Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Luận văn thạc sy Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên tại trường đại học giao thông vận tải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.77 KB, 96 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hà Nội, Ngày

tháng

năm 2015

Tác giả

Nguyễn Phương Ngân


2

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp, tôi đã nhận được rất nhiều sự
quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình. Qua đây tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới tất cả
mọi người.
Trước hết, em xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo
hướng dẫn TS. Nguyễn Hóa – Trường phòng Đào tạo Đại học - Trường Đại học
Thương mại về sự hướng dẫn nhiệt tình, tận tâm và những ý kiến quý báu để luận
văn được hoàn thành tốt hơn.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô trong trường Đại học Thương Mại
đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian học
tập và nghiên cứu.


Xin chân thành cảm ơn cán bộ, giảng viên, sinh viên trường Đại học Giao
thông Vận tải đã cung cấp thông tin và dành thời gian tham gia vào quá trình điều
tra dữ liệu, góp ý hoàn thiện đề tài.
Cuối cùng, xin cảm ơn sự giúp đỡ, chia sẻ và động viên của gia đình, bạn bè
và tập thể lớp CH19B-QTKD trong suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nguyễn Phương Ngân


3

MỤC LỤC


4

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của trường ĐH GTVT
Hình 2.1: Tỉ lệ về số Sinh viên/ Giảng viên qua các năm
Hình 2.2: Khả năng ngoại ngữ của đội ngũ giảng viên ĐH GTVT
Hình 2.3: Năng lực truyền đạt của đội ngũ giảng viên ĐH GTVT
Hình 2.4: Sơ đồ quá trình tuyển dụng
Bảng 2.1: Các chuyên ngành đào tạo Thạc sỹ và Tiến sỹ trường ĐH GTVT
Bảng 2.2: Số lượng đội ngũ giảng viên và sinh viên trường ĐH GTVT từ năm học
2010 – 2011 đến năm học 2013 – 2014
Bảng 2.3: Cơ cấu tuổi đội ngũ giảng viên trường ĐH GTVT
Bảng 2.4: Cơ cấu giới
Bảng 2.5: Kết quả khảo sát sinh viên đánh giá về phẩm chất đạo đức
Bảng 2.6: Trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng viên ĐH GTVT

Bảng 2.7: Tình hình biên soạn giáo trình, bài giảng, sách dịch của
Bảng 2.8: Kết quả khảo sát sinh viên về giảng viên (tính theo tỷ lệ %)
Bảng 2.9: Số lượng đề tài NCKH các cấp của trường ĐH GTVT từ năm học 2011
-2012 đến năm học 2013-2014
Bảng 2.10: Số lượng bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành trong nước và
quốc tế và tỷ lệ trên số lượng giảng viên của trường ĐHGTVT
Bảng 2.12: Kinh phí, thù lao thực hiện các công trình NCKH
Bảng 3.1 Đánh giá sự cần thiết của các giải pháp đề xuất
Biểu 3.2 Đánh giá tính khả thi của các giải pháp đề xuất


5

KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BGH
CBQL
CP

CNH
CTQG
CNKT
CQ
CN
CSTD
CH
ĐH
ĐTĐH
GTVT
GD&ĐT
GTVT

GV
GS
HĐH
KCQ
KHCN
KS
KHĐT
NCKH
NXB

Ban Giám Hiệu
Cán bộ quản lý
Chính phủ
Cao đẳng
Công nghiệp hóa
Chính trị quốc gia
Công nhân kỹ thuật
Chính quy
Cử nhân
Chiến sĩ thi đua
Cao học
Đại học
Đào tạo đại học
Giao thông Vận tải
Giáo dục và đào tạo
Giao thông Vận tải
Giảng viên
Giáo sư
Hiện đại hóa
Không chính quy

Khoa học công nghệ
Kỹ sư
Khoa học đào tạo
Nghiên cứu khoa học
Nhà xuất bản

NCS

Nghiên cứu sinh

PGS
QTKD
SV
SL
TCCB
TW
TS

Phó giáo sư
Quản trị kinh doanh
sinh viên
Số lượng
Tổ chức cán bộ
Trung ương
Tiến sĩ


6

VD


Ví dụ


7

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Trong quá trình thay đổi toàn cầu hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều
đang nỗ lực nâng cao năng lực nghiên cứu, sáng tạo tri thức trong các bối cảnh kinh
tế xã hội và văn hoá khác nhau. Trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay,
các khái niệm ‘xã hội tri thức’, ‘kinh tế tri thức’ ngày càng được nhắc đến nhiều
hơn. UNESCO đã định nghĩa một ‘xã hội tri thức’ là một xã hội được nuôi dưỡng
bởi sự đa dạng và khả năng sáng tạo của nó. Trong một nền kinh tế tri thức, các sản
phẩm và dịch vụ sẽ được tạo ra chủ yếu dựa vào tri thức và sáng tạo hơn là dựa vào
các nguồn nguyên vật liệu và sức lao động như trước đây. Ngoài ra,quá trình nghiên
cứu để sản sinh ra tri thức được xem là nền tảng của sự phát triển xã hội bền vững.
Như vậy, GD&ĐT có vai trò là nền tảng, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội. Vai trò của GD&ĐT được thể hiện rõ trong quan điểm của Đảng ở các
kì đại hội.
- Nghị Quyết TW 3, khoá VII năm 1993 khẳng định: “Khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư
cho phát triển”.
- Nghị quyết TW 2, khoá VIII: “Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu”.
- Nghị Quyết TW 8, khoá XI: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là
sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho
phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội”.

