Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam chi nhánh tam đảo, tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.89 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

TRƯƠNG QUỐC TUẤN

QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN VIỆT NAM - CHI NHÁNH TAM ĐẢO,
TỈNH VĨNH PHÚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ


ii

THÁI NGUYÊN - 2014


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

TRƯƠNG QUỐC TUẤN

QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN VIỆT NAM - CHI NHÁNH TAM ĐẢO,
TỈNH VĨNH PHÚC
Chuyên ngành: QUẢN LÝ KINH TẾ
Mã số: 60.34.04.10


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ THỊ BẠCH TUYẾT


ii

THÁI NGUYÊN - 2014


i
LỜI CAM ĐOAN
T........ôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực, xuất phát từ thực tế của
Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Tam Đảo,
tỉnh Vĩnh Phúc.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình
Thái Nguyên, tháng năm 2014
Học viên

Trương Quốc Tuấn


ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu,
Khoa Đào tạo Sau Đại học, cùng các thầy, cô giáo trong trường Đại học Kinh tế và
Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên đã tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho tôi
trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Vũ Thị Bạch Tuyết đã trực

tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu, giúp đỡ em hoàn
thành luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ, lãnh đạo Ngân hàng nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc đã tạo mọi điều
kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng năm 2014
Tác giả luận văn

Trương Quốc Tuấn


iii
MỤC LỤC


iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CBTD
CIC (Credit info)
HĐQT
NH
NHNN
NHNo&PTNT (Agribank )
NHTM
NHTW
RRTD
TCTD
TNHH
XHTD


Cán bộ tín dụng
Trung tâm Thông tin tín dụng
Hội đồng quản trị
Ngân hàng
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng Trung ương
Rủi ro tín dụng
Tổ chức tín dụng
Trách nhiệm hữu hạn
Xếp hạng tín dụng


v
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


vi
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
1. Sơ đồ


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của hệ thống Ngân hàng thương
mại (NHTM) Việt Nam, nó mang lại trên 90% thu nhập cho mỗi ngân hàng. Tuy
nhiên do đặc thù kinh doanh, nghiệp vụ tín dụng cũng mang lại không ít những rủi

ro. Rủi ro tín dụng quá mức độ cho phép sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh
doanh ngân hàng. Trong thời gian gần đây do mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt
giữa các ngân hàng, đặc biệt có sự biến động không ngừng của thị trường khu vực
và trên Thế giới, các ngân hàng đều phải đối mặt với rủi ro từ hoạt động tín dụng.
Rủi ro từ hoạt động tín dụng đã và đang là vấn đề quan tâm của các ngân hàng trong
hoạt động kinh doanh nhằm hướng tới mục tiêu kinh doanh có hiệu quả. Ngân hàng
nào có chiến lược quản trị rủi ro tốt, ngân hàng đó sẽ phát triển bền vững.
Theo thông lệ Quốc tế cũng như quy định về quản trị rủi ro trong hoạt động
của các ngân hàng thương mại Việt Nam, hầu hết các ngân hàng đều nhận thấy rõ vị
trí, tầm quan trọng của việc quản trị rủi ro tín dụng. Tuy nhiên dưới tác động của
nhiều yếu tố từ khách quan đến chủ quan, rủi ro tín dụng vẫn đang xẩy ra và tiềm ẩn
trong hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam khiến cho bộ máy và các công cụ
quản trị rủi ro tín dụng đã và đang áp dụng chưa mang lại hiệu quả cao, chưa đáp
ứng yêu cầu giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Đứng
trước tình hình đó, đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải nâng cao công tác quản trị rủi
ro tín dụng, hạn chế thấp nhất có thể những nguy cơ tiềm ẩn gây nên thiệt hại cho
ngân hàng, khách hàng và toàn xã hội.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT) Chi nhánh Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc là thành viên của ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam, sau hơn 25 năm phát triển đã có vị trí quan trọng
trong các NHTM tại Việt Nam. Tuy nhiên, không nằm ngoài tình trạng chung của
các NHTM Việt Nam, năng lực cạnh tranh và năng lực quản trị rủi ro của ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Tam Đảo, tỉnh
Vĩnh Phúc vẫn còn hạn chế. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc


2
chưa chủ động trong hoạt động kinh doanh và đôi khi gặp phải những rủi ro cao,
chính vì vậy em đã chọn đề tài “Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Tam Đảo, tỉnh Vĩnh

