Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Các chức năng của quản lý nhà nước về kinh tế liên hệ việc vận dụng các chức này trong quản lý nhà nước về thương mại ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.03 KB, 22 trang )

CH19B-Quản trị kinh doanh(tối)

1

Nhóm 4

LỜI MỞ ĐẦU
Mỗi một quốc gia trên thế giới đều có môi trường chính trị, kinh tế và xã hội khác nhau
nên đối với mỗi nền kinh tế, nhà nước lại có các cách quản lý kinh tế đặc thù.
Muốn tìm hiểu mỗi quốc gia có cách quản lý kinh tế ra sao thì chúng ta nên tìm hiểu qua
các chức năng của quản lý nhà nước về kinh tế.
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế chính là những đặc trưng riêng có của quyền lực
nhà nuớc trong vịêc tác động có lựa chọn vào nền kinh tế theo các mục tiêu trong từng giai
đoạn.
Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã có những bước tiến vuợt bậc trong kinh tế. Sự phát
triển vuợt bậc này chính là do sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước trong việc điều
hành nền kinh tế một cách linh hoạt, hiệu quả. Việt Nam phát triển kinh tế thị truờng định
hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế mà vai trò kinh tế nhà nuớc là chủ đạo nên các chứng
năng quản lý nhà nuớc về kinh tế cần phải có thêm cả yếu tố mềm dẻo, kết hợp đuợc cả sự
phát triển của kinh tế nhà nuớc và kinh tế tư nhân.
Trong thời kỳ hiện nay, càng tìm hiểu rõ những chức năng của quản lý nhà nước về kinh
tế, chúng ta sẽ tìm ra đuợc nhiều phuơng pháp để giúp đất nước phát triển bền vững, theo
đúng con đường mà Đảng và Nhà nuớc đã chọn. Chính vì lý do đó, nhóm em xin phép được
đi sâu vào đề tài: “ Các chức năng của quản lý nhà nước về kinh tế. Liên hệ việc vận dụng
các chức này trong quản lý nhà nước về thương mại ở nước ta hiện nay”.
Và để hiểu rõ vấn đề này chúng em đã đi sâu nghiên cứu các nội dung sau:
Phần 1: Cở sở lý thuyết về chức năng của quản lý nhà nước về kinh tế
Phần 2: Thực trạng vận dụng các chức năng trong quản lý nhà nước về thương mại ở
nước ta hiện nay
Phần 3: Phương hướng, giải pháp vận dụng hiệu quả các chức năng trong quản lý nhà
nước về thương mại ở nước ta.



GVHD: PGS.TS. Hà Văn Sự

Học phần: Quản lý nhà nước về kinh tế


CHƯƠNG 1 : CỞ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHỨC NĂNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ KINH TẾ.
1.1.Nhận thức về chức năng quản lý nhà nước về kinh tế.
1.1.1.
Khái niệm.
Nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình không chỉ bằng việc xây dựng và quản
lý khu vực kinh tế nhà nước, mà quan trọng hơn là tổ chức và quản lý toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Để quản lý được nền kinh tế quốc dân nhàn nước với bộ máy quản
lý nền kinh tế của mình, phải thực hiện rất nhiều loại công việc khác nhau, những
công việc này hình thành nên khái niệm chức năng quản lý nhà nước về kinh tế.
Trong khoa học pháp lý nước ta đã xuất hiện nhiều quan điểm về chức năng của
nhà nước: theo cách hiểu truyền thống, chức năng của nhà nước là những phương diện
(những phương hướng, mặt, dạng, loại) hoạt động chủ yếu của nhà nước nhằm thực
hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước; chức năng nhà nước là sự thể hiện vai trò
của nhà nước đối với xã hội, là biểu hiện cụ thể năng lực của nhà nước; chức năng của
nhà nước chính là những nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong từng giai đoạn phát
triển cụ thể... Trong điều kiện hiện nay, để góp phần xác định đầy đủ khái niệm về
chức năng của nhà nước, theo chúng tôi cần tiếp cận phạm trù chức năng nhà nước
gắn liền với bản chất và vai trò của nhà nước đối với đời sống xã hội, đồng thời trong
mối quan hệ chặt chẽ với chức năng kinh tế, chức năng chính trị của nhà nước. Như
vậy, từ phạm trù chức năng của nhà nước thể hiện vai trò của nhà nước đối với đời
sống xã hội có thể hình thành nên khái niệm chức năng kinh tế của nhà nước như là
một bộ phận của khái niệm chức năng nhà nước, cũng như chức năng xã hội, chức
năng chính trị của nhà nước. Từ đó có thể định nghĩa: Chức năng quản lý nhà nước về

kinh tế là hình thức biểu hiện phương hướng và giai đoạn tác động có chủ đích của
nhà nướ, là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà nhà nước phải tiến hành trong
quá trình quản lý kinh tế đất nước.
Thực chất của chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là nhà nước tạo ra thực hiện
một cơ chế hay phương thức quản lý nền kinh tế quốc dân, đảm bảo sự phát triển
nhanh và bền vững.
1.1.2.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu chức năng quản lý nhà nước về kinh tế.
Phân tích chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là nhằm hiểu được nhà nước phải
làm những công việc gì trong lĩnh vực kinh tế, để thúc đẩy kinh tế quốc dân phát triển.
Những công việc đó được thực hiện bởi bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế. Do đó,
nhận thức rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là cơ sở khách quan để tổ chức bộ
máy quản lý nhà nước về kinh tế, từ chức năng mà sắp xếp bộ máy và bố trí biên chế
về con người.
Mặt khác, cần nhận thức rằng, chức năng quản lý nhà nước về nền kinh tế là những
nhiệm vụ tổng quát mà nhà nước phải thực hiện trong từng thời gian nhất định, do yêu
cầu của nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội và do tình hình, điều kiện cụ thể của từng
giai đoạn lịch sử quy định. Do đó, nhận thức về chức năng quản lý nhà nước về kinh
tế cũng không cố định mà luôn biến động và phát triền. Tuy nhiên, các chức năng cơ
bản, chủ yếu thường ít thay đổi, mà thay thôi chủ yếu là các nhiệm vụ quản lý nhà
nước về kinh tế - các công việc cụ thể hóa chức năng quản lý trong không gian và thời
gian nhất định.
Quản lý nhà nước về kinh tế cần được hiểu là chức năng quản lý toàn diện không
chỉ chức năng về hành chính, pháp chế, cũng không phải “ kinh tế ” như doanh


nghiệp. Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế tức là lựa chọn phương án phát triền nền
kinh tế - xã hội tối ưu, can thiệp, điều khiển mỗi khi nên kinh tế đi chệch ra ngoài
phương án đã lưa chọn do bị ảnh hưởng của các biến động về kinh tế chính trị xã hội
trong và ngoài nước …

1.1.3.
Phân loại các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế.
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là hình thức biểu hiện phương hướng và
giai đoạn tác động có chủ đích của nhà nước, là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau
mà nhà nước phải tiến hành trong quá trình quản lý kinh tế đất nước.
Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế được phân chia theo theo nhiều tiêu
thức khác nhau :
a. Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế theo phương hướng tác động.
Đại hội VII của đảng chỉ rõ: trên cơ sở bảo đảm quyền chủ kinh doanh của các
doanh nghiệp, nhà nước cần tập trung thực hiện tốt những chức năng quản lý vĩ mô
sau đây:
- Tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh
- Dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển.
- Hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội.
- Quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia.
b. Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế theo giai đoạn tác động
Theo giai đoạn tác động, quản lý nhà nước về kinh tế có các chức năng sau đây:
• Định hướng phát triển kinh tế đất nước
Định hướng phát triển kinh tế là quyết định trước những nhiệm vụ, những mục tiêu
và những chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong khoảng thời gian thường là 5
năm, 10 năm hoặc lâu hơn.
Đây là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý của nhà nước và các
chức năng quản lý khác phải căn cứ vào đó để thực hiện.
Chức năng định hướng bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Xác định các nhiệm vụ, là xác định những công việc phải làm trong khoảng thời gian
nhất định để tạo ra sự phát triển kinh tế đất nước.
- Xác định mục tiêu dài hạn của phát triển kinh tế đất nước.
Mục tiêu phát triển kinh tế đất nước được hiểu là đích cần đạt, là trạng thái mong
đợi có thể có và cần phải có của hệ thống kinh tế đất nước tại một thời điểm hoặc sau
một thời điểm nhất định.

