Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Bài giảng kinh tế vĩ mô chương 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.11 MB, 33 trang )

Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

BÀI 4: TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

Nội dung

Mục tiêu

 Phân tích vai trò và chức năng của
tiền tệ

 Giúp học viên hiểu được bản chất của tiền tệ,
các cách xác định cung tiền, cầu tiền

 Cách xác định cung tiền, cầu tiền, và
trạng thái cân bằng trên thị trường
tiền tệ

 Giúp học viên hiểu được bản chất của chính
sách tiền tệ và vai trò của Ngân hàng Trung
ương trong việc thực thi chính sách tiền tệ

 Bản chất, nội dung, và cơ chế tác
động của chính sách tiền tệ

Thời lượng học

 6 tiết học

72


ECO102_Bai4_v2.0013107216


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

Các kiến thức cần có

 Các kiến thức về đại số: Học viên phải biết cách giải các hệ phương trình bậc nhất cơ bản.
 Kiến thức về hình học: Học viên có thể sử dụng đồ thị để phân tích các sự biến đổi của các
biến số Kinh tế Vĩ mô.
 Xã hội: Thường xuyên cập nhật các kiến thức kinh tế – xã hội trong và ngoài nước bằng các
phương tiện thông tin đại chúng để vận dụng và phân tích các biến số, chính sách Kinh tế Vĩ mô
được hiệu quả hơn và mang ý nghĩa thực tiễn hơn. Học viên có thể đọc thêm các bài viết về lịch
sử hình thành tiền tệ để thấy được vai trò của việc phân tích chính sách tiền tệ.

Hướng dẫn học

 Học viên nên đọc kỹ nguồn tài liệu tham khảo để chọn ra những tài liệu tham khảo hữu ích nhất
và cần xem các nguồn tài liệu và thứ tự tài liệu được cung cấp cho chương này để học tập tốt hơn.
 Bài 4 là bài về chính sách tiền tệ được phân tích trong nền kinh tế đóng. Học viên có thể thu thập
được khá nhiều tài liệu liên quan trên thực tiễn về chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn
2007 – 2008 thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.

ECO102_Bai4_v2.0013107216

73


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ


Sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất và trao đổi hàng hoá đã ra đời một loại hàng hoá đặc
biệt đóng vai trò vật ngang giá. Người ta tin rằng đầu tiên hàng hóa và các dịch vụ được trao
đổi trực tiếp với nhau. Vì điều này không thực dụng nên hàng hóa và dịch vụ được trao đổi
với các loại hàng hóa khác mà có thể được tiếp tục trao đổi một cách dễ dàng. Loại hàng
hóa là tiền này là những vật có giá trị đẹp hay hữu ích như bò, lạc đà, lông súc vật, dao,
xẻng, vòng trang sức, đá quý, muối và nhiều loại khác. Khi người ta khám phá ra rằng một
số vật không còn được sử dụng nữa mà chỉ được tiếp tục trao đổi thì các bản sao chép nhỏ
hơn và ít có giá trị hơn của các vật này được sử dụng làm phương tiện thanh toán. Đó là các
hình thức thanh toán đầu tiên trước khi có tiền. Bản thân chúng là một sự thay đổi to lớn
trong quá trình phát triển sản xuất của xã hội loài người.
Các đồng tiền kim loại đầu tiên được người Lydia ở phía Tây của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay đúc
từ vàng, trong thời gian giữa 640 và 600 TCN, có nhiều kích thước và giá trị khác nhau và
được dùng như là một phương tiện thanh toán để đơn giản hóa việc trả lương cho những
người lính đánh thuê. Một lượng nhất định của các hạt bụi vàng được nấu chảy thành đồng
tiền và sau đó hình của nhà vua được dập nổi lên trên. Nhà vua người Lydia cuối cùng,
Croesus, vì thế mà mang danh là giàu có vô hạn. Các đồng tiền kim loại này đã làm cho việc
thương mại dễ dàng đi rất nhiều vì chúng có ưu điểm là bao giờ cũng có kích thước, trọng
lượng và hình dáng không thay đổi và thay vì là phải cân thì có thể đếm được.
Mãi cho đến trong thế kỷ 18 giá trị của các loại tiền tệ của châu Âu được định nghĩa thông
qua lượng kim loại quý. Bên cạnh việc theo dõi sản xuất trong nước, các xưởng đúc tiền
quốc gia còn theo dõi cả việc đúc tiền của nước ngoài. Một tiền tệ được đánh giá quá cao
hay quá thấp khi đồng tiền được tính trên hay dưới giá trị của kim loại trong lúc tính toán
với các tiền tệ khác trên thế giới.
Nhu cầu trao đổi đã phát triển đến mức cần có những loại tiền mới không chỉ là tiền giấy,
séc mà còn là thẻ tín dụng, tiền điện tử, v.v… Nó được chuyển nhượng thông qua các máy
tính, đường điện thoại và thậm chí có thể không tồn tại trên giấy tờ.

Tiền giấy

Như vậy, ngày nay tiền được coi là mọi thứ được xã hội chấp nhận dùng làm phương tiện

thanh toán và trao đổi. Bản thân chúng có thể có hoặc không có giá trị riêng.

74

ECO102_Bai4_v2.0013107216


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

4.1.

Tiền tệ và các chức năng của tiền tệ

4.1.1.

Khái niệm tiền tệ

Tiền là bất kỳ một phương tiện nào được coi như là vật
ngang giá chung, được sử dụng để trao đổi, mua bán
hàng hóa và dịch vụ. Nó có thể là tiền mặt, vàng,
ngoại tệ và các phương tiện thanh toán như tiền dưới
dạng séc (check – tức là tài khoản ký quỹ không thời
hạn ở ngân hàng) và có thể kể cả tiền để dành trong
ngân hàng mà có thể rút ra bất cứ lúc nào.
Tiền tệ khi chỉ xét tới chức năng là phương tiện thanh
toán, là đồng tiền được luật pháp quy định để phục vụ
Tiền tệ
trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia hay nền
kinh tế. Vì định nghĩa như vậy, tiền tệ còn được gọi là "tiền lưu thông". Tiền tệ có thể mang
hình thức tiền giấy hoặc tiền kim loại (tiền xu) do Nhà nước (Ngân hàng Trung Ương, Bộ

Tài chính, v.v...) phát hành.
Khi phân biệt tiền tệ của quốc gia này với tiền tệ của quốc gia khác, người ta dùng cụm từ
"đơn vị tiền tệ". Đơn vị tiền tệ của nhiều quốc gia có thể có cùng một tên gọi (ví dụ: Dollar,
franc...) và để phân biệt các đơn vị tiền tệ đó người ta thường phải gọi kèm tên quốc gia sử
dụng đồng tiền (ví dụ: Dollar Úc). Với sự hình thành của các khu vực tiền tệ thống nhất,
ngày nay có nhiều quốc gia dùng chung một đơn vị tiền tệ như đồng EUR. Đơn vị tiền tệ
của Việt Nam được gọi là đồng, ký hiệu dùng trong nước là "đ", ký hiệu quốc tế là VND,
đơn vị nhỏ hơn của đồng là hào (10 hào = 1 đồng) và xu (10 xu = 1 hào).
Tiền tệ là phương tiện thanh toán pháp quy, nghĩa là luật pháp quy định người ta bắt buộc
phải chấp nhận nó khi được dùng để thanh toán cho một khoản nợ được xác lập bằng đơn vị
tiền tệ ấy. Một tờ séc có thể bị từ chối khi được dùng để thanh toán nợ nhưng tiền giấy và
tiền kim loại thì không. Tuy nhiên tiền kim loại có thể là phương tiện thanh toán pháp quy
bị luật pháp của một quốc gia giới hạn không vượt quá một số lượng đơn vị tiền tệ nào đó
tuỳ theo mệnh giá của những đồng tiền kim loại ấy. Theo luật pháp của Việt nam, tiền giấy
và tiền kim loại là phương tiện thanh toán pháp quy không giới hạn.
Để có thể thực hiện được các chức năng của tiền, tiền tệ (hay tiền trong lưu thông) phải có
các tính chất cơ bản sau đây:
 Tính được chấp nhận rộng rãi: Đây là tính chất quan trọng nhất của tiền tệ, người dân
phải sẵn sàng chấp nhận tiền trong lưu thông, nếu khác đi nó sẽ không được coi là tiền
nữa. Kể cả một tờ giấy bạc do Ngân hàng Trung Ương phát hành cũng sẽ mất đi bản chất
của nó khi mà trong thời kỳ siêu lạm phát, người ta không chấp nhận nó như là một
phương tiện trao đổi.
 Tính dễ nhận biết: Muốn dễ được chấp nhận thì tiền tệ phải dễ nhận biết, người ta có thể
nhận ra nó trong lưu thông một cách dễ dàng. Chính vì thế những tờ giấy bạc do Ngân
hàng Trung Ương phát hành được in ấn trông không giống bất cứ một tờ giấy chất lượng
cao nào khác.
 Tính có thể chia nhỏ được: Tiền tệ phải có các loại mệnh giá khác nhau sao cho người
bán được nhận đúng số tiền bán hàng còn người mua khi thanh toán bằng một loại tiền có
mệnh giá lớn thì phải được nhận tiền trả lại. Tính chất này giúp cho tiền tệ khắc phục


