DANH SÁCH PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
STT Họ Và Tên
MSV
Công Việc Được Giao
1
Lê Thị Luyến
2
Hoàng Thị Ninh
588330 - Đặt vấn đề
- Kết luận
588382 Nguyên nhân
3
Nguyễn Thị Oanh
588799 Hiện trạng
4
Trần Thị Phương
588416 Giải pháp
5
Đặng Thị Như Quỳnh 588436 Hậu quả
Nhóm trưởng ky tên
Lê Thị Luyến
Số điện thoại : 01655582080
1
MỤC LỤC
2
I . Đặt vấn đề
Với đường bờ biển dài 3260 km từ bắc vào nam, Việt Nam đang đứng
trước nguy cơ phải đối diện với hiện tượng bờ biển đang bị xói lở với cường
độ mạnh, mực nước biển ngày một dâng cao hơn khiến cho hiện tượng nước
biển xâm thực diễn ra rất mạnh gây ảnh hương đến diện tích nông nghiệp và
đời sống của người dân.
Hiện tại quá trình sạt lở bờ biển đang là vấn đề rất nghiêm trọng.Sạt lở
bờ biển diễn ra với tần số ngày càng gia tăng. Biển ngày càng ăn sâu vào các
khu dân cư, phá hủy các công trình đường xá, nhà cửa, rừng phòng hộ…
Sạt lở đất thường xảy ra tại các thung lũng và triền sông, dọc các bờ
biển bị xói lở.Trong quá trình sạt lở, có sự đan xen giữa hiện tượng dịch
chuyển trượt, hiện tượng sụp đổ. Hiện tượng sạt lở thường được báo trước
bằng các vết nứt sụt ăn sâu vào đất liền và kéo dài theo bờ sông, bờ biển
(Hình 1). Diễn biến phá hoại của sạt lở nhanh và đột ngột. Sạt lở bờ thường
có xu hướng tái diễn nhiều năm, phạm vi ảnh hưởng rộng, đe doạ phá hỏng cả
cụm dân cư kinh tế lâu năm ở các đồng bằng ven biển.
Hình 1. Bờ biển Kiên Giang bị sạt lở
3
Ở Việt Nam, hầu như tất cả các biển đều đang bị sạt lở. Sạt lở biển
đang gây hậu quả nghiêm trọng ở vùng Bắc Trung Bộ trọng điểm là: Thừa
Thiên Huế, Quảng Bình, Nam Trung Bộ từ Đà Nẵng tới Bình Thuận trọng
điểm là: Quảng Ngãi, Phú Yên,…
II. Nội dung
1.Thực trạng.
Việt Nam đang đứng trước nguy cơ phải đối diện với hiện tượng bờ
biển đang bị sạt lở với cường độ mạnh, mực nước biển ngày một dâng cao
hơn. Thiệt hại 17 tỷ USD/năm nếu nước biển dâng cao thêm một mét. Các
nhà nghiên cứu môi trường vừa cảnh báo, mũi Cà Mau – nơi vẫn được xem là
có tốc độ lấn ra biển nhanh nhất nước ta ( có năm tới 100m ) – đã và đang có
biểu hiện bi sạt lở khá mạnh. Tuy nhiên, đây không phải là hiện tượng cá biệt.
Hầu hết bờ biển nước ta đang bị sạt lở với cường độ từ vài mét tới hàng chục
mét mỗi năm và có xu hướng gia tăng mạnh trong một thập niên gần đây. Tại
khu du lịch Đồi Dương ở thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, nhiều năm
nay cũng đã xảy ra tình trạng sạt lở liên tục với tốc độ khoảng 10m/năm.
Qúa trình sạt lở bờ biển đang diễn ra rất mạnh tại tất cả các tỉnh có bờ
biển nhưng với tốc độ khác nhau: khu vực sạt lở mạnh nhất là đồng bằng Bắc
Bộ- Thanh Hóa, đồng bằng sông Cửu Long, còn khu vực ổn định là vùng bờ
Móng Cái- Hòn Gai, Rạch Gía- Hà Tiên, Nam Trung Bộ.
Có khoảng 249 đoạn bờ bị sạt lở, với tổng chiều dài 250- 400km. Với
quá trình sạt lở đang diễn ra ở hầu hết các kiểu cấu tạo có nền đá gốc, sỏi cát,
bùn sét, bùn, sét, cát,… trong đó chủ yếu là bờ cát ( chiếm 82% tổng số đoạn
bờ bị sạt lở). Trên 80 đoạn bờ đã có đê, kè, trồng cây vẫn tiếp tục bị sạt lở.
Hơn 50%đoạn lở có chiều dài hơn 1km, gần 20% đoạn lở sâu vào đất liền
500m. Có 32% số đoạn lở tốc độ nhanh ( 10- 30m/năm) có những đoạn tốc độ
hơn 100m/năm.
4
Dựa vào địa hình, địa chất, vùng bờ biển, các yếu tố động lực biển
( sông, dòng chảy, hướng vận chuyển bùn cát ) và các đặc điểm hiện trạng sạt
lở chia ra làm 8 vùng sau:
Vùng I: từ Móng Cái đến Đồ Sơn- Hải Phòng.
Vùng II: từ Hải Phòng đến Nga Sơn – Thanh Hóa.
Vùng III: từ Nga Sơn đến đèo Ngang.
Vùng IV: từ đèo Ngang đến mũi Ba Làng An ( Quảng Ngãi ).
Vùng V: từ Ba Làng An đến Cà Ná ( Ninh Thuận ).
Vùng VI: từ Cà Ná đến Vũng Tàu.
Vùng VII: từ Vũng Tàu đến mũi Cà Mau.
Vùng VIII: từ mũi Cà Mau đến Hà Tiên.
Theo mức độ nguy hiểm về cường độ như tốc độ sạt lở chia ra:
-Bờ sạt lở yếu: < 4m/năm.
-Bờ sạt lở trung bình: 5- 10m/năm.
-Bờ sạt lở mạnh: 10- 30m/năm.
-Bờ sạt lở rất mạnh: > 30m/năm.
