THANH TRA CHÍNH PHỦ
Đề án 1 -1133/QĐ-TTg
MỘT SỐ KỸ NĂNG TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN
PHÁP LUẬT VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
(Tài liệu tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn)
Hà Nội, tháng 8 năm 2014
Chỉ đạo nội dung
TS. Trần Đức Lượng
Phó Tổng Thanh tra Chính phủ
Tham gia biên soạn
TS. Nguyễn Văn Kim – Hàm Vụ trưởng Vụ Pháp chế
TS. Đỗ Gia Thư – Nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế
TS. Nguyễn Quốc Văn – Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế
Nguyễn Tuấn Anh - Phó vụ trưởng Vụ Pháp chế
CN. Nguyễn Đình Bính – Thanh tra viên Vụ Pháp chế
2
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện Quyết định số 1133/QĐ-TTg ngày 15/7/2013 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt và tổ chức thực hiện các đề án trong đó có đề án
“Tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở
xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013 – 2016”, Thanh tra Chính phủ biên soạn và
xuất bản cuốn sách “Một số kỹ năng tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
khiếu nại, tố cáo”.
Cuốn sách là tài liệu cần thiết cho cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói riêng;
cung cấp một số kỹ năng cơ bản về công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về khiếu nại, tố cáo nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác này tại
cơ sở. Cuốn sách gồm các nội dung sau: Xây dựng kế hoạch phổ biến, giáo dục
pháp luật về khiếu nại, tố cáo; tuyên truyền miệng; sử dụng báo chí và mạng lưới
truyền thanh cơ sở; biên soạn và phát hành tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật
về khiếu nại, tố cáo; tư vấn pháp luật về khiếu nại, tố cáo; tổ chức thi tìm hiểu
pháp luật về khiếu nại, tố cáo; phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Yêu cầu về nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo
cũng rất đa dạng, phức tạp. Tuy nhiên, cuốn sách này chỉ tập trung hướng dẫn
một số kỹ năng cơ bản nhất, giúp người làm công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở cơ sở có sự chủ động và vận dụng linh hoạt
trong thực tế.
Ban biên tập mong nhận được sự góp ý của bạn đọc để không ngừng cải
thiện chất lượng cuốn sách, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
Xin trân trọng cảm ơn!
3
Chương I
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
1. Sự cần thiết xây dựng kế hoạch
Xây dựng kế hoạch là việc đề ra một hệ thống những công việc dự định làm
trong một thời gian nhất định với cách thức, trình tự, thời hạn tiến hành cụ thể.
Xây dựng kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo là khâu
đầu tiên trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo; là cơ sở
để tổ chức triển khai hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo
một cách khoa học, hiệu quả.
Việc xây dựng kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo phải
xuất phát từ đặc thù của công tác này, cụ thể:
- Thứ nhất, đối tượng cần được phổ biến, giáo dục pháp luật khiếu nại, tố cáo
là cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn, bao gồm cả ở vùng sâu, vùng xa, nơi
có trình độ dân trí thấp. Các đối tượng này khác nhau về trình độ văn hoá, nhận
thức, nghề nghiệp, lứa tuổi, lối sống, tín ngưỡng, tôn giáo… Do vậy, đòi hỏi kế
hoạch được xây dựng phải có nội dung, hình thức cho phù hợp để từ đó có thể tạo
ra sự chuyển biến căn bản trong nhận thức và nâng cao hiểu biết pháp luật, chấp
hành pháp luật khiếu nại, tố cáo của cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn.
- Thứ hai, chủ thể tham gia phổ biến giáo dục pháp luật khiếu nại tố cáo cũng
đa dạng, phong phú, không chỉ là cán bộ, cơ quan được giao chủ trì, phối hợp
công tác này như cơ quan thanh tra, cơ quan tư pháp, cơ quan văn hoá, thông tin,
các phương tiện thông tin đại chúng, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân mà
còn cả các chủ thể khác như Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, các cán bộ chuyên
môn của Uỷ ban. Bên cạnh đó công tác tuyên truyền còn có thể huy động đông
đảo người dân như tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, già làng, trưởng bản,
những người có uy tín trong nhân dân cùng phối hợp với cán bộ, cơ quan được
giao nhiệm vụ.
- Thứ ba, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo đòi hỏi
tính tổ chức cao, cần được triển khai kịp thời, liên tục, kết hợp giữa triển khai có
tính trọng tâm, trọng điểm và từ đó triển khai nhân ra diện rộng. Công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật là cả một quá trình, vì vậy, trước mắt phải chọn một số
4
nơi có tình hình khiếu nại, tố cáo phức tạp, công tác tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo hiệu quả thấp, một số địa phương vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số,
nhận thức pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế, chú trọng cơ cấu vùng,
miền để tổ chức phố biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo, từ việc chỉ đạo
điểm để rút kinh nghiệm và triển khai nhân ra diện rộng.
Từ những đặc thù nêu trên, có thể thấy việc xây dựng kế hoạch phổ biến, giáo
dục pháp luật khiếu nại, tố cáo là hết sức cần thiết, cụ thể là:
- Với việc xác định rõ đối tượng, nội dung, hình thức, biện pháp, tiến độ và
phân công thực hiện cụ thể, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại,
tố cáo sẽ bảo đảm cho công tác này tiến hành được thường xuyên, liên tục.
- Tạo điều kiện cho các chủ thể liên quan đến công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật về khiếu nại, tố cáo chủ động hơn trong tổ chức công việc.
- Kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo sẽ là cơ sở để các
địa phương bố trí kinh phí cho công tác này.
- Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo sẽ là căn cứ để
kiểm tra, đánh giá, khen thưởng việc thực hiện nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp
luật về khiếu nại, tố cáo ở địa phương.
2. Yêu cầu của kế hoạch
Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo phải đảm bảo các
yêu cầu sau: xác định rõ mục tiêu, nội dung, biện pháp, lộ trình thực hiện phải có
tính khả thi; phù hợp với thực tiễn.
Cấp xã, phường, thị trấn là nơi trực tiếp triển khai thực hiện kế hoạch phổ biến,
giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo, vì vậy kế hoạch càng cụ thể, càng chi tiết
thì sẽ càng thuận lợi cho triển khai trong thực tế. Bên cạnh đó, tình hình thực tế
của mỗi địa phương không giống nhau, do đó kế hoạch được xây dựng phải bám
sát vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương. Có như vậy, khi triển
khai kế hoạch đó tại mỗi địa phương mới mang lại hiệu quả thực sự.
Cũng cần phải chú ý rằng việc xây dựng kế hoạch phải đạt mục tiêu chung là:
tạo ra sự chuyển biến căn bản trong nhận thức và nâng cao hiểu hiết pháp luật, ý
thức tôn trọng và chấp hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo của cán bộ, nhân dân ở
xã, phường, thị trấn; góp phần ngăn chặn và hạn chế hành vi vi phạm pháp luật
về khiếu nại, tố cáo; giữ gìn an ninh và trật tự an toàn xã hội; khai thác có hiệu
5
quả việc phổ biến pháp luật về khiếu nại, tố cáo thông qua hoạt động nghề nghiệp
của cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở.
3. Căn cứ xây dựng kế hoạch
Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo được xây dựng dựa
trên những căn cứ chủ yếu sau:
- Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành Chương trình hành động thực hiện Kết luận số 04-KL/TW ngày
19/4/2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật của cán bộ, nhân dân; Quyết định số 1133/QĐ-TTg ngày 15/7/2013 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện các đề án trong đó có đề án
tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở
xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013 – 2016.