Ngành Giao thông vận tải là một ngành có vai trò quan trọng trong công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Giao thông phát triển giúp cho
huyết mạch giao thông của đất nước luôn thông suốt. Đây là tiền đề quan trọng cho
các ngành khác phát triển song hành. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống mạng lưới
GTVT còn nghèo nàn và lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực. Lực lượng lao


88

động được đào tạo cơ bản còn hạn chế, chất lượng chưa cao đáp ứng được yêu cầu
của xã hội trong thời kỳ hội nhập nền kinh tế quốc tế. Nhận thức được tầm quan
trọng đó, trường đại học Giao thông vận tải đã đặt ra cho mình sứ mạng: “đào tạo
cho ngành Giao thông vận tải và đất nước những cán bộ khoa học kỹ thuật có năng
lực và lòng yêu nghề, có khả năng sáng tạo và tính nhân văn”.
Bên cạnh sứ mạng đó, trường Đại học Giao thông Vận tải hướng tới mô hình
đại học đa ngành về kỹ thuật, công nghệ và kinh tế; trở thành đại học trọng điểm,
đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững ngành
giao thông vận tải đất nước; là trung tâm nghiên cứu khoa học có uy tín về Giao
thông vận tải và một số lĩnh vực khác; có năng lực hội nhập khu vực và Quốc tế; là
địa chỉ tin cậy của người học, nhà đầu tư và toàn xã hội.
Thực hiện chủ trương đổi mới của ngành giáo dục đào tạo, trong nhiều năm
qua trường ĐH GTVT đã có nhiều cố gắng khắc phục mọi khó khăn để đổi mới
mạnh mẽ mọi mặt họa động của nhà trường nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu
cầu nhiệm vụ. Việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo của Nhà trường trở thành vấn đề then chốt trong giai đoạn hiện nay
và đồng thời cũng là một yêu cầu cấp bách đảm bảo cho chất lượng giáo dục - đào
tạo của nhà trường được nâng cao, đáp ứng nhu cầu của sự phát triển kinh tế - xã
hội của ngành Giao thông Vận tải, địa phương và đất nước…
Xuất phát từ thực tiễn đó của Trường Đại học Giao thông vận tải, tôi chọn
vấn đề: "Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên tại trường Đại học Giao thông

vận tải" làm đề tài nghiên cứu của mình với mong muốn đống góp phần công sức
nhỏ bé của mình vào sự nghiệp phát triển chung của nhà trường.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Hiện nay, cũng đã có nhiều luận văn, luận án nghiên cứu về đội ngũ giảng
viên và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, có thể kể đến:
- Nguyễn Thị Thu Hằng (2013), Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
trong các trường đại học khối ngành kinh tế và quản trị kinh doanh khu vực phía
Bắc, Luận văn Thạc sĩ, Học viên Công nghệ Bưu chính Viễn thông. Ở luận văn này,


9

tác giả đã đưa ra khá đầy đủ và chi tiết về cơ sở lý luận về giảng viên, nhiệm vụ và
yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. Tác giả đã đưa được khái niệm,
nêu khái quát được các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng giảng viên. Tuy nhiên khi
đi sâu về phân tích thực trạng tác giả mới chỉ đưa ra các nhân tố các nhân tố ảnh
hưởng đến chât lượng giảng viên mà chưa phân tích, đánh giá được sự tác động của
nó ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng giảng viên. Do đó nên giải pháp tác giả
đưa ra ở chương 3 còn mang tính chất khái quát và chưa có sức thuyết phục.
- Nguyễn Khánh Ly (2013), Giải pháp nâng cao chất lượng giảng viên
trường Đại học Hải Dương giai đoạn 2015 -2020 , Luận văn thạc sĩ, Đại học
Kinh tế Quốc dân. Luận văn này đã đưa ra khá đầy đủ cơ sở lý thuyết về tạo
giảng viên, chất lượng đội ngũ giảng viên. Điểm nổi bật của luận văn là đã phân
tích cụ thể được thực trạng tình hình giảng viên của trường ĐH Hải Dương và
đánh giá được điểm mạnh, điểm hạn chế theo từng thực trạng một cách rõ ràng
và đầy đủ. Tuy nhiên hạn chế của luận văn đó là khi nêu nguyên nhân còn chung
chung, không cụ thể rõ ràng.
- Nguyễn Thế Dân (2010), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên giai đoạn 2010-2015”.,

Luận văn thạc sĩ, Đại học Vinh. Bên cạnh các cơ sở lý thuyết đầy đủ, luận văn đã
phân tích rất rõ được nguyên nhân của thực trạng chất lượng giảng viên còn chưa
tốt. Tuy nhiên, đối tượng đề tài lựa chọn để khảo sát trong quá trình nghiên cứu còn
chưa phong phú, chủ yếu tập trung vào giảng viên và sinh viên; cần có những ý kiến
của bộ phận lãnh đạo để nghiên cứu được khách quan và chính xác hơn.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu trên, còn có các bài viết trên các báo, tạp
chí như:
- Nguyễn Thị Thu Hương với bài viết “Xây dựng đội ngũ giảng viên trong
trường đại học – Thực trạng và giải pháp ” đăng trên Tạp chí Khoa học – Đại học
Quốc gia Hà Nội, Số28 tháng 3/2012. Bài báo đưa ra những thực trạng chung của
đội ngũ giảng viên trong các trường đại học từ đó có những giải pháp phù hợp nhằm
xây dựng đội ngũ giảng viên có chất lượng cao.