Các bờ sạt lở yếu là vùng bờ I, V, VIII.Trung bình và mạnh là III, IV, và
VI còn mạnh và rất mạnh là vùng bờ II và VII.Sạt lở bờ biển đang thực sự gây
nguy hại cơ sở hạ tầng, nhiều làng xóm, ruộng vườn, đất canh tác đã bị
sóng biển phá hủy.
Chia theo ba miền đất nước có thể nói :
Bờ biển miền Bắc:
Sạt lở bờ biển là hiện tượng phổ biến ở ven biển Hải Phòng, kể cả ở bờ
các đảo và nhiều đoạn bờ nằm sâu phía trong các sông. Tổng số chiều dài
đường bờ biển Hải Phòng bị sạt lở 16,1km, tốc độ trung bình 5,4m/năm trên
tổng số 125km đường bờ biển, chiếm tổng số 23,0% (năm 2009).
5
Bờ biển miền Trung:
Với trên 70% đất có thành phần đặc biệt và là đất bở rời đồng thời
do các biến động bất thường về khí tượng thủy văn, tác động của con người,
…, bờ biển miền Trung sẽ xảy ra sạt lở với quy mô và mức độ càng mạnh. Dự
báo trên vừa được Viện Địa lý ( trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn) đưa
ra sau khi tiến hành hàng loạt các nghiên cứu liên quan.
Sạt lở bờ biển vùng Bắc Trung Bộ từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế:
Khu vực từ Quảng Bình đến Thừa Thiên Huế vẫn là trọng điểm.
Vùng từ cửa Thuận An đến Tư Hiền (Thừa Thiên Huế) diễn biến sạt
lở rất phức tạp, phụ thuộc vào chu kỳ dịch chuyển của các cửa sông lên phía
tây hay xuống đông nam với chu kỳ 30-60 năm.
Sạt lở bờ biển Nam Trung Bộ từ Đà Nẵng tới Bình Thuận:
Có diễn biến rất phức tạp với xu thế tăng mạnh cả về quy mô lẫn cường
độ, và tăng dần từ Bắc vào Nam (tại Quảng Ngãi, sạt lở Sa Huỳnh sẽ tăng quy
mô mở rộng về phía Nam.
• Theo PGS.TS Nguyễn Văn Cư (Phó viện trưởng Viện Địa lý) có 3
vùng sạt lở nghiêm trọng, đó là:
Thừa Thiên Huế: từ cửa Thuận An đến Hòa Duân, xói sạt tăng quy
mô về phía tây bắc và đông nam của khu vực này.
Quảng Ngãi: sạt lở trọng điểm Sa Huỳnh tiếp tục tăng quy mô về
phía tây nam.
Phú Yên: sạt lở tiếp tục tăng quy mô tại Phú Hạnh, Phú Sơn, Phú
Qúy, Phú Hiệp,An Nhơn, thị xã Tuy Hòa. Riêng khu vực trọng điểm Xuân
Hải, sạt lở sẽ dịch chuyển mở rộng phía đông nam với cường độ tăng dần
thêm 11,5%, 18% và 29% vào năm 2020, 2050,2100.
6
Bờ biển miền Nam:
Cà Mau là vùng xảy ra thường xuyên và chịu ảnh hưởng nhiều nhất cả
nước.
Theo thống kê mỗi năm, sạt lở đã làm Cà Mau mất đi khoảng 900 ha,
trong đó có hơn 120 ha là đất ven biển, còn lại là đất ven sông.
Trước đây, rừng phòng hộ ven biển và ngoài đê biển Tây nơi có chiều
rộng nhỏ nhất trên 500m, nay bị sạt lở còn khoảng 30-80m. Đặc biệt tình
trạng sạt lở đê biển Tây đoạn từ cống Lung Ranh đến Hương Mai dài trên
2.200m không còn rừng phòng hộ. Sóng biển xoáy sâu vào thân đê, có nơi
thân đê chỉ còn 2-3m, chiều cao của đê 2,5m sụt lún còn 1,8m và đang có
nguy cơ vỡ đê, đe dọa đến đời sống và sản xuất của hàng chục ngàn hộ dân.
Theo số liệu nghiên cứu về sạt lở đất ven biển và nước biển dâng qua
21 năm, từ 1990 đến 2011, bờ biển, rừng phòng hộ của tỉnh Cà Mau có nơi bị
sạt lở hàng chục mét/năm, biên độ lên xuống đỉnh và chân triều cường năm
sau luôn cao hơn năm trước gần 20mm. Theo kịch bản biến đổi khí hậu nước
biển dâng cao 10m, Cà Mau sẽ là 1 trong 10 tỉnh đứng đầu bị thiệt hại với
diện tích bị ngập khoảng 4.600 km2, chiếm khoảng 85,4% diện tích tự nhiên
của tỉnh, ảnh hưởng đến đời sống 2/3 dân số (Theo GS.TSKH Nguyễn Ngọc
Trân, chuyên gia cao cấp Hội đồng chính sách khoa học công nghệ quốc gia,
thành viên ban chỉ đạo quy hoạch tổng thể thủy lợi ĐBSCL, nguyên trưởng
Ban chỉ đạo nghiên cứu khai thác bán đảo Cà Mau).
Hiện tượng sạt lở các tuyến sông, ven biển cũng diễn ra thường xuyên
và nghiêm trọng hơn, đe dọa đến sản xuất và dân sinh.Tuy nhiên, hiện kè
chống sạt lở tuyến biển Đông chưa được xây dựng, mỗi năm đất rừng phòng
hộ trên tuyến này sạt lở từ 5-20m.
Tại Bạc Liêu, do nước biển thường xuyên dâng cao nên nhiều khu vực
ven biển của tỉnh này như Nhà Mát (TP Bạc Liêu), Vĩnh Thịnh (H.Hòa Bình),
Gianh Hào (H.Đông Hải)…bị sạt lở sâu vào đất liền từ 3-5m/năm.