Xác định mục tiêu là nội dung quan trọng của chức năng định hướng, vì mục tiêu
là khởi đầu của quản lý, nó chi phối toàn bộ hoạt động quản lý. Xác định mục tiêu
đúng còn là cơ sở để xác lập các nguyên tắc và bộ máy quản lý.
- Xác định chiến lược phát triển kinh tế là xác định hệ thống các đường lối, các nhiệm
lớn và các biện pháp chủ yếu nhằm đưa nền kinh tế đất nước đạt đến mục tiêu đã định.
Nội dung của chiến lược phát triển kinh tế đất nước bao gồm:
+ Các đường lối tổng quát, các chủ trương mà nhà nước sẽ thực thi trong một thời gian
đủ dài.
+ Các mục tiêu dài hạn cơ bản của đất nước.
+ Các giải pháp chủ yếu để thu hút và phân bổ các nguồn lực, các tiềm năng trong và
ngoài nước nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
• Lập kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội


Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là tập hợp các mục tiêu ở cấp quốc gia hay khu
vực và các giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu đó. Nhà nước phải xây dựng các kế
hoạch phát triển quốc gia dài hạn và trung hạn. Kế hoạch dài hạn kéo dài từ 10 đến 20
năm hoặc lâu hơn, kế hoạch trung hạn kéo dài trong 5 năm, với những mục tiêu và
giải pháp cụ thể hơn. Các kế hoạch trung hạn được cụ thể hóa thành kế hoạch kế
hoạch hàng năm, kết hợp với hệ thống ngân sách chính phủ và có tính đến viện trợ từ
bên ngoài đã được phê duyệt, để triển khai thực hiện.
Chương trình là tập hợp các mục tiêu, các chính sách, các thủ tục, các quy tắc, các
nhiệm vụ, các bước phải tiến hành, các nguồn lực cần sử dụng và các yếu tố cần thiết
khác, để thực hiện một ý đồ lớn, một mục tiêu nhất định về phát triển kinh tế đất nước,
vùng và ngành.
Chương trình có thể lớn và dài hạn như chương trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, hay trung hạn (2 đến 3 năm) như chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ, quản
lý hoặc cũng có chương trình nhỏ, ngắn hạn dưới một năm.
Việc thành lập các chương trình nhằm trình tự hóa các hoạt động cần thiết để thực
hiện các mục tiêu đề ra. Chương trình còn quyết định sự ưu tiên các hoạt động, nhờ

vậy chính phủ có thể tập chung phần cơ bản các phương tiện của đất nước vào các
khâu xung yếu quyết định sự phát triển của đất nước.
Chương trình và kế hoạch có quan hệ với nhau và có điểm khác nhau. Chương trình
là một bộ phận của kế hoạch hay một phương thức vận hành của kế hoạch để đưa
nhiệm vụ kế hoạch vào thực tế cuộc sống. Chương trình đảm bảo phối hợp một cách
đồng bộ các biện pháp liên quan trong việc thực hiện mục tiêu kế hoạch đề ra.
Chương trình tập chung những nguồn lực hạn hẹp vào giải quyết có hiệu quả những
trọng tâm của kế hoạch nhà nước trong từng thời kỳ, để tạo cơ cấu kinh tế mới.
• Thiết lập khung khổ pháp luật về kinh tế.
Pháp luật về kinh tế theo nghĩa rộng là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình tổ chức, quản lý và hoạt động sản xuất – kinh doanh giữa các doanh
nghiệp với nhau và với các đơn vị hữu quan khác.
Luật kinh tế la hành lang an toàn nhất cho các hoạt động kinh tế, đồng thời xác định
địa vị pháp lý cho các tổ chức và đơn vị kinh tế. Trên cơ sở đó tạo lập cơ sở pháp lý
cho các hoạt động và nhà nước thực hiện sự quản lý của mình đối với các hoạt động
đó.
• Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các chính sách, các công cụ và các đòn bẩy kinh tế.
Chính sách là tổng thể các phương thức, biện pháp, phương tiện nhất định, được
nhà nước sử dụng, nhằm tác động đến cá nhân, nhóm người, xã hội, để đạt tới các
mục tiêu bộ phận, trong quá trình thực hiện các mục tiêu tổng thể phát triển kinh tế xã hội như:
- Chính sách tài chính.
- Chính sách tiền tệ - tín dụng.
- Chính sách kinh tế đối ngoại.
• Tổ chức và điều hành các hệ thống kinh tế trong nước hoạt động
Với chức năng tổ chức, sản xuất, nhà nước phải hình thành các đơn vị kinh tế theo
ngành, theo vùng, theo thành phần kinh tế và theo loại hình sản xuất – kinh doanh,
cũng như các trung tâm khoa học đào tạo và các đơn vị sự nghiệp, phục vụ cho phát
triển kinh tế.



Với chức năng điều hành, nhà nước phối hợp với hoạt động giữa các cơ quan, đơn
vị trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo những mối quan hệ cần thiết trong quá trình
thực hiện những mục tiêu kế hoạch của đất nước.
• Kiểm tra, kiểm soát nền kinh tế.
Chức năng này nhằm kịp thời phát hiện những sai sót, ách tắc, đồng thời phát hiện
những cơ hội, vận hội tốt trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội của đất
nước, dự đúng định hướng kế hoạch nhà nước đã đề ra.
• Điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế
Điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế là những tác động bổ sung của nhà nước đến
nền kinh tế, nhằm sửa chữa những sai sót tận dụng các thời cơ để phát triển kinh tế.
Điều chỉnh về kinh tế của nhà nước được thực hiện thông qua các công cụ và chính
sách quản lý kinh tế, như luật pháp, kế hoạch, chính sách, các đòn bẩy kinh tế…
1.2.Những chức năng cơ bản chức năng quản lý nhà nước về kinh tế.
Trong điều kiện đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, chức năng quản lý kinh tế của nhà nước không những suy giảm mà ngày
càng được chú trọng. Với mục tiêu tổng quát của việc xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xhcn ở nước ta chính là thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh”, quản lý nhà nước về kinh tế trong giai đoạn này cũng phải
hướng tới mục tiêu đó mà cụ thể là các chức năng cơ bản như sau:
1.2.1.
Chức năng tạo môi trường và điều kiện thuận lợi sự phát triển nền kinh tế.
Môi trường cho sự phát triển kinh tế là tổng thể các yếu tố và điều kiện khách quan,
chủ quan, bên ngoài, bên trong, có mối liên hệ mật thiết với nhau ảnh hưởng trực tiếp
hay gián tiếp đến việc phát triển kinh tế và quyết định đến hiệu quả kinh tế.
Một môi trường thuận lợi sẽ là điểm tựa chắc chắn cho sự phát triển của nền kinh tế
nói chung và hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là những điều kiện
cần thiết để các chủ thể kinh tế yên tâm bỏ vốn vào kinh doanh và kinh doanh thuận
lợi, ổn định, hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế đất nước và ngược lại thì sẽ dẫn tới
kìm hãm, cản trở, làm cho nền kinh tế khủng hoảng, trì trệ.

Các môi trường ở đây thường là: môi trường kinh tế; môi trường pháp lý; môi
trường chính trị; môi trường văn hóa – xã hội; môi trường sinh thái; môi trường kỹ
thuật; môi trường dân số; môi trường quốc tế.
Để có thể tạo ra môi trường thuận lợi, bằng quyền lực của mình nhà nước cần đảm
bảo sự ổn định về chính trị và an ninh quốc phòng, mở rộng các quan hệ đối ngoại
trong đó có quan hệ kinh tế đối ngoại. Tiếp đến là xây dựng và thực thi nhất quán các
chính sách kinh tế - xã hội theo hướng đổi mới và có chính sách dân số hợp lý. Nhà
nước cũng cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng mới và nâng cấp
cơ sở hạ tầng kỹ thuật như giao thông, điện, nước, thông tin, dự trữ quốc gia để đảm
bảo điều kiện cơ bản cho hoạt động kinh tế có hiệu quả. Bên cạnh đó nhà nước cũng
cần xây dựng một nền văn hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng xhcn trên cơ
sở giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc và kế thừa tinh hoa văn hóa của nhân loại; xây
dựng một nền khoa học – kỹ thuật và công nghệ tiên tiến cần thiết, phù hợp và đáp
ứng yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế và sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, cải cách nền giáo dục để có thể đào tạo nguồn nhân lực có trình độ và kỹ thuật
cao, có trí tuệ. Một việc cũng hết sức quan trọng là nhà nước cần xây dựng và thực thi
chính sách, pháp luật về bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên của đất
nước, bảo vệ và hoàn thiện môi trường sinh thái.