10

Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên, tuy nhiên cho tới nay chưa có công trình nghiên cứu tại trường Đại học Giao
thông Vận tải. Như vậy đề tài “Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên tại trường
Đại học Giao thông Vận tải” là độc lập và không trùng lặp với các công trình
nghiên cứu trước.
Kế thừa những ưu điểm và khắc phục những hạn chế của các công trình
nghiên cứu trên, đề tài “Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên tại trường Đại học
Giao thông Vận tải” sẽ có điểm mới sau:
- Đề tài điều tra khảo sát những nguyên nhân dẫn đến chất lượng đội ngũ cán
bộ giảng viên trường Đại học Giao thông Vận tải chưa cao, từ đó mới đưa ra những
giải pháp phù hợp.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá chất lượng và xây dựng một số biện pháp nâng cao chất lượng đội
ngũ giảng viên tại trường ĐH Giao thông Vận tải

Xuất phát từ mục tiêu trên, luận văn cần giải quyết các vấn đề:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và những căn cứ có liên quan đến chất lượng đội
ngũ giảng viên các trường Trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học.
- Phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên hiện nay tại
truờng ĐH Giao thông Vận tải.
- Xây dựng những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên tại
truờng ĐH Giao thông Vận tải
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: chất lượng đội ngũ giảng viên trường ĐH GTVT
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên là một đề tài rộng
lớn và phức tạp mang tính thời đại. Do thời gian, kinh nghiệm và kiến thức còn hạn


11

chế, luận văn này chỉ tập trung vào việc phân tích thực trạng và đề ra các giải pháp
cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên tại trường ĐH GTVT.
+ Về không gian: Nghiên cứu tại trường ĐH GTVT – số 3, phố Cầu Giấy,
phường Láng Thượng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
+ Về thời gian: Số liệu nghiên cứu trong 4 năm trở lại đây, từ năm 2010-2013
và ý nghĩa ứng dụng đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp

Tìm hiểu thông tin từ các nguồn sau đây:
+ Các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
thông tư của Bộ Giáo dục, Bộ Giao thông vận tải có liên quan đến công tác đào tạo.
+ Các công trình khoa học, sách, báo, tạp chí, luận án, luận văn trong và

ngoài nước liên quan đến đề tài.
5.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
+ Sử dụng hai bộ câu hỏi điều tra: Bộ câu hỏi dành cho cán bộ, giảng viên
nhà trường. Bộ câu hỏi dành cho học sinh đang học tại Trường ĐH GTVT.
+ Phỏng vấn một số cán bộ quản lý, một số giáo viên có tâm huyết có kinh
nghiệm để tìm hiểu thực tiễn của nhà trường nhằm làm sáng tỏ hơn nội dung nghiên
cứu bằng phương pháp điều tra.
+ Quan sát tình hình giảng dạy của giáo viên dạy giỏi, giáo viên mới vào
nghề. Quan sát tình hình học tập của học sinh để nắm tình hình thực tế đang diễn ra
ở nhà trường.
+ Tổng kết, đúc rút kinh nghiệm thực tiễn của trường ĐH GTVT về công tác
quản lý đào tạo.
5.3. Phương pháp phân tích dữ liệu
- Phương pháp thống kê toán học để xử lý số liệu.


12

- Phương pháp định lượng: Sử dụng Excel để xây dựng bảng biểu, đồ thị.
Ngoài ra sử dụng thêm phương pháp so sánh các chỉ tiêu qua các năm để thấy được
tình hình biến động hoạt động kinh doanh.
- Phương pháp định tính: Phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn
dịch: Thông qua kết quả thu thập dữ liệu sơ cấp, thứ cấp, các dữ liệu này được đi
sâu nghiên cứu, phân tích. Từ đó có cái những nhận định đánh giá để có cái nhìn
chung nhất, dự báo về vấn đề nghiên cứu.
6. Kết cấu luận văn.

Ngoài phần lời cảm ơn, mục lục, danh mục bảng biểu, hình vẽ, phụ lục, danh
mục tại liệu tham khảo và phần kết luận thì luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về giảng viên và nâng cao chất lượng đội

ngũ giảng viên
Chương 2: Phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên
trường ĐH GTVT
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trường ĐH
GTVT


13

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIẢNG VIÊN VÀ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
1.2. Một số cơ sở lý luận về giảng viên, đội ngũ giảng viên
1.2.1. Khái niệm giảng viên
Khái niệm về giảng viên có thể tiếp cận ở rất nhiều quan điểm khác nhau:
- Theo quyết định số 202/TCCP-VC được ban hành 08 tháng 06 năm 1994
của Ban tổ chức - cán bộ chính phủ về việc ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các
ngạch công chức ngành giáo dục và đào tạo: “Giảng viên là viên chức chuyên môn
đảm nhiệm việc giảng dạy và đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng thuộc một chuyên
ngành đào tạo của trường đại học hoặc cao đẳng”
- Tại Điều 61. Luật Giáo dục (1998) có nêu: “Nhà giáo là người làm nhiệm
vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường hoặc các cơ sở giáo dục khác.”
- Tại điều 70, Luật Giáo dục (2005) có nêu: “Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo
dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giảng viên; ở cơ sở
giáo dục đại học gọi là giảng viên”
- Tại khoản 1, điều 54, Luật Giáo dục đại học (2012) quy định: “Giảng viên
trong cơ sở giáo dục đại học là người có nhân thân rõ ràng; có phẩm chất, đạo đức
tốt; có sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; đạt trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ
quy định tại điểm e khoản 1 Điều 77 của Luật giáo dục (2005):
+ Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm đối với nhà giáo giảng dạy cao đẳng, đại học;