7
Theo đánh giá của Sở NN và PTNT tỉnh Cà Mau, dọc theo bờ biển phía
Đông của tỉnh, sạt lở diễn ra nghiêm trọng từ cửa Gành Hào đến Hồ Gùi, do
chịu tác động mạnh mẽ của vùng hải lưu tạo ra. Rừng phòng hộ hàng năm bị
lở lấn sâu vào đất liền bình quân từ 5-20m, có nhiều vị trí sạt lở rất nghiêm
trọng. Bờ biển Khu du lịch Khai Long sạt lở với tổng chiều dài trên 4000m,
tuyến kè và tuyến bờ biển vừa xây dựng xong đã bị sạt lở. Trong vòng 5 năm
trở lại đây, cửa Kinh Năm – Ô Rô đã sạt lở sâu vào khoảng 400m. Cũng theo
Sở NN và PTNT thì tại vị trí này rừng phòng hộ đang bị thu hẹp, trong tương
lai, nếu không có biện pháp ngăn ngừa thì Khu du lịch Khai Long sẽ dần biến
mất. Khu vực ấp Lưu Hoa Thanh, xã Tân Thuận, huyện Đầm Dơi sạt lở với
chiều dài khoảng 2.500m, hiện đang xử lý khắc phục được khoảng 350m.
Hình 2. Cảnh điêu tàn gần khu vực Khai Long sau khi bị biển tấn công.
Xã Nhơn Lý Bình Định có hơn 2000 hộ dân thì có tới gần 300 hộ với
hơn 1.300 khẩu thuộc diện phải di dời, tránh sạt lở, triều cường xâm thực.
Mỗi năm nước biển lại lấy đi vài mét đất, hàng chục ngôi nhà. Nguyên nhân
là ở đây chưa được xây dựng kè chắn sóng biển kiên cố mà chỉ có vài bậc
chắn sóng tạm bợ.Mỗi khi biển động, triều cường và sóng biển lại phủ kín nhà
cửa, cuốn trôi tài sản của bà con.
8
Hình 3. Sạt lở bờ biển Bình Định
2. Nguyên nhân.
Sạt lở bờ biển do rất nhiều nguyên nhân trong đó có yếu tố tự nhiên và
con người.
- Do tự nhiên: do biến đổi khí hậu, nền đất yếu, sóng biển, gió, thủy
triều, dòng chảy sông - biển, nhưng chủ yếu do rừng phòng hộ bảo vệ bờ biển
bị chặt phá, không còn khả năng chống chọi, bảo vệ tuyến đê.
- Do con người: Các hoạt động sản xuất, phát triển kinh tế…
2.1. Do tự nhiên
Sự nóng lên toàn cầu do hiệu ứng nhà kính đã làm mực nước đại dương
tăng lên do nước bị dãn nở, do tan băng ở hai địa cực và tan băng hà núi cao.
Sau đây là dự báo về mực nước biển dâng cao trong tương lai vào các thời
điểm khác nhau ( so với mực biển 1985).
- Viện Hàn Lâm Khoa học Hoa Kỳ ( NAS), năm 2085 dâng thêm 70
cm.
- Hoffman và nhiều người khác (1986), năm 2100: 57 – 368 cm.
Sự dâng cao mực nước biển do thay đổi khí hậu trên thế giới, ở từng
vùng ven biển đặc biệt là dải đất thấp ven biển, chúng sẽ bị ngập chìm. Bên
cạnh đó, theo tính toán được chỉ cần mực nước biển dâng cao 0.6m sẽ gây ra
9
tốc độ xói lở biển cát 0.5m/năm và cứ dâng cao 20cm sẽ xói lở mất phần bãi
biển rộng 20-30 cm.
Sóng biển là tác nhân quan trọng trong quá trình xâm thực của biển và
đại dương, là một trong những yếu tố hình thành các dạng địa hình của biển.
Tốc độ phá hủy của sóng phụ thuộc vào: cường độ của sóng, độ dốc của bờ
biển và của đáy biển, các đặc điểm về thế nằm, độ cứng, kiến trúc và cấu tạo
của đất đá ở bờ biển.Sóng biển phá hủy bờ biển là nhờ cường độ của sóng khi
xô vào bờ.
Cấu tạo của bờ biển.
Bờ biển và đáy biển dốc là nguyên nhân làm cho quá trình xâm thực
diễn ra nhanh hơn. Đáy biển dốc thường gây ra sóng vỡ kiểu quăng nước với
động năng lớn, sức phá hủy của nó lớn. Nếu gặp các bờ biển dốc, khi sóng
đập vào bờ gây nên hiện tượng hàm ếch (hang chân sóng). Hàm ếch ngày
càng ăn sâu dẫn đến phần đá trên hàm ếch sẽ sụp xuống. Quá trình tạo hàm
ếch lại tiếp tục, bờ biển ngày càng lùi sâu vào đất liền và đáy biển thoải dần dẫn
đến đạt trắc diện cân bằng. Ở những bờ biển có cấu tạo bằng đất đá mềm thì hàm
ếch điển hình không được hình thành mà chỉ xảy ra hiện tượng trượt đất.
Thế nằm của đá: khi các lớp trầm tích dốc về phía lục địa thì tốc độ
phá hủy là cực đại và khi nào đá dốc về phía biển thì tốc độ là cực tiểu, khi đá
nằm ngang tốc độ là trung bình.
Kiến trúc và cấu tạo của đá: đá có kiến trúc hạt thô hoặc không đồng
đều thì bị phá hủy nhanh hơn đá có kiến trúc hạt nhỏ hoặc đồng đều hơn và
các đá có nhiều nứt nẻ càng dễ bị phá hủy.
Sự phá hủy của các dòng hải lưu trên mặt: chủ yếu phá hủy ở bờ
biển.
Quá trình phá hủy này rất yếu và phụ thuộc vào tốc độ dòng hải lưu và
tốc độ tự quay của trái đất. Do hiện tượng lệch hướng ở bán cấu bắc và
nam nên các dòng hải lưu chảy theo hướng kinh tuyển ở bán cầu bắc
=> bên phải bị xâm thực mạnh hơn bên bờ trái và ngược lại. Đối với các dòng
10
hải lưu chảy theo hướng vĩ tuyển thì ở Bắc bán cầu bị phá hủy mạnh hơn bờ
nam còn Nam bán cầu thì ngược lại.