- Căn cứ vào chương trình, kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
khiếu nại, tố cáo của cấp ủy, Uỷ ban nhân dân cùng cấp và sự chỉ đạo, hướng dẫn
của cấp ủy, Uỷ ban nhân dân cấp trên và của các cơ quan chức năng.
- Căn cứ tình nhiệm vụ chính trị của địa phương trong từng giai đoạn cụ thể.
- Căn cứ nhu cầu tìm hiểu pháp luật của cán bộ, nhân dân tại xã, phường, thị
trấn.
4. Trình tự xây dựng kế hoạch
4.1. Giai đoạn chuẩn bị
Việc chuẩn bị xây dựng kế hoạch có thể diễn ra trong tư duy, cũng có thể được
chuẩn bị bằng văn bản với một số công việc sau:
a) Lựa chọn loại kế hoạch cần xây dựng.
Kế hoạch bao gồm kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn, cũng có khi là kế
hoạch theo từng đợt, tập trung phổ biến, giáo dục một nội dung cụ thể của pháp
luật khiếu nại, tố cáo.
Do công tác phổ biến, giáo dục pháp luật khiếu nại, tố cáo là cả một quá trình
vì vậy kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật khiếu nại tố cáo cho cán bộ, nhân
dân ở xã, phường, thị trấn thường được xây dựng theo giai đoạn hoặc hàng năm.
6
b) Xác định căn cứ xây dựng kế hoạch.
Không phải bất kỳ kế hoạch nào cũng có đầy đủ các căn cứ xây dựng như đã
được trình bày ở phần trên mà người được giao trách nhiệm xây dựng kế hoạch
cần dựa trên loại kế hoạch, phân tích những trọng tâm, trọng điểm trong kế hoạch
phát triển kinh tế - xã của địa phương, đánh giá chính xác thực tiễn của địa
phương để xác định căn cứ xây dựng kế hoạch.
c) Điều tra khảo sát
Khi cần thiết, người xây dựng kế hoạch cần tổ chức khảo sát ban đầu để có căn
cứ thực tế xây dựng kế hoạch. Việc khảo sát phải toàn diện, có phương pháp
khoa học trong thu thập và xử lý thông tin. Chú trọng khảo sát nhằm xác định
nhu cầu tìm hiểu các quy định pháp luật về tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
của người dân; nhu cầu tìm hiểu, học tập các quy định pháp luật, kỹ năng nghiệp
vụ về tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; đánh giá năng lực thực hiện công tác
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của cán bộ ở xã, phường, thị trấn.
4.2. Xây dựng dự thảo kế hoạch
Sau khi đã thực hiện một số công việc chuẩn bị cần thiết, người được giao xây
dựng dự thảo kế hoạch (sau đây gọi là người soạn thảo) tiến hành xây dựng dự
thảo kế hoạch.
Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật khiếu nại, tố cáo phải đảm bảo các nội
dung chính sau đây:
- Mục đích, yêu cầu
Đây chính là phần đầu tiên trong dự thảo kế hoạch. Người soạn thảo cần phải
nêu rõ mục đích cụ thể cần đạt được cũng như yêu cầu đặt ra khi triển khai kế
hoạch.
Mục đích tổng quát của công tác tuyên truyền chính là đẩy mạnh việc thực
hiện đề án, thực hiện có hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật khiếu nại,
tố cáo; từng bước tạo ra sự chuyển biến về nhận thức, nâng cao ý thức tôn trọng
và chấp hành pháp luật khiếu nại, tố cáo của cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị
trấn; giúp người dân hiểu và thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình khi thực
hiện quyền khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên tuỳ tình hình cụ thể của mỗi địa phương
mà kế hoạch được xây dựng đạt được mục đích tổng quát hay mục đích cụ thể.
7
Yêu cầu của kế hoạch đặt ra phải cụ thể trong khoảng thời gian nhất định để
làm cơ sở phân công trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia thực
hiện kế hoạch. Một trong những yêu cầu đặt ra của kế hoạch là phải đảm bảo
thiết thực, hiệu quả, tránh lãng phí, phù hợp với mục tiêu chung.
- Nội dung.
Căn cứ vào yêu cầu chung của kế hoạch, hướng dẫn của Ủỷ ban nhân dân cấp
trên và nhu cầu tìm hiểu pháp luật về khiếu nại, tố cáo của cán bộ và người dân
tại địa bàn mà dự thảo kế hoạch xác định những nội dung pháp luật khiếu nại, tố
cáo cần được phổ biến đến cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn.
Nội dung pháp luật khiếu nại, tố cáo được phổ biến, giáo dục có thể là tất cả
các quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo hiện hành hoặc cũng có thể chỉ là
một chế định của pháp luật khiếu nại, tố cáo, nhất là các nội dung liên quan trực
tiếp đến quyền, nghĩa vụ của người dân khi thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo và
thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo.
- Hình thức thực hiện
Như phần đầu đã trình bày, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung
được triển khai bằng nhiều hình thức: tuyên truyền miệng qua tổ chức tập huấn,
hội nghị, biên sọan tài liệu, phổ biến qua các phương tiện thông tin đại chúng,
qua mạng lưới truyền thanh cơ sở... Đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
về khiếu nại, tố cáo cũng được triển khai bằng các hình thức như vậy. Tuy nhiên
trên địa bàn cấp xã, không phải tất cả các hình thức nêu trên đều phát huy hiệu
quả. Chính vì vậy khi xây dựng dự thảo kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật về
khiếu nại, tố cáo cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn, người soạn thảo
phải chú ý tới đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật; phải xem xét điều
kiện thực tế của địa phương như về tài chính, về lực lượng tham gia, địa điểm
tiến hành để lựa chọn hình thức phổ biến, giáo dục cho phù hợp. Hình thức phổ
biến, giáo dục được lựa chọn muốn đạt được hiệu quả phải tính tới diện bao quát
của hình thức đó đối với đối tượng được phổ biến, giáo dục. Có thể căn cứ vào số
lượt người được phổ biến, giáo dục hoặc là nếu sử dụng hình thức đó thì sau khi
phổ biến, tình trạng đơn thư khiếu nại, tố cáo như thế nào? tình trạng tiếp dân và
xử lý đơn thư của cán bộ cấp xã như thế nào…
- Các hoạt động cụ thể
8
Với mục đích phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo cho cán bộ,
nhân dân ở xã, phường, thị trấn thì tuỳ tình hình từng địa phương mà lựa chọn
các hoạt động sao cho phù hợp trong từng giai đoạn cụ thể:
+ Phổ biến, giáo dục pháp luật về tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Hoạt động này thường được thực hiện mang tính thường xuyên, liên tục.
Người soạn thảo căn cứ vào tình hình điều kiện thực tế của địa phương mà chú
trọng vào một số tờ báo, đài, bản tin ở địa phương để phổ biến sao cho có hiệu
quả.
+ Tổ chức biên soạn, xuất bản tài liệu phục vụ công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật về tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Đối với hoạt động này, tùy điều kiện kinh phí của mỗi địa phương mà tổ chức
biên soạn, xuất bản các tài liệu sau: cuốn sách tìm hiểu, hỏi đáp pháp luật khiếu
nại, tố cáo; tờ gấp về một số nội dung quan trọng của pháp luật khiếu nại, tố cáo;
nếu là dân tộc thiểu số thì cần phải biên dịch và xuất bản tài liệu pháp luật phổ
thông bằng một số tiếng dân tộc thiểu số. Các tài liệu nói trên được xuất bản cho
đối tượng là cán bộ, nhân dân cấp xã vì vậy nội dung phải đơn giản, dễ hiểu, thiết
thực.
