Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lý công tác huy động vốn tại ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển việt nam chi nhánh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 121 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGUYỄN MẠNH TUẤN

NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CÔNG TÁC HUY
ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ
PHÁT TRIỂN
VIỆT NAM - CHI NHÁNH VĨNH PHÚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ


ii
THÁI NGUYÊN, 2013


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGUYỄN MẠNH TUẤN

NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CÔNG TÁC HUY
ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT
TRIỂN
VIỆT NAM - CHI NHÁNH VĨNH PHÚC
Chuyên ngành: QUẢN LÝ KINH TẾ
Mã số: 60.34.04.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VĂN BÁ THANH


iv
THÁI NGUYÊN, 2013


i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu,
Khoa sau đại học, cùng các thầy, cô giáo trong trường Đại học kinh tế và
Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên đã tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho
tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Văn Bá Thanh Giáo viên trực tiếp hướng dẫn đã tận tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu,
giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám đốc, đồng nghiệp tại BIDV đã
tạo điều kiện cung cấp số liệu, đóng góp ý kiến và động viên tác giả trong
suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2013
Tác giả luận văn

Nguyễn Mạnh Tuấn


ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả đã nêu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, trung thực, xuất

phát từ tình hình thực tế của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
- Chi nhánh Vĩnh Phúc (BIDV.Vĩnh Phúc).
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2013
Tác giả luận văn

Nguyễn Mạnh Tuấn


iii
MỤC LỤC


iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Agribank
ATM
BIDV
BIDVVĩnh Phúc
CSXH
FTP
GDP
KH
NSNN
NH
NVHĐ
MB
VCB
NHTM
NHNN

NHTMCP
NHTW
NN
VIBBank
Vietinbank
VPBank
ACB
DongAbank
Abbank
SeaBank
SHB
Techcombank
MeritimeBank
VDB
CCF
VBSP

Nội dung
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Máy giao dịch tự động
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Chi nhánh
Vĩnh Phúc
Chính sách xã hội
Giá điều chuyển vốn
Tổng sản phẩm quốc nội
Khách hàng
Ngân sách nhà nước
Ngân hàng
Nguồn vốn huy động

Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội
Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng trung ương
Nhà nước
Ngân hàng thương mại cổ phần quốc tế Việt Nam
Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng
Ngân hàng TMCP Á Châu
Ngân hàng TMCP Đông Á
Ngân hàng TMCP An Bình
Ngân hàng TMCP Đông Nam Á
Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội
Ngân hàng TMCP kỹ thương Việt Nam
Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam
Ngân hàng phát triển Việt Nam
Quỹ tín dụng nhân dân Trung Ương
Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam


v
DANH MỤC CÁC BẢNG


vi
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những yếu tố giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát
triển kinh tế của một Quốc gia là “nguồn vốn đầu tư” và “kênh dẫn vốn đầu
tư”, việc tạo ra kênh dẫn vốn và thu hút nguồn vốn đầu tư được hầu hết các
nước trú trọng quan tâm vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế.
Đối với Việt Nam, hiện đang trong quá trình đổi mới hướng tới một
nước “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa” do đó vốn đang trở thành một vấn đề
cấp thiết cho quá trình tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước. Giữ vai
trò quan trọng trong việc tạo kênh dẫn vốn và thu hút vốn cho nền kinh tế
hiện nay là hệ thống các Ngân hàng thương mại.
Hệ thống các Ngân hàng thương mại với vai trò trung gian tài chính, là
nơi tích tụ, tập trung, khơi dậy các nguồn lực cho sự phát triển kinh tế thông
qua việc thu hút và cung cấp vốn cho nền kinh tế. Do đó, Huy động vốn là
một trong những hoạt động chủ yếu và có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại
và phát triển của mỗi Ngân hàng. Đặc biệt tình hình khan hiếm vốn hiện nay
huy động vốn đang trở thành hoạt động “nóng” được các ngân hàng đặc biệt
quan tâm. Trong bối cảnh khó khăn hiện nay khi mà các tổ chức tín dụng
(TCTD) không ngừng gia tăng phát triển mạng lưới Chi nhánh/điểm giao
dịch, tích cực ứng dụng các công nghệ Ngân hàng tiên tiến và hiện đại, chủ
động nghiên cứu và triển khai nhiều sản phẩm dịch vụ Ngân hàng mang tính
“đột phá, chiến lược” từ đó thu hút và đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao
của khách hàng.
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Vĩnh
Phúc là một trong 114 Chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam - một trong 5 NHTM nhà nước, đã và đang từng bước khẳng định
là “con chim đầu đàn’ của hệ thống NHTM ở Việt Nam. Bởi vậy, cũng như