Nói cách khác, chức năng trên của nhà nước có vai trò như “bà đỡ” giúp cho các cơ
sở sản xuất – kinh doanh ra đời, hoạt động và phát triển.
1.2.2.
Chức năng định hướng và hướng dẫn phát triển kinh tế
Định hướng phát triển kinh tế là quyết định trước nhiệm vụ, những mục tiêu, những
chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong khoảng thời gian tương đối dài, thường là
5 năm, 10 năm hoặc xa hơn.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đặc biệt là thời
kỳ mới tạo lập kinh tế thị trường, các tổ chức kinh tế được tự chủ kinh doanh, nhưng
không thể nắm đầy đủ và chính xác tình hình và xu hướng vận động của thị trường, do

đó thường chạy theo thị trường một cách bị động, dễ xảy ra thua lỗ, thất bại và đổ vỡ,
gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Nhà nước định hướng nền kinh tế phát triển theo
quỹ đạo và mục tiêu đã được đảng định ra và hướng dẫn các nhà kinh doanh, các tổ
chức kinh tế hoạt động đúng định hướng, đảm bảo ổn định, hiệu quả cho từng doanh
nghiệp và toàn thể nền kinh tế. Nhà nước định hướng và hướng dẫn thông qua kế
hoạch, chính sách và các công cụ quản lý vĩ mô, đồng thời sử dụng có trọng điểm các
nguồn tài chính tập trung và lực lượng dự trữ, phát triển vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước, khai thông các quan hệ bang giao, làm chỗ dựa cho các tổ chức và cá nhân
trong hoạt động kinh tế trong nước và nước ngoài. Điều cần chú ý ở đây là, trong điều
kiện kinh tế thị trường, nhà nước chủ yếu sử dụng phương pháp tác động hướng dẫn
thay cho can thiệp trực tiếp như trước đây, phương pháp này vừa đảm bảo tính tự chủ
sáng tạo của các cơ sở kinh tế vừa đảm bảo tính tự chủ sáng tạo của các cơ sở kinh tế
vừa đảm bảo đạt mục tiêu chung, đồng thời tôn trọng các quy luật của thị trường, khai
thác tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội lớn hơn.
1.2.3.
Chức năng tổ chức
Tổ chức là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước về kinh tế, đặc biệt
trong thời kỳ đổi mới kinh tế. Nhà nước có nhiệm vụ sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị
kinh tế, trong đó quan trọng nhất và cấp thiết nhất là đổi mới, sắp xếp, nâng cao hiệu
quả các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức các vùng kinh tế, các khu công nghiệp, khu
chế xuất. Đây là những công việc nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý. Nhà nước còn có
trách nhiệm tổ chức lại hệ thống quản lý. Sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về
kinh tế từ trung ương đến cơ sở, đổi mới thể chế và thủ tục hành chính, đào tạo và đào
tạo lại, sắp xếp đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp,
thiết lập mối quan hệ kinh tế với các nước và các tổ chức quốc tế.
1.2.4.
Chức năng điều tiết
Nhà nước điều tiết sự hoạt động của nền kinh tế là nhà nước sử dụng quyền năng
chi phối của mình lên các hành vi kinh tế của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường,
ngăn chặn các tác động tiêu cực đến quá trình hoạt động kinh tế, ràng buộc chúng phải

tuân thủ các quy tắc hoạt động kinh tế đã định sẵn nhằm đảm bảo sự phát triển bình
thường của nền kinh tế. Điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhà nước ta vừa phải tuân thủ và vận dụng các quy luật khách quan của nền
kinh tế thị trường, phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường, vừa điều tiết chi phối
thị trường hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho nền kinh tế phát
triển ổn định, công bằng và hiệu quả.
Những nội dung điều tiết của nhà nước thường thể hiện ở những nội dung chính
như:


-

Điều tiết các quan hệ sản xuất: nhằm làm cho các quan hệ sản xuất được thiết lập một
cách tối ưu, đem lại hiệu quả.
- Điều chỉnh các quan hệ phân chia lợi ích và quan hệ phân phối thu nhập như quan hệ
trao đổi hàng hóa; quan hệ phân chia lợi tức trong các công ty; quan hệ đối với công
quỹ quốc qua; quan hệ giữa các tầng lớp dân cư, giữa chênh lệch thu nhập.
- Điều tiết các quan hệ phân bổ nguồn lực bằng sự chi tiêu nguồn tài chính tập trung
như ngân sách nhà nước hay đánh thuế.
Để điều tiết và hướng dẫn thị trường, nhà nước thường sử dụng hàng loạt biện
pháp, bao gồm các chính sách, các đòn bẩy kinh tế, các công cụ tài chính, tín dụng và
lực lượng kinh tế của nhà nước.
1.2.5.
Chức năng kiểm tra, giám sát
Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương
trong hoạt động kinh tế, phát hiện và năng ngừa các hiện tượng vi phạm pháp luật, vi
phạm chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân, góp phần tăng
trưởng kinh tế và từng bước thực công bằng xã hội. Ở nước ta hiện nay, trong điều
kiện kinh tế thị trường còn sơ khai, tình trạng rối loạn, tự phát, vô tổ chức và các biểu
hiện tiêu cực còn khá phổ biến, có nơi khá trầm trọng, nên càng cần đề cao và tăng

cường chức năng kiểm tra, giám sát của nhà nước.
Kiểm tra giám sát ở đây có thể là kiểm tra giám sát việc thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách, kế hoạch và pháp luật của nhà nước về kinh tế; hoặc kiểm tra giám
sát việc sử dụng các nguồn lực của đất nước; hoặc có thể là kiểm tra giám sát việc xử
lý chất thải và bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái; hoặc kiểm tra giám
sát sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất ra; hoặc cũng có thể là kiểm tra giám sát
việc thực hiện các chức năng và việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước
trong quá trình quản lý nhà nước về kinh tế.
Từ những chức năng cơ bản và chủ yếu trên đây, nhà nước còn đề ra các nhiệm vụ
quản lý cụ thể cho từng lĩnh vực, từng cấp quản lý, từng địa phương khác nhau, xuất
phát từ tình hình và yêu cầu phát triển của từng thời kỳ. Nói chung, trong thời kỳ đổi
mới về kinh tế, nhà nước phải thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản song song và đan xen
nhau, đó là vừa đổi mới, cải cách hệ thống kinh tế và quan lý, vừa điều hành nền kinh
tế trong quá trình đổi mới, nên rất phức tạp và khó khăn. Mặt khác, nhiệm vụ quản lý
nhà nước về kinh tế hết sức đa dạng, luôn biến động do thực tế cuộc sống đặt ra, đòi
hỏi bộ máy quản lý ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực phải nhạy bén, linh hoạt, phải
dựa trên cơ sở các nguyên tắc quản lý kinh tế mà chủ động xử lý, tránh sao chép, rập
khuôn máy móc.(tạo lập khuôn khổ pháp luật về kinh tế; tạo lập môi trường thuận lợi
cho các hoạt động kinh tế; đảm bảo cơ sở hạ tầng cho phát triển; hỗ trợ sự phát triển)


2.1.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CÁC CHỨC NĂNG TRONG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Thực trạng vận dụng chức năng tạo môi trường và điều kiện cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh
Sau hơn hai mươi năm kể từ đại hội đảng vi năm 1986, công cuộc đổi mới của Việt
Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, nền kinh tế Việt Nam luôn duy trì được tốc
độ tăng trưởng khá cao liên tục trong nhiều năm. Việc trở thành thành viên của tổ

chức thương mại thế giới ( WTO) thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu, rộng
hơn vào kinh tế thế giới, cơ hội tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát
triển của nền kinh tế Việt Nam.
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên góp phần tạo ra khung
pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. Hiến pháp sửa đổi
năm 1992 đã khẳng định đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường và khu vực đầu tư nước ngoài. Tiếp
theo đó là hàng loạt các đạo luật quan trọng của nền kinh tế thị trường đã được hình
thành tại Việt Nam.
Cùng với việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng bước
được hình thành. Cải cách hành chính được thúc đẩy nhằm nâng cao tính cạnh tranh
của nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế.
Nhìn chung, những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong hơn hai thập kỷ đổi mới vừa
qua đã mang lại cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng phấn khởi. Việt
Nam đã tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng
động. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, tạo nên
tính hiệu quả trong việc huy động các nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh
tế. Các quan hệ kinh tế đối ngoại đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng
nhiều các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa
xuất khẩu và phát triển thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày
càng lớn như du lịch, xuất khẩu lao động, kiều hối...
Trong hơn 20 năm đổi mới, gdp của Việt Nam đã tăng liên tục. Từ năm 2001 đến
nay, tốc độ tăng gdp của Việt Nam luôn giữ ở mức cao và ổn định. Cùng với việc duy
trì tốc độ tăng trưởng gdp, cơ cấu kinh tế trong nước của Việt Nam đã có sự thay đổi
đáng kể.
Luật doanh nghiệp được sửa đổi năm 2000 đã tạo điều kiện cho sự phát triển của
các doanh nghiệp tư nhân. Bộ luật này đã thể chế hóa quyền tự do kinh doanh của các
cá nhân trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm, dỡ bỏ những rào cản về

hành chính đang làm trở ngại đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, những chính sách và biện pháp điều chỉnh,
sắp xếp lại các doanh nghiệp, đặc biệt là những biện pháp về quản lý tài chính của
công ty nhà nước, quản lý các nguồn vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, hay việc
chuyển các công ty nhà nước thành công ty cổ phần theo tinh thần cải cách mạnh mẽ
hơn nữa các doanh nghiệp nhà nước, ngày càng được coi trọng nhằm nâng cao tính
hiệu quả cho khu vực kinh tế quốc doanh.
Ngoại thương và hội nhập kinh tế quốc tế: với chủ trương tích cực, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế


ngày càng được mở rộng. Việt Nam là thành viên quan trọng trong asean, là thành
viên tích cực của apec, asem và nhiều tổ chức kinh tế quốc tế khác. Hợp tác kinh tế
của Việt Nam với các nền kinh tế lớn như mỹ, eu, nhật bản, nga, trung quốc, ấn độ
ngày càng được củng cố và mở rộng, Việt Nam đã ký hiệp định thương mại song
phương với mỹ, đang đàm phán hiệp định đầu tư với mỹ, hiệp định khung đối tác và
hợp tác toàn diện (PCA) với EU, hiệp định đối tác kinh tế toàn diện với nhật bản.
Tháng 01 năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới
( WTO), có quan hệ với trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ, đánh dấu sự hội nhập
toàn diện và đầy đủ của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu.
Từ sau đổi mới, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam mỗi năm tăng khoảng
20%. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có sự chuyển dịch tiến bộ. Trong giai đoạn 19911995, hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gồm dầu thô, thủy sản, gạo, dệt may, cà
phê, lâm sản, cao su, lạc, hạt điều. Đến năm 2008, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là
dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản, sản phẩm gỗ, điện tử, máy tính và gạo. Cơ cấu
này phản ánh xu hướng gia tăng các chủng loại mặt hàng chế biến, chế tạo, và sự giảm
đi về tỷ trọng của các mặt hàng xuất khẩu thô, chủ yếu là các mặt hàng nông, lâm, hải
sản và khoáng sản. Dù vậy, các mặt hàng xuất khẩu thô của Việt Nam đến nay vẫn còn
chiếm tỷ trọng cao, đòi hỏi sự nỗ lực hơn nữa để tăng nhanh các mặt hàng công
nghiệp xuất khẩu.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài: luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành

tháng 12/1987 đã tạo khuôn khổ pháp lý cơ bản cho các hoạt động đầu tư nước ngoài
trực tiếp tại Việt Nam. Luật đã có một số lần được sửa đổi, bổ sung nhằm tạo môi
trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn hơn để khuyến khích các nhà đầu tư nuớc ngoài
đầu tư vào những mục tiêu trọng điểm và những lĩnh vực ưu tiên, nhất là trong ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo hướng vào xuất khẩu và các vùng kinh tế trọng điểm
của đất nước.
Ngoài ra, việc đẩy mạnh tháo gỡ những khó khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư
nước ngoài, chỉnh sửa thuế thu nhập cá nhân theo hướng hạ thấp mức thuế, đẩy mạnh
việc thực hiện cơ chế một cửa, giảm giá dịch vụ viễn thông xuống ngang bằng mức
giá tại các nước trong khu vực, nâng cấp cơ sở hạ tầng, mở rộng lĩnh vực đầu tư, cho
phép các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư vào một số lĩnh vực trước đây chưa
cho phép như viễn thông, bảo hiểm, kinh doanh siêu thị, ngân hàng… cũng góp phần
tạo nên một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn ở Việt Nam.
Fdi vào Việt Nam tăng nhanh còn do các nguyên nhân quan trọng khác như: sự ổn
định về chính trị, kinh tế, an ninh và quốc phòng; nền kinh tế Việt Nam liên tục đạt
mức tăng trưởng cao; công cuộc đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường tiếp tục được
duy trì và đẩy mạnh; mức sống của người dân được nâng cao góp phần làm tăng mức
cầu nội địa; tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh, uy tín và thương hiệu
của các loại hàng hóa sản xuất tại Việt Nam trên các thị trường thế giới ngày càng
được nâng cao.
Những năm gần đây, Việt Nam đã thu hút được một lượng đầu tư trực tiếp nước
ngoài (fdi) ngày càng lớn. Việt Nam hiện có 10.700 dự án đầu tư trực tiếp của 90 quốc
gia và vùng lãnh thổ đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư gần 170 tỉ usd.FDI tăng
không chỉ hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư nước ngoài, mà còn
đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung nguồn vốn, chuyển giao công nghệ và
phương thức kinh doanh hiện đại, khai thác các tiềm năng của đất nước, đào tạo tay


2.2.


2.3.

nghề và giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động, góp phần phát triển kinh tế xã hội Việt Nam.
Thực trạng vận dụng chức năng định hướng và hướng dẫn phát triển kinh tế
Từ năm 1975 nước ta hoàn toàn độc lập và thống nhất, cả nước xây dựng cnxh: do
ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh diễn ra lâu dài, thiệt hại sức người sức của và nền
kinh tế lạc hậu vì thế điểm xuất phát của chúng ta là rất thấp. Trong khoảng 30 năm
qua, nhà nước ta đã có rất cố gắng trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi
phục nền kinh tế bị tàn phá, từng bước xác lập quan hệ sản xuất, xây dựng cơ sở vật
chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, thiết lập củng cố chính quyền trong cả nước.
Năm 1976, nền kinh tế vẫn trong tình trạng kém phát triển, nặng tính tự cung tự
cấp. Trang thiết bị cũng như kết cấu hạ tầng, văn hóa... Lạc hậu, mất cân đối, lệ thuộc
nhiều vào bên ngoài. Cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp để lại nhiều hậu quả
tiêu cực, khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra trong nhiều năm, lạm phát bùng nổ. Đời
sống nhân dân thiếu thốn, nếp sống văn hóa tinh thần và đạo đức kém lành mạnh, tệ
nạn xã hội ngày càng gia tăng.
Nguyên nhân là do nền kinh tế xhcn mang nặng thành kiến với nền kinh tế hàng
hóa và kinh tế thị trường. Mặt khác là do nước ta xây dựng cnxh theo mô hình dập
khuôn giáo điều, chủ quan duy ý chí, bộ máy quan liêu cồng kềnh, kém hiệu quả.
Những sai lầm đó đã kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển và cải cách kinh tế bị đẩy
lùi.
Đến năm 1990, các biện pháp đổi mới nền kinh tế của nhà nước được áp dụng đi
vào cuộc sống tạo chuyển biến rõ rệt làm cho nên kinh tết nước ta có nhiều khởi sắc.
Sau 10 năm đổi mới, cơ cấu nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển đổi mạnh mẽ. Nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy
lùi lạm phát, phát triển sản xuất; bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, đưa đất
nước thoát khỏi khủng hoảng.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay nhà nước ta đang thực hiện nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, mọi hoạt động diễn ra rất phức tạp, các
thành phần kinh tế hoạt động đan xen, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa cạnh tranh, mâu

thuẩn trong quan hệ kinh tế thường xuyên xảy ra. Mặt trái của cơ chế thị trường tác
động tiêu cực đến bản chất xhcn, đó là xu hướng phân hóa giàu nghèo quá mức, tâm
lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm của con
người… những hạn chế yếu kém vốn có của nền kinh tế cùng với mặt trái của chính
sách hỗ trợ tăng trưởng đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn
định kinh tế vĩ mô. Kinh tế tăng trưởng chậm lại, sản xuất kinh doanh và đời sống
nhân dân gặp nhiều khó khăn. Sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp trong điều kiện
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Vì vậy, quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội là một yêu cầu cần thiết khách quan,
nhằm điều khiển các thành phần kinh tế và thị trường hoạt động theo định hướng
XHCN; đấu tranh khắc phục, hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực xã hội.
Thực trạng vận dụng chức năng tổ chức.
Để thực hiện chức năng này, nhà nước phải phân công nhiệm vụ rõ ràng giữa các
cơ quan, ban ngành ở địa phương và sự phối hợp liên ngành.
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 đề ra
nhiệm vụ: “định rõ những loại việc địa phương toàn quyền quyết định, những loại
việc trước khi địa phương quyết định phải có ý kiến của trung ương và những việc