+ Xây dựng cơ chế phối hợp giữa hội nông dân, uỷ ban mặt trận tổ quốc với
chính quyền cấp xã trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố
cáo cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn.
Nội dung của hoạt động này cũng rất quan trọng, vì qua đó nâng cao được vai
trò của hội nông dân, uỷ ban mặt trận tổ quốc cấp xã trong việc phối hợp với
chính quyền cấp xã vận động nhân dân chấp hành pháp luật khiếu nại, tố cáo.
+ Tổ chức tập huấn, hội nghị.
Nếu đối tượng được phổ biến, giáo dục là cán bộ làm công tác tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn thì nên chú trọng tổ chức hoạt động
bồi dưỡng kiến thức pháp luật nghiệp vụ về tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Các cán bộ từ các cơ quan tư pháp, cơ quan thanh tra, cơ quan thông tin đại
chúng… thì cần chú trọng tập huấn về kỹ năng, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục
pháp luật về tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
9
Đối với đối tượng là nhân dân thì tổ chức phổ biến về nội dung của các quy
định pháp luật về khiếu nại, tố cáo, đặc biệt chú trọng phổ biến quyền và nghĩa
vụ của người dân khi tham gia khiếu nại, tố cáo.
- Tiến độ thực hiện
Cũng như bất kỳ một kế hoạch nào, kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật về
khiếu nại, tố cáo cần xác định rõ tiến độ thực hiện kế hoạch. Việc xác định tiến
độ thực hiện giúp cho việc thực hiện kế hoạch đảm bảo khả thi hơn và đây cũng
là căn cứ theo dõi, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch.
Tiến độ thực hiện kế hoạch có thể là theo giai đoạn, theo quý hoặc theo tháng.
Trong kế hoạch, các hoạt động đề ra phải xác định thời gian thực hiện cụ thể.
- Tổ chức thực hiện
+ Xác định biện pháp thực hiện việc phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại,
tố cáo phù hợp với từng địa phương: có thể tổ chức các hình thức giáo dục, pháp
luật về khiếu nại, tố cáo độc lập, cũng có thể tổ chức lồng ghép trong các chương
trình, kế hoạch khác của địa phương như chương trình xây dựng đời sống văn
hoá ở khu dân cư, chương trình xây dựng làng văn hoá mới, chương trình nước
sạch, vệ sinh môi trường...
+ Phân công trách nhiệm hợp lý, rõ ràng cho các chủ thể tham gia phổ biến,
giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo là trách nhiệm của
nhiều cơ quan như: thanh tra, văn hoá - thông tin, uỷ ban mặt trận tổ quốc, hội
nông dân, cơ quan tư pháp, các đài, báo và chính quyền. Vì vậy, người soạn thảo
kế hoạch phải phân định rõ trách nhiệm của từng chủ thể, cơ quan nào chủ trì, cơ
quan nào phối hợp để kế hoạch được xây dựng đảm bảo tính khả thi.
+ Bản kế hoạch được xây dựng phải có nội dung về kiểm tra, giám sát việc
thực hiện, chế độ thông tin, báo cáo thường xuyên, sơ kết, tổng kết, thi đua khen
thưởng.
4.3. Biên tập, hoàn chỉnh nội dung kế hoạch
Kế hoạch được xây dựng làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện, vì vậy để nội
dung kế hoạch được đầy đủ và toàn diện, nên đưa dự thảo kế hoạch lấy ý kiến
đóng góp của các cơ quan có liên quan và những người sẽ trực tiếp tham gia triển
khai thực hiện kế hoạch.
10
Sau khi tổng hợp ý kiến đóng góp, cán bộ được phân công tiếp thu, biên tập,
hoàn chỉnh kế hoạch để trình lãnh đạo phê duyệt.
4.4. Dự toán kinh phí thực hiện kế hoạch.
Dựa trên các nội dung của kế hoạch, cần xây dựng đồng thời dự toán kinh phí
cần thực hiện. Việc lập dự toán, quản lý, cấp phát, thanh toán và quyết toán kinh
phí thực hiện theo Thông tư liên tịch Số 14/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 27 tháng
1 năm 2014 Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng
và quyết toán kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Cần
lưu ý: kinh phí cho các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố
cáo của địa phương được bố trí trong dự toán chi thường xuyên hàng năm theo
quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
4.5. Trình phê duyệt kế hoạch
Dự thảo kế hoạch và dự toán kinh phí, sau khi được hoàn chỉnh phải được
người có thẩm quyền phê duyệt.
5. Tổ chức thực hiện kế hoạch
Sau khi kế được phê duyệt, cần có những biện pháp để triển khai thực hiện.
Căn cứ vào phân công nhiệm vụ trong bản kế hoạch được phê duyệt, các cơ quan,
cá nhân có liên quan có trách nhiệm chủ động thực hiện phần công việc của mình
theo đúng tiến độ đã đề ra.
Như vậy, việc xây dựng kế hoạch là một trong những hoạt động nghiệp vụ
quan trọng nhất của cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về khiếu nại, tố cáo tại xã, phường, thị trấn đây là việc cần được chú trọng,
làm cơ sở, tiền đề cho các công việc tiếp theo.
11
Chương II
TUYÊN TRUYỀN MIỆNG
1. Khái niệm, đặc điểm của tuyên truyền miệng
1.1. Khái niệm
Tuyên truyền miệng trong phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo là
hình thức mà người nói trực tiếp nói với người nghe về các quy định của pháp
luật về khiếu nại, tố cáo nhằm nâng cao nhận thức, niềm tin, ý thức pháp luật
cho người nghe, hướng người nghe thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình
theo đúng quy định của pháp luật.
1. 2. Đặc điểm của tuyên truyền
- Ưu điểm của tuyên truyền miệng
Đây là một trong những hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật hiệu quả nhất.
Bởi vì, thông qua việc người nói trực tiếp trình bày các vấn đề liên quan đến pháp
luật khiếu nại, tố cáo, người nghe có thể dễ dàng lĩnh hội được những ý tưởng mà
người tuyên truyền muốn trình bày thông qua những công cụ trực quan sinh
động. Đặc biệt, sự am hiểu về pháp luật khiếu nại, tố cáo, cách diễn đạt, trình bày
của tuyên truyền viên có vai trò rất quan trọng, quyết định sự thành công của việc
tuyên truyền. Người nghe cũng có thể đối thoại trực tiếp với người nói về những
vướng mắc, để đạt yêu cầu, nguyện vọng cụ thể của mình.
+Tuyên truyền miệng có thể lồng ghép với các hình thức phổ biến, giáo dục
pháp luật khác và có thể được thực hiện thông qua rất nhiều hình thức như: hội
nghị, hội thảo, tập huấn, qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo nói,
báo hình, đài phát thanh xã, phường, thị trấn, có thể tiến hành ở bất kỳ nơi nào,
trong bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào. Khi thực hiện tuyên truyền miệng, người
nói có điều kiện thuận lợi để giải thích, phân tích làm sáng rõ nội dung tuyên
truyền, đưa những ví dụ cụ thể của thực tiễn hoạt động giải quyết khiếu nại, tố
cáo để minh hoạ cho nội dung trình bày, giải đáp trực tiếp những thắc mắc của
người nghe. Do vậy, buổi tuyên truyền miệng thường sinh động, thu hút được
người nghe.