2
các Ngân hàng thương mại khác, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
Nam - Chi nhánh Vĩnh Phúc luôn quan tâm đặc biệt tới hoạt động huy động
vốn, nhờ đó Ngân hàng đã huy động được lượng vốn không nhỏ đáp ứng nhu
cầu cho vay và đầu tư. Tuy nhiên, kết quả huy động vốn của Chi nhánh đang
được đánh giá là chưa xứng với tiềm năng cũng như thế mạnh của Chi nhánh.
Trong những năm gần đây, do chịu sự ảnh hưởng từ cuộc khủng
khoảng kinh tế toàn cầu cũng như diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế
trong nước, hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, lạm phát tăng
cao, nguồn vốn đầu tư ngày một hạn chế và rất khó tiếp cận đã làm ảnh hưởng
không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại, dấu
hiệu khó khăn về thanh khoản tại các tổ chức tín dụng đã thể hiện ngày một rõ
nét, đây chính là nguyên nhẫn dẫn đến các cuộc chạy đua lãi suất làm xáo trộn
thị trường vốn trong thời gian vừa qua, hàng loạt các tổ chức tín dụng vi phạm
quy định về trần lãi suất đặc biệt là hệ thống các Ngân hàng thương mại cổ
phần mới thành lập hoặc có quy mô vốn nhỏ đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới
hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
trong đó có Chi nhánh Vĩnh Phúc.
Trước tình hình đó, để giữ vững nền khách hàng hiện có cũng như gia
tăng phát triển thêm khách hàng mới thì không cách nào khác buộc Ngân
hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Vĩnh Phúc phải tìm
mọi biện pháp nâng cao hiệu qủa quản lý công tác huy động vốn.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế, Tôi lựa chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả
quản lý công tác huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển
Việt Nam - Chi nhánh Vĩnh Phúc” cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Đề tài nghiên cứu với mục đích nhìn nhận, đánh giá thực trạng tình
hình huy động vốn tại BIDV Vĩnh Phúc để làm căn cứ đưa ra các giải pháp



3
quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trong công tác huy động vốn của
Ngân hàng trong thời gian tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về huy động vốn trong ngân hàng
thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình huy động vốn tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Vĩnh Phúc.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động huy động
vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi
nhánh Vĩnh Phúc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương
mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Vĩnh Phúc.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu hiệu quả huy động vốn từ tiền gửi của tổ chức kinh tế, định
chế tài chính và dân cư tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát
triển Việt Nam - Chi nhánh Vĩnh Phúc trong giai đoạn từ 2010 đến 2012.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Tổng hợp và hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về công tác huy
động vốn, vai trò của nó đối với hoạt động Ngân hàng, các nhân tố ảnh hưởng
đến việc huy động vốn trong các ngân hàng, tổng kết những bài học kinh
nghiệm trong công tác huy động vốn.
Dựa trên thực trạng công tác huy động vốn của Chi nhánh, luận văn đưa
ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý công tác huy động vốn tại
BIDV Vĩnh Phúc để phát triển các mặt hoạt động của Chi nhánh trong những
năm tiếp theo.