-

-

phải thực hiện theo quyết định của trung ương”. Qua gần 9 năm triển khai thực hiện,
nhiều nội dung phân cấp quản lý đã được thể chế hóa vào các văn bản quy phạm pháp
luật chuyên ngành và các nghị định của chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng bộ, cơ quan ngang bộ, nghị định số 13 và
14/2008/nđ ngày 04/02/2008 của chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn
thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; đặc biệt nghị định số 36/2012/nđ-cp ngày
18/4/2012 của chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức

của bộ, cơ quan ngang bộ và các nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của từng bộ, cơ quan ngang bộ trong cơ cấu tổ chức chính phủ khóa
xiii đã quy định tiếp tục phân cấp quản lý về ngành, lĩnh vực giữa các bộ, cơ quan
ngang bộ với chính quyền địa phương. Về cơ bản, các quy định phân cấp quản lý nhà
nước giữa chính phủ và chính quyền địa phương đã được các địa phương thực hiện
tương đối thống nhất và có hiệu quả, nâng cao tính chủ động cho chính quyền địa
phương trong quản lý, sử dụng các nguồn lực ở địa phương, đưa nền hành chính sát
hơn với những đặc điểm kinh tế - xã hội cụ thể của địa phương, góp phần giải quyết
kịp thời và phục vụ tốt hơn các yêu cầu của tổ chức và nhân dân tại địa phương.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay là các giải pháp tăng cường phân cấp giữa chính phủ và
chính quyền địa phương, một mặt còn thiếu tính đồng bộ, chưa phân định rõ ràng, cụ
thể nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp chính quyền địa phương; chính
quyền địa phương các cấp chưa có đủ thẩm quyền và các điều kiện cần thiết để chủ
động, năng động trong việc thực hiện các nhiệm vụ mà địa phương có khả năng làm
được, nhưng mặt khác, một số nhiệm vụ cần quản lý tập trung, thống nhất lại được
chuyển giao cho chính quyền địa phương, làm giảm hiệu quả quản lý của nền hành
chính nhà nước. Đồng thời, sự khác nhau về mô hình tổ chức và chức năng, nhiệm vụ
giữa chính quyền thành phố với chính quyền tỉnh, chính quyền thị xã, thành phố thuộc
tỉnh với chính quyền huyện, cũng như chính quyền thị trấn, phường và chính quyền xã
chưa được làm rõ; chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp tổ chức các hoạt động quản lý,
điều hành các công việc hành chính ở cơ sở, trực tiếp tổ chức việc thi hành pháp luật,
nhưng thẩm quyền và trách nhiệm chưa được xác định một cách tương xứng.
Một số vấn đề bức xúc liên quan đến phân cấp đang đặt ra là minh chứng rõ rệt:
Tình trạng các địa phương đua nhau xây dựng 20 cảng biển quốc tế, 18 khu kinh tế
biển, 30 khu kinh tế cửa khẩu, 260 khu công nghiệp, 650 cụm công nghiệp; thành lập
mới 307 trường đại học, học viện trong 10 năm, từ 2001 đến 2010, theo một số
chuyên gia kinh tế, “các địa phương được quyền tự chủ rất lớn về quy hoạch phát
triển, phân cấp đất, quyền quyết định xây dựng các cơ sở hạ tầng trong tỉnh, tuy là cần
có sự đồng ý của cấp trên”. Và “từ 2006 đến nay phần lớn dự án đầu tư công đều được
phân cấp cho ngành và địa phương, dẫn tới hệ quả là việc quyết định đầu tư công đã

tách rời việc bố trí vốn. Tuy nhiên, trên thực tế tất cả các dự án đầu tư kể trên đều
được quyết định từ trung ương chứ không phải do địa phương tự quyết định. Tình
trạng phổ biến là các địa phương quyết định về dự án đầu tư, nhưng nguồn vốn đều từ
ngân sách trung ương”. Do vậy, tình trạng 63 tỉnh thành là 63 “nền kinh tế” không
phải là hệ lụy của việc phân cấp quản lý cho các địa phương mà trước tiên và chủ yếu
là do cấp trung ương phải chịu trách nhiệm.
Việc phân cấp trong lĩnh vực thu hút vốnFDI đã thúc đẩy các địa phương tìm nhiều
biện pháp thu hút các nguồn vốn. Tuy nhiên, các biện pháp chủ yếu là ưu đãi thô sơ
như giảm giá thuê đất, giảm thuế… thậm chí, một số tỉnh quy định chính sách khuyến


khích vượt quá khuôn khổ pháp luật hiện hành dẫn đến cạnh tranh nội bộ. Mặt khác,
“các địa phương vốn đã phát triển, có điều kiện thuận lợi về địa kinh tế, tài nguyên,
nhân lực đã phát huy được tác dụng của phân cấp trong khi các địa phương nghèo,
điều kiện khó khăn thì ít tận dụng được những tác động tích cực của phân cấp”.
- Trong lĩnh vực khai khoáng, tình trạng số lượng giấy phép tăng đột biến trong thời
gian rất ngắn (trong 3 năm 2008-2011 các địa phương cấp gần 3.500 giấy phép, gấp 7
lần số trung ương cấp trong 12 năm) được xem là do phân cấp cho chính quyền địa
phương thẩm quyền cấp phép khai khoáng gây ra.
2.4. Thực trạng vận dụng chức năng lãnh đạo, điều khiển các hoạt động kinh tế.
• Chức năng lãnh đạo:
Không chỉ ở cấp nhà nước đưa ra các quy định hướng dẫn, chỉ thị mà các bộ, ban
ngành và các cục, sở ngành ở địa phương cũng đưa ra các chính sách nhằm kiểm soát
hoạt động kinh tế, thương mại ở địa phương. Ví dụ: UBND thành phố Hà Nội đã có
chỉ thi về tăng cường quản lý, thực hiện luật thuế trên địa bàn hà nội. Trong đó,có nêu
ra kết quả việc thu ngân sách nhà nước trên địa bàn thành phố và những tồn tại. Qua
đó, UBND thành phố hà nội đã đặt ra những mục tiêu và yêu cầu cụ thể đối với từng
thành phần kinh tế: các doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân và các cấp quản lý. Bên
cạnh yêu cầu cho từng cấp quản lý, chỉ thị trên còn nhấn mạnh phải có sự phối hợp
chặt chẽ giữa cơ quan thuế với các ngành như sở kế hoạch đầu tư, công an thành phố,

sở tài nguyên môi trường, tài chính… và ủy ban nhân dân các quận, huyện, ủy ban
mặt trận tổ quốc, ban tuyên giáo thành ủy. Tuy nhiên chức năng này không phải mang
tính một chiều mà có sự tương tác giữa cấp trên và cấp dưới. Ví dụ gần đây, một số
DN phản ánh gặp khó khăn khi thực hiện quy định đưa hàng về bảo quản tại điều 27
của thông tư 128/2013/tt-btc ngày 10-9-2013 của bộ tài chính. Để tạo thuận lợi cho
DN, tổng cục hải quan đang đề xuất trình bộ tài chính tổ chức họp với các bộ quản lý
chuyên ngành để trao đổi, phối hợp giúp cơ chế kiểm tra chuyên ngành được rút ngắn.
Giải pháp mà tổng cục hải quan đưa ra là tăng cường lực lượng kiểm tra chuyên ngành
ngay tại cửa khẩu. Đồng thời, các bộ, ngành cần nghiên cứu cơ chế kiểm tra trước
thông quan. Ví dụ DN có thể lấy mẫu kiểm tra trước, hàng về cửa khẩu chỉ cần đối
chiếu. Các bộ, ngành cũng phải đảm bảo yêu cầu giám sát hàng hóa nếu nhận trách
nhiệm bàn giao từ cơ quan hải quan.
Với sự lãnh đạo của nhà nước cũng sự phối hợp của các cơ quan liên ngành, hoạt
động kinh tế, thương mại của các cá thể, tổ chức đang được kiểm soát theo nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các dự án đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn
của nước ngoài, hay của nhà nước không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn mang lại
lợi ích xã hội cao. Sự thay đổi về cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu lĩnh vực kinh tế,
đặc biệt các ngành kinh tế mũi nhọn đã tạo ra đà tăng trưởng nhanh trong những năm
gần đây. Điều này dẫn đến sự gia tăng trong tổng thu nhập quốc nội, chỉ số giá tiêu
dùng, năng lực cạnh tranh. Việc tham gia các tổ chức kinh tế như WTO, đã tạo ra
nhiều thành thức cũng như cơ hội nhằm nâng cao sự cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước, tiếp cận với sự phát triển về khoa học – công nghệ của các nước khác.
Hơn thế nữa, chính sự tham gia này còn giúp Việt Nam đang dần khẳng định vị thế
trên thị trường quốc tế với lợi thế vốn có.
Tuy nhiên, sự lãnh đạo của từng ban ngành và sự phối hợp của liên ngành vẫn còn
lỏng lẻo dẫn đến nhiều chính sách, quyết định, chỉ thị chưa được thực hiện đúng cách
nên hiệu quả không cao. Điều này đã tạo nhiều lỗ hổng lớn và cũng chính là cơ hội


cho các doanh nghiệp vi phạm pháp luật. Ví dụ trong thị trường sữa, sự phối hợp của