2.2. Do con người
Nguyên nhân chủ quan làm sạt lở bờ biển là do chính con người gây ra,
hệ quả của một thời giao đất rừng phòng hộ cho người dân quản lý. Trong số
này không ít người dân vì cuộc sống trước mắt đã đào bới đất rừng phòng hộ
thành những khoảnh vuông nuôi tôm. Cây mắm được mệnh danh là loài cây
tiên phong lấn biển, giữ đất đã bị chặt phá, tạo ra những khoảnh đất trống cho
sóng biển tạt vào gây sạt lở vùng ven biển.
Với độ che phủ kém, thành phần cơ giới đất nhẹ, vì thế sự bào mòn xảy
ra mạnh mẽ trong đất, lôi cuốn các sản phẩm hình thành đất theo hai hướng:
(i) Bào mòn theo chiều ngang và (ii) Bào mòn theo chiều dọc.
Bào mòn theo chiều ngang, trên bề mặt rộng lớn của vùng cát thấy rõ
sự kế tiếp nhau những nơi cao và những nơi thấp hoặc xen những lạch trũng,
đường chia nước. Trong điều kiện như vậy có sự tái phân bố theo chiều ngang
các hợp chất di động lấy từ đất, hoặc các vật chất mịn.
Bào mòn theo chiều dọc, đất cát xốp nên độ thấm nước cao vì thế
xảy ra sự ngấm xuống theo chiều sâu phẫu diện.
- Việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất ngư - nông - lâm nghiệp triển khai
thực hiện nhiều dự án công trình thủy lợi làm tăng thêm rất lớn lưu lượng
nước trên sông, rạch và thuỷ triều lên, xuống chênh lệch khá cao; Các phương
tiện giao thông thủy chạy với công suất lớn (cao tốc) tạo nên sóng lớn.
- Việc nạo vét và khai thác cát không hợp lý góp phần làm xói lở các
bờ biển. Quan trắc tại Thừa Thiên - Huế cho thấy mực nước biển tại đây đã
dâng cao hơn 50 cm, khiến xói lở thêm trầm trọng.
11
3. Hậu quả
Hậu quả mà sạt lở bờ biển đem lại không chỉ là về kinh tế mà còn gây
ra cho con người. Tùy vào mức độ sạt lở để kéo theo hậu quả của nó.
Mất diện tích bờ biển
Ví dụ như: Việc biển khoét sâu vào bờ đã ảnh hưởng đến 100 hộ dân
sinh sống tại khu vực này đồng thời có nguy cơ mở của biển mới thông vào
phá Tam Giang. Vì tại vị trí này chiều rộng của dải đất tính từ biển đến đầm
phá chỉ còn lại vỏn vẹn khoảng 70m. Trên toàn tỉnh có hơn 8km đường bờ
biển bị sạt lở. Riêng đường bờ sông đã sạt lở trên 70km chủ yếu dọc theo
sông Bồ, sông Hương, sông Truồi, sông Ô Lâu. Đặc biệt là đường bờ thuộc hệ
thống sông Hương đã sạt lở nặng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cảnh quan
và di tích văn hóa lịch sử như các lăng vua chúa, đền thờ, miếu mạo, chùa
cổ...
Hay ở Thừa Thiên Huế: Chịu ảnh hưởng của gió bão số 4, bờ biển
tỉnh Thừa Thiên - Huế đã bị sạt lở kéo dài hàng chục km, trong đó nghiêm
trọng nhất là bờ bắc cửa biển Thuận An, nước biển đã “ăn” sâu vào rừng
phòng hộ hơn 30m. Rừng phi lao phòng hộ chắn gió, chắn cát đã bị nước biển
nuốt chửng 1/3 diện tích.
Hình 4. Bờ biển Thừa Thiên Huế sạt lở nghiêm trọng
12
Nhiều trường học ở huyện Phú Vang vẫn ngập nước, học sinh phải nghỉ
học Chỉ trong vòng 24g, sóng biển đã ăn sâu vào đất liền 30m, bờ biển bị sạt
lở kéo dài hơn 500m. Cánh rừng phòng hộ 20 tuổi có nguy cơ bị xóa sổ, hơn
100 hộ dân sống gần biển đang bị đe dọa nghiêm trọng.
Tại bờ biển thôn Hải Tiến, thị trấn Thuận An, sóng biển chỉ trong vòng
10 ngày đã lấn sâu vào đất liền hơn 25m, chiều dài gần 200m, hàng trăm cây
phi lao lớn hơn 30 năm tuổi bị sóng đánh bật gốc. Nhiều diện tích rừng phòng
hộ ở đây cũng có nguy cơ biến mất. Trạm đèn biển Thuận An có nguy cơ phải
di dời đi nơi khác do nước biển đã tiến gần sát vách. Tại thôn An Dương, xã
Phú Thuận (huyện Phú Vang, nước biển cũng đã làm sạt lở hơn 50m bờ biển,
tiến sát vách nhà dân, 17 hộ phải di dời khẩn cấp
Ảnh hưởng đến canh tác nông nghiệp, mất diện tích canh tác.
Ví dụ như: Vì mưa lớn nên dù đã thu hoạch lúa xong cơ bản khoảng
90% nhưng người dân không thể phơi lúa được. 1.200 tấn lúa bị lên mộng hư
hỏng, ước tính số lúa thiệt hại khoảng 30% tổng số lúa thu hoạch. Tại huyện
Phú Lộc có 610 ha sắn bị ngập và đổ ngã, ước thiệt hại 30% ; 85 ha rau màu
các loại bị ngập và 80 ha cá nước ngọt bị ngập, thiệt hại khoảng 80 tấn.
Mưa lớn kèm gió mạnh cũng ảnh hưởng lớn đến nông nghiệp tỉnh Thừa
Thiên Huế. Khoảng hơn 1.200 tấn lúa bị mọc mầm, hư hại vì không thể phơi
sấy. Riêng huyện Phú Lộc có 610 ha sắn bị ngập, đổ ngã, 85 ha rau màu các loại
của bị ngập, 80 ha cá nýớc ngọt bị ngập gây thiệt hại lớn cho bà con nông dân.
