d. Riêng đối với Trưởng Công an, Chỉ huy trưởng quân sự, hưởng theo lương
chức danh, nếu thấp hơn mức sinh hoạt phí hiện hưởng thì được bảo lưu khoản
chênh lệch để bằng mức sinh hoạt phí hiện hưởng cho đến hết năm 2005 sau đó
hưởng theo lương chức danh”.
Về phụ cấp tái cử: Liên Bộ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐCP của Chính phủ, quy định:
“Cán bộ chuyên trách cấp xã nếu được tái cử cùng chức vụ hoặc được bầu
giữ chức vụ khác trong số cán bộ chuyên trách thì từ tháng thứ 61 trở đi kể từ thời
điểm được bầu giữ chức vụ lần đầu theo Nghị định số 09/1998/NĐ - CP ngày
23/1/1998 của Chính phủ hoặc theo Nghị định số 121/2003/NĐ - CP, được hưởng
phụ cấp thêm 5% hàng tháng theo mức lương chức vụ hiện đang đảm nhiệm (sau
đây gọi là phụ cấp tái cử); mức hưởng phụ cấp tái cử thêm 5% hàng tháng ổn định
trong suất thời gian tái cử...

Chế độ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế


1. Cán bộ, công chức cấp xã được thực hiện chế độ Bảo hiểm xã hội theo
Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995
của Chính phủ và Nghị định số 01/2003/NĐ- CP ngày 09/1/2003 về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Điều lệ Bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số
12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ và Bảo hiểm y tế theo điều lệ Bảo hiểm y tế
ban hành kèm theo Nghị định số 58/1998/NĐ- CP ngày 13/8/1998 của Chính phủ;
khi đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định của Bộ luật Lao động, nếu có đủ 15 năm đóng
bảo hiểm xã hội trở lên thì được hưởng chế độ hưu trí.
2. Cán bộ chuyên trách cấp xã khi thôi đảm nhiệm chức vụ, có đủ 10 năm
đóng bảo hiểm xã hội trở lên và còn thiếu tối đa 5 năm thì đủ tuổi nghỉ hưu, chưa
nhận trợ cấp một lần về bảo hiểm xã hội và tự nguyện đóng tiếp 15% tiền bảo hiểm
xã hội hàng tháng theo mức lương trước khi thôi đảm nhiệm chức vụ cho cơ quan
bảo hiểm xã hội nơi cư trú cho đến khi đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội và đủ
tuổi nghỉ hưu thì được hưởng chế độ hưu trí...
Cán bộ không chuyên trách cấp xã bao gồm: Trưởng ban tổ chức đảng; Chủ
nhiệm uỷ ban kiểm tra đảng; Trưởng ban tuyên giáo; cán bộ văn phòng đảng uỷ;
Phó trưởng Công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy); Phó chỉ huy
trưởng Quân sự; Cán bộ kế hoạch giao thông thuỷ lợi- nông, lâm, ngư, diêm
nghiệp; Cán bộ lao động- thương binh và xã hội; cán bộ dân số – gia đình và trẻ
em; Thủ quỹ văn thư lưu trữ; Cán bộ phụ trách đài truyền thanh; cán bộ quản lý
nhà văn hoá; Phó chủ tịch uỷ ban Mặt trận Tổ quốc; Phó các đoàn thể cấp xã
(Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến
binh); Chủ tịch hội người cao tuổi; Chủ tịch hội chữ thập đỏ Việt Nam...
Cán bộ không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố bao gồm: Bí thư chi bộ;
Trưởng thôn; Công an viên ở thôn và Bí thư chi bộ, Tổ trưởng tổ dân phố ở
phường, thị trấn.
Số cán bộ không chuyên trách được hưởng phụ cấp; mức phụ cấp của một

chức danh do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết
định.
Sau hơn 01 năm thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ- CP thì thực hiện điều
chỉnh lại bậc lương của cán bộ chuyên trách cấp xã tại Nghị định số 204/2004/NĐCP.
- Nội dung cơ bản của Nghị định số 204/2004/NĐ- CP ngày 14/12/2004 của
Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng
vũ trang, trong đó quy định :
Bảng lương cán bộ chuyên trách ở xã, phường, thị trấn
(Ban hành kèm theo Nghị định số 204/2004/NĐ- CP )