+ Quy mô, đối tượng của việc phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo
thông qua tuyên truyền miệng ở cấp xã đa dạng: có thể tổ chức dưới dạng hội
nghị, lớp tập huấn các buổi nói chuyện chuyên đề, thu hút nhiều người nghe hoặc
12
có thể tổ chức dưới hình thức tuyên truyền miệng cá biệt chỉ có một hoặc vài
người nghe. Đối tượng của tuyên truyền miệng rất phong phú, có đủ mọi thành
phần: cán bộ, trí thức, công nhân, nông dân, doanh nhân, phụ nữ, người cao tuổi,
thanh thiếu niên...
- Hạn chế của tuyên truyền miệng:
+ Không thể áp dụng đối với các đối tượng không cùng ngôn ngữ hay thính
giác không hoàn chỉnh. Với các đối tượng này, cần phải có các báo cáo viên,
tuyên truyền viên riêng.
+ Người tuyên truyền miệng vừa phải có kiến thức pháp luật chuyên môn vừa
phải có nghiệp vụ sư phạm mới có thể thu hút, lôi cuốn được người nghe. Điều
này không phải ai cũng đáp ứng được.
+ Lời nói không có hình dạng, màu sắc, chỉ tác động vào thính giác. Để khắc
phục hạn chế này, người nói phải biết gây ấn tượng, kích thích lôi cuốn người
nghe. Người nghe phải chăm chú theo dõi, ghi chép để tập trung tư tưởng cao,
chiu khó suy nghĩ mới có thể lĩnh hội được nội dung người nói truyền tải.
+ Phạm vi về không gian có giới hạn, khả năng phát ra của lời nói trực tiếp
củng chỉ ở mức độ nào đó và việc tập hợp một số đông tại thời điểm nhất định
cũng không phải dễ dàng.
+ Dễ chịu tác động của các yếu tố ngoại cảnh do tập trung đông người và ở các
địa điểm khác nhau.
2. Một số hình thức tuyên truyền miệng
2. 1. Tập huấn về pháp luật khiếu nại, tố cáo ở cấp xã
Lớp tập huấn về pháp luật khiếu nại, tố cáo thực chất là một lớp học pháp luật
nhằm bồi dưỡng kiến thức pháp luật về khiếu nại, tố cáo cho các học viên. Các
lớp tập huấn không chỉ trang bị cho học viên những nội dung cơ bản của các văn
bản pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói chung mà còn cả những kiến thức nghiệp
vụ có tính chất chuyên môn sâu để học viên có thể vận dụng được trên thực tế.
Chẳng hạn như: thủ tục tiếp nhận và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo; quy trình
giải quyết một vụ việc khiếu nại, tố cáo đối với chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp xã;
những công việc uỷ ban nhân dân cấp xã phải làm khi xảy ra khiếu nại, tố cáo
đông người…
13
Chính vì vậy, đối tượng của các lớp tập huấn có phần hẹp hơn đối tượng của
các hình thức tuyên truyền miệng khác, chủ yếu là cán bộ, công chức và đại diện
các tổ chức chính trị – xã hội cấp xã; trưởng thôn, bản, ấp, tổ dân phố, tuyên
truyền viên pháp luật.
Để các lớp tập huấn đạt chất lượng cao, chỉ nên tổ chức lớp ở quy mô nhỏ và
vừa, học viên dễ có điều kiện tiếp cận và trao đổi trực tiếp với giảng viên, trong
một số trường hợp có thể làm các tình huống thực hành ngay tại lớp học để học
viên dễ dàng nắm bắt vấn đề. Việc tổ chức lớp tập huấn cũng cần phải hết sức
chú ý các vấn đề như: bố trí thời gian hợp lý để triệu tập đúng, đủ học viên; có
quy chế để việc học tập được nghiêm túc, nhất là đối với các xã miền núi, vùng
sâu, vùng xa, việc đi lại khó khăn; nơi mở lớp tập huấn nên có trang trí, có phần
khai mạc, bế mạc để lớp học trang trọng và tăng tính hiệu quả.
Cuối buổi tập huấn hoặc cuối khoá, giảng viên nên tổ chức viết thu hoạch hoặc
kiểm tra, trao đổi để nâng cao ý thức, tinh thần học tập của học viên.
2. 2. Nói chuyện chuyên đề
Nói chuyện về một lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội... gắn với quy định của
pháp luật về khiếu nại, tố cáo (hay còn gọi la nói chuyện chuyên đề). Nói chuyện
chuyên đề không chỉ giúp cho người nghe nâng cao nhận thức pháp luật về khiếu
nại, tố cáo mà còn trang bị cho họ những hiểu biết sâu rộng về những lĩnh vực
liên quan.
Đối tượng nghe nói chuyện chuyên đề là đông đảo tuyên truyền viên pháp luật,
thành viên câu lạc bộ pháp luật và người dân ở cơ sở. Do vậy, báo cáo viên phải
là người có kiến thức về lĩnh vực khiếu nại, tố cáo và có hiểu biết sâu rộng về các
lĩnh vực chính trị, xã hội và có kinh nghiệm thực tiễn… nhằm tạo nên sức hẫp
dẫn của buổi nói chuyện thu hút đông đảo mọi người tham dự. Ví dụ, buổi nói
chuyện về vấn đề đền bù và giải phóng mặt bằng: nội dung buổi nói chuyện này
không đóng khung trong phạm vi các quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà
mở rộng ra nhiều lĩnh vực có liên quan như: những lợi ích kinh tế, xã hội mang
lại khi thực hiện nhanh việc giải phóng mặt bằng, những chính sách hỗ trợ của
nhà nước trong việc đền bù giải phóng mặt bằng... Điều này không chỉ giúp cho
người dân hiểu được những quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói chung
mà còn thấy được mục đích và ý nghĩa của việc thực hiện đúng các quy định đó.
14
2. 3. Lồng ghép nội dung phổ biến, giáo dục với các buổi họp ở cấp xã
Trong thực tế không phải lúc nào cũng tổ chức được một buổi phổ biến, giáo
dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo độc lập mà có khi phải lồng ghép với cuộc họp
khác. Do đối tượng dự họp rất đa dạng có thể là cán bộ công chức cấp xã; trưởng
thôn bản, tổ dân phố; đại diện các tổ chức chính trị xã hội; người dân, cho nên
tuỳ từng đối tượng mà người tuyên truyền lựa chọn nội dung để lồng ghép cho
phù hợp. Việc lựa chọn nội dung pháp luật về khiếu nại, tố cáo để lồng ghép có
thể dựa trên sự chỉ đạo của cấp trên hoặc do cán bộ tuyên truyền đề xuất trên cơ
sở tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của địa phương, yêu cầu thực tế đặt ra.