ECO102_Bai4_v2.0013107216

75


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

được sự bất tiện của phương thức hàng đổi hàng: Nếu một người mang một con bò đi đổi
gạo thì anh ta phải nhận về số gạo nhiều hơn mức anh ta cần trong khi lại không có được
những thứ khác cũng cần thiết không kém.
 Tính lâu bền: Tiền tệ phải lâu bền thì mới thực hiện được chức năng cất trữ giá trị cũng
như mới có ích trong trao đổi. Một vật mau hỏng không thể dùng để làm tiền, chính vì
vậy những tờ giấy bạc được in trên chất liệu có chất lượng cao còn tiền xu thì được làm
bằng kim loại bền chắc.
 Tính dễ vận chuyển: Để thuận tiện cho con người
trong việc cất trữ, mang theo, tiền tệ phải dễ vận
chuyển. Đó là lý do vì sao những tờ giấy bạc và
những đồng xu có kích thước, trọng lượng rất vừa
phải chứ tiền giấy không được in khổ rộng ví dụ
như khổ A4.
 Tính khan hiếm: Để dễ được chấp nhận, tiền tệ
phải có tính chất khan hiếm vì nếu có thể kiếm
Tính chất tiền tệ
được nó một cách dễ dàng thì nó sẽ không còn ý
nghĩa trong việc cất trữ giá trị và không được chấp nhận trong lưu thông nữa. Vì thế
trong lịch sử những kim loại hiếm như vàng, bạc được dùng làm tiền tệ và ngày nay
Ngân hàng Trung Ương chỉ phát hành một lượng giới hạn tiền giấy và tiền xu.
 Tính đồng nhất: Tiền tệ phải có giá trị như nhau nếu chúng giống hệt nhau không phân
biệt người ta tạo ra nó lúc nào, một đồng xu 5.000 VND được làm ra cách đây 2 năm
cũng có giá trị như một đồng xu như thế vừa mới được đưa vào lưu thông. Có như vậy

tiền tệ mới thực hiện chức năng là đơn vị tính toán một cách dễ dàng và thuận tiện trong
trao đổi.
4.1.2.

Các chức năng của tiền tệ

 Phương tiện thanh toán: Tiền được dùng trong giao dịch mua, bán hàng hoá, dịch vụ.
Tiền cho phép trao đổi giá trị mà không cần trao đổi hàng hoá trực tiếp. Nó tạo thuận lợi
đặc biệt cho quá trình lưu thông hàng hoá, được
coi là dầu bôi trơn cho mọi hoạt động kinh tế,
thúc đẩy phân công lao động và mở rộng chuyên
môn hoá sản xuất. Dòng lưu thông thị trường trở
thành hệ thống huyết mạch cho toàn bộ nền kinh
tế thị trường.
Trong một nền kinh tế không có một chuẩn mực
đo giá trị chung (thí dụ như là tiền) thì một giao
dịch thành công giữa hai vật trong kinh tế đòi
hỏi các nhu cầu trao đổi phải phù hợp với nhau.

Tiền là một phương tiện thanh toán

Ví dụ:
Một người nông dân muốn bán ngũ cốc và cần dụng cụ. Một thợ thủ công muốn đổi
dụng cụ để lấy thịt. Giữa 2 người này sẽ không bao giờ có một cuộc mua bán trao đổi vì
ý định bán của người nông dân không phù hợp với ý định mua của người thợ thủ công.
Cả hai người có thể phải tìm kiếm rất lâu cho đến khi gặp được một người có ý định
giao dịch phù hợp. Cùng với tiền quá trình này được đơn giản hóa đi rất nhiều: Người
nông dân có thể bán ngũ cốc cho một người thứ ba và dùng tiền thu được để đổi lấy
76


ECO102_Bai4_v2.0013107216


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

dụng cụ tại người thợ thủ công. Người thợ thủ công có thể dùng tiền thu được mua thịt
tại một người thứ tư.
 Dự trữ giá trị: Tiền hôm nay có thể được tiêu dùng giá trị của nó trong tương lai. Vì thế
nó tạo khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng thêm thu nhập trong hiện tại, nhưng
có thể để dành một phần kết quả đạt được cho tiêu
dùng ngày mai. Như vậy, tiền là một loại tài sản tài
chính mà nhờ nó đã mở ra hoạt động tín dụng, thúc
đẩy quá trình tích tụ để mở rộng sản xuất.
Một phương tiện thanh toán phải giữ được giá trị của
nó. Vì thế mà hầu như chỉ là các loại hàng hóa
không hư hỏng mới được thỏa thuận là "tiền" (thí dụ
như là vàng hay kim cương). Nếu tiền không tồn tại
thì một người nông dân chỉ có khả năng trao đổi ngũ
Tiền là phương tiện cất giữ giá trị
cốc để lấy các hàng hóa khác cho đến khi ngũ cốc
này bị hư hỏng. Vì thế mà người nông dân tốt nhất là nên trao đổi ngũ cốc sớm để đổi lấy
tiền "không bị hư hỏng". Điều này còn được gọi là chức năng bảo toàn giá trị hệ quả.
Chức năng bảo toàn giá trị tạo thành là chức năng tạo tài sản từ tiền bằng cách cất giữ,
tức là giữ tiền duy nhất chỉ vì muốn bảo toàn giá trị.
 Đơn vị hạch toán: Tiền cung cấp một đơn vị tiêu
chuẩn giá trị, được dùng để đo lường giá trị của các
hàng hoá khác nhau. Đặc biệt nó cần thiết cho mọi nền
kinh tế, vì khả năng so sánh các chi phí và lợi ích của
các phương án kinh tế. Nó còn là cơ sở để hạch toán
mọi hoạt động kinh tế từ sản xuất đến lưu thông và

tiêu dùng của mọi quốc gia.
Khi tiền là một chuẩn mực chung để đo giá trị thì tất
Tiền làm đơn vị hạch toán
cả các giá cả của một nền kinh tế có thể được thể hiện
bằng đơn vị tiền tệ. Trong một nền kinh tế với 1 triệu loại hàng hóa khác nhau khi so
sánh giá trị trao đổi của mỗi hai loại hàng hóa một sẽ có vào khoảng 500 tỉ giá tương đối
khác nhau (thí dụ: 1 giờ lao động = 5 bánh mì; 1 giờ lao động = 1 cái áo; 1 giờ lao động
= 1kg thịt; 5 bánh mì = 1 cái áo; 1 cái áo = 1 kg thịt,...). Khi sử dụng tiền như là một
chuẩn mực giá trị chung thì chỉ còn 1 triệu tỷ lệ trao đổi (5 đơn vị tiền = 1 giờ lao động =
10 kg gạo = 1 cái áo = 1 kg thịt lợn = ...), vì thế mà khi so sánh giá cả không còn phải tốn
nhiều công sức nữa.
4.1.3.

Phân loại tiền

Với chức năng là phương tiện thanh toán và dự trữ, giá trị tiền là một loại tài chính. Trong
thực tế, chúng được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như tiền giấy, tiền kim loại,
tài khoản ngân hàng, sổ tiết kiệm, tín phiếu, v.v… Không phải mọi loại tiền trên đều có khả
năng chuyển đổi dễ dàng. Khả năng này được xác định bởi tính dễ dàng chuyển đổi từ một
tài sản tài chính trở thành một phương tiện có khả năng sẵn sàng được sử dụng cho việc mua
bán hàng hoá và dịch vụ.
Ta có thể phân chia loại tiền theo tính chuyển đổi như sau:

ECO102_Bai4_v2.0013107216

77


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ


 Tiền mặt lưu hành (M0): Với sự đa dạng về lượng giá trị danh nghĩa, loại tiền này tuy
không sinh lợi, nhưng có khả năng sẵn sàng
thanh toán cao nhất và được gọi là M0 (M0 bao
gồm tiền giấy và tiền kim loại lưu thông trên thị
trường).
 Tiền gửi tài khoản ngân hàng không kỳ hạn có
thể viết séc, v.v… để thanh toán cũng là một loại
tiền có khả năng thanh toán cao, tuy mức độ sẵn
sàng cho thanh toán có kèm tiền mặt. Vì vậy,
tiền mặt và tiền gửi ngân hàng không thời hạn
được nhiều nước coi là tiền giao dịch (M1) một
trong những đại lượng đo lường cung tiền chủ
yếu của một quốc gia.

Các loại tiền

M1 = M0 + tiền gửi ngân hàng không kỳ hạn (D)
 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (ngắn hạn) tuy tính chuyển đổi kém hơn so với tiền gửi
ngân hàng, nhưng vẫn có khả năng chuyển sang tiền mặt mà không gặp nhiều khó khăn,
nên nó cũng được coi là có khả năng thanh toán.
M1 cộng với tiền tiết kiệm có kỳ hạn (ngắn hạn) được gọi là M2. Vì khả năng thanh toán
tương đối cao của các loại tiền này, nên nhiều nước xác định M1 hoặc M2 là đại lượng chủ
yếu để đo cung tiền.
Ngày nay, do sự phát triển và lớn mạnh của hệ thống tài chính đã cho ra đời nhiều loại tài
sản tài chính khác ngày càng trở nên quan trọng như các chứng khoán cơ bản (tín phiếu kho
bạc ngắn hạn, v.v…), các giấy xác nhận tài chính đối với tài sản hữu hình, các chấp nhận
thanh toán của ngân hàng, v.v… Chúng cũng có khả năng nhất định nào đó trong thanh toán
và vì thế, tuỳ theo tính chất dễ chuyển đổi sang thanh toán mà được xếp vào các đại lượng
cung tiền M3, M4, v.v…
Ở các nước đang phát triển bị ngoại tệ hoá, tiền ngoại tệ trong dân gian cũng phải tính

nhưng thu thập thông tin rất khó khăn. Nếu nước nào dùng vàng để thanh toán thì vàng cũng
phải tính vào lượng tiền tệ. Đây là trường hợp của Việt Nam với việc sử dụng rộng rãi ngoại
tệ và vàng làm phương tiện thanh toán. Ở các nước phát triển, nhiều phương tiện thanh toán
mới mẻ ra đời do đó hiện nay hệ thống tài khoản quốc gia của Liên Hợp Quốc và chuẩn của
IMF, thay vì đưa ra một danh sách các phương tiện mà mọi nước phải theo như trước đây,
đã khuyến nghị rằng mỗi nước phải tự làm quyết định về những phương tiện nào nên đưa
vào tiền tệ trên cơ sở đánh giá phương tiện nào có khả năng thanh toán như tiền mặt.
Vậy, mức cung tiền là một khái niệm quan trọng được xác định bởi khối lượng M (có thể là
M1 hoặc M2,.v.v.) bao gồm các loại tiền có khả năng thanh toán cao nhất nhằm thoả mãn
nhu cầu trao đổi, giao dịch thường xuyên của hoạt động kinh tế quốc dân.
Trên góc độ Kinh tế Vĩ mô, người ta quan tâm nhiều hơn đến M1, M2; đồng thời cũng theo
dõi chặt chẽ động thái của các thành phần tiền tệ khác. Vì vậy, khối lượng tiền M tuỳ mỗi
thời kỳ, mỗi quốc gia có thể lựa chọn là M1, M2 dùng đại lượng chính đo mức cung tiền.
Nhiều nước đang phát triển thường lựa chọn đại lượng đó là M2. Tỷ lệ M2/GDP là một chỉ
số quan trọng phản ánh khái quát quy mô của nguồn vốn luân chuyển và mức độ tiền tệ hóa
của một nền kinh tế.