Xâm thực mặn cũng là nguyên nhân chính gây ra mất đất canh tác.
Những năm qua, mưa bão liên tục xảy ra, đã khiến tình trạng sạt lở bờ
biển ở tỉnh Thừa Thiên - Huế ngày càng trầm trọng, phá hủy nhiều nhà cửa,
làm mất đất canh tác, đe dọa đến tính mạng, tài sản của người dân... Chỉ tính
từ năm 2009 đến nay, Thừa Thiên - Huế đã đầu tư trên 40 tỉ đồng để tổ chức
tái định cư cho gần 900 hộ ở vùng sạt lở. Tuy nhiên, vẫn còn gần 1.000 hộ ở
vùng sạt lở chưa được di dời, tái định cư để ổn định cuộc sống. Các thôn An
13
Lộc, Tân Thành, Hải Thành, Thương Gián thuộc xã Quảng Công, huyện
Quảng Điền đã bị biển xâm thực mạnh. Ở đây có hơn 280 hộ dân sinh sống và
mới chỉ có 58 hộ được di dời đến nơi ở mới. Ông Dương Tào, thôn 3, xã Quảng
Công cho biết: "Hàng năm, đến mùa mưa bão, biển xâm thực sâu vào đất liền từ
4 m đến 5 m. Gia đình cũng muốn di chuyển đến nơi khác cho an toàn nhưng
không có đủ tiền, mặc dù đã được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí."
Ảnh hưởng đến con người đây là thiệt hại lớn nhất.
Ví dụ như: Sau cơn bão số 4, tỉnh TT-Huế đã có 2 người chết vì chèo
ghe mưu sinh trên sông trong trời mưa to gió lớn. Có 3 người bị thương do
giằng chống nhà phòng chống bão và bị ngã; hiện điều trị tại Bệnh viện Trung
ương Huế.
Vào tháng 11/1999, tại tỉnh TT-Huế xảy ra một trận lụt lịch sử thuộc
dạng lớn nhất nước với 375 người chết, mất tích, tổng thiệt hại hơn 1.800 tỷ
đồng, bằng tổng thu nhập bình quân của tỉnh trong 7 năm liền với dân số 1
triệu người. Lượng mưa lớn liên tục trong hơn 7 ngày đêm, có ngày cao nhất
lên đến 2.300mm - cao nhất trong chuỗi số liệu mưa tại Việt Nam hơn 100
năm qua. Nước lũ đã cuốn trôi làng Hòa Duân tại thị trấn Thuận An (huyện
Phú Vang) và mở 1 cửa biển mới ở đó.
Mất rừng phòng hộ
Chịu ảnh hưởng của gió bão số 4, bờ biển tỉnh Thừa Thiên - Huế rừng
phi lao phòng hộ chắn gió, chắn cát đã bị nước biển nuốt chửng 1/3 diện tích.
Tại các thôn Hải Tiến, Hải Bình (thị trấn Thuận An), nước biển tràn sâu vào
đất liền có nơi từ 20 đến 25 m, chiều dài hàng trăm mét. Nhiều diện tích đất
trồng trọt bị sóng biển “nuốt” trọn chỉ trong một đêm. Nhiều cây dương hơn
20 năm tuổi bị sóng đánh bật trơ gốc tạo thành những hố sâu hoắm.
14
4. Giải pháp
Có rất nhiều biện pháp nhưng chủ là những biện pháp sau:
4.1.Kè biển.
Từ năm 2010 đến nay, tỉnh Cà Mau triển khai dự án xây dựng công
trình kè ngầm chắn sóng tạo bãi tại đê biển Tây, bên trong đê bơm đất để
trồng rừng, chủ yếu là trồng cây mắm. Bước đầu, tỉnh thi công thí điểm 300m
đê trong số 6,4 km đang bị sạt lở nghiêm trọng.
Hình 5. Công nghệ mới kè lắp ghép bảo vệ bờ và đê biển của Busadco.
Bên cạnh đó, tỉnh Cà Mau còn giải tỏa các hộ dân cất nhà trái phép trên
rừng phòng hộ và hành lang bảo vệ đê biển, cắm mốc chỉ giới cho dân biết
nhằm giảm áp lực chặt phá cây rừng và bảo vệ toàn cho cư dân trong mùa
mưa bão. Bên cạnh việc kiến nghị Trung ương đầu tư vốn để xây dựng các
công trình bờ kè, đê bao chống sạt lở, tỉnh Cà Mau sẽ kết hợp Bộ Khoa học và
Công nghệ triển khai nhanh các công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà
nước nhằm sớm tìm ra những giải pháp tối ưu để bảo vệ và chống sạt lở đất
ven sông, ven biển.
Các địa phương khác cũng có kế hoạch của riêng mình nhằm phòng
chống sạt lở như tỉnh Bạc Liêu đã phê duyệt kế hoạch hành động ứng phó với
biến đổi khí hậu, Hậu Giang đã hoàn chỉnh các danh mục đầu tư cho các dự
án phòng, chống sạt lở trên địa bàn...
15
Người dân Cà Mau đã tìm ra một phương pháp lấn biển nhân tạo
mới mẻ. Đó là kè ly tâm chắn sóng tạo rừng.
Quá trình chống chọi với nạn sạt lở đê biển đã giúp cho Cà Mau tìm
được một phương pháp hữu hiệu chống lại nạn sạt lở một cách bền vững. Đó
là “kè ly tâm chắn sóng tạo bãi gây rừng”.
Phương pháp mới đã được thí nghiệm vào năm 2010, với 300 m cừ ly tâm
chắn sóng gây rừng, triển khai ngay tại đoạn đê nguy cấp nhất, thuộc địa bàn xã
Khánh Tiến, huyện U Minh. Sau một năm chắn sóng, đoạn cừ ly tâm này
đã tạo ra một bãi đất phù sa trù phú, những cây mắm lấn biển đầu tiên đã xuất
hiện.