các ban ngành tài chính và y tế không chặt chẽ khiến cho giá sữa bị đẩy lên cao. Một
số mặt hàng sữa được các doanh nghiệp liệt kê vào mặt hàng thực phẩm chức năng
nhằm chốn sự kiểm soát giá của sở tài chính. Điều này có ảnh hưởng lớn sự tiêu dùng
của người dân. Đối với doanh nghiệp nước ngoài, các quy định hướng dẫn về hoạt
động kinh tế chính là yếu tố nhằm quyết định đầu tư vào nước sở tại hay không. Nếu
các quyết định, chỉ thị rõ ràng và đầy đủ thì các doanh nghiệp nước ngoài sẽ yêm tâm
hơn khi tham gia vào môi trường cạnh tranh minh bạch.
• Chức năng điều khiển:
Để thực hiện chức năng này, nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác
nhau mang tính chất khuyến khích và hạn chế. Chính sách điều tiết, kiểm soát giá của
nhà nước thời gian qua và hiện nay đối với một số hàng hóa quan trọng và thiết yếu
như: giá điện, giá xăng dầu, giá nhà đất, giá gas, giá sữa, giá thuốc tây... Là một trong
những nội dung quan trọng trong việc bình ổn giá, kiểm soát lạm phát, thực hiện các
mục tiêu của kinh tế vĩ mô.
Sự can thiệp của nhà nươc thông qua các chính sách điều tiết hoạt động quản lý đã
tạo ra nhiều kết quả khả quan:
Ví dụ: ngày 31/5, bộ trưởng bộ công thương vũ huy hoàng, thừa ủy quyền của thủ
tướng chính phủ đã trình bày tờ trình về dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
luật điện lực trước quốc hội. Trong dự thảo luật sửa đổi lần này, vấn đề giá điện đã
được đề nghị điều chỉnh cho phù hợp với nền kinh tế, giảm rủi ro cho doanh nghiệp
sản xuất điện v.v… hơn 6 năm qua, việc thi hành luật điện lực đã đạt được nhiều kết
quả tích cực. Cơ chế, chính sách về giá điện được thực hiện theo hướng có sự điều tiết
của nhà nước. Có cơ chế bù giá hợp lý giữa các nhóm khách hàng, đặc biệt đối với
nhóm khách hàng là người nghèo, người có thu nhập thấp. Hoạt động cấp phép được
triển khai đồng bộ trên phạm vi toàn quốc. Các quy định về thị trường điện tại chương
S của luật điện lực là cơ sở pháp lý quan trọng, để triển khai việc chuyển các hoạt
động điện lực sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ năm 1993, quy định giá tối đa với xăng, dầu đã được nhà nước ban hành, DN
lúc đó được quyết định giá bán buôn, bán lẻ. Thông qua mức độ chịu đựng của nền
kinh tế, nhà nước chỉ điều chỉnh giá khi đã sử dụng hết các công cụ điều tiết giá. Cơ

chế "giá tối đa" trong giai đoạn này không những bảo đảm được cung - cầu phục vụ
nền kinh tế mà còn tạo ra nguồn thu ổn định cho nhà nước và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực của chính sách, quyết định về các
hoạt động kinh tế, thương mại, có thể thấy những mặt hạn chế của sự can thiệp này.
Ví dụ: cơ chế giá tối đa đã bộc lộ nhiều bất cập khi thị trường xăng, dầu thế giới
biến động mạnh. Đầu những năm 2000, giá xăng, dầu thế giới thiết lập mặt bằng mới,
cao hơn nhiều so với giai đoạn trước. Do thực hiện chính sách bù giá nên ngân sách
phải bù lỗ mặt hàng này đã tăng từ 1.000 tỷ đồng (năm 2000) lên 22.000 tỷ đồng (năm
2008). Trong khoảng từ cuối năm 2008 trở lại đây, thị trường xăng dầu nước ta thường
xuyên bất ổn về giá, mà nguyên nhân là sự bất ổn về chính sách quản lý thị trường
xăng dầu.
Chính sách điều tiết giá nhà đất còn nhiêu bất cập, thể hiện: giá nhà đất thời gian
qua biểu hiện rõ nét tính đầu cơ, là giá đầu cơ, nhà nước chưa có các biện pháp hữu
hiệu để điều tiết. Giá nhà đất luôn biến động không ổn định với các cơn sốt “nóng,
lạnh” theo chiều hướng gia tăng. Mức giá nhà đất thời gian qua là rất cao và hiện nay


2.5.

-

-

vẫn giữ ở mức cao so với thu nhập của người dân. Khung giá đất của chính phủ và
bảng giá đất của UBND các tỉnh, thành phố đều thấp hơn so với giá thị trường khá
nhiều. Trên thị trường còn tồn tại 2 loại giá đất.
Thực trạng vận dụng chức năng kiểm tra giám sát.
Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế là Nhà nước xem xét, đánh giá tình trạng tốt
xấu của các hoạt động kinh tế, và theo dõi, xét xem sự hoạt động kinh tế đươc thực thi
đúng hoặc sai đối với các quy định của pháp luật.Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế

là một chức năng quản lý của Nhà nước. Công tác này phải được thực thi thừơng
xuyên và nghiêm túc.
Nhằm thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nền kinh tế, thời gian quan nhà nước
đã tập trung nâng cao chất lượng xây dựng, kiểm tra, thanh tra và giám sát việc tuân
thủ các quy tắc, chuẩn mực về kinh tế - xã hội. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có
thể tiến hành kiểm tra định kỳ hoặc bất thường, đồng thời nhà nước có quy định chế
độ kiểm tra riêng, chặt chẽ hơn đối với doanh nghiệp hoạt động trên quy mô lớn hoặc
kinh doanh trong lĩnh vực kinh tế đặc thù (ngân hàng, bảo hiểm,…) hay lĩnh vực kinh
doanh dễ phát sinh độc quyền hoặc ảnh hưởng tới môi trường sinh thái.
Như việc bảo vệ môi trường, xử lý chất thải: Nhà nước đã rà soát, sửa đổi, bổ sung
hoặc ban hành mới văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối
với các doanh nghiệp . Tổ chức phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức chấp
hành về bảo vệ môi trường của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất, kinh doanh. Đồng thời tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường, việc thực hiện đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo
vệ môi trường, công tác hậu thẩm định đánh giá tác động môi trường của các cơ sở
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; kiểm soát chặt chẽ việc phân bổ, quản lý, sử dụng ngân
sách nhà nước chi cho sự nghiệp môi trường và đầu tư đối với công tác bảo vệ môi
trường.Tuv vậy, Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế,
yếu kém. Kỷ luật kỷ cương trong quản lý, khai thác và sử dụng đất đai, tài nguyên
khoáng sản còn chưa nghiêm. Một số công trình thủy điện chưa thực hiện tốt yêu cầu
về an toàn và bảo vệ môi trường. Ô nhiễm môi trường tại nhiều khu, cụm công
nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất, lưu vực sông chậm được cải thiện. Khả năng ứng
phó với biến đổi khí hậu vẫn còn hạn chế. Tình trạng ngập lụt ở một số thành phố lớn
chậm được khắc phục.Vì vậy, thách thức giữa yêu cầu bảo vệ môi trường, phát triển
bền vững của đất nước với yêu cầu tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm là hết sức
cấp bách.
Hay việc sử dụng các nguồn lực: Nhà nước cũng đã tăng cường việc giám sát việc huy
động, sử dụng và phân phối các nguồn lực của doanh nghiệp bao gồm: tài sản, vật tư
hàng hoá, tiền vốn, lao động, doanh thu, lợi nhuận, phân phối kết quả hoạt động sản

xuất, kinh doanh và các nguồn lực khác trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp
đồng thời giám sát việc tuyển dụng, sử dụng và trả lương cho người lao động; việc sử
dụng quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm và quyền
lợi khác của người lao động,…Tuy nhiên, số người thất nghiệp vẫn cao.Lực lượng lao
động từ 15 tuổi trở lên ước tính đến 01/10/2013 là 53,9 triệu người, tăng 446,1 nghìn
người so với lực lượng lao động tại thời điểm 01/7/2013.Tỷ lệ thất nghiệp của thanh
niên trong độ tuổi 15-24 chín tháng năm 2013 ước tính là 5,97%, trong đó khu vực
thành thị là 10,79%, tăng 1,27 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; khu vực
nông thôn là 4,49%, tăng 0,05 điểm phần trăm. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 25


tuổi trở lên chín tháng năm 2013 ước tính là 1,29%, trong đó khu vực thành thị là
2,45%, khu vực nông thôn là 0,77%. Tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng tăng lên do sản
xuất vẫn gặp khó khăn làm ảnh hưởng đến việc làm của người lao động. Vì vậy, vấn
đề đặt ra đó là giải quyết tình trạng thất nghiệp bởi nền kinh tế suy thoái không tạo đủ
việc làm cho cả lao động mới gia nhập thị trường và bộ phận lao động thất nghiệp cũ


CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VẬN DỤNG HIỆU QUẢ CÁC
CHỨC NĂNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI Ở NƯỚC
TA
3.1. Yêu cầu về việc hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước
3.1.1. Tính tất yếu khách quan phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Sự hình thành tư duy về nền kinh tế thị trường là quá trình tìm tòi thử nghiệm, tổng
kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta hơn 20 năm qua, kết hợp với tham khảo có chọn lọc
kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường quốc tế, sự vận dụng sáng tạo học thuyết
Mác - Lênin, quy luật phát triển chung của kinh tế thị trường vào hoàn cảnh cụ thể
Việt Nam. Vì vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa là vấn đề lý
luận, vừa là vấn đề thực tiễn mới mẻ, gắn bó giữa nhận thức tính quy luật khách quan,

sự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa
với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Đảng cộng sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa
và nhân dân lao động. Tính khách quan trong phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam có đặc trưng quan trọng là định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng đó trong
quá trình phát triển kinh tế đất nước không chỉ dừng lại ở tư tưởng, đường lối chung
của Đảng, mà còn phải thể chế hóa thành những nội dung, chính sách, mục tiêu cụ thể,
xác định không ai ngoài Nhà nước phải đảm đương trách nhiệm ấy. Chức năng của
Nhà nước là điều tiết nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới
mục tiêu cao cả là giải phóng con người, giải phóng xã hội và giai cấp theo lý tưởng
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
3.1.2. Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế khách quan đối với
mọi quốc gia và làm cho nền kinh tế thế giới tiến tới nhất thể hóa thành một chỉnh thể
thống nhất, trong đó mỗi nền kinh tế của quốc gia là một bộ phận không thể tách rời.
Việc hoàn hiện chức năng kinh tế của Nhà nước ta hiện nay không nằm ngoài xu thế
đó thể hiện ở quan điểm, chủ trương về mở rộng quan hệ ngoại giao, hợp tác với các
quốc gia và tổ chức quốc tế trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, chế độ chính trị và cùng
nhau phát triển. Yêu cầu đặt ra có tính nguyên tắc và mục tiêu trong việc hoàn thiện
chức năng kinh tế của Nhà nước hiện nay thích ứng với điều kiện mới. Cụ thể là :
- Cần phải có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của toàn cầu hóa và vấn đề hội
nhập: Không nóng vội, chủ quan hội nhập bằng mọi giá hoặc chậm trễ mà bỏ lỡ thời
cơ.
- Việc hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước hiện nay không thể xuất phát từ
những yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế mà phải trở thành chính sách chủ động,
đồng thời giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tiến hành cải cách toàn diện theo các chuẩn mực quốc tế để bắt kịp với các xu
hướng phát triển của thế giới, đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa tăng trưởng với tiến
bộ và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững, đồng thời giữ
gìn bản sắc văn hóa của dân tộc.
- Nhà nước xúc tiến xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế của

Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 để chủ động hơn trong quá trình
hội nhập và hội nhập mới thực sự trở thành phương tiện hữu hiệu thúc đẩy phát triển
mạnh kinh tế - xã hội của đất nước.


3.2.

Phương hướng hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
3.2.1. Tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức về chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường.
- Cần phải nhận thức rằng phát triển kinh tế thị trường vừa là vấn đề khoa học, vừa
là vấn đề chính trị, vấn đề lựa chọn chế độ kinh tế và mô hình phát triển trong thực
tiễn cách mạng, đòi hỏi sự nhất trí cao trong nhận thức tư tưởng, thống nhất trong tổ
chức thực hiện và hành động, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế trong thực hiện chức
năng điều khiển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
- Cần tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu những quan điểm tiến bộ, vượt qua những rào
cản, định kiến về nền kinh tế thị trường và nhận thức không đúng về vai trò kinh tế
của nhà nước. Điều đó thể hiện ở sự nhạy bén, năng động và kịp thời đề ra những
chính sách quan trọng phù hợp với thực tiễn kinh tế - xã hội đầy biến động.
- Cần đảm bảo nội dung khoa học, tính dân chủ, công khai trong quá trình nghiên
cứu lý luận để xây dựng các mô hình, phương án và ban hành những chính sách quan
trọng trong phát triển kinh tế, trong đó không thể thiếu sự tham mưu, tư vấn của các
nhà khoa học, các chuyên gia, đặc biệt là cần tổ chức rộng rãi việc tham gia ý kiến của
các tổ chức và cá nhân. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm về kinh
tế thị trường ở một số nước sẽ giúp chúng ta có cách đánh giá, vận dụng và thực hiện
hiệu quả chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3.2.2. Thực hiện chức năng kinh tế gắn với đảm bảo bình đẳng xã hội và phát triển bền
vững.

- Cần phải đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bình đẳng xã
hội trong phát triển kinh tế. Nhà nước điều chỉnh lại chính sách phân phối thu nhập
trên cơ sở mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước, có thể sử dụng nhiều công cụ để
thực hiện vai trò điều tiết trong phân phối thu nhập như thuế, ngân sách, tín dụng nhà
nước và hệ thống an sinh xã hội.
- Kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bình đẳng xã hội còn thể hiện chức năng của
Nhà nước trong cung cấp các dịch vụ công. Nhà nước cần tăng chi tiêu cho cả giáo
dục, y tế và các dịch vụ xã hội khác, đồng thời đảm bảo cho mọi người được bình
đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ đó. Nhà nước nên tạo điều kiện để khai thác tiềm
năng của khu vực kinh tế tư nhân trong việc hỗ trợ Nhà nước cung ứng kết cấu hạ tầng
và dịch vụ xã hội.
- Tăng trưởng trong nền kinh tế thị trường cần phải đi đôi với việc phát triển bền
vững. Nhà nước sử dụng có hiệu quả công cụ pháp luật, thuế, điều lệ hoặc chính sách
quyền sở hữu công khai nguồn tài nguyên...để kiểm soát mức độ nguy hiểm đối với
môi trường sinh thái.
3.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chức năng kinh tế của nhà nước Việt
Nam hiện nay.
3.3.1. Tạo môi trường và điều kiện cho các hoạt động sản xuất kinh doanh
Muốn phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP, phát triển nông nghiệp, công nghiệp, tất
yếu phải có đầu tư. Mà Nhà nước chỉ đầu tư một phần về hạ tầng, còn chủ yếu vẫn là
các thành phần kinh tế, doanh nghiệp, kể cả hộ cá thể.


"Để tạo được môi trường đầu tư thuận lợi cho các thành phần kinh tế phải làm tốt
các vấn đề sau: thủ tục hành chính, mặt bằng sản xuất, đa dạng hoá nguồn vốn và
trách nhiệm của chính quyền địa phương".
Thủ tục hành chính hiện nhiều nơi còn rườm rà gây mất thời gian của các doanh
nghiệp, tăng chi phí. Điều này sẽ cản trở việc tiến hành đầu tư của các thành phần
kinh tế.
Về đất đai - mặt bằng sản xuất kinh doanh - lâu nay đã được Chính phủ nói đến rất

nhiều, nhưng đây là vấn đề rất khó khăn. Việc giải toả mặt bằng ở nhiều nơi gặp trở
ngại do dân đòi đền bù cao theo giá thị trường. Chính phủ cũng đã có chỉ đạo phải tạo
được mặt bằng sản xuất, thông qua Luật Đất đai năm 2003.
Việc đa dạng hoá nguồn vốn là rất cần thiết. Lâu nay các doanh nghiệp chỉ nhìn vào
nguồn vốn từ ngân hàng, hoặc vốn ưu đãi của Nhà nước. Nhưng ưu đãi của nhà nước
hằng năm chỉ có 10.000 tỷ mà lại ưu tiên cho các dự án công trình có tính chất chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, hay tạo ra năng lực cho nền kinh tế độc lập tự chủ (như các nhà
máy phân đạm, điện, phôi thép lớn). Các doanh nghiệp chưa khai thác nguồn vốn
khác, qua các định chế tài chính trung gian, các quỹ hay thị trường chứng khoán.
"Thị trường chứng khoán hiện phát triển rất chậm. Tổng doanh số giao dịch mới
chiếm khoảng 2-3% GDP, mà đây là một kênh huy động vốn rất lớn và rất có hiệu
quả", cần phát triển nhanh thị trường chứng khoán, thị trường chính thức và không
chính thức. Hiện Chính phủ đang mở rộng cho các thành phần doanh nghiệp tham gia
vào thị trường chứng khoán. "Tôi hy vọng sắp tới chúng ta cho nước ngoài tham gia
thị trường chứng khoán thì lĩnh vực này sẽ sôi động thêm".
3.3.2. Hoàn thiện chức năng xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh
tế.
- Thứ nhất, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công tác phân tích, đánh giá, dự báo tình
hình phát triển kinh tế - xã hội.
- Thứ hai, cần khắc phục nhược điểm trong công tác xây dựng chiến lược phát triển
kinh tế xã hội đó là ôm đồm quá nhiều mục tiêu, theo đó tập trung cho những mục tiêu
hiệu quả và phát triển bền vững.
- Thứ ba, đổi mới và hoàn thiện công tác kế hoạch, quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội theo hướng nâng cao chất lượng quy hoạch bằng cách nâng vị trí pháp
lý của văn bản ban hành quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội lên tương
đương với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội 10 năm cần lược bỏ sự trùng lặp các nội dung được xác định trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, thay vào đó là định hướng cho việc quy hoạch tổng
thể kinh tế - xã hội các vùng, các ngành có vai trò chiến lược, có căn cứ khoa học, có
tầm nhìn dài hạn, được công khai hóa và thu hút sự đóng góp ý kiến của đông đảo
nhân dân.