Cần phải lưu ý rằng, khi lồng ghép nội dung pháp luật về khiếu nại, tố cáo vào
một buổi họp, nên đặt vấn đề sao cho người nghe thấy rằng sự quan trọng và cấp
thiết của nội dung pháp luật về khiếu nại, tố cáo nên phải lồng ghép vào cuộc họp
này mà không phải tổ chức riêng thành một buổi khác. Cần xác định thời điểm,
bối cảnh để phổ biến văn bản pháp luật về khiếu nại, tố cáo hợp lý để tạo không
khí thoải mái, dễ tiếp thu cho người nghe. Đối với hội nghị, cuộc họp ở cấp xã thì
có thể lựa chọn thời điểm phổ biến pháp luật vào giữa hội nghị, cuộc họp, sau đó
là chuyển sang nội dung khác; trong trường hợp điều kiện không cho phép, cũng
có thể lựa chọn thời điểm phổ biến vào cuối buổi họp.
2.4. Tuyên truyền miệng cá biệt
Tuyên truyền miệng cá biệt về khiếu nại, tố cáo là hình thức phổ biến, giáo dục
pháp luật khiếu nại tố cáo trong hoạt động tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
của uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hay trong hoạt động tư vấn pháp luật
của cán bộ pháp lý cấp xã đối với người dân…
Đây là quá trình người có trách nhiệm tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
cán bộ tư vấn trực tiếp nói với người khiếu nại, tố cáo các quy định của pháp luật
về khiếu nại, tố cáo để họ hiểu và tự giác tuân thủ pháp luật.
Thông thường trong hình thức tuyên truyền này, số lượng người nghe chỉ có
một hoặc vài ba người nhưng cũng có thể là nhiều người (đối với trường hợp
khiếu nại, tố cáo đông người). Nếu các hình thức tuyên truyền miệng khác cung
cấp cho người nghe hiểu biết chung về pháp luật thì tuyên truyền cá biệt cung cấp
cho người nghe những nội dung pháp luật khiếu nại, tố cáo để vận dụng trong
trường hợp hoàn cảnh cụ thể mà người nghe đang quan tâm.
15
Để thực hiện tuyên truyền miệng cá biệt có hiệu quả, đòi hỏi người nói phải có
trình độ nghiệp vụ giỏi, phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức về tâm lý xã hội và
đặc biệt phải am hiểu pháp luật về khiếu nại, tố cáo cũng như các chính sách của
Đảng và Nhà nước liên quan đến lĩnh vực khiếu nại, tố cáo. Trong khi tuyên
truyền, người nói không nên có thái độ áp đặt, mệnh lệnh mà cần phải nhã nhặn,
khiêm tốn, đúng mực. Tuỳ từng trường hợp, tuỳ từng đối tượng mà có phương
pháp tuyên truyền cho phù hợp. Nếu đối tượng có thái độ nóng nảy thì cán bộ cần
phải nhã nhặn, mềm dẻo để giải thích; nếu họ tỏ ra xúc động thì cần tạo điều kiện
để họ bình tĩnh trở lại và lắng nghe. Ngoài ra, người nói cũng nên tìm hiểu qua
hoàn cảnh của họ, những vướng mắc, bức xúc của họ; vận dụng đạo lý, phong
tục, tập quán, mục đích, ý nghĩa của các quy định của pháp luật để giải thích,
thuyết phục họ.
Để buổi tuyên truyền miệng cá biệt đạt kết quả, cán bộ làm công tác này cần
chuẩn bị tốt các nội dung sau đây:
- Các quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo liên quan đến vấn đề người khiếu
nại, tố cáo quan tâm, bức xúc;
- Dự kiến các tình huống câu hỏi mà người khiếu nại, tố cáo có thể hỏi, chất
vấn;
- Phong tục tập quán ở địa phương, đạo lý và những kiến thức xã hội có thể
phải vận dụng;
- Nhân thân, hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật, điều kiện hoàn cảnh, truyền
thống gia đình, nguyện vọng... của người khiếu nại, tố cáo.
Như vậy, hình thức tuyên truyền miệng cá biệt đòi hỏi người nói phải vận
dụng kỹ năng tuyên tuyền miệng hết sức tinh tế. Người tuyên truyền còn phải là
người có uy tín, nhạy cảm, tâm lý, hiểu biết xã hội và có kinh nghiệm trong công
tác này. Phải làm sao để người nghe có cảm giác tin tưởng vào những thông tin
mà người nói cung cấp là đúng đắn. Muốn vậy, người nói phải có thái độ hết sức
chân thành, đôi khi cần phải tâm tình, chia sẻ, tỏ ra thông cảm với người nghe về
hoàn cảnh của họ. Có như vậy, người nghe mới cảm thấy thuyết phục và khi đó
hiệu quả của hình thức này mới đạt được.
3. Kỹ năng tuyên truyền miệng
3.1. Gây thiện cảm ban đầu cho người nghe
Trong tuyên truyền miệng, giữa người nói và người nghe, nhất là lần đầu bao
giờ cũng có hàng rào tâm lý ngăn cách. Vì vậy gây thiện cảm ban đầu của người
nói đối với người nghe rất quan trọng. Trong nhiều trường hợp, nó ảnh hưởng tới
16
tâm lý của người nghe trong suốt buổi tuyên truyền. Nếu người tuyên truyền gây
được thiện cảm ngay từ ban đầu cho người nghe thì các giai đoạn sau của buổi
tuyên truyền sẽ diễn ra rất thuận lợi. Có thể nói rằng, nếu tạo được thiện cảm ban
đầu thì coi như buổi tuyên truyền đã thành công một nửa. Chính vì vậy, tuyên
truyền viên phải làm sao để gây được thiện cảm ngay từ ban đầu cho người tham
gia.
Thiện cảm ban đầu thể hiện ở nhân thân và biểu hiện của người nói khi bước
lên bục tuyên truyền, cách dẫn dụ vào đề. Với các buổi tuyên truyền miệng ở cấp
xã, danh tiếng, học hàm, học vị, và nhất là phẩm chất đạo đức của người nói là
nguồn thiện cảm ban đầu cho người nghe; kích thích người nghe háo hức chờ đón
buổi tuyên truyền.
Thiện cảm ban đầu tạo ra sự hứng thú, say mê của người nghe, củng cố được
niềm tin vào vấn đề tuyên truyền. Thiện cảm ban đầu còn tạo ra bởi khung cảnh
của hội trường, dáng vẻ bề ngoài, y phục, nét mặt, cử chỉ phong thái, lời giao tiếp
ban đầu của người nói. Người tuyên truyền cần phải tạo ra dáng vẻ tự tin, đĩnh
đạc; nét mặt tươi và gần gũi; cử chỉ, phong thái đúng mực; giọng nói to, rõ ràng.
Đặc biệt, những tuyên truyền viên có năng khiếu dí dỏm, hài hước sẽ có lợi thế
rất lớn. Khi bắt đầu, người tuyên truyền nên có lời chào mừng, câu mở đầu, dí
dỏm hài hước, công bố thời gian chương trình làm việc rõ ràng, thoải mái... sẽ
gây được thiện cảm ban đầu cho người nghe.
Khi bắt đầu vào vấn đề, người tuyên truyền cần tóm lược một số nội dung cơ
bản nhất của buổi nói chuyện, nội dung mà người nghe quan tâm và muốn tìm
hiểu nhiều nhất. Chẳng hạn như: quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo;
thời hiệu khiếu nại, tố cáo; trình tự, thủ tục khiếu nại, tố cáo; khi nào người khiếu
nại, được khởi kiện vụ việc tại toà án… Cách đặt vấn đề như vậy sẽ khiến người
nghe nắm được trọng tâm của buổi nói chuyện, đồng thời dễ theo dõi các nội
dung mà tuyên truyền viên sẽ trình bày.