78

ECO102_Bai4_v2.0013107216


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

4.2.

Cung tiền và quá trình tạo tiền của ngân hàng thương mại

4.2.1.


Hệ thống ngân hàng thương mại

Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản
là giữ các đồ vật quý cho những người sở hữu nó
tránh mất mát, đổi lại người chủ sở hữu phải trả cho
người cầm giữ hộ một khoản tiền công. Khi xã hội
phát triển, thương mại phát triển, nhu cầu về tiền
ngày càng lớn thì ngân hàng trở thành nơi giữ tiền
cho những người có tiền và cung cấp tiền cho những
người cần tiền. Ngân hàng là một định chế tài chính
trung gian, sẽ huy động vốn nhàn rỗi trong
xã hội và dùng chính tiền đó cho các cá nhân và tổ
chức vay lại, và rất hiếm khi có tình trạng cùng một
lúc tất cả chủ tiền gửi đến đòi nợ ngân hàng, đó
chính là nguyên tắc cơ bản đảm bảo cho hoạt động
của ngân hàng. Căn cứ vào chức năng, ngân hàng
được chia làm hai loại: Ngân hàng thương mại và
ngân hàng Nhà nước.

Ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân
hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh
doanh tiền tệ, một tổ chức môi giới tài chính. Hoạt động của nó cũng như của các tổ chức
môi giới tài chính khác như quỹ tín dụng, công ty bảo hiểm,... là nhận tiền gửi của các cá
nhân, các tổ chức xã hội,... Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức,
hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan
thiếu. Hoạt động của Ngân hàng thương mại
nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc
biệt đó là "vốn – tiền", trả lãi suất huy động vốn

thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh
lệch lãi suất đó chính là lợi nhuận của Ngân
hàng thương mại. Hoạt động của Ngân hàng
thương mại phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của
mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh nghiệp
và các tổ chức khác trong xã hội.
Khác hẳn với Ngân hàng thương mại, Ngân hàng
Trung Ương (NHTƯ) không hoạt động vì mục
đích lợi nhuận và cũng không kinh doanh tiền tệ.
Mỗi một quốc gia chỉ có một ngân hàng Nhà
nước duy nhất, có thể gọi là ngân hàng mẹ có
Quá trình tạo tiền
các chức năng như phát hành tiền, quản lý, thực
thi và giám sát các chính sách tiền tệ; và có rất nhiều Ngân hàng thương mại, có thể coi là
các ngân hàng con có chức năng thực hiện lưu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế. Trong
trường hợp Ngân hàng thương mại đứng trên bờ vực phá sản, NHTƯ sẽ là nguồn cấp vốn
cuối cùng mà Ngân hàng thương mại tìm đến.
Trong NHTM, tiền huy động được của người gửi gọi là tài sản "nợ", tiền cho công ty và các
cá nhân vay cũng như tiền gửi ở các ngân hàng khác và số trái phiếu ngân hàng sở hữu
ECO102_Bai4_v2.0013107216

79


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

gọi là tài sản "có" của ngân hàng. Phần chênh lệch giữa số tiền huy động được và số
tiền đem cho vay, gửi ngân hàng và mua trái phiếu gọi là vốn tự có. Phần tài sản có tính
thanh khoản cao được giữ để đề phòng trường hợp tiền gửi vào ngân hàng bị rút đột ngột
gọi là dự trữ của ngân hàng. Toàn bộ số vốn của ngân hàng được chia làm hai loại vốn cấp 1

và vốn cấp 2. Vốn cấp 1 còn gọi là vốn nòng cốt, về cơ bản bao gồm vốn điều lệ, lợi nhuận
không chia và các quỹ dự trữ lập trên cơ sở trích từ lợi nhuận của tổ chức như quỹ dự trữ bổ
sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển. Vốn cấp 2 bao gồm: Phần
giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ chức, nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ bên
ngoài (như trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số công cụ nợ khác).
Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, NHTM thực sự đóng một vai trò rất quan trọng,
vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có
vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu. Năm
2005 – 2006 Việt Nam đã tích cực đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các Ngân hàng thương
mại Nhà nước với mục đích quan trọng nhất là nâng cao năng lực tài chính của các tổ chức
này. Tính đến tháng 2–2007 đã có 34 NHTM hoàn tất việc cổ phần hóa với tổng số vốn điều
lệ trên 21.000 tỷ đồng, trong đó Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thường Tín có số
vốn điều lệ cao nhất là trên 2.089 tỷ đồng.
4.2.2.

Quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại

Quá trình tạo ra tiền là sự mở rộng nhiều lần số tiền gửi và được thực hiện bởi hệ thống các
Ngân hàng thương mại.
Mỗi ngân hàng khi nhận được một khoản tiền gửi bắt buộc họ phải để lại dự trữ theo một tỷ
lệ nhất định do NHTƯ quy định. Số tiền dự trữ này chủ yếu là để đảm bảo khả năng ổn định
cho việc chi trả thường xuyên của NHTM và do yêu cầu quản lý tiền của NHTƯ. Số tiền
còn lại tiếp tục được cho vay, số tiền này lại được quay về hệ thống ngân hàng và cứ tiếp tục
như vậy, quá trình này cứ diễn ra liên tục.
Tiền cơ sở (H)
Tiền mặt
lưu hành

Dự trữ tiền
mặt của các NH


Các khoản tiền
gửi không kỳ hạn
Mức cung tiền (MS)
Hình 4.1. Sơ đồ tạo tiền của ngân hàng thương mại

Kết quả là đã làm cho số lượng tiền có khả năng thanh toán gia tăng thêm một lượng là:
D = (1/rb). R
Và cuối cùng tổng số tiền có khả năng thanh toán trong hệ thống NHTM sẽ là:
D = (1/rb).R
Trong đó: rb là tỷ lệ dự trữ bắt buộc
D là lượng tiền gửi
R là lượng tiền dự trữ
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc rb là mức tỷ lệ dự trữ tối thiểu hợp pháp do NHTƯ quy định đối với
các NHTM.
80

ECO102_Bai4_v2.0013107216


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

Tỷ lệ rb được tính như sau: rb = Rb/D
Trong đó Rb là mức tiền dự trữ bắt buộc.
Tiền dự trữ bắt buộc trong NHTM để bảo đảm vai trò quản lý của NHTƯ đối với các
NHTM và bảo đảm quá trình thanh toán được diễn ra một cách liên tục và thường xuyên.
Giả sử với lượng tiền gửi ban đầu là D khi đưa vào hoạt động trong hệ thống NHTM sẽ tạo
thêm một khoản dự trự mới là R và tạo ra một khoản tối đa cho vay mới là D, khoản này
lại tiếp tục được cho vay và kết quả là lượng tiền gửi được khuyếch đại lên nhiều lần và
lượng tiền gửi đó đã tăng thêm một lượng là: D = 1/rb. R.

D = D + D1 + D2 + D3 +...+ Di
Ví dụ: Với một lượng tiền gửi ban đầu là 1000 USD, tỷ lệ dự trữ bắt buộc do NHTƯ quy
định đối với NHTM là 10%.
Vậy tổng số lượng tiền gia tăng thêm có khả năng thanh toán do NHTM tạo ra và tổng số
lượng tiền có khả năng thanh toán trong hệ thống NHTM là bao nhiêu?
Ngân hàng thứ nhất

Tài sản có
Dự trữ
Cho vay

$100

Tài sản nợ
Tiền gửi

$1000

$900

Tổng tài sản
$1000

Tổng các khoản nợ
$1000

Hình 4.2. Quá trình tạo ra tiền của các ngân hàng thương mại

Chúng ta hãy xem xét quá trình tạo ra tiền của các ngân hàng thương mại sau đây:
Ngân hàng thứ hai nhận được một khoản tiền gửi là $900, để lại dự trữ theo tỷ lệ dự trữ bắt

buộc là 10%, tức là dự trữ $90, phần còn lại $810 tiếp tục cho vay.
Ngân hàng thế hệ
thứ nhất
Tài sản có
Dự trữ

$100

Ngân hàng thế hệ
thứ hai

Tài sản nợ
Tiền gửi
$1000

Tài sản có
Dự trữ

$90

Tài sản nợ
Tiền gửi
$900

Cho vay
$810

Cho vay
$900


$1000
Tổng tài sản
$1000

Tổng khoản nợ
$1000

Tổng tài sản

Tổng khoản nợ

$900

$900

Hình 4.3. Quá trình tạo ra tiền của các ngân hàng thương mại

Bảng 4.1. biểu thị quá trình tạo ra tiền của các ngân hàng thương mại và tổng lượng tiền
giao dịch được tạo trong hệ thống ngân hàng thương mại.