Hình 6. Cà Mau đã được bảo vệ bằng kè ly tâm chắn sóng tạo bãi.
Xây dựng công trình kè chống sạt lở.
Đây là giải pháp công nghệ dùng các loại vật liệu bền vững làm lớp áo
phủ phía ngoài, giữ cho đất bờ không bị xói trôi, bảo vệ trực tiếp mái lở.
16
Hình 7. Công trình kè biển kiên cố.
Một đoạn bờ biển đang được kè chống xói lở Công trình kè chống sạt
lỡ bờ
biển tại ấp Bào, xã Hiệp Thạnh được xây dựng kiên cố, chống chịu
được sự xâm thực của biển: chân kè bằng 2 hàng ống bê tông, chôn sâu vào
lòng đất 1,9 và 1,4 mét; mái kè được ghép bằng các cụt chắn sóng TSC;
tường chắn sóng cao 1,5 mét; chiều cao công trình là 1,9 mét sẽ tạo mỹ quan
để thu hút và phát triển du lịch cho thị xã biển Duyên Hải trong tương lai.
Công trình bảo vệ biển Louisiana.
Tăng cường đê đất trên giồng-duyên-hải: Đất giồng-duyên-hải là các
đụn đất/cát tự nhiên chạy dọc bờ biển, cao hơn mức nước biển và cao hơn đất
bên trong nội địa, thường là đầm lầy. Để bảo vệ các giồng duyên hải thiên
nhiên này, ở những nơi có bảo tố gây sóng biển lớn, đê đất, hay tường xi
măng cốt sắt, hay hàng rào gổ, đựợc thiết lập trên các giồng này để chận cát,
hay ngăn sóng. Trên các giồng này, trồng các loại cỏ, thực vật chống cát di
chuyển để ổn định đê và giồng cát.
Đê đất với thảo mộc chịu nước mặn hay phên gổ và trồng cỏ để chận
cát bay
17
Xây dựng tường biển kiên cố dọc bờ biển. Các loại tường biển được áp
dụng:
Thảm đá (revetment): đổ đá khối hay khối bê-tông dọc bờ biển để làm
giảm sức sóng. Công trình này được thiết lập trong thập niên 1980s để bảo vệ
Đảo Timbalier.
Tường biển thẳng góc : Nơi có dòng nước chảy làm xói lở bờ biển, các
tường bằng xi măng cốt sắt, hay gổ, hay đá đặt thẳng góc với bờ biển, để chặn
hay giảm sức sóng hay dòng chảy để phù sa lắng đọng ngay chân tường.
Khối cản sóng: Đó là các công trình hoặc bằng đá khối, hoặc khối bêtông cốt thép đặt ngoài biển, gần bờ, song song với bờ biển, hoặc ngầm dưới
nước, hay cao hơn mực
4.2 Trồng rừng ngập mặn.
Rừng ngập mặn không chỉ là nơi cư trú mà còn là nơi cung cấp nguồn
dinh dưỡng, hỗ trợ cho sự tồn tại và phát triển phong phú của các quần thể
sinh vật cửa sông ven biển, đồng thời là nơi duy trì đa dạng sinh học cho biển.
Tầm quan trọng của rừng ngập mặn đối với môi trường sinh thái đã được các
nhà khoa học khẳng định từ lâu. Đặc biệt trong tương lai, rừng ngập mặn còn
là cứu cánh của con người trong việc ứng phó với sự biến đổi khí hậu, khi
mực nước biển dâng cao. So với các tỉnh miền Tây Nam bộ, diện tích rừng
ngập mặn của Quảng Ngãi không nhiều nhưng nó có một vai trò quan trọng
đối việc bảo vệ môi trường ven biển. Mặc dù vậy, nhưng lâu nay rừng ngập
mặn lại ít được quan tâm khôi phục, bảo vệ và phát triển.
Theo quy luật tự nhiên, thực vật ngập mặn phát triển ở nơi giao nhau
giữa sông và biển, nơi thường xuyên có sự biến đổi mực nước, độ mặn cũng
như môi trường theo thay đổi của thủy triều. Do đó, động thực vật ở đây đa
dạng, phong phú, vừa sống được dưới nước, vừa sống được trên cạn, lại thích
nghi với môi trường nước lợ. Nhiều loài cá đều trải qua một phần thời gian
sinh trưởng trong vòng đời của mình ở rừng ngập mặn. Những loài giáp xác
18
như tôm, cua sinh ra ở biển khơi, ấu trùng của chúng được dòng chảy trong
đại dương đưa chúng vào rừng ngập mặn, nơi đây chúng sinh trưởng đến lúc
sinh sản chúng lại di cư trở lại ở vùng nước sâu để đẻ. Nhiều loài chim đến
rừng ngập mặn theo mùa để kiếm ăn hoặc trú ẩn và có thể hình thành các đàn
lớn. Mất đi rừng ngập mặn cũng đồng nghĩa với việc mất đi nguồn sống của
bà con ngư dân đánh bắt hải sản ven bờ.
Bên cạnh các giá trị về đa dạng sinh học, rừng ngập mặn còn đóng vai
trò quan trọng trong việc điều hoà khí hậu, hạn chế bão lũ, triều cường. Rừng
ngập mặn có khả năng hạn chế xâm nhập mặn và bảo vệ nước ngầm. Hệ rễ
cây chằng chịt trên mặt đất làm giảm cường độ của sóng nên hạn chế dòng
chảy vào nội địa khi triều cường. Khi mực nước biển dâng cao, chúng ta phải
đối diện với nguy cơ mất đất ở, đất sản xuất, đồng thời nước ngầm cũng sẽ bị
nhiễm mặn. Trong khi đó, rừng ngập mặn lại có khả năng giữ và cố định vật
chất lơ lửng, phù sa, từ đó sẽ tạo nên một vùng đất mới. Nhờ có hệ rễ dày đặc
trên mặt đất, cây rừng ngập mặn còn góp phần vào việc giảm tốc độ dòng
chảy của thuỷ triều, giảm sự xói lở do sóng biển gây ra. Hạt nảy mầm khi còn
ở trên cây, mầm rơi xuống nước và trôi đến chỗ cạn, nếu gặp điều kiện thuận
lợi cho hệ rễ phát triển thì nơi đó bắt đầu cho sự hình thành một hòn đảo mới.