3.2. Tạo sự hấp dẫn cho người nghe
Nghệ thuật tuyên truyền miệng là tạo sự hấp dẫn, gây ấn tượng bằng giọng nói,
điệu bộ ngôn ngữ. Giọng nói phải rõ ràng, mạch lạc nhưng truyền cảm, chân
thành, tránh lối nói đều đều. Bên cạnh đó, giọng nói và âm lượng phải thay đổi
theo nội dung và phải nhấn mạnh vào những điểm quan trọng cần phải chú ý.
17
Việc sử dụng điệu bộ cũng rất quan trọng, tạo nên hiệu quả tác động rất lớn.
Động tác, cử chỉ cần phải phù hợp với nội dung và giọng nói để nâng cao hiệu
quả tuyên truyền của lời nói. Vẻ mặt của người nói cần thay đổi theo diễn biến
của nội dung, có lúc cần phải tươi vui, có lúc cũng cần trầm lại. Khi nói cần chú
ý nhìn vào một nhóm người ngồi dưới, thỉnh thoảng người nói cần thay đổi vị trí
nhìn để tạo sự chú ý của người nghe, để người nghe thấy rằng tuyên truyền viên
có thể bao quát được hết các vị trí trong buổi nói chuyện.
Bên cạnh đó, tuyên truyền viên cũng nên đưa ra những ví dụ cụ thể, những
tình huống thực tế sinh động trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo để minh
họa cho phần lý thuyết, có thể đặt câu hỏi để tăng thêm sự chú ý của người nghe,
không nên để người nghe vào vị trí quá thụ động. Tuyên truyền viên phải sử
dụng chính xác, đúng mực các thuật ngữ pháp lý, thuật ngữ chuyên ngành và
ngôn ngữ phổ thông, đối với những thuật ngữ pháp lý và chuyên ngành ít phổ
biến, cần có sự giải thích để người nghe nắm rõ.
3.3. Bảo đảm các nguyên tắc sư phạm
Người tuyên truyền ở vị trí này cũng đóng vai trò gần như một giảng viên, do
đó họ cũng cần tôn trọng các nguyên tắc sư phạm. Từ bố cục bài nói, diễn đạt các
đoạn văn, liên kết giữa các đoạn văn đến cách nói đều phải rõ ràng, mạch lạc, lô
gíc. Người nghe cần được dẫn dắt vấn đề từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức
tạp, từ những vấn đề chung đến vấn đề cụ thể, chi tiết hoặc ngược lại.
Tuỳ từng vấn đề mà dùng lý luận luận giải cho thực tiễn hoặc từ thực tiễn mà
đi sâu vào lý luận. Tất cả các biện pháp trên đều nhằm mục đích cuối cùng là để
người nghe nắm bắt vấn đề một cách dễ dàng, sâu sắc và toàn diện đối với những
nội dung mà tuyên truyền viên nêu ra. Tuy nhiên, dù diễn giải rộng hay hẹp đều
phải luôn bám sát trọng tâm của vấn đề tuyên truyền hướng đến.
3.4. Sử dụng phương pháp thuyết phục
Tuyên truyền miệng về pháp luật chủ yếu dùng phương pháp thuyết phục với
ba bộ phận cấu thành là chứng minh, giải thích và phân tích.
- Chứng minh là cách thuyết phục chủ yếu dựa vào các dẫn chứng xác thực để
làm sáng tỏ và xác nhận tính đúng đắn của vấn đề. Các dẫn chứng đưa ra gồm
các quy định pháp luật, các số liệu, sự kiện, hiện tượng, nhân chứng, danh ngôn,
kinh điển. Các dẫn chứng này phải chính xác, tiêu biểu, toàn diện và sát hợp với
vấn đề cần chứng mình. Có như vậy mới có sức thuyết phục.
18
- Giải thích là việc dùng lý lẽ để giảng giải giúp người nghe hiểu rõ và hiểu
đúng vấn đề. Lập luận trong giải thích phải chặt chẽ, chính xác, mạch lạc, khúc
triết, không ngụy biện.
- Phân tích là mổ xẻ vấn đề nhằm tìm được đặc điểm, bản chất, điểm mạnh,
điểm yếu, điểm tốt điểm xấu, sự phù hợp không phù hợp… của vấn đề. Việc
phân tích phải dựa trên cơ sở khoa học, không được cường điệu mặt này, hạ mặt
kia, tô hồng hoặc bôi đen sự việc. Sau khi phân tích phải có kết luận, đánh giá,
hướng người nghe vào định hướng tư duy đúng đắn, không làm cho người nghe
dao động, hoang mang.
4. Các bước tiến hành tuyên truyền miệng
Để tiến hành việc tuyên truyền miệng về pháp luật khiếu nại, tố cáo, trước tiên
phải xây dựng kế hoạch cho việc tuyên truyền (xem phần Xây dựng kế hoạch ở
Chuyên đề 1 tài liệu này). Việc tuyên truyền miệng về pháp luật khiếu nại, tố cáo
cần qua 2 bước: chuẩn bị tuyên truyền và tiến hành tuyên truyền trực tiếp.
4.1. Bước chuẩn bị
Thứ nhất: người nói phải tiến hành tìm hiểu để nắm vững đối tượng tuyên
truyền qua các yếu tố: về số lượng; thành phần (trí thức, công nhân, nông dân,
thanh niên, phụ nữ, ...); trình độ văn hoá; tình hình thực hiện pháp luật về khiếu
nại, tố cáo, tình trạng khiếu nại, tố cáo ở cơ sở; ý thức pháp luật và nhu cầu tìm
hiểu pháp luật của người dân…
Có nhiều cách để tuyên truyền viên có thể nắm vững đối tượng: hoặc bằng
phương pháp trực tiếp (tự điều tra tìm hiểu, gặp gỡ, quan sát..), hoặc bằng
phương pháp gián tiếp (qua tài liệu, sách báo, báo cáo tổng kết, trao đổi với
người tổ chức buổi tuyên truyền...). Cần có thông tin đầy đủ từ phía cơ quan tổ
chức tuyên truyền về thành phần tham dự. Chú ý những thay đổi có thể diễn ra về
thành phần người nghe.
Bước này rất quan trọng giúp người tuyên truyền nắm được những thông tin sơ
bộ về đối tượng tuyên truyền để có những chuẩn bị thích hợp, tránh tình trạng bị
động.
Thứ hai: Người nói phải nghiên cứu để có kiến thức sâu rộng về lĩnh vực
khiếu nại, tố cáo (các quy định pháp luật, đường lối của Đảng, các tài liệu lý
luận, sách giáo khoa, tài liệu của nước ngoài nói về lĩnh vực khiếu nại, tố cáo).
Để có được điều đó đòi hỏi người nói ngoài trình độ chuyên môn tốt cần phải có
19
một quá trình nghiên cứu, tích lũy, sưu tầm, nếu là những người đã qua kinh
nghiệm tham gia công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thì sẽ càng thuận lợi.
Thứ ba: Tuyên truyền viên phải nắm vững nội dung văn bản bao gồm: bản
chất pháp lý của vấn đề được văn bản điều chỉnh, sự cần thiết ban hành văn bản,
đối trượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh của văn bản; ý nghĩa của các quy
phạm, đặc biệt là ý nghĩa về mặt quản lý nhà nước, về tác dụng điều chỉnh của
từng quy phạm cụ thể. Ngoài ra, người tuyên truyền cũng cần phải nghiên cứu
các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản, tài liệu khác có liên quan đến
văn bản tuyên truyền.