Đổi mới cách thức thông qua và phê duyệt kế hoạch, đồng thời tăng cường các biện
pháp kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện kế hoạch. - Cần có kế hoạch tổng thể cho
vực kinh tế nhà nước theo hướng tập trung đầu tư cho các doanh nghiệp hoạt động
công ích, phát triển mạnh các lĩnh vực hạ tầng cơ sở; giữ các vị trí then chốt, trọng
yếu trong nền kinh tế; giải quyết những vướng mắc trong việc thực thi những chính
sách cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước.
3.3.3. Hoàn thiện chức năng xây dựng bộ máy nhà nước phục vụ quản lý hiệu quả nền
kinh tế thị trường.


- Cần sắp xếp, kiện toàn lại bộ máy nhà nước để tăng cường quản lý kinh tế trong
điều kiện của nền kinh tế thị trường. Bộ máy nhà nước cần có sự thay đổi căn bản theo
hướng tách bạch và phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa các cơ quan lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Cải cách tòa án phải hướng đến việc giải quyết được mọi tranh chấp
xuất hiện trong đời sống, trong nền kinh tế thị trường với sự phức tạp và đa dạng của
các mối quan hệ xã hội.
- Cùng với quá trình hoàn thiện các cơ quan bảo vệ pháp luật, cần tiến hành đổi mới
chất lượng hoạt động của các tổ chức giúp đỡ pháp lý như văn phòng luật sư, công
chứng, các trung tâm tư vấn và dịch vụ pháp lý...
- Cần tiến hành cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, thuận tiện, tạo ra
môi trường cho các quan hệ kinh tế diễn ra một cách dễ dàng, tạo điều kiện thu hút
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
- Tăng cường về trình độ, năng lực, phẩm chất, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công
chức trong nền kinh tế thị trường; thực hiện chế độ tuyển chọn cán bộ, công chức một
cách dân chủ, công khai, tránh hình thức và đảm bảo chất lượng.
3.3.4. Hoàn thiện chức năng xây dựng pháp luật và các công cụ quản lý vĩ mô của nhà
nước phù hợp với nền kinh tế thị trường.
Thứ nhất, đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế cần tiến hành cải
cách đồng bộ trong cả hoạt động xây dựng, ban hành cũng như thực thi pháp luật
trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

- Khẩn trương xây dựng một hệ thống pháp luật kinh tế đầy đủ và phù hợp với luật
pháp và thông lệ quốc tế. Cần sớm ban hành những văn bản dưới luật đảm bảo thực
thi nhanh và đúng đắn các Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, Luật doanh
nghiệp, Luật đầu tư...
Xây dựng mặt bằng luật pháp cho các loại hình doanh nghiệp, theo đó tất cả các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đều bị điều chỉnh bởi một luật chung không để quy
định tản mạn như hiện nay là: Luật doanh nghiệp chung thay thế các Luật doanh
nghiệp Nhà nước, Luật hợp tác xã...,Luật đầu tư chung thay cho Luật đầu tư nước
ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước...; Xúc tiến xây dựng và ban hành Luật
thuế chống bán phá giá, Luật kinh doanh bất động sản, Luật chống đầu cơ, Luật chi
ngân sách nhà nước, Luật về quy hoạch, kế hoạch...
- Tiến hành có hiệu quả việc rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật và văn bản hiện
hành để kịp thời phát hiện và sửa đổi những chồng chéo, bổ sung những văn bản còn
thiếu, chưa phù hợp, đặc biệt là chưa phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế, trước
mắt là các nguyên tắc của WTO.
- Chủ động nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các mô hình, hình thức pháp lý cho
các loại thị trường, các giao dịch kinh tế.
- Tiến hành hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế,
tranh chấp lao động, giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Thứ hai là tiến hành đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính:
- Tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của các công cụ tài chính đối với nền kinh tế,
trong đó đặc biệt là công cụ thuế, ngân sách, tín dụng... Nhà nước tạo sự bình đẳng
cho mọi loại hình doanh nghiệp được ưu đãi, miễn, giảm thuế, cải cách chính sách
thuế theo hướng nuôi dưỡng nguồn thu, thực hiện công khai minh bạch; coi trọng
nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả và hợp lý trong việc sử dụng và phân bổ các nguồn
vốn, nhất là ngân sách nhà nước.


- Đối với chính sách tiền tệ, ngân hàng Nhà nước cần theo dõi sát việc thực hiện
các văn bản, thể lệ, chế độ đã ban hành, phát hiện sớm những vướng mắc để sửa đổi,

bổ sung kịp thời cho phù hợp với thực tiễn.
- Đối với chính sách thương mại, nhà nước cần xác định các cân đối lớn như tổng
cung - tổng cầu, tiền - hàng, xuất khẩu - nhập khẩu; nghiên cứu và dự đoán tốt những
biến động của thị trường trong và ngoài nước để định hướng và điều tiết các hoạt động
thương mại của các doanh nghiệp.
3.3.5. Hoàn thiện chức năng xây dựng hệ thống hạ tầng hỗ trợ cho nền kinh tế.
Trên cơ sở bổ sung hoàn chỉnh quy hoạch, Nhà nước cần tiến hành ưu tiên ngân
sách và các nguồn lực khác để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng của
từng vùng và trên phạm vi cả nước; khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần
kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia phát triển vào
lĩnh vực này, chú trọng các công trình quan trọng, thiết yếu và khắc phục tình trạng
đầu tư giàn trải, lãng phí, kém chất lượng. Bên cạnh đó, Nhà nước cần ưu tiên phát
triển hạ tầng thị trường, đó là: hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, cơ sở vật chất
phục vụ kinh doanh, giao dịch, hệ thống bến bãi, kho hàng và các dịch vụ khác như
điện, nước, trường học, y tế...


KẾT LUẬN
Để đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững lâu dài, Đảng và nhà nước ngoài việc
quản lý nhà nước thông qua hệ thống chính trị còn phải quản lý nhà nước thông qua
hệ thống kinh tế mà cụ thể một trong những nhiệm vụ đó là xây dựng các kế hoạch,
chính sách dài hạn, đồng bộ phù hợp với các ngành, các lĩnh vực, các vùng miền tránh
sự trùng lặp, chồng chéo để tạo một môi trường kinh doanh hoàn chỉnh về mặt pháp lý
tạo ra sự bình đẳng trong cạnh tranh nhằm thu hút các nguồn lực vốn, kỹ thuật, công
nghệ, kỹ năng quản lý…Quan trọng từ bên ngoài để tạo các bước nhảy vọt về tăng
trưởng và phát triển thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Nhà nước có vai trò quan trọng đối với bất cứ cuộc cách mạng nào trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nhà nước của dân, do dân và vì dân, thực hiện
đường lối phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo quy chế thị

trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế lại càng
quan trọng hơn. Do vậy việc nghiên cứu đề tài “Các chức năng của quản lý nhà nước
về kinh tế? Liên hệ việc vận dụng các chức năng này trong quản lý nhà nước về
thương mại ở nước ta hiện nay” là công việc rất có ý nghĩa.
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu để thực hiện đề tài, chúng tôi đã hoàn thành
được các mục tiêu đề ra:
Thứ nhất, trình bày cơ sở lý thuyết về chức năng của quản lý nhà nước về kinh tế.
Thứ hai, tìm hiểu, phân tích thực trạng vận dụng các chức năng trong quản lý nhà
nước về thương mại ở nước ta hiện nay. Qua đó, đánh giá những kết quả đạt được và
những vấn đề còn tồn tại, đồng thời phân tích một số nguyên nhân dẫn đến những mặt
còn hạn chế.
Thứ ba, đề xuất phương hướng, giải pháp vận dụng hiệu quả các chức năng trong
quản lý nhà nước về thương mại ở nước ta
Hi vọng rằng trên cơ sở những giải pháp đã thực hiện cùng với những định hướng
và giải pháp mới mà Đảng và Nhà nước ta đang vận dụng sẽ giúp nền kinh tế của
nước ta nhanh chóng thoát khỏi nền sản xuất nhỏ lẻ, thủ công nghiệp thực hiện tốt quá
trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa để sớm hoàn thành được mục tiêu đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước phát triển.
Do đề tài nghiên cứu rộng, trong khuôn khổ một học phần và khả năng có hạn chế
nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất kính mong các thầy cô giáo, các bạn và tất
cả những ai quan tâm đến vấn đề này tiếp tục giúp đỡ, đóng góp ý kiến để đề tài của
chúng tôi được hoàn thiện hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn !


MỤC LỤC




×