STT

Chức danh lãnh đạo

Bậc 1

Bậc 2

Bí thư Đảng uỷ
1

Hệ số lương

2,35

2,85

Mứclương thực hiện 01/10/2004


681.500 đ

826.500 đ

Hệ số lương

2,15

2,65

Mức lương thực hiện 01/10/2004

623. 500 đ

768.500 đ

1,95

2,45

565.500 đ

710.500 đ

Hệ số lương

1,75

2,25


Mức lương thực hiện 01/10/2004

507.500 đ

652.500 đ

Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch HĐND,
Chủ tịch UBND
2

Thường trực Đảng uỷ, Chủ tịch
UBMTTQVN, Phó Chủ tịch HĐND, Phó
Chủ tịch UBND
3

Hệ số lương
Mức lương thực hiện
Trưởng các đoàn thể, Uỷviên UBND

4

Ghi chú:
1. Các đoàn thể ở cấp xã bao gồm: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông
dân, Hội cựu chiến binh.
2. Những người tốt nghiệp trung cấp trở lên được bầu giữ chức danh chuyên
trách, nếu mức lương chuyên trách thấp hơn mức lương bậc 1 của công chức có
cùng trình độ, thì vẫn xếp lương chuyên trách và được hưởng hệ số chênh lệch, khi
được xếp bậc 2 của chức danh chuyên trách thì giảm tương ứng hệ số chênh lệch.
Khi thôi giữ chức danh chuyên trách chuyển sang công chức thì thời gian này được
tính để xếp bậc lương chuyên môn theo chế độ nâng bậc lương thường xuyên.

3. Công chức cấp xã được bầu giữ chức danh chuyên trách, thực hiện theo
điểm e, khoản 1, điều 4 Nghị định số 121/2003/NĐ- CP của Chính phủ.
4. Chế độ tiền lương đối với cán bộ xã đội quy định tại điều 22 Nghị định số
184/2004/NĐ- CP ngày 2/11/2004 của Chính phủ được tính lại mức lương mới để
hưởng từ 01/10/2005 theo mức lương mới của cán bộ chuyên trách (riêng hệ số
1,46 của Xã đội phó được xếp 1,86).


Thực hiện quy định trên đây thì lương của Xã đội phó (với hệ số 1,86) sẽ cao
hơn lương cuả Xã đội trưởng là thành viên Uỷ ban nhân dân xã (hệ số 1,75). Vì
vậy Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến: “Giao Bộ quốc phòng chủ trì phối hợp với
Bộ Nội vụ và các cơ quan có liên quan dự thảo nội dung sửa đổi Nghị định của
Chính phủ số 184/2004/NĐ- CP ngày 02/11/2004 quy định chi tiết thi hành Pháp
lệnh dân quân tự vệ, để đảm bảo tính thống nhất về chế độ, chính sách đối với cán
bộ, công chức cấp xã”. (Công văn số 2304/VPCP- NC ngày 29/4/2005 của Văn
phòng Chính phủ).
3.2.1.Về ưu điểm: Việc tổ chức quán triệt Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX
ở hầu hết các địa phương (từ cấp xã đến cấp tỉnh) đều triển khai thực hiện theo chỉ
thị số 11/ CT- TW ngày 08 tháng 4 tháng 2002 của Ban Bí thư và hướng dẫn của
Ban tư tưởng- Văn hoá Trung ương. Sau học tập và xây dựng chương trình hành
động thực hiện Nghị quyết, nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai
trò, vị trí của hệ thống chính trị ở cơ sở được nâng lên, tuyệt đại cán bộ, đảng viên
và nhân dân phấn khởi, tin tưởng, đồng tình với Nghị quyết của Đảng.
a) Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX thì đây là lần đầu tiên
Đảng và Nhà nước có quy định “Cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn có chế độ làm
việc và được hưởng chính sách về cơ bản như cán bộ, công chức nhà nước” nên
khi thực hiện Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi) và các Nghị định của Chính
phủ về cán bộ, công chức cấp xã đã tạo ra không khí yên tâm, phấn khởi trong cán
bộ và nhân dân.
b) Kết quả thu được từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX và

các Nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ và các Bộ,
ngành trung ương về chế độ chính sách cho cán bộ, công chức cấp xã là:
- Chế độ chính sách mới của Đảng và Chính phủ đã được tổ chức thực hiện
nghiêm túc, bước đầu đã tạo sự khấn khởi, phát huy được sự năng động sáng tạo
của cán bộ công chức cơ sở, góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững
mạnh toàn diện.
- Đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn từng bước được phát triển cả về số
lượng và chất lượng, nhờ việc thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ và một số địa
phương có chính sách thu hút cán bộ trẻ, sinh viên mới tốt nghiệp ở các trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có chuyên môn phù hợp về công tác ở cơ
sở nên đã từng bước nâng được trình độ và trẻ hoá đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã.
- Kỷ cương hành chính, tác phong, lề lối làm việc của cán bộ cơ sở có nhiều
chuyển biến tích cực, được nhân dân đồng tình.
- Dân chủ ở cơ sở được phát huy, thu hút đông đảo nhân dân tham gia giám
sát hoạt động của cán bộ, công chức và thẳng thắn, chân tình góp ý phê bình cán bộ


cơ sở. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là một trong những biện pháp hữu
hiệu nhất đối với công tác quản lý và sử dụng cán bộ, công chức cấp xã.
c) Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện chế độ, chính sách
cho cán bộ, công chức cấp xã đã được các cấp, các ngành và địa phương quan tâm
giải quyết cụ thể, góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền
cơ sở.
d) Phong cách, ý thức trách nhiệm và lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ chủ chốt ở một số cơ sở có chuyển biến tiến bộ theo hướng sát dân
và có trách nhiệm với dân hơn, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với
Đảng.
3.2.2.Những tồn tại, vướng mắc trong thực hiện chế độ, chính sách hiện nay
đối với cán bộ, công chức cơ sở:

a. Về chức danh cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã: một số Bộ, ngành ở
Trung ương và nhiều địa phương đề nghị tăng thêm chức danh cán bộ chuyên
trách, công chức cấp xã (Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Ban Tổ chức Trung ương,
Uỷ ban kiểm tra Trung ương, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Y tế ).
- Một số địa phương đề nghị các chức danh: Trưởng ban Tổ chức, Chủ nhiệm
Uỷ ban kiểm tra, Trưởng ban Tuyên giáo, cán bộ Văn thư- Thủ quỹ, cán bộ Lao
động Thương binh và Xã hội, cán bộ Dân số Gia đình và Trẻ em, cán bộ Tài
nguyên- Môi trường hiện đang là cán bộ không chuyên trách cấp xã được là cán bộ
chuyên trách hoặc công chức cấp xã;
- Một số chức danh như Phó Bí thư xây dựng hệ thống chính trị các xã trọng
điểm vùng Tây Nguyên (đã có hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương); cán bộ
chuyên trách làm công tác biên giới theo quyết định số 120/2003/QĐ- TTg đến nay
Chính phủ chưa có hướng dẫn cụ thể để các địa phương thực hiện.
b. Về số lượng:
- Về số lượng đơn vị hành chính cấp xã:
Năm 2002 khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX cả
nước có 10.590 xã, phường, thị trấn (trong đó có: 8.973 xã, 1.042 phường, 575 thị
trấn). Đến ngày 15 tháng 04 năm 2008 cả nước có 11.011 xã, phường, thị trấn
(trong đó: 9.103 xã, 1.290 phường, 618 thị trấn), tăng 421 xã, phường, thị trấn.
Tổng số thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố hiện nay là: 103.840 (trong đó: thôn là:
81.202, tổ dân phố: 22.638).
- Hiện nay Nghị định số 159/2005/NĐ- CP về phân loại đơn vị hành chính
cấp xã đã được thực hiện nhưng chưa có chế độ, chính sách cho cán bộ, công chức
hoặc chưa tăng số lượng cán bộ cho xã, phường, thị trấn đạt loại 1 và loại 2.
- Thực tế cho thấy, cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã đảm đương rất
nhiều công việc quản lý trên địa bàn và đang tiếp tục được phân cấp, uỷ quyền


thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước nhưng chỉ chiếm 1/3 tổng số cán bộ xã;
trong khi đó cán bộ không chuyên trách chiếm tới 2/3 tổng số cán bộ xã. Cán bộ xã

(bao gồm cả cán bộ chuyên trách, công chức, cán bộ không chuyên trách) thì cán
bộ khu vực đảng, đoàn thể chiếm tỷ lệ cao (khoảng 60%), cán bộ làm công tác
chuyên môn ít hơn (khoảng 40%).
c. Về chế độ, chính sách:
- Không ổn định:
Việc nghiên cứu chế độ, chính sách cho cán bộ xã, phường, thị trấn chưa cơ
bản, toàn diện, thường là chạy theo giải quyết những vấn đề bức xúc trước mắt,
nên chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở thay đổi luôn. Chỉ trong vòng 10 năm
(1993 - 2003), Chính phủ đã 4 lần ra nghị định về chế độ sinh hoạt phí đối với cán
bộ xã, phường, thị trấn (Nghị định số 46/CP năm 1993; Nghị định số 50/CP năm
1995, Nghị định số 09/1998/NĐ-CP năm 1998 và Nghị định 121/2003/NĐ-CP
năm 2003).
- Thiếu nhất quán, không đồng bộ:
+ Đối tượng được hưởng chế độ do Chính phủ quy định, mỗi giai đoạn một
khác. Giai đoạn 6/1975 - 5/1993, đối tượng được hưởng chế độ không chỉ có cán
bộ đảng, chính quyền, đoàn thể mà còn có cả cán bộ sự nghiệp và cán bộ kinh tế.
Từ tháng 6/1993 đến nay, các Nghị định 46/CP, 50/CP và 09/1998/NĐ-CP chỉ quy
định các đối tượng hưởng chế độ là cán bộ Đảng, chính quyền, mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội. Các đối tượng khác do các văn bản của các Bộ, ngành
điều chỉnh dẫn đến sự thiếu thống nhất và bất hợp lý giữa các loại cán bộ ở cơ sở.
Nghị định 40/1999/NĐ-CP ngày 23/6/1999 và Nghị định 46/2000/NĐ- CP ngày
12/9/2000 cho Phó công an, Phó chỉ huy trưởng quân sự hưởng sinh hoạt phí và
bảo hiểm xã hội, nhưng đến Nghị định số 121/2003 thi các chế độ của Phó công
an, Phó chỉ huy trưởng quân sự hưởng chế độ của một cán bộ không chuyên trách
cấp xã.
+ Chế độ chi trả hàng tháng: lúc thấp, lúc cao so với mặt bằng chung; khi thì
lấy mặt bằng kinh tế - xã làm cơ sở, khi thì dựa vào mức thu nhập của cán bộ, công
chức làm căn cứ.
+ Về chế độ trợ cấp nghỉ việc: có giai đoạn cán bộ khi nghỉ việc chỉ được
hưởng chế độ trợ cấp thường xuyên (từ tháng 6/1975 - 5/1993), có giai đoạn chỉ

được giải quyết chế độ một lần (từ tháng 6/1993 - 12/1997). Từ năm 1998 đến nay
có cả chế độ trợ cấp thường xuyên và trợ cấp một lần. Đến Nghị định
121/2003/NĐ- CP thì khó giải quyết với các trường hợp chưa đủ tuổi, thiếu năm
đóng bảo hiểm xã hội để hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng sau khi nghỉ việc....