+ Có bằng thạc sỹ trở lên đối với nhà giáo giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn
luận văn thạc sĩ;
+ Có bằng tiến sĩ đối với nhà giáo giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận án
tiến sĩ.”
Như vậy, khái niệm về giảng viên có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng
đều thống nhất về bản chất của người giảng viên, đó là người làm nhiệm vụ giảng
dạy, giáo dục trong các trường đại học, cao đẳng, nhằm truyền thụ kiến thức khoa


14

học, kỹ năng, khả năng thực hành cho sinh viên và xây dựng, hình thành nhân cách
cho người học, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã hội.
1.2.2. Đội ngũ giảng viên.
Theo từ điển tiếng Việt, đội ngũ là "khối đông người cùng chức năng nghề
nghiệp được tập hợp và tổ chức thành một lực lượng". Các khái niệm về đội ngũ
dùng cho các thành phần trong xã hội như đội ngũ trí thức, đội ngũ công nhân viên
chức đều có gốc xuất phát từ đội ngũ theo thuật ngữ quân sự. Đó là một khối đông
người, được tổ chức thành một lực lượng để chiến đấu hoặc để bảo vệ. Tóm lại, đội
ngũ là một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng để thực hiện
một hay nhiều chức năng, có thể cùng nghề nghiệp hoặc không cùng nghề nghiệp
nhưng cùng có chung một mục đích nhất định.
Từ khái niệm nêu trên, ta có thể hiểu: Đội ngũ giảng viên là một tập thể
người có làm nghề dạy học – giáo dục tại các trường ĐH, CĐ được tổ chức thành
một lực lượng; cùng chung một nhiệm vụ là thực hiện các mục tiêu GD&ĐT đã đặt
ra cho trường ĐH, CĐ.
1.2.3. Đặc điểm của giảng viên
Giảng viên đại học là người làm nhiệm vụ giảng dạy, truyền đạt kiến thức
cho sinh viên viên trong các trường ĐH, CĐ; vì vậy, phẩm chất trí tuệ là yêu cầu
rất cao đối với người giảng viên. Từ chất sáng tạo đó biểu hiện trong năng lực hoạt

động giảng dạy, trong hoạt động nghiên cứu khoa học và trong toàn bộ quá trình
sáng tạo để hình thành nên toàn bộ nhân cách sáng tạo của một con người – sản
phẩm cần thiết và tất yếu của quá trình dạy học. Bởi vậy, hơn bất cứ một nghề
nghiệp nào khác, nghề giảng dạy đại học đòi hỏi mỗi giảng viên phải phát huy năng
lực sáng tạo của mình một cách cao nhất.
Một đặc điểm nữa là trong thời đại ngày nay, người giảng viên phải là
một tấm gương sáng về đạo đức và tinh thần tự học, tự vươn lên để hoàn thiện
mình. Mỗi giảng viên là một mẫu mực về ý trí học, về tinh thần nhân ái, nhân
văn thương yêu con người, quý trọng con người.


15

1.2.4. Vai trò của giảng viên
Giảng viên, với vai trò chủ đạo trong quá trình giáo dục ở các trường ĐH,
CĐ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Không có thầy giáo thì không có giáo
dục... không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế - văn hoá”
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1996, t.8, tr.184)
Trong đổi mới giáo dục đại học hiện nay, đội ngũ giảng viên trường đại học
được coi là một nguồn lực quan trọng phục vụ yêu cầu phát triển KT-XH vì:
- Đội ngũ giảng viên là người trực tiếp thực thi các mục tiêu, nhiệm vụ giáo
dục, với vai trò chủ đạo trong quá trình GD&ĐT ở các trườngĐH, CĐ. Điều 15,
Luật giáo dục (2005) nêu rõ: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo
chất lượng giáo dục”.
- Đội ngũ giảng viên với năng lực, sự tận tâm với nghề nghiệp và khẳ năng
thích ứng cao mới có thể bảo đảm cung cấp cho xã hội được sản phẩm nguồn nhân
lực có hàm lượng chất xám cao, có giá trị nhất, quyết định sự phát triển.
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII của Đảng khẳng định: “Giảng
viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh”. Thực tế đội
ngũ cán bộ giảng dạy giữ vai trò quyết định chất lượng đào tạo và là lực lượng chủ

công trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ của trường đại học.
- Trong GD&ĐT, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục thực sự là lực
lượng tin cậy của Đảng, giàu lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tận tụy với sinh
viên, có tinh thần trách nhiệm, ý thức cầu tiến bộ, chịu khó tự học, tự bồi dưỡng
nâng cao trình độ và sẵn sàng tham gia các hoạt động xã hội.
1.2.5. Nhiệm vụ của giảng viên đại học
Nhiệm vụ của Giảng viên được quy định tại Điều 6 - Thông tư liên tịch số
36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28 tháng 11 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo và Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh
nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập, như
sau:


16

a) Giảng dạy, hướng dẫn và chấm đồ án, khóa luận tốt nghiệp trình độ cao
đẳng, đại học. Giảng viên trong thời gian làm công tác trợ giảng thực hiện hỗ trợ
giảng viên, giảng viên chính, phó giáo sư, giáo sư trong các hoạt động giảng dạy,
bao gồm: Chuẩn bị bài giảng, phụ đạo, hướng dẫn bài tập, thảo luận, thí nghiệm,
thực hành và chấm bài;
b) Tham gia giảng dạy chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ và hướng
dẫn, đánh giá luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nếu có đủ tiêu chuẩn theo quy định;
c) Tham gia xây dựng kế hoạch, nội dung, chương trình đào tạo; tham gia đổi
mới phương pháp giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập, rèn
luyện của sinh viên;
d) Chủ trì hoặc tham gia biên soạn sách phục vụ đào tạo;
đ) Tổ chức và tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học; viết và tham gia
báo cáo khoa học tại các hội nghị, hội thảo khoa học; tham gia triển khai các hoạt
động chuyển giao công nghệ cho cơ sở sản xuất;
e) Tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế và bảo đảm chất lượng giáo dục