ECO102_Bai4_v2.0013107216

81


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ
Bảng 4.1: Quá trình tạo tiền của các ngân hàng thương mại
Các thế hệ ngân hàng

Tiền ngân hàng tăng thêm


Sử dụng tiền vào
Dự trữ

Cho vay

Thứ 1

1000

100

900

Thứ 2

900

90

810

Thứ 3

810

81

729


Thứ 4

729

72,9

656,1

….

….

….

Thứ 100

0,0295

0,00295

0,02655

Tổng số

10000

1000

9000




1000

100

900

90

810

81

729

... =Σ...=1000
... =Σ...=10000

Hình 4.4. Sơ đồ về quá trình tạo tiền của các ngân hàng thương mại

Gọi D1 là toàn bộ lượng tiền ngân hàng tăng thêm, ta có:
D1= 1000 + 900 + 810 + 729 + …
2
3
4
= 1000 + (1 – 0,1)1000 + (1 – 0,1) 1000 + (1 – 0,1) 1000 + (1 – 0,1) 1000 + ….
1
2
3

4
1000  10000
= [1 + 0,9 + (0,9) + (0,9) + (0,9) + …].1000 =
1 (1 rb )

Ở đây, 10 chính là số lần tăng thêm (hay là số vòng quay của tiền trong lưu thông).
1/rb được gọi là số nhân tiền đơn giản (thừa số tiền).
4.2.3.

Cung tiền và các yếu tố tác động đến mức cung tiền

4.2.3.1. Khái niệm cung tiền
Cung tiền là toàn bộ khối lượng tiền được tạo ra trong nền kinh tế.

Khối lượng tiền này bao gồm tiền mặt ngoài ngân hàng và tiền ngân hàng (tiền sử dụng séc),
và được xác định bởi khối lượng tiền M1 hoặc M2 tùy thuộc vào chính sách tiền tệ của một
quốc gia, thường bao gồm các loại tiền có khả năng thanh toán chuyển đổi cao nhất nhằm
đáp ứng nhu cầu giao dịch trong nền kinh tế quốc dân.
Nó bao gồm tiền mặt đang lưu hành và các khoản tiền gửi tại các Ngân hàng thương mại.
MS được xác định như sau: MS = U + D.
Trong đó:

MS là mức cung tiền thực tế
MS 

82

M
P
ECO102_Bai4_v2.0013107216



Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

M là mức cung tiền danh nghĩa
P là mức giá chung hay chỉ số giá
U là lượng tiền mặt đang lưu hành, D là lượng tiền gửi
Như vậy, mức cung tiền lớn hơn nhiều so với lượng tiền cơ sở bởi hoạt động “tạo ra tiền”
của các NHTM. Mức cung tiền trước hết được quyết định bởi quy mô của lượng tiền cơ sở
và sau đó bởi khả năng tạo ra tiền của các NHTM nhờ số nhân tiền tệ.
4.2.3.2. Sơ đồ về cung tiền

Theo sơ đồ, tiền cơ sở (cơ số tiền) H là tiền do Ngân hàng Trung Ương (cơ quan duy nhất
được phép phát hành tiền mặt) phát hành biểu hiện dưới dạng tiền mặt lưu hành và tiền mặt
dự trữ tại ngân hàng.
Trong quá trình lưu thông một phần của lượng tiền này được các tác nhân kinh tế giữ lại để
chi tiêu dần (thanh toán) và một phần nằm tại các ngân hàng dưới dạng tiền dự trữ.
Khối lượng tiền cơ sở bằng khối lượng tiền mặt lưu hành và tiền dự trữ trong các ngân hàng.
H=U+R
Trong đó: H là lượng tiền cơ sở; U là lượng tiền mặt lưu hành, R là lượng tiền dự trữ trong
các ngân hàng.
Khi các NHTM tham gia vào thị trường tiền tệ thì việc xác định tổng lượng tiền tệ trở nên
phức tạp hơn bởi sự quay vòng bộ phận tiền cơ sở trong tay các ngân hàng. Sự quay vòng đã
làm tăng tổng mức cung tiền nên tiền cơ sở còn được gọi là tiền mạnh.
4.2.3.3. Đồ thị đường cung tiền

Với giả định mức cung tiền thực tế MS là do ngân hàng trung ương quyết định, không phụ
thuộc vào lãi suất. Mức cung tiền sẽ không đổi khi lãi suất thay đổi, khi đó, đồ thị đường
cung tiền sẽ là đường thẳng đứng, song song với trục tung.
Mức lãi

suất

MS

0

M0

Lượng tiền

Hình 4. 5. Đồ thị đường cung tiền

Đường cung tiền thực tế MS là đường thẳng đứng song song với trục tung.
4.2.4.

Số nhân tiền tệ và ý nghĩa của việc phân tích số nhân tiền

Khái niệm: Đứng trên góc độ tổng thể của nền kinh tế quốc dân thì số nhân tiền chính là
một đại lượng được đo lường bằng tỷ số giữa mức cung tiền với lượng tiền cơ sở.

Công thức tính:

mM = MS/H  MS = mM.H
H đưa vào quay vòng thì H sẽ tăng lên m lần, số nhân tiền sẽ là:

mM 

ECO102_Bai4_v2.0013107216

UD

UR
83


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

Chia cả tử và mẫu số cho D ta được:
U
1
D
mM 
U R

D D

 Nếu gọi s là tỷ lệ dự trữ tiền mặt của công
chúng (tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông so với tiền
gửi), thì: s = U/D.
Tỷ lệ s phụ thuộc vào các yếu tố sau:
o

Thói quen thanh toán hay còn gọi là hành vi
ưa tiền mặt của công chúng.
Ví dụ: Có những nước người dân muốn giữ
tiền mặt nhưng ở những nước có thị trường
tiền tệ phát triển cao thì người dân thường
thanh toán qua hệ thống ngân hàng và tỷ lệ s
sẽ nhỏ.

Lượng tiền


o

Khả năng sẵn sàng đáp ứng tiền mặt và khả năng thanh toán của các NHTM.

o

Tốc độ tăng tiêu dùng (dân giữ nhiều tiền mặt hơn để thanh toán): Nếu dân chúng có
xu hướng muốn dự trữ tiền mặt nhiều hơn thì tỷ lệ s sẽ tăng lên.

 Nếu gọi ra là tỷ lệ dự trữ thực tế tại các NHTM thì:
ra = Ra/D (coi R = Ra ; Ra là mức dự trữ thực tế)
Tỷ lệ dự trữ thực tế ra phụ thuộc vào các yếu tố sau:
o

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

o

Tính không ổn định của nguồn tiền mặt vào, ra của ngân hàng bắt buộc các Ngân hàng
thương mại muốn dự trữ tiền mặt nhiều hơn.

o

Sự thiệt hại do trả lãi suất nếu phải vay tiền khi thiếu hụt dự trữ.
Số nhân tiền bây giờ sẽ là: m M 

1 s
ra  s


Lúc này mM được gọi là số nhân tiền đầy đủ hoặc số nhân tiền mở rộng.
Tỷ lệ dự trữ thực tế ra càng nhỏ thì số nhân tiền sẽ càng lớn.
Tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi (s) càng nhỏ, số nhân tiền sẽ càng lớn.
Tỷ lệ này phụ thuộc vào thói quen thanh toán của xã hội, vào tốc độ tăng của tiêu dùng và
còn phụ thuộc vào khả năng sẵn sàng đáp ứng tiền mặt của các NHTM. Nếu giả thiết rằng
không có sự rò rỉ tiền mặt trong lưu thông tức là tất cả quá trình thanh toán đều được diễn ra
trong hệ thống NHTM, khi đó s = 0.
Giả thiết các NHTM dự trữ đúng theo yêu cầu của NHTƯ thì ra = rb. Lúc này số nhân tiền
được viết dưới dạng mM = 1/rb, đây được gọi là số nhân tiền đơn giản. Số nhân tiền đơn giản
này chỉ rõ được vai trò của ngân hàng trung ương trong việc điều tiết mức cung tiền của nền
kinh tế. Mỗi một sự thay đổi nhỏ về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, sẽ làm thay đổi lớn về số nhân
tiền và làm thay đổi mức cung tiền của nền kinh tế.

84

ECO102_Bai4_v2.0013107216


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

4.3.

Cầu tiền tệ

4.3.1.

Phân biệt các loại tài sản tài chính

Toàn bộ tài sản tài chính trong nền kinh tế được
chia thành hai loại sau:

 Tài sản giao dịch (thanh khoản): Tài sản giao
dịch tuy không tạo ra thu nhập nhưng được dùng
để thanh toán khi mua hàng hoá và dịch vụ, bao
gồm các loại tiền mặt (tiền giấy) và tiền xu.
 Các loại tài sản tài chính khác có tạo ra thu
nhập (tín phiếu, cổ phiếu, sổ tiết kiệm,...) nhưng
không thể dùng trực tiếp để mua hàng hoá.
Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các hộ gia
Giao dịch tài sản tài chính
đình và doanh nghiệp giữ của cải của họ dưới
dạng kết hợp cả hai loại tài sản này. Để thuận lợi cho việc phân tích ta coi mọi tài sản
giao dịch được gọi là tiền và mọi tài sản khác có thu nhập được gọi chung là trái phiếu.
Khi phân tích cung tiền và cầu tiền trong nền kinh tế, chúng ta thường phân tích tài sản
giao dịch (thanh khoản) là chủ yếu.
4.3.2.

Cầu tiền tệ và các yếu tố tác động đến cầu tiền tệ

4.3.2.1. Khái niệm

Cầu tiền là số lượng tiền cần để chi tiêu thường xuyên, đều đặn cho các nhu cầu tiêu dùng
cá nhân, sản xuất – kinh doanh và các nhu cầu khác.