4
* Đóng góp của luận văn
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả huy động vốn
của Ngân hàng thương mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả huy động vốn tại BIDV Vĩnh
Phúc, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý công tác huy động vốn
tại BIDV Vĩnh Phúc, đồng thời đưa ra một số kiến nghị đối với Chính phủ và
NHNN và BIDV.
5. Kết cấu của luận văn
Đề tài: “Nâng cao hiệu quả quản lý công tác huy động vốn tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi
nhánh Vĩnh Phúc”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả huy động vốn của NHTM.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng huy động vốn tại BIDV Vĩnh Phúc.
Chương 4: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý công tác huy động
vốn tại BIDV Vĩnh Phúc.


5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát chung về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
NHTM đã có lịch sử hình thành và phát triển hàng trăm năm gắn liền với

sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác
động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá,
ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền
kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành
những định chế tài chính quan trọng nhất. NHTM đóng vai trò rất quan trọng
trong việc làm cầu nối giữa huy động vốn và cho vay vốn trong nền kinh tế.
Cho đến nay, có rất nhiều khái niệm về NHTM. Ở Mỹ: “Ngân hàng
thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và
hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính”. Đạo luật ngân hàng của
Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp
hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới
hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho
chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 của Nước Cộng hoà Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam quy định “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.
Từ những quan điểm và quy định trên có thể tổng quát: NHTM là một
tổ chức tín dụng kinh doanh và cung ứng thường xuyên đa dạng các dịch vụ
tài chính như nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài
khoản. Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm đáp ứng
nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.


6
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại
a) Chức năng trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất
của ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng,
NHTM đóng vai trò là cầu nối để dẫn vốn giữa người thừa vốn và người có

nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò
là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay. Thông qua chức năng
trung gian tín dụng, Ngân hàng thương mại đã góp phần tạo lợi ích cho tất cả
các bên trong quan hệ là người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay và đảm
bảo lợi ích của nền kinh tế;
Người gửi tiền thu được lợi từ vốn tạm thời nhàn rỗi của mình thông
qua khoàn tiền gửi. Hơn nữa, Ngân hàng còn đảm bảo an toàn cho các khoản
tiền gửi và cung cấp cho khách hàng các dịch vụ thanh toán tiện lợi.
Người đi vay sẽ thỏa mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi tiêu,
thanh toán mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho việc tìm
kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi chắc chắn và hợp pháp.
Ngân hàng thương mại sẽ tìm kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giữa
lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này
chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của Ngân hàng thương mại.
Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình
tái sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức
năng này, Ngân hàng đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt
động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đầy sản xuất kinh doanh.
b) Chức năng trung gian thanh toán
Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân,
thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài
khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài
khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo


7
lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh
toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán,
thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể sử dụng một trong các

phương thức để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ
tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn.
Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc
độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
c) Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân
NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự
tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang
tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền
kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của
NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng
trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số
tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán
dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn
được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng
hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng
tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán,
chi trả của xã hội.
1.1.3. Vai trò của Ngân hàng thương mại
Cùng với sự phát triển của nhiều ngành nghề khác, từ khi ra đời và phát
triển NHTM đã đóng góp vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và phát
triển nền kinh tế thế giới. Ở tất cả các nước, hệ thống NHTM đã không ngừng
phát triển, đóng vai trò tập trung những khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế
để cung ứng vốn cho các nhà đầu tư cần vốn - Đó chính là quá trình huy động
vốn và sử dụng vốn của các NHTM. Bằng hoạt động của mình NHTM đã
đóng góp một lượng vốn đáng kể và hàng loạt các dịch vụ Ngân hàng khác
cho nền kinh tế. Vậy vai trò của NHTM đối với nền kinh tế cụ thể như:


8

Một là: Ngân hàng thương mại là nơi cung vốn cho nền kinh tế.
Là một trung gian tín dụng NHTM đã tích tụ và tập trung được một
khối lượng lớn tiền tạm thời nhà rỗi thông qua nghiệp vụ huy động vốn và
thực hiện các dịch vụ Ngân hàng cho khách hàng. Từ nguồn tiền đó tiến hành
cấp tín dụng cho các thành phần kinh tế, những tổ chức và cá nhân cần vốn để
phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình. Tức là Ngân hàng đóng vai trò là
người môi giới giữa một bên là những người có tiền nhàn rỗi có thể cho vay
và một bên là những người cần vay vốn. Thực hiện chức năng này tức là
Ngân hàng đã trở thành người khơi thông và kích hoạt các nguồn vốn, làm
cho nguồn tiền tệ luôn hoạt động và sinh lời. Những hoạt động đó của NHTM
đã thực sự tác động điều hoà cung cầu tiền tệ, biến những đồng tiền nhàn rỗi
thành những đồng tiền hoạt động có ích, tập trung vốn vào việc tài trợ cho các
ngành kinh tế khác phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động và bằng
những khoản tín dụng nhỏ thích hợp giúp người lao động có thêm điều kiện
ổn đinh và cải thiện đời sống.
Hai là: Ngân hàng giúp cho các nhà kinh doanh trong việc nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn.
Ngân hàng tài trợ vốn cho các Doanh nghiệp trên cơ sở phải tuân thủ
các điều kiện do Ngân hàng đặt ra. Trong đó các khoản tín dụng mà Doanh
nghiệp nhận được đều phải trả lãi và khi hết thời gian sử dụng phải hoàn trả
gốc. Vì vậy để đảm bảo an toàn tài sản cho Ngân hàng và nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn cho Doanh nghiệp thì trước khi cho vay, Ngân hàng cần phải
thẩm định phương án sử dụng vốn vay của Doanh nghiệp, thẩm định tính khả
thi của dự án, thẩm định các yếu tố liên quan đến Doanh nghiệp (Uy tín, trình
độ nhân viên, tài sản đảm bảo…) một cách chính xác rõ ràng, chi tiết, qua đó
cán bộ tín dụng giúp Doanh nghiệp xây dựng phương án sản xuất kinh doanh
có hiệu quả. Sau khi cho Doanh nghiệp vay vốn, Ngân hàng vẫn tiếp tục tiến
hành giám sát quá trình sử dụng vốn vay của Doanh nghiệp và thông qua
hoạt động thanh toán hộ thì Ngân hàng có thể giúp Doanh nghiệp quản lý tốt
hơn về vốn và sử dụng vốn.



9
Ba là: Hoạt động Ngân hàng có tác dụng điều tiết sự dịch chuyển
của vốn đầu tư góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển vùng.
Khi Chính phủ có sự ưu tiên về phát triển ngành nghề hoặc vùng kinh tế
nào đó thì Chính phủ sẽ đưa ra những chính sách riêng cho từng vùng và thông
qua hệ thống NHTM để tiến hành cung ứng vốn cho những vùng đó. Hoạt
động tín dụng Ngân hàng ngày càng phát triển đã làm cho việc di chuyển vốn
diễn ra một cách dễ dàng, tập trung duy trì lực lượng bình quân từ tất cả các
ngành. Đồng thời với sự tác động của Ngân hàng vốn được dịch chuyển từ
vùng thừa vốn sang vùng thiếu vốn đảm bảo cho sự phát triển đồng đều giữa
các ngành, xoá dần sự khác biệt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định.
Bốn là: Hoạt động của Ngân hàng góp phần chống lạm phát.
Với đặc điểm của NHTM là một tổ chức trung gian tài chính với các
hoạt động chủ yếu là huy dộng vốn, cho vay và thực hiện chức năng trung
gian thanh toán. Lượng tiền trong lưu thông được Ngân hàng kiểm soát.
Thông qua các khoản mục của NHTM, NHTƯ sẽ xác định được lượng tiền
mặt đang lưu thông trong nền kinh tế, từ đó để có các biện pháp kiểm soát
nhằm đề phòng và hạn chế những ảnh hưởng xấu có thể xảy ra. Trường hợp
nếu xảy ra lạm phát thì bằng các nghiệp vụ của mình, NHTƯ sẽ tiến hành
điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất chiết khấu hoặc tái chiết
khấu, tham gia vào thị trường mở để tác động tới NHTM qua đó làm thay đổi
lượng tiền trong lưu thông.
Năm là: Ngân hàng tài trợ cho các hoạt động xuất nhập khẩu- thúc
đẩy phát triển thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế ngày càng phát triển, cùng với xu thế khu vực hoá
và toàn cầu hoá thì các mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đóng vai
trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia. Cùng hoà chung với xu thế đó NHTM cũng đóng vai trò rất quan trọng