Nhờ cây con, quả, hạt có khả năng sống dài ngày trong nước cho nên cây
ngập mặn có thể phát tán rộng vào đất liền. Nước biển dâng đến đâu thì cây
mọc đến đó.
Có thể thấy những lợi ích, hiệu quả mà rừng ngập mặn mang lại. Rừng
ngập mặn có thể được xem như “vị cứu tinh” của con người khi mực nước
biển dâng cao. Song những diễn biến phức tạp, khó lường của thiên tai, nhiệt
độ trái đất đang ấm dần lên, mực nước biển dâng lên ngày càng cao,...vấn đề
đặt ra là hiện nay là làm thế nào để bảo vệ, khôi phục và trồng lại những khu
rừng ngập mặn đã bị tàn phá, tiếp tục mở rộng diện tích trồng rừng mới vẫn
19
đang là bài toán khó. Vì lợi ích kinh tế, vì kế sinh nhai, rừng vẫn có thể bị
chặt phá nếu không được trông coi, giám sát chặt chẽ.
Theo ông Nguyễn Quốc Tân- Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ Môi
trường tỉnh Quảng Ngãi, Tuy vai trò của rừng ngập mặn đã được khẳng định
từ lâu nhưng thực tế, chúng ta vẫn chưa quan tâm nhiều đến rừng ngập mặn.
Trước kia có bao nhiêu, mất bao nhiêu thì cũng chưa có thống kê cụ thể. Còn
hay mất gì thì cũng không ai quan tâm. Quảng Ngãi cũng là một trong những
địa phương sẽ chịu hậu quản nặng nề do sự biến đối khí hậu. Và rừng ngập
mặn đóng vai trò lớn giúp chúng ta chống chọi với vấn nạn này. Từ trước đến
nay, chúng chỉ đề cập đến rừng ngập mặn về tính ta dạng sinh học chứ ít nói
đến vấn đề này. Đặc tính của rừng ngập mặn là hướng ra biển, do đó, chúng
sẽ là một bức tường thành vững chắc bảo vệ con người.
Đề án “Khôi phục và phát triển rừng ngập mặn ven biển, giai đoạn
2008-2015” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, với mục tiêu thiết lập
hệ thống rừng ngập mặn để phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường một
cách ổn định. Trong giai đoạn đầu, sẽ trồng và nâng cao chất lượng rừng với
diện tích trên 32.800 ha, trồng thêm hơn 97.500 ha, nâng tổng diện tích rừng
ngập mặn cả nước lên trên 307.200 ha vào năm 2015.
Tại Hội nghị quốc gia “Khôi phục và phát triển rừng ngập mặn Việt
Nam nhằm giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu” tổ chức tại TP Hồ
Chí Mịnh vào tháng 11/2008, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT phát
biểu: “Với bờ biển dài và những đồng bằng dài có nhiều sông ngòi, Việt Nam
là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu”.
Hơn 1/3 dân số và
khoảng 16% diện tích đất sẽ bị ảnh hưởng nếu mực nước biển dâng
cao. Hàng trăm loài động thực vật sẽ bị đe doạ tuyệt chủng bởi sự suy giảm
các dải san hô ngầm hay sự thu hẹp các khu rừng ngập mặn. Mới đây (ngày
30/11/2010), trong cuộc họp liên quan đến dự án Phục hồi và phát triển rừng
20
ngập mặn ven biển trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, giai đoạn 2011-2015, Phó Chủ
tịch UBND tỉnh Trương Ngọc Nhi đã giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn chủ trì, phối hợp cùng các huyện ven biển và huyện đảo
L
ý Sơn khẩn trương rà soát diện tích có khả năng phục hồi và phát triển rừng ngập
mặn hiện có để lập dự án triển khai thực hiện, với diện tích ít nhất từ 500-600
ha.
Việc khôi phục và phát triển rừng ngập mặn ở Quảng Ngãi là vấn đề
hết sức cấp thiết và bảo vệ môi trường ven biển bền vững. Tuy nhiên, việc
khôi phục và trồng lại những khu rừng ngập mặn là vô cùng khó khăn, tốn
kém. Nhưng với quyết tâm cao, những khó khăn trở ngại từ nhận thức của
người dân đến công tác chỉ đạo, triển khai, tuyên truyền, vận động trồng và
bảo vệ rừng sẽ được tháo gỡ và dự án sẽ phát huy tác dụng nhiều mặt, đặc
biệt là phòng ngừa thảm họa thiên tai.
Dự án trồng rừng ngập mặn chống xói lở do Tổ chức Phát triển quốc tế
Đức (GIZ) thực hiện, với sự tài trợ của Chính phủ Đức và Australia, trên
chiều dài 1km bờ biển ở Vàm Rầy, xã Bình Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên
Giang được xem là Kỹ thuật mới tạo đột phá phòng hộ đê biển. Đó là làm
hàng rào chắn sóng, hàng rào giữ bùn để giảm bớt hoạt động của sóng, giữ lại
lớp bùn bồi lắng trong mùa mưa và ngăn không cho bùn bị cuốn trôi ra biển
bằng việc trồng 7 loại cây ngập mặn khác nhau thay vì chỉ cây mắm và đước
dùng trong trồng rừng trước đây, làm phong phú thêm đa dạng sinh học ở
vùng bờ biển này. Những thành công từ mô hình này chính là cơ sở để Chính
phủ Australia và Đức quyết định mở rộng thành Chương trình biến đổi khí
hậu triển khai trong thời gian từ 2011-2016 tại 5 tỉnh ĐBSCL, với tổng kinh
phí tài trợ lên tới 63 triệu USD
4.3. Một số mô hình công nghệ chống sạt lở bờ biển có hiệu quả.
4.3.1. Công nghệ Stabiplage
21
Công nghệ mềm Stabiplage chống sạt lở bờ biển tại Lộc An, huyện
Đất Đỏ ( Bà Rịa- Vũng Tàu) đã đạt hiệu quả thiết thực.