Để hiểu được sâu sắc bản chất của vấn đề như vậy, người tuyên truyền cần
nắm được thông tin liên quan đến văn bản từ giai đoạn soạn thảo, lấy ý kiến cho
đến khi ban hành.
Người nói phải nắm được một cách toàn diện không những nội dung văn bản
mà còn những vấn đề liên quan đến việc ra đời và triển khai văn bản đó như: tư
tưởng, quan điểm chỉ đạo của Đảng về việc ban hành văn bản đó, kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội hoặc trực tiếp hơn là qua tờ trình về việc ban hành văn bản,
qua các bài báo, bình luận khoa học về văn bản, ngoài ra trong quá trình tuyên
truyền, người nói cũng cần giới thiệu có chọn lọc ý kiến đóng góp của các
chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà hoạt động thực tiễn liên quan đến văn bản đó để
trong quá trình trình bày, người tuyên truyền đưa ra giải thích, minh họa đan xen
chứ không chỉ đơn thuần là trình bày các quy định của văn bản. Chẳng hạn, tại
sao pháp luật khiếu nại hiện nay lại quy định sự tham gia của luật sư trong quá
trình khiếu nại và giải quyết khiếu nại, ý kiến của các nhà khoa học, các chuyên
gia pháp lý về vấn đề này như thế nào hay tại sao quy định việc đối thoại trong
giải quyết khiếu nại lại là bắt buộc…Có như vậy, bài nói chuyện mới trở nên sinh
động, không gây nhàm chán cho người nghe.
Thứ tư: cần sưu tầm tài liệu dẫn chứng, minh họa vì nó ảnh hưởng đến chất
lượng độ sâu và sức thuyết phục của buổi tuyên truyền. Tài liệu, dẫn chứng, minh
họa phải có tính chính thức, độ tin cậy cao. Người tuyên truyền có thể sưu tầm ở
nhiều nguồn khác nhau như: thông qua báo, tạp chí chuyên ngành (ví dụ: Báo
Thanh tra, Tạp chí Thanh tra, báo Nhân dân, báo Pháp luật…), thông qua đài phát
thanh, truyền hình hay các trang thông tin điện tử (trang web). Tuy nhiên, cần lưu
ý để chọn lọc những thông tin phù hợp với nội dung của buổi tuyên truyền. Cần
tránh dẫn chứng, minh họa những tài liệu thuộc danh mục bí mật của Đảng và
20
Nhà nước hay những số liệu dẫn chứng đã cũ không còn phù hợp, không có tính
thời sự.
Thứ năm: chuẩn bị đề cương tuyên truyền miệng (bao gồm đề cương sơ bộ và
đề cương chi tiết). Đề cương có vai trò rất quan trọng đối với người tuyên truyền,
nó giúp cho người nói trình bày các vấn đề một cách mạch lạc, lôgíc, không bỏ
sót hay trùng lặp vấn đề. Đồng thời, căn cứ vào đề cương, người tuyên truyền xác
định được việc phân bổ thời gian cho hợp lý, tránh tình trạng thừa hoặc thiếu thời
gian khi trình bày.
Yêu cầu đối với đề cương là phải đầy đủ về nội dung, thích hợp với đối tượng,
lập luận và bố cục phải chặt chẽ. Khi chuẩn bị đề cương cần chú ý những yêu cầu
sau:
+ Đề cương không phải là bài viết hoàn chỉnh, cụ thể mà là tài liệu nêu trọng
tâm cần tập trung tuyên truyền, phổ biến để dựa vào đó người nói phân tích, mở
rộng những vấn đề nêu trong đề cương.
+ Cần lựa chọn vấn đề cốt lõi của văn bản để làm ý chính. Trong khi triển khai
ý chính cần liên hệ làm rõ mối quan hệ của văn bản với hệ thống pháp luật về
khiếu nại, tố cáo hiện hành;
+ Để thu hút người nghe và tạo điều kiện cho người nghe hiểu văn bản có tính
hệ thống, các phần trong đề cương phải có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó lôgíc, bổ
sung cho nhau nhằm mục đích làm sáng tỏ vấn đề mà người nói muốn trình bày.
4.2. Tiến hành tuyên truyền
Thông thường, buổi phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo bằng
tuyên truyền miệng bao gồm 03 phần như sau:
- Phần mở đầu: là phần giới thiệu vấn đề, khơi gợi nhu cầu của người nghe.
Trong phần này, người nói phải nêu được chủ đề của buổi tuyên truyền. Có nhiều
cách để vào đề tùy thuộc khả năng diễn thuyết của tuyên truyền viên, với tuyên
truyền miệng về pháp luật khiếu nại, tố cáo, cách vào đề có hiệu quả thường là
nêu một số vụ việc hoặc gợi ra những vấn đề bức xúc về khiếu nại, tố cáo tại địa
bàn hoặc ở các địa phương khác mà báo chí và người dân đang quan tâm.
Trong phần vào đề, người nói phải nêu được một số vấn đề chủ yếu mà người
nghe cần tìm hiểu nhất để thu hút sự chú ý. Ví dụ khi tuyên truyền cho đối tượng
là nông dân về luật khiếu nại, tố cáo thì những vấn đề người dân quan tâm là
21
quyền và nghĩa vụ của mình khi thực hiện việc khiếu nại, tố cáo; khiếu nại lần
đầu gửi tới đâu, cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết...
- Nội dung: là phần chủ yếu của buổi nói chuyện, cần chú ý nêu những điểm
mới, có tính thời sự để người nghe chú ý; khi tuyên truyền không nên đọc nguyên
văn bản để tránh sự nhàm chán. Khi nói cần phân tích, giải thích và nêu ý nghĩa
của văn bản pháp luật đó.
Trong tuyên tuyền văn bản pháp luật về khiếu nại, tố cáo phải chú ý đến hai
điều, đó là: lựa chọn cách trình bày phù hợp với đối tượng, nhất là tuyên truyền
miệng ở cấp xã với đối tượng tuyên truyền có trình độ hiểu biết không cao và nêu
được vấn đề cơ bản, cốt lõi, trọng tâm để người nghe thâu tóm được tinh thần văn
bản, sử dụng hợp lý ngôn ngữ nói và cử chỉ động tác.
Đối tượng tuyên truyền miệng ở cấp xã rất phong phú, tuyên truyền viên có thể
xác định được mục đích, yêu cầu, nội dung trọng tâm, phương pháp trình bày cho
phù hợp với từng đối tượng, cụ thể như sau:
+ Với đối tượng là cán bộ, công chức cấp xã: báo cáo viên cần phải sử dụng
phương pháp phân tích cụ thể thực tiễn rồi sau đó khái quát thành những đánh
giá, lý luận. Người nói cần làm rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan
quản lý nhà nước, cán bộ nhà nước; các hình thức vi phạm và mức độ xử lý, thẩm
quyền xử lý; tổ chức thi hành văn bản...
+ Với đối tượng là cán bộ tuyên truyền: Có thể dùng phương pháp phân tích cụ
thể thực tiễn rồi sau đó khái quát thành đánh giá, lý luận. Báo cáo viên cần tập
trung nhấn mạnh những nội dung để phục vụ cho công tác tuyên truyền của cán
bộ tuyên truyền như: bản chất, ý nghĩa pháp lý của vấn đề; sự cần thiết, mục đích
của việc ban hành văn bản, những số liệu, tài liệu cần viện dẫn, đối chiếu so
sánh; các vấn đề cần tập trung phổ biến tuyên truyền. Vì cán bộ ở cấp xã là tuyên
truyền viên, hoà giải viên, những người làm công việc bán chuyên trách và phần
đông chưa được đào tạo chuyên môn pháp lý, nên báo cáo viên cần trình bày sao
cho dễ hiểu, dễ nhớ.