10
trong việc đưa nền kinh tế của quốc gia mình hội nhập vời nền kinh tế thế giới.
Bằng các hoạt động của mình như tài trợ xuất nhập khẩu, thực hiện các hình
thức thanh toán, bảo lãnh… đã góp phần thúc đẩy việc chu chuyển hàng hoá
dịch vụ giữa các quốc gia với nhau một cách thuận lợi và nhanh chóng.
1.1.4. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
a. Nhận tiền gửi
Đây là hoạt động cơ bản của NHTM, Ngân hàng nhận được các khoản
tiền gửi từ khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng nhận tiền gửi của
các cá nhân, của các tổ chức kinh tế và Ngân hàng phải hoàn trả gốc và lãi
cho khách hàng khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu sử dụng là đến
rút tiền ở Ngân hàng. Qua hoạt động này Ngân hàng đã thu hút một lượng lớn
tiền tạm thời nhàn rỗi để phục vụ cho các hoạt động của mình như hoạt động
cho vay và thông qua đó cung cấp phương tiện thanh toán cho nền kinh tế.
b. Hoạt động tài trợ của NHTM
Trên cơ sở lượng tiền gửi từ nền kinh tế mà Ngân hàng đã tiếp nhận và
quản lý được sau khi trừ đi phần dự trữ cần thiết theo qui định, phần còn lại sẽ
được Ngân hàng sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của mình. Do tính đa
dạng của khách hàng và nhu cầu phong phú về phương thức sử dụng tiền tài
trợ của khách hàng nên Ngân hàng đã thiết lập và xây dựng các phương thức
tài trợ khác nhau.
* Tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của Ngân hàng đã
trở thành trọng tâm chú ý của Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn của Chính
phủ và thường là cấp bách trong khi thu không đủ chi hoặc thu chưa đủ thì
Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của Ngân hàng.
Phương thức được sử dụng nhiều nhất là Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ mua



11
bán tín phiếu, trái phiếu hoặc làm đại lý phát hành các giấy tờ có giá cho
Chính phủ, qua nghiệp vụ này một mặt vừa thực hiện nghĩa vụ với nhà nước
mặt khác vừa đem lại thu nhập cho Ngân hàng.
* Tài trợ cho nền kinh tế
Để tiến hành hoạt động kinh doanh thì vấn đề sống còn là phải có
nguồn lực tài chính đủ mạnh, trước hết là dể tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh mặt khác là để mở rộng qui mô và tham gia cạnh tranh để đứng
vững trong nền kinh tế thị trường. Nguồn lực này ngoài nguồn vốn tự có của
các Doanh nghiệp (thường chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ), thì phần lớn các doanh
nghiệp đều phải dựa và nguồn vốn tín dụng Ngân hàng. Tuỳ theo nhu cầu và
loại hình kinh doanh mà Ngân hàng chấp nhận cấp tín dụng theo các phương
thức khác nhau trên cơ sở thoả mãn các điều kiện vay vốn do Ngân hàng đưa
ra. Khi thực hiện nghiệp vụ này thì nó đem lại lợi nhuận rất lớn cho Ngân
hàng và đây là nguồn thu chủ yếu của Ngân hàng.
Cho vay: Là hình thức cấp tín dụng, theo đó Ngân hàng giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng trong một khoảng thời gian và theo mục đích
nhất định trên nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Đây là phương thức phổ
biến nhất trong hoạt động cho vay của Ngân hàng đối với khách hàng.
Cho thuê tài chính: Là hoạt động tín dụng trung và dài hạn kéo dài trên
cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là các tổ chức tín dụng và
khách hàng đi thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài
sản đó hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp
đồng thuê. Trong thời hạn cho thuê các bên không được đơn phương hủy bỏ
hợp đồng. Hình thức này giúp người thuê có ngay tài sản có giá trị lớn để
phục vụ cho sản xuất nhưng người thuê phải trả lãi suất thuê thường cao hơn
các hình thức vay khác.
Góp vốn đầu tư: Là hình thức Ngân hàng cùng với một số đối tác cùng