Khi phân tích cầu tiền, chúng ta thường phân tích dưới hai
khía cạnh: Cầu tiền danh nghĩa và cầu tiền thực tế.
Nếu giá cả hàng hoá tăng, mức cầu tiền danh nghĩa cũng
tăng, nếu không sẽ không đủ tiền để mua đủ khối lượng hàng
hoá đã dự định. Qua đó ta thấy thực chất của cầu tiền là cầu
về cán cân tiền tệ thực tế, đó là cầu tiền đã được loại trừ yếu
tố lạm phát.


Cầu tiền tệ

Cầu tiền thực tế = Cầu tiền danh nghĩa/Chỉ số giá cả (P)
4.3.2.2. Các yếu tố làm thay đổi mức cầu tiền

 Yếu tố lãi suất:
Chi phí giữ tài sản dưới dạng tiền là thu nhập từ lãi suất mà các tài sản có thể tạo ra nếu
như để chúng dưới dạng trái phiếu. Lãi suất chính là chi
phí cơ hội của việc giữ tiền. Khi lãi suất thay đổi cầu tiền
sẽ thay đổi.
o

ECO102_Bai4_v2.0013107216

Khi lãi suất tăng, lợi ích của việc gửi tiết kiệm đem lại
lớn hơn lợi ích của việc bỏ tiền ra để mua sắm do đó
cầu tiền giảm. Vì khi lãi suất tăng xu hướng tiết kiệm
tăng, xu hướng tiêu dùng giảm, đồng thời đầu tư I giảm,
xuất khẩu giảm, cầu tiền giảm.

Lãi suất

85


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ
o

Khi lãi suất giảm, dân cư muốn giữ nhiều tài sản dưới dạng tiền và ít tài sản dưới

dạng trái phiếu hơn, cầu tiền sẽ tăng lên.

 Các yếu tố ngoài lãi suất:
o

Thu nhập quốc dân: Thu nhập quốc dân tăng, tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ của hộ
gia đình tăng, đầu tư tăng kéo cầu tiền tăng và ngược lại. Như vậy, khi các yếu tố làm
thay đổi tổng cầu thì sẽ làm thay đổi sản lượng cân bằng của nền kinh tế và sẽ làm
thay đổi cầu tiền.

o

Tính bất ổn định và mạo hiểm trong sản xuất – kinh doanh (ảnh hưởng đến khả
năng đầu tư).

o

Nhu cầu về các tài sản khác (trái phiếu)  có thể làm cho nhu cầu về tiền thanh toán
giao dịch giảm.

4.3.2.3. Hàm số và đồ thị cầu tiền

Mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lãi suất và mức cầu về tiền được gọi là hàm cầu tiền (hàm ưa
thích tiền thanh khoản).

Hàm cầu tiền có dạng sau: MD = k.Y – h.r
Trong đó: MD là mức cầu tiền thực tế.
Y là thu nhập.
r là lãi suất thực tế.
k là hệ số phản ánh độ nhạy cảm của mức cầu tiền đối với thu nhập. Giả sử Y

tăng hoặc giảm 1% thì sẽ làm cho cầu tiền MD tăng hoặc giảm bao nhiêu %.
h là hệ số phản ánh độ nhạy cảm của mức cầu tiền đối với lãi suất r. Giả sử r tăng
hoặc giảm 1% thì sẽ làm cho cầu tiền MD giảm hoặc tăng bao nhiêu %.
Đồ thị hàm cầu tiền:

Hàm cầu tiền biến thiên theo lãi suất: Trên đường MD, khi lãi suất tăng từ r1  r2 thì lượng
cầu tiền giảm từ M1  M2. Điểm B trượt dọc lên điểm A và ngược lại (hình 4.6).
Mức
lãi suất
r2

A
B

r1

MD
0

M2

M1

Lượng tiền

Hình 4.6. Đường cầu tiền

Khi các nhân tố ngoài lãi suất thay đổi: Giả sử thu nhập quốc dân tăng lên (hình 4.7), đường
cầu tiền sẽ dịch chuyển sang phải từ MD0 đến MD1.


86

ECO102_Bai4_v2.0013107216


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ
Mức
lãi suất
A

r2

C
B

r1

MD1
MD0
Lượng tiền

M2

M1

0

Hình 4.7. Đường cầu tiền khi thu nhập quốc dân tăng

4.4.


Thị trường tiền tệ

4.4.1.

Trạng thái cân bằng của thị trường tiền tệ

Công cụ dùng để phân tích là đường cung và đường cầu về tiền. Đường cung tiền là đường
thẳng đứng (cung cố định) trên cơ sở cho rằng NHTƯ sử dụng các công cụ của nó đã cung
ứng cho thị trường một mức cung tiền theo dự kiến. Đó là khối lượng tiền xác định cho mọi
mức lãi suất thực tế r. Đường cầu về tiền là đường dốc xuống, biến thiên giảm theo lãi suất.
Mức
lãi suất
MD

MS

E0

r0

B

r1

A
0

M0


M1

Lượng tiền

Hình 4.8. Trạng thái cân bằng trên thị trường tiền tệ

Tác động qua lại giữa cung và cầu tiền xác định mức lãi suất cân bằng gọi là lãi suất
thị trường. Điểm E0 trên hình 4.8, chính là điểm cân bằng của thị trường tiền tệ.
Tại mức lãi suất cân bằng r0, mức cầu tiền vừa đúng bằng mức cung tiền. Ở mức lãi suất
thấp hơn r0 là r1, sẽ có mức dư cầu (M = AB ) đòi hỏi phải có mức dư cung trái phiếu
tương ứng làm cho giá trái phiếu giảm xuống, lợi tức trái phiếu tăng lên và đẩy thị trường
lên tới mức lãi suất r0.
Như vậy, trạng thái cân bằng trên thị trường tiền tệ xảy ra khi: MS = MD.
Hay ta có phương trình cân bằng:
M
 k.Y  h.r
P
4.4.2.

Sự thay đổi trạng thái cân bằng

Sự dịch chuyển đường cung hoặc đường cầu tiền sẽ làm thay đổi vị trí cân bằng của thị
trường tiền tệ.
 Khi NHTƯ tác động đến mức cung tiền, giả sử là bán trái phiếu hoặc tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc dẫn đến lượng cung tiền giảm xuống, đường cung tiền sẽ dịch chuyển từ
MS0  MS1 và lãi suất cân bằng sẽ tăng từ r0  r1. Đồ thị bên cho biết nếu giảm mức

ECO102_Bai4_v2.0013107216

87



Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

cung tiền từ MS0  MS1 sẽ dẫn đến lãi suất tăng lên để giảm mức dư cầu tiền do mức
cung tiền giảm đi.
Mức
lãi suất
MD

MS1

E1

r1

r0
0

MS0

E0

A
M1

M0

Lượng tiền


Hình 4.9a. Sự thay đổi trạng thái cân bằng trên thị trường tiền tệ

Ngân hàng Trung Ương bán trái phiếu, cung tiền giảm, đường cung tiền dịch chuyển từ
MS0 MS1 và lãi suất cân bằng tăng từ r0r1.
 Khi thu nhập quốc dân tăng lên, nhu cầu tiền cho giao dịch tăng lên. Với mỗi mức lãi
suất, lợi ích cận biên của việc giữ tiền tăng lên và làm tăng lên và làm tăng mức cầu tiền
thực tế, đường cầu tiền sẽ dịch chuyển từ MD0  MD1. Với mức cung tiền MS, lãi suất
cân bằng sẽ tăng lên từ r0 đến r1, điểm cân bằng mới của thị trường tiền tệ sẽ là E1.
Khi thu nhập tăng, cầu tiền tăng từ MD0MD1 ,
lãi suất cân bằng tăng từ r0r1.
Việc kiểm soát tiền tệ trong thực tế phù hợp với
mục tiêu kinh tế Vĩ mô thật không đơn giản.
Thông thường, có hai cách kiểm soát, hoặc là
kiểm soát mức cung tiền thì lãi suất thị trường sẽ
lên xuống bởi tác động của cầu, hoặc kiểm soát
lãi suất (ổn định lãi suất) thì buộc phải để lực
lượng thị trường quyết định mức cung tiền. Cả
hai cách đều gặp những khó khăn nhất định như
Ngân hàng Trung ương
khi kiểm soát lượng tiền cơ sở (H) thì vấp phải
vấn đề hạn chế tiền mặt và tín dụng gây khó khăn cho hoạt động NHTM và các hoạt động
giao dịch, khi kiểm soát lãi suất lại gặp khó khăn trong nhận biết chính xác đường cầu tiền
và sự dịch chuyển của nó,... Việc lựa chọn kiểm soát mức cung tiền hay kiểm soát lãi suất là
tuỳ thuộc vào chính sách tiền tệ của mỗi nước.
4.5.

Chính sách tiền tệ

4.5.1.


Mục tiêu và công cụ của chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ là việc NHTƯ điều chỉnh tiền tệ
thông qua mức cung tiền và lãi suất để từ đó tác động
đến đầu tư tư nhân làm thay đổi tổng cầu từ đó tác
động đến sản lượng, giá cả và công ăn việc làm trong
nền kinh tế quốc dân. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
là nhằm làm tăng sản lượng, ổn định giá cả và tạo
nhiều công ăn việc làm trong nền kinh tế quốc dân,
v.v...
Chính sách tiền tệ gồm có 6 công cụ:

Chính sách tiền tệ

 Công cụ tái cấp vốn
88

ECO102_Bai4_v2.0013107216


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

 Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc
 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
 Công cụ lãi suất tín dụng
 Công cụ hạn mức tín dụng
 Tỷ giá hối đoái (công cụ gián tiếp)
4.5.2.