+ Với đối tượng là nhân dân: sử dụng phương pháp diễn giải, phân tích là phù
hợp. Cần nêu bản chất ý nghĩa vấn đề, sự cần thiết phải ban hành văn bản, ý
nghĩa của các quy phạm và những vấn đề thiết thực liên quan đến từng đối tượng
thi hành trong văn bản. Báo cáo viên cần đi sâu phân tích quyền, nghĩa vụ của
22
các chủ thể trong quan hệ xã hội được văn bản điều chỉnh, trình tự, thủ tục thực
hiện quyền khiếu nại, khởi kiện, thời hiệu khiếu nại, khởi kiện...
- Phần kết luận: ở phần này, tuyên truyền viên cần điểm lại và tóm tắt những
nội dung cơ bản đã trình bày; những vấn đề mấu chốt và cần lưu ý đối với người
nghe.
Ngoài ra, tuyên truyền viên cũng có thể dành thời gian cần thiết để trả lời các
câu hỏi mà người nghe đang quan tâm hoặc chưa hiểu rõ để làm sáng tỏ vấn đề;
giải đáp những tình huống thực tiễn mà người nghe gặp phải. Thông qua hoạt
động này, tuyên truyền viên có thể đánh giá được mức độ hiểu bài của người
nghe và hiệu quả của buổi tuyên truyền; đồng thời người tuyên truyền cũng có
điều kiện trao đổi, hiểu rõ hơn về đối tượng tuyên truyền để từ đó có rút ra những
kinh nghiệm cho những lần tuyên truyền sau.
Có thể thấy rằng, tuyên truyền miệng là một trong những hình thức phổ biến,
giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo rất hiệu quả. Tuy nhiên, phương thức
tuyên truyền này phụ thuộc khá nhiều vào trình độ, kỹ năng, nghệ thuật của
người nói. Nếu người tuyên truyền biết khai thác tốt những điểm mạnh của hình
thức này thì chắc chắn đây sẽ là một phương thức tuyên truyền hiệu quả nhất,
góp phần tạo ra những thay đổi đáng kể trong nhận thức của người dân xã,
phường, thị trấn về pháp luật khiếu nại, tố cáo.
23
Chương III
SỬ DỤNG BÁO CHÍ VÀ
MẠNG LƯỚI TRUYỀN THANH CƠ SỞ
I. Phổ biến, giáo dục thông qua báo chí
1. Khái niệm, vai trò của việc phổ biến, giáo dục thông qua báo chí
1.1. Khái niệm
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội.
Báo chí ở Việt Nam gồm: báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử. Trong đó:
- Báo in là thể loại báo truyền tải thông tin đến người đọc bằng chữ viết.
- Báo nói là thể loại báo truyền tải tiếng nói, âm thanh qua làn sóng điện phát
từ các đài phát thanh, có khả năng truyền tin nhanh, chứa đựng nội dung phong
phú kết hợp với kỹ thuật đặc biệt (âm thanh, nhạc, lời nói).
- Báo hình truyền dẫn tiếng nói, hình ảnh tới người xem, người nghe bằng hệ
thống tín hiệu điện tử.
- Báo điện tử là loại báo đa phương tiện, tức là có thể tích hợp được cả chữ
viết, âm thanh, hình ảnh, đặc biệt báo điện tử có thể thực hiện dễ dàng việc trao
đổi thông tin với công chúng.
Với chức năng là phương tiện thông tin đại chúng, báo chí Việt Nam đã thực
hiện tốt nhiệm vụ của mình, trong đó có nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật
khiếu nại, tố cáo.
Phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo trên báo chí là quá trình
người làm công tác này sử dụng các loại hình báo chí để đăng tải các thông tin về
pháp luật khiếu nại, tố cáo nhằm tác động có mục đích, có kế hoạch, hình thành
cho người dân những tri thức, tình cảm và hành vi phù hợp với quy định của
pháp luật khiếu nại, tố cáo hiện hành.
1.2. Vai trò
Với đặc tính cơ bản của báo chí là tính phổ cập, nhanh chóng, kịp thời và rộng
khắp, do vậy trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật
khiếu nại, tố cáo nói riêng, báo chí đóng vai trò quan trọng, là công cụ, phương
tiện hữu hiệu đưa pháp luật khiếu nại, tố cáo đến với cán bộ, nhân dân, giúp cho
đông đảo cán bộ, nhân dân dễ dàng tiếp thu, nắm bắt, tìm hiểu, nâng cao nhận
thức, ý thức pháp luật. Báo chí góp phần phản ánh thực tiễn thi hành pháp luật
24
khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn dư luận xã hội ủng hộ, biểu dương người tốt, việc
tốt trong chấp hành pháp luật khiếu nại, tố cáo...
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật khiếu nại, tố cáo trên các loại hình
báo chí có các vai trò sau đây:
a) Thực hiện chức năng giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo: trong mỗi loại
hình báo chí có rất nhiều cách thể hiện như: tin, bài, tọa đàm, diễn đàn, truyện
ngắn, tiểu phẩm, phim truyền hình, phim tài liệu,…báo chí chuyển tải đến công
chúng lượng tri thức phong phú đa dạng về pháp luật khiếu nại, tố cáo. Việc khai
thác, sử dụng các hình thức văn hoá nghệ thuật để phổ biến giáo dục pháp luật,
làm cho các quy định của pháp luật đi vào lòng người và để lại ấn tượng một
cách sâu sắc. Nhờ các loại hình nghệ thuật này, báo chí giúp cho công dân dễ
hiểu, dễ nhớ các quy định pháp luật khiếu nại, tố cáo nói riêng và pháp luật nói
chung, thông qua đó hướng dẫn công dân cách ứng xử phù hợp với yêu cầu của
pháp luật khiếu nại, tố cáo.
b) Giúp người dân có được hiểu biết về pháp luật khiếu nại, tố cáo: báo chí
thường xuyên cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin về hoạt động tiếp dân và giải
quyết khiếu nại, những điển hình của các địa phương làm tốt công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Thông tin này giúp người dân thấy được bức tranh toàn cảnh về
hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo. Mặt khác, báo chí còn cung cấp cho công
dân nắm được các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và hoạt động giải
quyết khiếu nại, xử lý tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Với những
việc làm như vậy báo chí đã cung cấp cho người dân những hiểu biết về pháp luật
khiếu nại, tố cáo, góp phần hình thành ý thức tự giác tuân thủ pháp luật về khiếu
nại, tố cáo. Khi tính tự giác hình thành nó sẽ trở thành động lực giúp người dân
có được định hướng để lựa chọn hành vi ứng xử phù hợp với yêu cầu của pháp
luật khiếu nại, tố cáo.
c) Báo chí giúp người dân giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo:
bằng việc phổ biến, giáo dục pháp luật, báo chí cung cấp cho người dân những
thông tin về hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, các quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Những thông tin này giúp cho
người dân giám sát hoạt động của cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo. Mặt khác, những thông tin mà báo chí cung cấp cũng giúp cho các cơ
quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo có sự điều chỉnh hoạt động cho
25