Phúc” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Vận dụng cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
vào điều kiện cụ thể nhằm tăng cường năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Tam Đảo, góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trong môi trường cạnh tranh mới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu lý luận về rủi ro, quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của
ngân hàng thương mại. Kinh nghiệm quản trị rủi ro của một số ngân hàng thương
mại và bài học cho NHNo&PTNT - Chi nhánh Tam Đảo.
- Phân tích đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng tại
NHNo&PTNT - Chi nhánh Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn 2011-2013,
đánh giá các kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường quản trị rủi ro tại
NHNo&PTNT - Chi nhánh Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Rủi ro và quản trị rủi ro trong hoạt động tín dụng của các NHTM
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề thực tế trong việc quản trị rủi ro tín
dụng tại các NHTM Việt Nam hiện nay.
3.2.2. Phạm vi về không gian
Nghiên cứu hoạt động kinh doanh, thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại
NHNo&PTNT - Chi nhánh Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.


3
3.2.3. Phạm vi về thời gian

Nội dung các vấn đề nghiên cứu trong luận văn được thu thập tại
NHNo&PTNT - Chi nhánh Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian 3 năm từ năm
2011 đến năm 2013.
4. Ý nghĩa khoa học của luận văn
Đã có một số nghiên cứu về quản trị rủi ro tín dụng của các NHTM khác
nhau, tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu về quản trị rủi ro tín dụng trong điều
kiện kinh tế đang có những biến động bất lợi và đặc biệt là chưa có đề tài nghiên
cứu về quản trị rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT - Chi nhánh Tam Đảo.
Đề tài luận văn phân tích đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng và hoạt động
quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại trong bối cảnh kinh tế với
những thách thức mới. Luận giải các biện pháp góp phần tăng cường quản trị rủi ro
tín dụng tại NHNo&PTNT - Chi nhánh Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian tới.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu gồm 04 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản trị rủi ro tín dụng của ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng quản trị rủi ro tại Ngân hàng nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc thời gian qua.
Chương 4: Giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc
thời gian tới.


4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại

1.1.1. Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
- Khái niệm hoạt động tín dụng:
“Tín dụng” xuất phát từ chữ latinh là Creditium có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm.
Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam “Tín dụng” là sự chuyển nhượng tạm thời quyền
sử dụng một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu này sang
người sở hữu khác sau đó hoàn trả lại một lượng giá trị lớn hơn. Hiểu một cách nôm na
thì “Tín dụng” là sự vay mượn giữa hai bên (bên cho vay và bên vay).
Theo thuật ngữ kinh tế, “Tín dụng” là một phạm trù kinh tế, thể hiện mối
quan hệ giữa người cho vay và người đi vay. Trong quan hệ này người cho vay có
nhiệm vụ chuyển giao quyền sử dụng tiền hoặc hàng hoá cho người đi vay trong
một thời gian nhất định. Người đi vay tới kỳ hạn trả nợ có nghĩa vụ hoàn trả số tiền
hoặc hàng hoá đã vay, có kèm theo một khoản lãi.
Theo các nhà nghiên cứu kinh tế, tín dụng được coi là một quan hệ vay
mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay với điều kiện hoàn trả cả vốn
lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Hay nói cách khác, tín dụng là một phạm trù
kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân, tổ chức nhường
quyền sử dụng (chuyển nhượng) một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho cá nhân
hay tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về: số tiền hoàn trả (gốc, lãi), thời
gian hoàn trả, lãi suất, cách thức cho vay và thu hồi...
Theo khoản 14 Điều 4 Luật Các Tổ chức tín dụng (TCTD) được sửa đổi
bổ xung năm 2010 cấp tín dụng được quy định như sau: Cấp tín dụng là việc
thoả thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép
sử dụng một khảon tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay,
chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ cấp tín dụng khác.


5
- Khái niệm rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại (NHTM)

Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt- đó là Tiền tệ.
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn tiềm ẩn những rủi ro và những rủi
ro đó phát sinh dưới nhiều hình thái khác nhau. Các loại rủi ro gặp phải trong kinh
doanh tại ngân hàng là: rủi ro tín dụng, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh
khoản... Hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng
nhất (chiếm >90%), nhưng cũng là nghiệp vụ mang lại nhiều rủi ro nhất, rủi ro tín
dụng dễ xẩy ra nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất và gây hậu quả nặng nề nhất đối với
các NHTM.
Rủi ro tín dụng được hiểu là những rủi ro do một khách hàng hoặc một nhóm
khách hàng vay không thực hiện đúng các điều khoản trong hợp đồng tín dụng, với
biểu hiện cụ thể là khách hàng chậm trả nợ, trả nợ không đầy đủ, không trả nợ khi
đến hạn các khoản gốc, lãi, gây ra những tổn thất về tài chính và khó khăn trong
hoạt động của NHTM.
Căn cứ vào khoản 01, điều 02 của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN [3]
ngày 22/04/2005: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng
là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết”.
1.1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Đối với NHTM, việc phân loại rủi ro có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm đảm
bảo nhận biết đầy đủ các yếu tố làm phát sinh rủi ro và phân biệt được trách nhiệm
giữa các bộ phận, giữa các khâu. Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, rủi ro được
phân loại như sau:
- Phân loại theo nguồn gốc hình thành rủi ro:
Rủi ro giao dịch: nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong giao dịch,
xét duyệt cho vay và đánh gía khách hàng. Rủi ro giao dịch gồm rủi ro lựa chọn, rủi
ro đảm bảo và rủi ro nghiệp vụ.
Rủi ro danh mục: là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của
ngân hàng, được phân chia thành rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.



6
- Phân theo tính chất rủi ro của tín dụng: có rủi ro do khách quan và rủi ro do
chủ quan.
1.1.1.3. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng
Trong quan hệ tín dụng tại NHTM, có hai đối tượng tham gia là ngân hàng
cho vay và người đi vay. Ngân hàng và người đi vay hoạt động tuân theo sự chi
phối với những điều kiện cụ thể của môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh
là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín dụng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi
trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách quan. Rủi ro xuất phát từ
người vay và ngân hàng cho vay gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan. Sự tiếp cận
các yếu tố, nguyên nhân gây rủi ro sau đây giúp chúng ta nhìn nhận một cách đầy
đủ, toàn diện, khách quan hơn, từ đó sẽ đưa ra được những đề xuất phòng ngừa,
giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh của NHTM một cách hữu ích, thiết thực hơn.
Nguyên nhân từ phía ngân hàng.
- Việc mở rộng hoạt động tín dụng quá mức thường tạo điều kiện cho rủi ro
tín dụng của ngân hàng tăng lên. Mở rộng tín dụng quá mức đồng nghĩa với việc lựa
chọn khách hàng kém kỹ càng, khả năng giám sát của cán bộ tín dụng đối với việc
sử dụng khoản vay giảm xuống đồng thời cũng làm cho việc tuân thủ chặt chẽ theo
quy trình tín dụng bị lơi lỏng.
- Trình độ cán bộ hạn chế, nhất là cán bộ tín dụng - người trực tiếp nhận hồ
sơ khách hàng, phân tích và thẩm định khách hàng cũng như dự án vay vốn. Vì vậy,
nếu trình độ cán bộ tín dụng không cao, thẩm định không tốt, có thể chấp nhận cho
vay những khoản vay không khả thi hoặc bị khách hàng lừa gạt.
- Quy chế cho vay chưa chặt chẽ, quá cụ thể hoặc quá linh hoạt đều khiến
cho NHTM gặp phải rủi ro tín dụng. Việc đánh giá giá trị tài sản thế chấp, cầm cố
cũng là vấn đề rất lớn, hiện nay đang là vấn đề nổi cộm trong quy chế tín dụng tại
các NHTM.
- Sự cạnh tranh không lành mạnh nhằm thu hút khách hàng giữa các NHTM
khiến cho việc thẩm định khách hàng trở nên sơ sài, qua loa hơn. Hơn nữa, nhiều

NHTM do quá chú trọng đến lợi nhuận nên đã chấp nhận rủi ro cao, bất chấp những
khoản vay không lành mạnh, thiếu an toàn.