Các công cụ điều tiết mức cung tiền của Ngân hàng Trung Ương


4.5.2.1. Các chức năng cơ bản của NHTƯ

 NHTƯ là cơ quan duy nhất được phép phát hành tiền.
 NHTƯ là ngân hàng của các NHTM: NHTƯ giữ các tài khoản dự trữ cho các NHTM,
thực hiện tiến trình thanh toán cho hệ thống NHTM và hoạt động như một “người cho
vay theo phương sách cuối cùng” đối với các NHTM trong trường hợp khẩn cấp.
 NHTƯ là ngân hàng của Chính phủ: NHTƯ giữ các tài khoản cho Chính phủ, nhận tiền
gửi và cho vay đối với kho bạc nhà nước, hỗ trợ chính sách tài khoá của Chính phủ bằng
việc mua tín phiếu của Chính phủ.
 NHTƯ kiểm soát mức cung tiền để thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định và phát
triển nền kinh tế.
 NHTƯ hỗ trợ, giám sát và điều tiết hoạt động của các thị trường tài chính, đặc biệt là
thị trường chứng khoán.
4.5.2.2. Các công cụ điều tiết mức cung tiền của Ngân hàng Trung Ương

Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của Ngân hàng Trung
Ương về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các Ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân
thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ
dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt tiền mặt
các Ngân hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ Ngân hàng Trung Ương để
đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là một trong những công cụ của Ngân hàng Trung Ương
nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền tệ.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc rb là tỷ lệ mà NHTƯ quy định cho các NHTM. Khi nhận được một
khoản tiền gửi, buộc các NHTM phải giữ lại theo 1 tỷ lệ mà NHTƯ quy định.
Ở một số nước trên thế giới, giá trị rb tối thiểu là 10% và tối đa là 35%, rb có liên quan chặt
chẽ đến số nhân tiền và mức cung tiền như sau: Nếu rb tăng, số nhân tiền sẽ giảm và mức
cung tiền sẽ giảm, vì: (MS = mM.H) và ngược lại.
Tỷ lệ dự trữ thấp, số nhân tiền sẽ lớn là điều kiện thuận lợi để mở rộng tín dụng, tăng nhanh
mức cung tiền. NHTƯ là cơ quan duy nhất được phép ra quyết định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc

đối với các NHTM. Khi thay đổi quy mô của tỷ lệ này, NHTƯ đã khống chế một cách gián
tiếp nhưng mạnh mẽ đến mức cung tiền. Sử dụng công cụ này thường có hiệu quả cao, tác
động nhanh chóng đến hoạt động cho vay nhưng cũng khó khăn cho các hoạt động của
thị trường tài chính.
Thông thường, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được các Ngân hàng Trung Ương trên thế giới quy định
là tỷ lệ giữa dự trữ tiền mặt so với tiền gửi vãng lai là một bộ phận cấu thành của M1 mà
không quy định tỷ lệ giữa dự trữ tiền mặt với tiền gửi có kỳ hạn (tiền gửi tiết kiệm..., một bộ

ECO102_Bai4_v2.0013107216

89


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

phận cấu thành của M2). Dự trữ bắt buộc có thể được gửi ở Ngân hàng Trung Ương hoặc
giữ tại két dự trữ của Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, thông thường các Ngân hàng
thương mại sẽ gửi ở Ngân hàng Trung Ương để được hưởng lãi suất. Ở Việt Nam, tỷ lệ dữ
trữ bắt buộc được quy định cho hai loại tiền gửi: Tiền gửi không kỳ hạn cộng với tiền gửi có
kỳ hạn dưới 1 năm và tiền gửi có thời hạn từ 1 năm đến 2 năm, trong đó tỷ lệ dữ trữ bắt
buộc so với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 đến 2 năm thấp hơn.
Ngoài ra tỷ lệ dữ trữ bắt buộc còn được quy định khác nhau đối với những loại ngân hàng
khác nhau có thể theo quy mô, tính chất hoạt động... Ngân hàng Trung Ương của một số
quốc gia như các nước thuộc Anh, Thuỵ Sỹ, v.v... đã còn không áp dụng quy định tỷ lệ dữ
trữ bắt buộc nữa.
Lãi suất chiết khấu: Hay còn gọi là lãi suất tái chiết khấu là lãi
suất mà NHTƯ (Ngân hàng Nhà nước) đánh vào các khoản
tiền cho các NHTM vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn
hoặc bất thường của các ngân hàng này. Quy định lãi suất chiết
khấu là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ nhằm

điều tiết lượng cung tiền.
Các Ngân hàng thương mại phải tính toán tỷ lệ giữa tiền mặt
và tiền gửi (dự trữ của ngân hàng) để đáp ứng nhu cầu của
khách hàng và họ có một tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi an toàn
tối thiểu. Tỷ lệ này ngoài quy định của Ngân hàng Trung
Ương về tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn phụ thuộc vào tình hình
kinh doanh của Ngân hàng thương mại và dự trữ của ngân
Lãi suất chiết khấu
hàng thường lớn hơn dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Trung
Ương quy định. Khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt thực tế của Ngân hàng thương mại giảm xuống đến
gần tỷ lệ an toàn tối thiểu thì họ sẽ phải cân nhắc việc có tiếp tục cho vay hay không vì buộc
phải tính toán giữa số tiền thu được từ việc cho vay với các chi phí liên quan trong trường
hợp khách hàng có nhu cầu tiền mặt cao bất thường.
 Nếu lãi suất chiết khấu bằng hoặc thấp hơn lãi suất thị trường thì NHTM sẽ tiếp tục
cho vay đến khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm đến mức tối thiểu cho phép vì nếu thiếu tiền
mặt họ có thể vay từ NHTƯmà không phải chịu bất kỳ thiệt hại nào. Khi lãi suất chiết
khấu thấp hơn lãi suất thị trường và điều kiện cho vay thuận lợi sẽ là tín hiệu khuyến
khích các NHTM vay tiền để tăng dự trữ và mở rộng cho vay dẫn đến mức cung tiền sẽ
tăng lên và ngược lại.
 Nếu lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, các NHTM không thể để cho tỷ lệ
dự trữ tiền mặt giảm xuống đến mức tối thiểu cho phép, thậm chí phải dự trữ thêm tiền
mặt để tránh phải vay tiền từ NHTƯ với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường khi phát sinh
nhu cầu tiền mặt bất thường từ phía khách hàng.
Do vậy, với một tiền cơ sở nhất định, bằng cách quy định lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất
thị trường, Ngân hàng Trung Ương có thể buộc các Ngân hàng thương mại phải dự trữ tiền
mặt bổ sung khiến cho số nhân tiền tệ giảm xuống (vì bội số của tiền gửi so với tiền mặt
giảm) để làm giảm lượng cung tiền. Ngược lại, khi lãi suất chiết khấu giảm xuống thì các
Ngân hàng thương mại có thể giảm tỷ lệ dự trữ tiền mặt và do vậy số nhân tiền tệ tăng lên
dẫn đến tăng lượng cung tiền.
Hạn mức tín dụng (mức trần tín dụng): Là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành

chính của NHTƯ để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
90

ECO102_Bai4_v2.0013107216


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung Ương buộc các Ngân hàng
thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động Ngân hàng Trung Ương mua vào hoặc bán ra những
giấy tờ có giá của Chính phủ trên thị trường. Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá,
NHTƯ tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết
lượng cung ứng tiền tệ và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường.

Trái phiếu

Trong bảng tổng kết tài sản của NHTƯ, tài sản có chủ yếu là giấy tờ có giá của Chính phủ,
tài sản nợ chủ yếu là tiền giấy và tiền gửi dự trữ của các NHTM. Khi NHTƯ bán ra những
giấy tờ có giá của Chính phủ trên thị trường như trái phiếu Chính phủ, Ngân hàng Trung
Ương sẽ "thu tiền" về theo cơ chế sau: Tài khoản vãng lai của người mua trái phiếu Chính
phủ bị Ngân hàng thương mại ghi nợ và Ngân hàng Trung Ương sẽ ghi giảm tài khoản tiền
gửi dự trữ của các Ngân hàng thương mại tại đó. Vì tỷ lệ tiền mặt dự trữ của Ngân hàng
thương mại bằng tiền gửi dự trữ tại Ngân hàng Trung Ương cộng với tiền mặt tại két dự trữ
của họ nên khi tài khoản tiền gửi dự trữ của các Ngân hàng thương mại tại Ngân hàng Trung
Ương giảm xuống, cơ sở tiền tệ đã giảm đi làm giảm cung tiền một lượng bằng giá trị của
trái phiếu Chính phủ bán ra nhân với số nhân tiền tệ. Ngược lại, khi Ngân hàng Trung Ương
mua vào giấy tờ có giá của Chính phủ, nó sẽ ghi tăng tài khoản dự trữ của các Ngân hàng
thương mại và làm tăng cơ sở tiền tệ dẫn đến cung tiền tăng. Việc ghi tăng tài khoản dự trữ
của các Ngân hàng thương mại có thể dẫn đến kết cục Ngân hàng Trung Ương phải in thêm

tiền giấy nếu các Ngân hàng thương mại có nhu cầu lớn về tiền giấy trong khi tiền giấy của
Ngân hàng Trung Ương không đủ đáp ứng.
Nghiệp vụ thị trường mở của các Ngân hàng Trung
Ương chủ yếu có hai loại: Mua bán giấy tờ có giá dài
hạn và mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn. Ở Mỹ, nghiệp
vụ thị trường mở chủ yếu được thực hiện đối với trái
phiếu Chính phủ dài hạn. Ở Việt nam, theo Luật Ngân
hàng Nhà nước Việt nam, nghiệp vụ thị trường mở chỉ là
việc mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn như tín phiếu kho
bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước
và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Công cụ tái cấp vốn: Là hình thức cấp tín dụng của
Tỷ giá hối đoái
NHTƯ đối với các NHM. Khi cấp một khoản tín dụng
cho Ngân hàng thương mại, NHTƯ đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho
Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
ECO102_Bai4_v2.0013107216

91


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

Tỷ giá hối đoái: Là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh
sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là
công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt
động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến
tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán
quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của các quốc gia. Về thực chất tỷ giá không phải là công
cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy

nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công
cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
4.5.3.