góp vốn để thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh. Có thể là hình thức đầu


12
tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp, và Ngân hàng được hưởng quyền lợi và
nghĩa vụ như một cổ đông thường.
Mua nợ: Ngân hàng có thể tài trợ cho khách hàng thông qua việc mua
lại các khoản nợ, hay chiết khấu các chứng từ có giá.
c. Mua bán ngoại tệ
Đây là hình thức Ngân hàng làm trung gian trong việc chuyển đổi các
đồng tiền của các quốc gia với nhau theo nhu cầu của khách hàng dựa trên tỷ giá
mua bán các đồng tiền đó với nhau. Qua hoạt động này Ngân hàng thu được lợi
nhuận từ chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán. Số lượng ngoại tệ mà Ngân
hàng mua được có thể dùng để cho vay đối với các khách hàng có nhu cầu vay
bằng ngoại tệ hoặc dùng để thanh toán trong các giao dịch bằng ngoại tệ.
d. Các dịch vụ của Ngân hàng
- Cung cấp tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán hộ.
Thông qua việc thu hút khách hàng (Cá nhân hoặc tổ chức) mở tài
khoản giao dịch tại Ngân hàng, Ngân hàng sẽ quản lý tài khoản của khách
hàng và tiến hành chi trả tiền hàng hóa dịch vụ cũng như thu hộ các khoản
phải thu của chủ tài khoản theo lệnh của họ. Thực hiện nghiệp này một mặt
Ngân hàng giúp khách hàng giảm bớt được chi phí trong quá trình thanh toán,
mặt khác Ngân hàng tập trung được một lượng tiền lớn trong nền kinh tế để
sử dụng cho các hoạt động của mình.
- Bảo quản vật có giá.
Đây là một dịch vụ mang lại thu nhập khá cao cho các Ngân hàng. Trên
thế giới dịch vụ này rất phát triển. Nội dung của nghiệp vụ này là các Ngân
hàng cho khách hàng thuê két của Ngân hàng để bảo quản tài sản của mình và
thu phí từ hoạt động cho thuê đó.
- Dịch vụ bảo lãnh.

Bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của các tổ chức tín dụng
với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng


13
khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Muốn vay khách
hàng phải có được sự đồng ý của Ngân hàng, nó phải tuân theo một qui trình
bảo lãnh riêng. Khi Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng thì
Ngân hàng được hưởng một khoản phí gọi là phí bảo lãnh, mức phí này tuỳ
thuộc vào mức độ rủi ro của từng hợp đồng bảo lãnh.
- Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn đầu tư.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, Ngân hàng có rất nhiều chuyên
gia về quản lý tài chính vì vậy có rất nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ
Ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Ngân hàng sẵn
sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán và sáp nhập
doanh nghiệp.
- Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán.
Với trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên và hệ thống cơ sở vật
chất kỹ thuật, Ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng các thông tin về chứng
khoán và đầu tư chứng khoán như các danh mục đầu tư, quản lý tài khoản,
mua bán hộ, bảo quản chứng khoán…
- Cung cấp dịch vụ đại lý.
Nhiều Ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi
nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi, nhiều Ngân hàng (thường là các Ngân
hàng lớn) cung cấp dịch vụ đại lý cho các Ngân hàng khác như thanh toán hộ,
phát hành chứng chỉ tiền gửi, làm Ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
1.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về huy động vốn
Vốn mà ngân hàng huy động được bao gồm nhiều hình thức như:
nhận tiền gửi, đi vay và từ các nguồn khác như: nguồn uỷ thác, nguồn trong

thanh toán… tuy nhiên, trong giới hạn phạm vi nghiên cứu, tác giả sẽ tập
trung nghiên cứu việc huy động vốn từ nhận tiền gửi mặc dù có nói qua về
các hình thức khác.