Bản chất của công nghệ này là chống xói lở, sa bồi bờ biển không dùng
đê kè cứng bằng bê tông cốt thép nhưng bền vững, thích ứng với nhiều tầng
nền, trong nhiều loại môi trường.
Stabiplage gồm những con lươn có vỏ bọc ngoài sử dụng vật liệu tổng
hợp Geocomposite (vải địa kỹ thuật) có 2 lớp, lớp ngoài là lưới polyester màu
sáng, lớp lọc bên trong là polypropylene kiểu không dệt Đặc tính cơ bản của
Geocomposite là có độ bền kéo 400 kN/m và độ thấm 0,041 m/s. Chiều dài
trung bình của Stabiplage từ 50 đến 80 m, có mặt cắt gần như hình elip chu vi
khoảng
6,5 đến 10 m. Stabiplage được đặt vuông góc hoặc song song với vạch
bờ tùy theo từng khu vực có thể giải quyết vấn đề sạt lở và xâm thực và bảo
vệ vùng ven bờ của địa phương.
Hình 8 . Mô hình công nghệ Stabiplage tại Lộc An.
Stabiplage thu giữ, tích tụ và duy trì tại chỗ các trầm tích, không chống
lại thiên nhiên mà trợ giúp, dựa vào môi trường tự nhiên thông qua hoạt động
thuỷ lực ven biển và dịch chuyển trầm tích ngang và dọc bờ, tạo ra các trao
đổi và cho phép ổn định động lực các khu vực cần được xử lý.
22
Quá trình hoạt động của các Stabiplage với kích thước thích hợp cho
phép sóng vượt qua, trầm tích, cát vượt qua nhưng trích lại một lượng cát
trong dịch chuyển ven bờ. Lượng cát thu giữ được tích tụ dần dọc theo công
trình sau đó ổn dịnh và nâng dần độ cao bãi biển để bồi đắp, tái tạo lại profil
bãi biển, hình thành địa mạo mới. Nhờ các đụn cát được tái tạo lại, địa
phương có thể trồng được cây xanh phía sau công trình. Số cây xanh này đã
và đang phát triển tốt, khôi phục lại được thảm thực vật và rặng phi lao đã
mất. Có khoảng 3-4 ha bãi cát đã được bảo vệ ổn định với lượng cát tích tụ
như tự nhiên 145000-150000m3.
Stabiplage đặt sát chân các đụn cát, có nhiệm vụ trực tiếp bảo vệ các
đụn cát ven biển, ngoài ra có thể tạo ra sự phủ cát nhân tạo theo ý muốn bằng
các biện pháp kỹ thuật đơn giản.
Về cơ bản có ba kiểu công trình Stabiplage:
+ Stabiplage đặt nửa chìm, nửa lộ thiên vuông góc với bờ như kiểu mỏ
hàn, nhằm hạn chế dòng ven bờ, tăng cường bồi tụ phù sa mà dòng chảy ven
bờ mang theo, duy trì tại chỗ lượng phù sa theo cơ chế bồi tụ.
+ Stabiplage đặt ngầm và song song với bờ, có tác dụng làm giảm bớt
năng lượng sóng lừng mạnh, nguy hiểm, tạo vùng sóng lừng nhỏ hơn, cho
phép phù sa mịn lắng đọng trong vùng bị sạt lở
+ Stabiplage đặt sát chân các đụn cát, có nhiệm vụ trực tiếp bảo vệ các
đụn cát ven biển, ngoài ra có thể tạo ra sự phủ cát nhân tạo theo ý muốn bằng
các biện pháp kỹ thuật đơn giản.
Với thời gian thi công nhanh, trong khoảng 1 tháng (cuối tháng 6 – cuối
tháng 7 năm 2005) công nghệ Stabiplage đã được lắp đặt xong tại bờ biển ở
BR-VT. Ngay sau khi hoàn thành,bước đầu phát huy hiệu quả, với những ưu
điểm:giá thành công nghệ
23
Stabiplage chỉ bằng một nửa so với công trình cứng. Công nghệ
Stabiplage đảm bảo về lâu dài, không làm mất bãi tắm, không ảnh hưởng tới
phát triển du lịch.
Để nâng cao hiệu quả của công nghệ mềm Stabiplage, kết hợp với công
trình Stabiplage là công trình phụ trợ Ganivell (hàng rào bẫy cát) đã tái tạo,
phục hồi dải đồi cát đạt độ cao trung bình trên 2m, có nơi trên 3m với tổng
khối lượng cát tích tụ hình thành dải đồi khoảng 25000 m3.
Sau 4 năm ứng dụng, trải qua nhiều biến động bất thường của thời tiết,
những cơn bão, đợt triều cường rất lớn năm 2008 nhưng công trình vẫn đứng
vững và phát huy tác dụng.
4.3.2. Công nghệ Geotube làm kè mỏ hàn
Công nghệ được áp dụng cho bờ biển Tam Hải Quảng nam.
Geotube là một kết cấu Địa vật liệu tổng hợp được làm từ vải PP có cấu
tạo và các tính năng đặc biệt như cường lực cao, kháng tia UV, khả năng thoát
nước tốt, kích thước lỗ nhỏ tuổi thọ lâu dài ...
Hình 9. Công nghệ Geotube.
Kè mỏ hàn bảo vệ bờ sông biền khu vực cửa lò là một hệ thống bao
gồm 8 ống Geotube được sản xuất từ vải địa kĩ thuật GT1000, Chiều dài từ
35-45m đặt song song nhau và vuông góc với đường bờ biển. Đặc tính của
24
Geotube là nguyên khối và chiếm ít diện tích bề mặt, đồng thời rất thân thiện
với môi trường. Geotube vuông góc với bờ biển có tác dụng thu giữ một
lượng trầm tích vận chuyển bởi dòng chảy ven bờ. Kết cấu này sau khi lắp đặt
xong sẽ được cát bồ lấp do vậy không gây cản trở sự vận chuyển của dòng.
25