đại học;
g) Tham gia công tác chủ nhiệm lớp, cố vấn học tập; hướng dẫn thảo luận,
thực hành, thí nghiệm và thực tập;
h) Học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ;
i) Tham gia công tác quản lý, công tác Đảng, đoàn thể và thực hiện các
nhiệm vụ khác được phân công.
Như vậy, căn cứ vào quy định, một cách khái quát, giảng viên đại học phải
thực hiện tốt các nhiệm vụ trong các lĩnh vực: hoạt động giảng dạy, hoạt động
NCKH và các hoạt động khác: tham gia công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng, công


17

tác đảng, đoàn thể, CVHT .v.v.
1.3. Chất lượng đội ngũ giảng viên đại học
1.3.1. Quan niệm chung về chất lượng
Theo từ điển tiếng Việt do NXB văn hoá thông tin ban hành năm 1999 xác
định: "Chất lượng phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật,
chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật phân biệt nó với sự vật khác,
chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu hiện ra bên ngoài,
qua các thuộc tính. Nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm một, gắn bó
với sự vật như một tổng thể bao quát toàn bộ sự vật và không tách khỏi sự vật. Sự
vật khi vẫn còn là bản thân nó thì không thể mất chất lượng của nó. Sự thay đổi chất
lượng kéo theo sự thay đổi của sự vật, về căn bản chất lượng của sự vật bao giờ
cũng gắn với tính quy định về số lượng của nó và không thể tồn tại ngoài tính quy
định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất giữa số lượng và chất lượng”.
Qua đó ta có thể hiểu rằng bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong tự nhiên, xã
hội đều có chất của nó. Chất của sự vật là tổng hợp những tính quy định, những
thuộc tính, những đặc điểm cấu trúc khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, chỉ
rõ nó là cái gì và làm cho nó khác với cái khác.

Không có sự vật, hiện tượng nào lại không có tính quy định về chất lượng,
không có sự tồn tại nào thiếu tính quy định về chất lượng. Bãi cỏ, ao hồ, súc vật,
con người, Chủ nghĩa Tư bản, Chủ nghĩa Xã hội ... Tất cả đều là những vật thể khác
nhau vì mỗi thứ đều có tính quy định về chất lượng riêng của mình.
Chất lượng của các sự vật, hiện tượng được biểu hiện thông qua các thuộc
tính của nó. Mỗi sự vật có nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính tham gia vào việc quy
định chất của sự vật không giống nhau, có thuộc tính bản chất, thuộc tính không bản
chất. Các thuộc tính bản chất tồn tại suốt trong quá trình tồn tại của sự vật, giữ vai
trò quy định của sự vật làm cho nó là nó và khác với cái khác. Nếu thuộc tính cơ
bản mất đi thì sự vật không còn. Trái lại thuộc tính không bản chất không giữ vai
trò như thế.
Chất của sự vật còn được quy định bởi đặc điểm cấu trúc của sự vật, đó là các


18

yếu tố, các bộ phận cấu thành một hệ thống của sự vật, tức cấu trúc bên trong. Cấu
trúc bên trong nếu sắp xếp theo những cách thức khác nhau cũng sẽ tạo thành
những thuộc tính khác nhau của sự vật. Vì vậy khi xác định chất của sự vật cần phải
tính đến đặc điểm cấu trúc của sự vật.
Tóm lại: Khái niệm chất lượng phản ảnh mặt vô cùng quan trọng của sự vật,
hiện tượng và quá trình của thế giới khách quan. Nói như Heghen:” Chất lượng là
ranh giới làm cho những vật thể này khác với những vật thể khác”.
1.3.2. Chất lượng đội ngũ giảng viên đại học
Xuất phát từ những quan niệm về chất lượng như đã nêu ở trên ta có thể hiểu:
Chất lượng giảng viên là toàn bộ thuộc tính (yếu tố), những đặc điểm và nhiệm vụ
của giảng viên. Như đã đề cập ở phần 1.2.5, nhiệm vụ chính của người giảng viên
bao gồm hoạt động đào tạo, hoạt động nghiên cứu khoa học và tham gia công tác
quản lý đào tạo, bồi dưỡng, công tác đảng, đoàn thể và các hoạt động khác trong
nhà trường. Để thực hiện các hoạt động đào tạo tốt, giảng viên cần có trình độ

chuyên môn tốt và có năng lực giảng dạy đáp ứng được yêu cầu của người học. Để
thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học có chất lượng đòi hỏi giảng viên phải có
năng lực nghiên cứu khoa học đáp ứng được yêu cầu. Như vậy, chất lượng của một
người giảng viên tốt phải đáp ứng được các tiêu chí sau:
- Phẩm chất đạo đức
- Trình độ chuyên môn
- Năng lực giảng dạy
- Năng lực nghiên cứu khoa học
- Tham gia các hoạt động khác trong nhà trường (tham gia công tác quản lý
đào tạo, bồi dưỡng, công tác đảng, đoàn thể, CVHT và các hoạt động khác)
Đó là các yêu tố cấu thành nên chất lượng của một giảng viên. Nhưng chất
lượng của đội ngũ giảng viên không chỉ bao gồm có vậy. Như khái niệm về đội ngũ
giảng viên đã được đề cấp ở trên, đội ngũ giảng viên là một tập thể người có cùng
chức năng, nghề nghiệp (nghề dạy học). Vì vậy, chất lượng của đội ngũ giảng viên
cần phải đảm bảo thêm về số lượng người trong tập thể đó và cơ cấu đội ngũ có phù