Cơ chế tác động của chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ quản lý kinh tế Vĩ
mô quan trọng nhất của Nhà nước. Ngân hàng Trung Ương sử
dụng chính sách tiền tệ nhằm điều chỉnh cung ứng tiền cho nền
kinh tế, ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc
làm. Khi có các cú sốc bất lợi cho nền kinh tế, Chính phủ có thể
sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng hoặc chính sách tiền tệ thắt
chặt (tùy theo từng tình huống khác nhau). Chúng ta có thể xem
xét hai giả định sau đây đối với nền kinh tế.

Tác động của chính
sách tiền tệ

 Trường hợp 1:
Giả sử nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, các doanh nghiệp lâm vào tình trạng làm
ăn đình đốn trì trệ, họ không muốn đầu tư thêm, các hộ
gia đình không muốn chi tiêu thêm cho tiêu dùng do
đó tổng cầu của nền kinh tế đạt ở mức thấp, sản lượng
cân bằng thấp hơn sản lượng tiềm năng, người lao
động bị đẩy vào tình trạng mất việc làm, thất nghiệp
gia tăng. Khi đó, chính phủ có thể sử dụng chính sách
tiền tệ mở rộng. Chính phủ sẽ thực hiện các biện pháp
như: Giảm tỷ lệ chiết khấu hoặc mua trái phiếu, hoặc
Nền kinh tế suy thoái
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc; khi đó mức cung tiền sẽ

tăng, lãi suất trên thị trường tiền tệ sẽ giảm, đầu tư tăng, tổng cầu tăng, sản lượng cân
bằng tăng, chi tiêu hàng h oá và dịch vụ của các hộ gia đình tăng, thất nghiệp giảm.
 Trường hợp 2:
Khi nền kinh tế tăng trưởng “quá nóng”, mức sản lượng của nền kinh tế vượt quá mức
sản lượng tiềm năng (Y*), lạm phát tăng, gây ra những bất lợi cho nền kinh tế nói chung
và mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng. Trong trường hợp
này, mục tiêu của Chính phủ là phải làm giảm lạm phát bằng cách sử dụng chính sách
tiền tệ thắt chặt (giảm bớt cung tiền hoặc tăng lãi suất trong nền kinh tế).
Chúng ta sẽ phân tích cụ thể hơn nữa các tác động của chính sách tiền tệ trong bài 5 (mô
hình IS – LM).
4.5.4.

Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay

Ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) thực hiện chính sách tiền tệ từ đầu
những năm 90 của thế kỷ 20 vừa qua. Cho đến nay, chính sách tiền tệ quốc gia đã thực sự
góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế  xã hội của Nhà nước, nhất là
92

ECO102_Bai4_v2.0013107216


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

trong việc kìm chế lạm phát từ 3 con số vào những năm 1985 – 1989 xuống còn 1 con số kể
từ đầu những năm 90, cung cấp tổng phương tiện thanh toán (M2) cho nền kinh tế phù hợp
với tốc độ tăng của GDP, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an ninh quốc
phòng. Quan điểm điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay là theo quan điểm đa
mục tiêu, tuỳ vào diễn biến kinh tế  xã hội mà lựa chọn
mục tiêu thích hợp. Trình độ hoạch định và điều hành

chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam ngày càng tăng
lên thông qua việc chú trọng công tác phân tích mọi diễn
biến kinh tế  tiền tệ trong nước và quốc tế để có những
dự báo và quyết định kịp thời tới việc ổn định giá trị đồng
tiền Việt Nam, sử dụng ngày càng nhuần nhuyễn hơn các
công cụ của chính sách tiền tệ. Với quan điểm điều hành
chính sách tiền tệ một cách thận trọng và linh hoạt để
Chính sách tiền tệ ở Việt Nam
kiểm soát lạm phát ở mức 1 con số, hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế, củng cố sự vững mạnh của hệ thống ngân hàng trong bối cảnh có nhiều bất lợi,
chính sách tiền tệ vừa qua thực sự có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế.
Trong giai đoạn từ 1990  2008, mức độ đôla hoá ở Việt Nam khá cao (trên 30%) gây ảnh
hưởng không nhỏ tới việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, mối quan hệ giữa M2
và giá cả, sản lượng. Với mức độ đôla hoá tài sản và tiền gửi cao như vậy thì việc xác định
cung tiền trở nên khó khăn vì có yếu tố ngoại lai trong lưu thông tiền tệ, đôla trôi nổi trong
xã hội lớn khó kiểm soát và tính toán được, cầu VND vì vậy không ổn định. NHNN phải
tính toán M2 dựa vào công thức:
M2 = VND ngoài lưu thông + tiền gửi (VND + ngoại tệ)
Cả 2 yếu tố này đều khó tính toán cụ thể khi mà tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong thanh toán còn
khá lớn (theo tính toán của NHNN hiện nay thì tỷ lệ này trung bình khoảng 25% trong tổng
các khoản thanh toán), tỷ lệ kết hối đã được dỡ bỏ đối với 50/60 tổ chức tín dụng được phép
kinh doanh ngoại hối. NHNN chỉ có thể điều tiết lượng tiền cung ứng qua công cụ dự trữ bắt
buộc, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở mà không sử dụng được tiền cơ sở vì số nhân tiền
(m) rất khó dự báo.
Quan điểm thực hiện các giải pháp lớn về chính sách tiền tệ:
 Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa thể độc lập với Chính phủ do đặc thù nền
kinh tế  chính trị của đất nước.
Tiền tệ là một công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ Vĩ mô trong từng
thời kỳ. Để nâng cao hơn nữa vai trò của chính sách tiền tệ thì việc giao cho NHNN
nhiều quyền hạn hơn trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là một vấn đề rất

quan trọng. Thống đốc NHNN có thể được độc lập về xây dựng và trình chính sách
tiền tệ, tổ chức thực hiện và tài chính.
Ví dụ: Để thực hiện chỉ tiêu lạm phát ở mức 1 con số mà Quốc hội đã thông qua thì
NHNN có thể được quyết định lượng tiền cung ứng trong từng thời kỳ phù hợp với
diễn biến của tình hình. Hoặc Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia sẽ tư vấn
những nét chính trong hoạt động tiền tệ  tín dụng quốc gia, Thống đốc NHNN là người
chủ động thực hiện các hoạt động để đạt được các mục tiêu đó.
 Để nâng cao hiệu quả hoạt động của chính sách tiền tệ quốc gia thì việc quản lý và kiểm
soát hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng là điều cần thiết.
ECO102_Bai4_v2.0013107216

93


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

Hiện nay trên lãnh thổ Việt Nam có nhiều loại tổ chức tín dụng phi ngân hàng được phép
thực hiện một số hoạt động ngân hàng như Công ty tiết kiệm bưu điện, Quỹ hỗ trợ phát
triển, Công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính... Một số hoạt động huy động vốn tiết
kiệm ngắn hạn ở các tổ chức này thực sự đã gây ra việc khó kiểm soát các luồng vốn di
chuyển trong xã hội, khó quản lý vốn khả dụng trong các doanh nghiệp và các tổ chức tín
dụng, việc tính toán cầu tiền thực sự trong xã hội trở nên khó khăn do sự phân đoạn thị
trường. Tất nhiên, việc mở rộng các nghiệp vụ ngân hàng đối với các tổ chức phi ngân
hàng là cần thiết và tất yếu, song thiết nghĩ rằng, NHNN cần phải quản lý chặt chẽ
thường xuyên các hoạt động này. Có những nghiệp vụ đặc thù của ngân hàng như thanh
toán, huy động vốn tiết kiệm không kỳ hạn... có lẽ không nên mở rộng quá sang các tổ
chức tín dụng phi ngân hàng.
 Trong các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ, tuỳ diễn biến của thị trường mà
NHNN sử dụng loại công cụ nào hoặc phối kết hợp các công cụ nhằm đạt mục tiêu đặt
ra. Vấn đề nổi lên hiện nay là cơ chế điều hành lãi suất của NHNN và của các NHTM

đang có nhiều bất cập. Để xác lập lại trật tự, có lẽ NHNN phải đi từ việc xây dựng cơ chế
điều hành lãi suất trên thị trường tiền tệ, trước hết là lãi suất trên thị trường nội tệ liên
ngân hàng, coi đó là lãi suất cơ sở để xác định các loại lãi suất ngắn hạn khác. Từ mức lãi
suất ngắn hạn, các NHTM cộng vào các phụ phí, mức bù rủi ro, lợi nhuận của ngân
hàng...để tính ra các loại lãi suất trung và dài hạn. Lãi suất thoả thuận mà các tổ chức
tín dụng áp dụng đối với khách hàng sẽ dựa trên nguyên tắc này. Lãi suất cơ bản không
còn tác dụng phát ra tín hiệu thực sự của NHNN, chỉ có lãi suất liên ngân hàng, nhất là
lãi suất liên ngân hàng qua đêm mới là lãi suất quan trọng mà NHNN điều hành mặt bằng
lãi suất thị trường. Đề án về lãi suất thống nhất phải đảm bảo được tính liên thông khoa
học giữa các loại lãi suất. Điều kiện để thực thi giải pháp này là xây dựng một thị trường
tiền tệ, mà trọng tâm là thị trường nội tệ liên ngân hàng hữu hiệu trong thời gian tới.
Cũng không nên tách biệt giữa thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng như hiện nay,
mà theo quá trình hội nhập, NHNN nên xây dựng một thị trường liên ngân hàng thống
nhất, bao gồm giao dịch cả VND và ngoại tệ. Trong thời gian tới, NHNN nên tập trung
xây dựng một đề án thị trường liên ngân hàng một cách nghiêm chỉnh theo thông lệ quốc
tế và phù hợp với tình hình Việt Nam, trong đó chú ý phát triển thị trường thứ cấp rộng
rãi giữa các tổ chức tín dụng thông qua việc hình thành các công ty môi giới chuyên trách
trên thị trường liên ngân hàng.
 Về điều kiện nâng cao hiệu quả chính sách tiền tệ: Để thực thi có hiệu quả chính sách
tiền tệ, những điều kiện không thể thiếu mà chúng ta phải quan tâm thứ nhất là thông tin,
nhất là thông tin kinh tế. Việc thiếu thông tin ở đây là thông tin chưa chính xác, chưa cập
nhật và chưa đầy đủ. Với 5 hệ thống tài khoản hiện nay, chúng ta chưa hoàn toàn đáp ứng
yêu cầu của hệ thống kế toán quốc tế, mà đây lại là một nhu cầu cấp bách trong thời gian
tới. Việc triển khai Luật Kế toán mới được Quốc hội ban hành cần có thời gian chuẩn bị
để đi vào cuộc sống. Các thông tin ở Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN thực
ra mới chỉ có Ngân hàng ngoại thương Việt Nam sử dụng nhiều hơn cả. Vì vậy, vấn đề
trước tiên là phải nâng cao chất lượng thông tin phục vụ việc ra các quyết định về chính
sách tiền tệ. Sau đó là vấn đề xử lý thông tin này ở các Vụ, Cục chức năng ở NHNN,
điều này lại đòi hỏi trình độ của cán bộ nghiệp vụ ở đây, không chỉ phân tích thông tin
mà còn cần có sự phối kết hợp giữa các Vụ, Cục, các cơ quan hữu quan trên quan điểm