- Bất hợp lý:
+ Cấp cơ sở là một trong 4 cấp thuộc hệ thống hành chính Nhà nước, nhưng
cán bộ, công chức 3 cấp Trung ương, tỉnh, huyện được hưởng lương và đầy đủ các
chế độ bảo hiểm xã hội khi đang công tác cũng như khi về hưu, trong khi đó cán bộ
cấp cơ sở lúc thì được hưởng, lúc thì không được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội
khi đang công tác, chỉ được hưởng chế độ trợ cấp thường xuyên.
+ Lương của cán bộ chuyên trách giữ chức vụ bầu cử thấp hơn lương của
công chức có cùng trình độ đào tạo (vì chỉ có 2 bậc lương, còn công chức được
nâng bậc lương thường xuyên). Cán bộ chuyên trách (Bí thư hoặc Phó Bí thư)
kiêm nhiệm chức danh Chủ tịch Hội đồng nhân dân chưa được hưởng 10% phụ cấp
kiêm nhiệm chức vụ lãnh đạo (chỉ vì Hội đồng nhân dân không có tài khoản riêng
ở kho bạc- theo Thông tư số 78/2005/TT- BNV ngày 10/8/2005 của Bộ trưởng Bộ
Nội vụ hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp kiêm nhiệm đối với cán bộ, công chức,
viên chức kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo đứng đầu cơ quan, đơn vị khác);
+ Thời gian đóng bảo hiểm và tuổi nghỉ hưu của cán bộ, công chức cấp xã
qua các thời kỳ cũng thay đổi …làm cho cán bộ cơ sở suy nghĩ có sự phân biệt đối
xử giữa cán bộ, công chức Nhà nước với cán bộ cơ sở. Theo quy định của Luật bảo
hiểm xã hội thì thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội của cán bộ, công chức
xã là 20 năm và phải đủ 55 tuổi đối với nữ, 60 tuổi đối với nam mới đủ điều kiện
nghỉ hưu trí là rất khó khăn cho cán bộ, công chức cấp xã.
+ Xã, phường, thị trấn rất đa dạng nhưng số lượng cán bộ giữa các xã,
phường, thị trấn chênh nhau không lớn (từ 17 đến 25 định biên), mức lương và chế
độ chính sách các chức danh lại như nhau: xã đồng bằng, xã miền núi, xã hải đảo,
xã ven đô; xã thuần nông, xã kinh tế ngành nghề phát triển; có xã lớn diện tích, dân

số đông (trên 30.000 dân) đến xã nhỏ về diện tích, dân số thấp (dưới 1000 dân) chế
độ chính sách đều như nhau. Vì chưa có chế độ, chính sách và cơ chế phù hợp nên
các xã, phường, thị trấn lớn về diện tích, đông về dân số muốn chia tách thành các
xã nhỏ nên địa giới hành chính cấp xã trong những năm qua không ổn định, ảnh
hưởng đến hiệu quả, hiệu lực quản lý.
+ Mặc dù Nghị định 121/2003/NĐ-CP quy định cán bộ, công chức cơ sở
được hưởng các chế độ đào tạo, bồi dưỡng, nhưng thực tế khi cán bộ cơ sở đi học
tập, bồi dưỡng thì kinh phí khó khăn hơn nhiều so với cán bộ, công chức đi học
tập, bồi dưỡng (nhất là đối với cán bộ, công chức ở các vùng núi Tây Bắc, Tây
Nguyên).
+ Xã và phường (đô thị và nông thôn) có những đặc điểm rất khác nhau; nội
dung và khối lượng công việc quản lý Nhà nước khác nhau, chế độ làm việc khác
nhau, điều kiện và môi trường sống khác nhau nhưng chế độ, chính sách đối với
cán bộ lại như nhau.
- Chưa có tác dụng khuyến khích và thu hút:


×