19

hợp và đảm bảo tính phát triển bền vững của đội ngũ hay không.
Như vậy, chất lượng của đội ngũ giảng viên sẽ gồm các tiêu chí sau:
- Số lượng và cơ cấu đội ngũ
- Phẩm chất đạo đức
- Trình độ chuyên môn
- Năng lực giảng dạy
- Năng lực nghiên cứu khoa học
- Tham gia các hoạt động khác trong nhà trường (tham gia công tác quản lý
đào tạo, bồi dưỡng, công tác đảng, đoàn thể, CVHT và các hoạt động khác)
1.3.2.1. Số lượng và cơ cấu đội ngũ



Số lượng thành viên của đội ngũ giảng viên:
Số lượng cũng là tính quy định của vật thể, nhưng nó chỉ nói lên đặc điểm
của vật thể như độ to, nhỏ, thể tích lớn, bé... số lượng là ranh giới của vật thể, vì
thế sự thay đổi ranh giới đạt đến một giới hạn nào đó cũng sẽ làm bản chất của
sự vật thay đổi, điều này đã được chứng minh đề cập trong triết học Mác –
Leenin qua quy luật “Chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay
đổi về chất và ngược lại”.
Đội ngũ giảng viên là một hiện tượng (tổ chức) xã hội vì thế số lượng của đội
ngũ giảng viên là biểu thị về mặt định lượng của đội ngũ, nó phản ánh quy mô lớn,
bé, to nhỏ của đội ngũ.
Số lượng đội ngũ giảng viên phụ thuộc vào việc phân chia về tổ chức, như số
lượng giảng viên cụ thể của từng trường, từng khoa, từng bộ môn .v.v.
Số lượng đội ngũ giảng viên của một trường phụ thuộc vào nhu cầu đào tạo,
quy mô phát triển của nhà trường và các yếu tố khách quan tác động như: Chỉ tiêu
biên chế, chế độ chính sách đối với giảng viên... Song dù trong điều kiện nào chăng
nữa muốn tạo nên chất lượng của đội ngũ giảng viên, người quản lý phải quan tâm
giữ vững sự cân bằng động về số lượng của đội ngũ với nhu cầu đào tạo, quy mô
phát triển của nhà trường. Nếu phá vỡ hoặc không đảm bảo sự cân bằng này sẽ tác
động tiêu cực đến chất lượng đội ngũ.


20



Cơ cấu đội ngũ giảng viên
Có thể hiểu cơ cấu của đội ngũ giảng viên là tổ chức bên trong của đội ngũ.
Cơ cấu đội ngũ giảng viên là một thể thống nhất, hoàn chỉnh bao gồm các thành
phần chính sau:

Về lứa tuổi: Duy trì sự cân đối giữa các thế hệ già, trung niên, trẻ của đội ngũ
để có thể phát huy được tính năng động, hăng hái của tuổi trẻ và khai thác được vốn
kinh nghiệm, từng trải của lớp già.
Về giới tính: Đảm bảo tỷ lệ thích hợp giữa giảng viên nam và giảng viên nữ
trong từng khoa, từng tổ, từng bộ môn và chuyên ngành được đào tạo.
Cơ cấu lứa tuổi và giới tính thể hiện cấu trúc của đội ngũ giảng viên. Giữa
các yếu tố cần phải đảm bảo sự cân đối, hợp lý nếu sự cần đối này bị phá vỡ thì sẽ
ảnh hưởng không tốt đến chất lượng đội ngũ giảng viên.
1.3.2.2 Phẩm chất đạo đức
Tại nghị quyết TW 2, khoá VIII, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: “Phát
triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”..Nhiệm vụ của giáo dục là nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo ra những con người mới,
có kiến thức, có phẩm chất cách mạng, có kĩ năng để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đảm trách sứ mệnh quan trọng và thiêng liêng đó không ai khác chính là đội ngũ
giảng viên và cán bộ quản lí giáo dục, những người vẫn được xã hội tôn vinh trong
sự nghiệp “trồng người”. Đạo đức của giảng viên có ảnh hưởng to lớn đến việc hình
thành nhân cách, đạo đức của người học. Bởi vậy việc nâng cao phẩm chất đạo đức
của người giảng viên là vấn đề vô cùng quan trọng đặt ra ở bất cứ thời nào, nhất là
trong giai đoạn hiện nay.
Căn cứ vào điểu 3, 4, 5, 6 tại Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16
tháng 4 năm 2008 về “Quy định về đạo đức nhà giáo”. Giảng viên là một nhà giáo,
vì vậy một giảng viên có phẩm chất đạo đức tốt cần thỏa mãn có yếu tố sau:
- Phẩm chất chính trị: Chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ theo đúng quy


21

định của pháp luật. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, tích cực học tập về lý
luận chính trị và tham gia các hoạt động chính trị, xã hội