lợi ích chung. Thứ 2 là công nghệ cao trong việc tiếp nhận, chuyển giao thông tin, lưu
giữ tin; trình độ cao này lại cần có số vốn lớn mà NHNN phải quan tâm và sự tranh thủ
94

ECO102_Bai4_v2.0013107216


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

giúp đỡ của các tổ chức tài chính nước ngoài. NHNN cần nâng tầm hệ thống thông tin
của mình ở trình độ Internet và hoàn thiện mạng Intranet ở các hoạt động quản lý và
nghiệp vụ của mình.
Những vấn đề đặt ra trong điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới:

 Trước hết là cần hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất: Cần lựa chọn một mức lãi suất
mục tiêu thích hợp và thiết lập được một mô hình kiểm soát mức lãi suất mục tiêu đó
một cách hiệu quả. Theo ý kiến của các chuyên gia trong điều kiện cụ thể của Việt Nam
hiện nay, lựa chọn lãi suất liên ngân hàng làm mục tiêu hoạt động là thích hợp hơn cả.
Đồng thời sử dụng mô hình kiểm soát lãi suất mục tiêu phù hợp nhất đối với điều kiện
cụ thể của thị trường tiền tệ Việt Nam hiện nay là một mô hình kiểm soát lãi suất liên
ngân hàng thông qua nghiệp vụ thị trường mở  Theo mô hình này, Ngân hàng Trung
Ương phải xác định được một mức mục tiêu cho lãi suất liên ngân hàng và sử dụng
nghiệp vụ thị trường mở một cách thường xuyên để duy trì mức lãi suất liên ngân hàng
phù hợp với giá trị mục tiêu đó. Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu để công bố lãi
suất cơ bản sát với thực tế của thị trường, đồng thời khoảng cách điều chỉnh lãi suất giữa
các lần công bố nên tăng lên như kinh nghiệm quốc tế để lãi suất do ngân hàng
Nhà nước công bố có tác động thật sự đến lãi suất thị trường. Tăng cường vai trò quản
lý của Nhà nước đối với điều hành chính sách lãi suất, hoạt động kinh doanh của các
Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng. Cần phải tăng cường sự chỉ đạo của ngân
hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại trong thống nhất và phối hợp hành

động trong toàn bộ hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo lợi ích chung, lợi ích của toàn hệ
thống ngân hàng và lợi ích của từng ngân hàng. Tránh để tình trạng "trăm hoa đua nở"
các Nhà nước thương mại vì lợi ích riêng đua nhau tăng lãi suất huy động vốn gây ra
tình trạng sốt lãi suất như những năm 2007 – 2008.
 Cần có các giải pháp nhằm vận hành thị trường mở tốt hơn, tăng cường và mở rộng quy
mô hoạt động của thị trường mở, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại cổ phần,
ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tham gia và trúng thầu trên thị
trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, giao dịch trên thị trường mở và được vay tái cấp vốn,
tái chiết khấu nhằm tác động tích cực đến lãi suất theo ý đồ của ngân hàng Nhà nước và
phát triển thị trường tiền tệ.
 Tổ chức tốt các giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán nhằm tăng thêm kênh huy
động vốn của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, tránh tình trạng dồn nhu cầu vốn lên vai
hệ thống ngân hàng sẽ khó tránh khỏi sức ép tăng lãi suất như thời gian vừa qua.
 Cần nghiên cứu và phối hợp giữa lãi suất ngân hàng với lãi suất trái phiếu Chính phủ,
trái phiếu đô thị để có một cơ chế lãi suất hợp lý, tránh tình trạng đẩy cao lãi suất trái
phiếu đô thị sẽ lại gây sức ép tăng lãi suất trong hệ thống ngân hàng.
 Ngân hàng Nhà nước cần linh hoạt trong điều hành chính sách tỷ giá hối đoái và quản lý
ngoại hối cho phù hợp với quá trình chuyển đổi kinh tế và tham gia hội nhập kinh tế quốc
tế nhằm đảm bảo ổn định tỷ giá, ổn định tiền tệ tạo cơ sở để điều hành chính sách tiền tệ
một cách thuận lợi nhất.

ECO102_Bai4_v2.0013107216

95


Bài 4: Tiền tệ và chính sách tiền tệ

TÓM LƯỢC CUỐI BÀI


Sau khi nghiên cứu xong bài 4, chúng ta có thể tóm lược một số nội dung nổi bật như sau:
 Tiền tệ là bất kỳ một phương tiện nào được coi như là vật ngang giá chung, được sử dụng để trao
đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ. Tiền tệ có các chức năng cơ bản như: Phương tiện thanh toán,
dự trữ giá trị, đơn vị hạch toán.
 Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng
đó là huy động vốn và cho vay vốn. Hoạt động của NHTM nhằm mục đích kinh doanh, với lãi suất
huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi nhuận của
NHTM. Ngân hàng Trung Ương (NHTƯ) không hoạt động vì mục đích lợi nhuận và cũng không
kinh doanh tiền tệ, có chức năng phát hành tiền, quản lý, thực thi và giám sát các chính sách tiền tệ;
và có rất nhiều NHTM, có thể coi là các ngân hàng con có chức năng thực hiện lưu chuyển tiền
trong nền kinh tế.
 Quá trình tạo ra tiền là sự mở rộng nhiều lần số tiền gửi và được thực hiện bởi hệ thống các
NHTM. Mỗi ngân hàng khi nhận được một khoản tiền gửi bắt buộc họ phải để lại dự trữ theo một
tỷ lệ nhất định do NHTƯ quy định. Số tiền dự trữ này chủ yếu là để đảm bảo khả năng ổn định cho
việc chi trả thường xuyên của NHTM và do yêu cầu quản lý tiền của NHTƯ. Số tiền còn lại tiếp
tục được cho vay, số tiền này lại được quay về hệ thống ngân hàng và cứ tiếp tục như vậy, quá
trình này cứ diễn ra liên tục.
 Cung tiền là toàn bộ khối lượng tiền được tạo ra trong nền kinh tế. Khối lượng tiền này bao gồm:
Tiền mặt ngoài ngân hàng và tiền ngân hàng (tiền sử dụng séc). Cung tiền có thể được xác định bởi
khối lượng tiền M1 hoặc M2 tùy thuộc vào chính sách tiền tệ của một quốc gia, thường bao gồm các
loại tiền có khả năng thanh toán chuyển đổi cao nhất. Mức cung tiền lớn hơn nhiều so với lượng
tiền cơ sở bởi hoạt động “tạo ra tiền” của các NHTM. Sự quay vòng đã làm tăng tổng mức cung
tiền nên tiền cơ sở còn được gọi là tiền mạnh.
 Số nhân tiền là một đại lượng được đo lường bằng tỷ số giữa mức cung tiền với lượng tiền cơ sở.
Công thức tính: mM = MS/H.
Số nhân tiền sẽ càng lớn, mức cung tiền sẽ càng tăng lên và ngược lại.
 Toàn bộ tài sản tài chính trong nền kinh tế được chia thành 2 loại sau: Tài sản giao dịch (tài sản
thanh khoản) và các loại tài sản tài chính khác có tạo ra thu nhập (tín phiếu, cổ phiếu, sổ tiết kiệm,
v.v...).
 Cầu tiền là số lượng tiền cần để chi tiêu thường xuyên, đều đặn cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân sản

xuất  kinh doanh và các nhu cầu khác.
Cầu tiền thực tế = Cầu tiền danh nghĩa/Chỉ số giá cả
Cầu tiền phụ thuộc chủ yếu vào lãi suất và thu nhập.
 Tác động qua lại giữa cung và cầu tiền xác định mức lãi suất cân bằng gọi là mức lãi suất
thị trường. Sự dịch chuyển đường cung hoặc đường cầu tiền sẽ làm thay đổi vị trí cân bằng của thị
trường tiền tệ. Khi NHTƯ tác động đến mức cung tiền, giả sử là bán trái phiếu dẫn đến lượng cung
tiền giảm xuống, lãi suất cân bằng sẽ tăng lên.
 Các công cụ của chính sách tiền tệ thường bao gồm:
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của NHTƯ về về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các
NHTM bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Tỷ lệ dự trữ thấp, số nhân tiền sẽ lớn
96

ECO102_Bai4_v2.0013107216


×