14
1.2.2. Vai trò của huy động vốn trong hoạt hoạt động Ngân hàng
Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính với chức năng cơ bản là đi
vay để cho vay. Vì vậy mục tiêu lợi nhuận luôn đặt lên hàng đầu. Để đạt được
mục tiêu đó, công cụ cần thiết đầu tiên là các NHTM cần phải có là vốn để hoạt
đông kinh doanh. Nếu có nguồn vốn dồi dào ổn định luôn tăng trưởng thì
NHTM sẽ tạo ra thế chủ động trong hoạt động kinh doanh, tăng trưởng về quy
mô và đa dạng các hình thức hoạt động từ đó tăng thu nhập cho Ngân hàng.
1.2.3. Các hình thức huy động vốn
1.2.3.1. Nhận tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là
mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách
đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư.
Tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để
gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có
chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đó đưa ra và thực hiện nhiều hình
thức huy động khác nhau.
- Tiền gửi thanh toán
Đây là tiền của các doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để
nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu
cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các
khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào
tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rất
thấp (hoặc bằng không), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các

dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh
toán cho khách hàng. Thủ tục mở rất đơn giản. Yêu cầu của ngân hàng là
khách hàng phải có tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư.
- Tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội.
Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi
suất lại thấp, trong khi đó nhiều khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp và


15
các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Để đáp ứng nhu
cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đó đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ
hạn. Người gửi không được hưởng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng đối
với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng rút tiền ra.
Tuy không thuận tiện cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song
tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lái suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Tiền gửi tiết kiệm là những khoản tiền khách hàng gửi vào ngân hàng với
mục đích tiết kiệm, thông thường không có mức giới hạn về số tiền, có hoặc
không có thời hạn đáo hạn cố định, người gửi tiền được trả lãi trên số dư tiền gửi.
Chủ của các khoản gửi tiết kiệm thông thường là các cá nhân và hộ gia
đình. Họ gửi vào ngân hàng những khoản thu nhập chưa sử dụng trong kỳ
hiện tại không vì nhu cầu giao dịch hoặc kinh doanh mà vì nhu cầu tiết kiệm
để chi dùng trong tương lai. Điều họ quan tâm trước hết là lợi tức họ được
hưởng, dưới dạng tiền lãi ngân hàng trả hoặc có thể bao gồm cả chênh lệch
giá nếu như những khoản này được thiết kế dưới dạng các hợp đồng đủ tiêu
chuẩn trao đổi rộng rãi trên thị trường.
Đối với ngân hàng, tiền gửi tiết kiệm là nguồn vốn khá ổn định, cho
phép ngân hàng chủ động trong việc đầu tư chúng vào các kế hoạch sinh lời.
Tuy nhiên, do đa phần những món tiết kiệm thường nhỏ, phân tán và lãi suất
các ngân hàng phải trả cho chúng cao nên chi phí thu hút nguồn vốn này

thường lớn hơn so với tiền gửi thanh toán.
Trên thực tế, nhu cầu sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại rất
lớn, nguồn tiền gửi các ngân hàng huy động được không phải lúc nào cũng đủ
đáp ứng. Đôi khi, để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình các ngân
hàng thương mại cũng huy động vốn bằng cách đi vay.
1.2.3.2. Đi vay
Trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng luôn tồn tại tình trạng
hoặc dư vốn, hoặc đủ vốn, hoặc thiếu vốn. Khi một ngân hàng thương mại


×