- Đạo đức nghề nghiệp: Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh
dự, lương tâm nhà giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp
trong cuộc sống và trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng và đối xử
công bằng với người học; sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính
đáng của người học, đồng nghiệp và cộng đồng. Không lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật, quy chế, quy định; không gây khó khăn,
phiền hà đối với người học và nhân dân. Không gian lận, thiếu trung thực trong học
tập, nghiên cứu khoa học và thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục. Không trù
dập, chèn ép và có thái độ thiên vị, phân biệt đối xử, thành kiến người học; không
tiếp tay, bao che cho những hành vi tiêu cực trong giảng dạy, học tập, rèn luyện của
người học và đồng nghiệp.
- Lối sống, tác phong: Có lối sống hoà nhập với cộng đồng, phù hợp với bản
sắc dân tộc và thích ứng với sự tiến bộ của xã hội; biết ủng hộ, khuyến khích những
biểu hiện của lối sống văn minh, tiến bộ và phê phán những biểu hiện của lối sống
lạc hậu, ích kỷ. Tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học; có thái độ
văn minh, lịch sự trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng nghiệp, với người
học; giải quyết công việc khách quan, tận tình, chu đáo.
1.3.2.3. Trình độ chuyên môn
Để có chất lượng hoạt động đào tạo tốt, trước tiên người giảng viên phải có
trình độ chuyên môn tốt. Một người giảng viên không có trình độ chuyên môn tốt,
không có kiến thức thì lấy gì để truyền đạt cho sinh viên?
Vì vậy, trình độ của đội ngũ giảng viên, trước hết phải nói tới hệ thống tri
thức mà giảng viên đạt được, là những tri thức liên quan đến môn học mà người
giảng viên đảm nhiệm giảng dạy. Thước đo trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng
viên một cách dễ dàng nhất đó là dựa vào học hàm, học vị của giảng viên. Vì vậy,
tỷ lệ trình độ của đội ngũ giảng viên có học hàm học vị cao (TS/ PGS/GS) nhiều


22


hay ít sẽ là một trong những yếu tố quan trọng quyết định chất lượng của đội ngũ
giảng viên.
Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật đang diễn ra sôi động,
tạo ra sự thâm nhập lẫn nhau giữa các khoa học, do vậy ngoài những hiểu biết về
lĩnh vực chuyên môn của người giảng viên cần có những hiểu biết về các kiến thức
khác, đặc biệt là phải biết ngoại ngữ và tin học; nhằm hình thành những kỹ năng để
chiếm lĩnh tri thức khoa học chuyên môn và sư phạm.
Như vậy, để đánh giá trình độ chuyên môn đội ngũ giảng viên cần đánh giá
trên 3 tiêu chí:
- Học hàm, học vị của đội ngũ giảng viên
- Trình độ ngoại ngữ
- Trình độ tin học
1.3.2.4. Năng lực giảng dạy
Năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên được hiểu là hệ thống những tri
thức kỹ năng mà giảng viên được trang bị để tiến hành hoạt động sư phạm có hiệu
quả. Kỹ năng của người giảng viên được hiểu là khả năng vận dụng những kiến
thức thu được vào trong hoạt động sư phạm và biến nó thành kỷ xảo. Kỹ xảo là khả
năng đạt đến mức thành thục.
Để đánh giá đầy đủ năng lực của giảng viên trong lĩnh vực giảng dạy cần có
những tiêu chí đánh giá bao quát toàn bộ những yêu cầu về hoạt động giảng dạy đối
với mỗi giảng viên.
Căn cứ vào kiến thức trong bài báo “Phát triển năng lực giảng viên nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong các trường đại học và cao đẳng trong
điều kiện toàn cầu hóa và bùng nổ tri thức” của tác giả TS. Nguyễn Hữu Lam thuộc
trung tâm Nghiên cứu và phát triển quản trị (CEMD) – Đại học kinh tế TP HCM
đăng trên website: www.cemd.ueh.edu.vn, năng lực giảng dạy của giảng viên bao
gồm các năng lực sau:
-

Năng lực sử dụng các phương pháp giảng dạy tích cực (giảng dạy bằng tình huống,


-

thảo luận nhóm, khám phá, mô phỏng, dự án…)
Năng lực truyền đạt (trình bày, đặt câu hỏi, lắng nghe và phản hồi)


23

-

Năng lực xử lý các tình huống trong dạy học;
Năng lực tổ chức và quản lý lớp học;
Năng lực sử dụng công nghệ trong giảng dạy (PowerPoint, máy tính, Web, các phần

-

mềm sử dụng trong chuyên môn)
Năng lực đánh giá sinh viên
Khả năng xây dựng và phát triển chương trình giảng dạy, chương trình đào tạo, tài
liệu học tập.
1.3.2.5. Năng lực nghiên cứu khoa học
Cùng với trình độ (năng lực) chuyên môn và năng lực giảng dạy, năng lực
nghiên cứu khoa học là một trong ba năng lực cần có của một giảng viên đại học.
Mặc dù giảng dạy và NCKH là hai nhiệm vụ có quan hệ mật thiết với nhau nhưng
tiếc rằng cách đánh giá chất lượng giảng viên hiện nay ở nhiều trường vẫn chưa chú
trọng đến hoạt động nghiên cứu khoa học của họ. Vì vậy, nghịch lý trong giáo dục
đại học nói chung là hàng năm số lượng giảng viên giỏi được bình bầu thì nhiều
nhưng chất lượng đào tạo chung thì vẫn thấp. “Giảng viên giỏi” khó lòng trở thành
những tấm gương sáng về nghiên cứu khoa học cho sinh viên noi theo nếu bản thân

họ có rất ít các sản phẩm khoa học.
Nghiên cứu khoa học được quan niệm là một chức năng đặc trưng của
giáo dục đại học. Với chức năng này, các trường đại học không chỉ là trung tâm
đào tạo mà đã thực sự trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học, sản xuất, sử dụng,
phân phối, xuất khẩu tri thức và chuyển giao công nghệ mới hiện đại. Do đó, để
phù hợp với chức năng này, yêu cầu người giảng viên phải tham gia các hoạt động
nghiên cứu khoa học và hoạt động này cần được đánh giá.
Việc tham gia vào những hoạt động NCKH có những lợi ích cơ bản sau trong
việc nâng cao chất lượng giảng viên:
- NCKH giúp giảng viên có điều kiện đào sâu hơn, nắm bắt chặt chẽ hơn kiến
thức chuyên môn mà mình đang trực tiếp giảng dạy, kịp thời điều chỉnh, bổ sung
những nội dung kiến thức chưa chuẩn xác trong bài giảng của mình. Người giảng
viên tham gia NCKH một mặt vừa củng cố lại kiến thức chuyên môn của mình, mặt


24

khác vừa có điều kiện mở rộng, hiểu biết nhiều hơn từ những kiến thức từ các
chuyên ngành khác.
- Quá trình tham gia NCKH sẽ góp phần phát triển tư duy, năng lực sáng tạo,
khả năng làm việc độc lập, trau dồi tri thức và các phương pháp nhận thức khoa học
của giảng viên đồng thời hình thành ở giảng viên những phẩm chất của nhà nghiên
cứu. Tham gia các hoạt động NCKH cũng đồng thời là quá trình giúp giảng viên tự
“cập nhật” thông tin, kiến thức một cách thực sự hiệu quả.
- Thực hiện các hoạt động NCKH là cơ hội tốt để giảng viên có môi trường,
cơ hội bồi dưỡng năng lực chuyên môn và năng lực NCKH. Đây cũn là cơ sở cần
thiết để tiến hành đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy. Điều này sẽ góp phần
nâng cao chất lượng giảng dạy.
- Hoạt động NCKH là một lĩnh vực rất tốt để giảng viên tự khẳng định mình.
Khó có thể đánh giá một giảng viên là có năng lực chuyên môn tốt nhưng hàng năm lại

không có công trình khoa học nào. Uy tín của giảng viên được khẳng định khéo theo
đó là uy tín của nhà trường được khẳng định vì một trong những tiêu chí để đánh giá,
xếp hạng các trường đó chính là mảng NCKH của giảng viên trong trường.
Cơ sở đánh giá năng lực nghiên cứu khoa học của giảng viên phải dựa vào
những sản phẩm trí tuệ của họ sáng tạo ra, bao gồm:
+ Số lượng và chất lượng các ấn phẩm được xuất bản trong các tạp chí khoa
học hoặc các hội nghị khoa học ở trong và ngoài nước liên quan đến các công
trình nghiên cứu.
+ Số lượng các đề tài, dự án, các công trình nghiên cứu khoa học tham gia.
1.3.2.6. Tham gia các hoạt động khác trong nhà trường
Giảng viên bên cạnh hai nhiệm vụ chính là giảng dạy và NCKH, cần phải nỗ
lực tự bồi dưỡng bản thân, tham gia vào các tổ chức chính quyền, tham gia
quản lý, tham gia tổ chức Đảng và đoàn thể, các hoạt động cố vấn học tập, .v.v. Đây
là một lĩnh vực mà hầu như chưa được quan tâm tới khi đánh giá giảng viên ở nước
ta trong thời gian qua. Đánh giá chất lượng công việc của giảng viên trong lĩnh
vực này không hề đơn giản bởi nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố và không phải lúc


25

nào cũng có thể phân định rõ vai trò của từng cá nhân. Do đó, một điều cần lưu ý là,
khi đánh giá tổng hợp về những đóng góp của giảng viên trong lĩnh vực phục vụ
xã hội/cộng đồng, đặc biệt nên nhấn mạnh đến hiệu quả của cá nhân hơn là phạm vi
tham gia của họ.
1.4. Những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng giảng viên đại học
1.4.1. Công tác tuyển dụng giảng viên
Trường Đại học muốn sở hữu một đội ngũ giảng viên chất lượng cao trước
tiên cần phải kiếm soát tốt đầu vào của nguồn nhân lực tức là làm tốt công tác tuyển
dụng nhân lực.
Tuyển dụng là quá trình thu hút những người tìm việc có trình độ từ lực

lượng lao động xã hội và lực lượng lao động bên trong tổ chức. Chất lượng quá
trình tuyển mộ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của quá trình tuyển chọn. Trong thị
trường lao động có rất nhiều người lao động có trình độ, năng lực cao nhưng họ
không được tuyển chọn bởi họ không biết được thông tin tuyển mộ hoặc không có
cơ hội nộp đơn xin việc. Chất lượng của quá trình lựa chọn sẽ không đạt yêu cầu
khi số lượng người nộp đơn ứng tuyển bằng hoặc ít hơn nhu cầu cần tuyển chọn. Do
vậy, công tác tuyển dụng giảng viên cần đảm bảo công khai, minh bạch, đúng quy
định và có kế hoạch cụ thể; được thông báo rộng rãi, triển khai tới các đơn vị và
đăng trên Website của Nhà trường. Tuyển chọn phải khách quan, công bằng và
khoa học đùng các vị trí việc làm cần tuyển người.
Tuyển dụng là quá trình đánh giá các ứng viên theo nhiều khía cạnh khác
nhau dựa vào yêu cầu công việc, để tìm được những người phù hợp với các yêu cầu
đặt ra trong số những người đã thu hút được trong quá trình tuyển mộ. Cơ sở của
tuyển dụng là dựa vào những yêu cầu của công việc cụ thể và việc tuyển chọn phải
phù hợp với nhà trường ít nhất là trên hai khía cạnh: phải có kỹ năng, kiến thức phù
hợp và phải có tính cách, giá trị đạo dức, phù hợp.


×