7
- Ngoài ra, còn rất nhiều nhân tố khác thuộc về NHTM gây ra rủi ro tín dụng
như: chất lượng thông tin và xử lý thông tin trong NHTM, cơ cấu tổ chức và quản
lý đội ngũ cán bộ, năng lực công nghệ…
Nguyên nhân do khách hàng.
- Đối với các doanh nghiệp, kinh nghiệm và năng lực hoạt động kinh doanh
còn đang ở trình độ thấp, hầu hết các doanh nghiệp này đều không nắm bắt được
thông tin kịp thời, thiếu thích nghi với cạnh tranh. Vì vậy, khi dự án vay vốn gặp
khó khăn, khả năng trả nợ của khách hàng gặp vấn đề, rủi ro tín dụng là điều không
thể tránh khỏi.
- Lợi dụng điểm yếu của NHTM, nhiều khách hàng đã tìm cách lừa đảo để
được vay vốn. Họ lập phương án sản xuất kinh doanh giả, giấy tờ thế chấp cầm cố
giả mạo, hoặc đi vay ở nhiều ngân hàng với cùng bộ hồ sơ.
- Khách hàng sử dụng sai mục đích so với hợp đồng tín dụng khiến cho
nguồn trả nợ trở nên bấp bênh. Vì vậy, khi khách hàng đã sử dụng vốn sai mục
đích, việc thanh toán gốc và lãi đúng hạn rất khó xảy ra, rủi ro tín dụng xuất hiện.
- Việc trốn tránh trách nhiệm và nghĩa vụ đã uỷ quyền và bảo lãnh cũng là
một nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho NHTM. Một số công ty, tổng công ty đứng ra
bảo lãnh hoặc uỷ quyền cho các chi nhánh trực thuộc thực hiện vay vốn của NHTM
để tránh sự kiểm tra giám sát của ngân hàng cho vay chính. Khi đơn vị vay vốn mất
khả năng thanh toán, bên bảo lãnh và uỷ quyền không chịu thực hiện việc trả nợ
thay (Nguyễn Thị Minh Châu, 2013)
Nguyên nhân khác.
*Môi trường kinh tế:
Sự biến động quá nhanh và không dự đóan được của thị trường thế giới là
nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến họat động sản xuất kinh doanh của người đi

vay. Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn phụ thuộc rất lớn vào sản xuất nông nghiệp và
công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu)
dầu thô, may gia công… rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới nên dễ bị
tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu. Những biến động xấu từ kinh tế
thế giới và trong nước làm ảnh hưởng trực tiếp đến họat động kinh doanh của các
doanh nghiệp nói riêng và của các Ngân hàng cho vay nói chung.


8
Quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế cũng dẫn đến những hệ quả
tất yếu làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến
hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của Ngân hàng phải đối
mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh
đó, bản thân sự cạnh tranh giữa các NHTM trong nước và quốc tế trong môi trường
hội nhập kinh tế cũng khiến cho các Ngân hàng trong nước gặp phải nguy cơ rủi ro,
nợ xấu tăng lên do khách hàng có tiềm lực tài chính lớn đã bị các ngân hàng nước
ngòai thu hút bằng các sản phẩm, dịch vụ mới với nhiều tiện ích hơn.
* Môi trường pháp lý:
Môi trường pháp lý của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, các chính sách
quản lý kinh tế còn chưa phù hợp làm ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh tại
Việt Nam, chưa tạo nên các yếu tố cạnh tranh lành mạnh; chưa có khung pháp lý
đầy đủ đảm bảo cho môi trường kinh doanh tiền tệ được minh bạch. Đây là kẽ hở
cho các tiêu cực và là nhân tố tác động đến rủi ro tín dụng.
* Thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh, dịch bệnh: Đây là những rủi ro mà cả
khách hàng lẫn Ngân hàng đều không lường trước đối với khoản tín dụng của mình,
khách hàng gặp khó khăn ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay Ngân hàng. Đối với
khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh thì cũng phải có thời gian để ổn định lại quá
trình kinh doanh thì mới có khả năng trả nợ ngân hàng, còn với các khách hàng có
tiềm lực yếu thì khoản tín dụng có khả năng rất cao lâm vào tình trạng nợ xấu. Mặc
dù lọai rủi ro này có thể được hạn chế bằng cách mua bảo hiểm, tuy nhiên khi loại

rủi ro này xảy ra, khách hàng và cả ngân hàng cũng phải mất nhiều thời gian để lấy
được khoản tiền bảo hiểm từ các Công ty bảo hiểm để thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay
Ngân hàng.
1.1.1.4. Hậu quả của rủi ro tín dụng
+ Đối với Ngân hàng thương mại (NHTM)
- Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của NHTM: Hoạt động Ngân hàng bao giờ
cũng đặt chữ tín lên hàng đầu, hạn chế tối đa tất cả các thông tin xấu, không hay
trên các phương tiện truyền thông đại chúng ảnh hưởng đến hoạt động của ngân
hàng. Nếu một NHTM có tỷ lệ nợ xấu cao hoặc bị Ngân hàng Nhà nước đưa vào


9
diện kiểm soát đặc biệt thì uy tín của ngân hàng đó bị giảm sút một cách nghiêm
trọng. Đồng nghĩa với việc lúc đó không có một cá nhân hoặc tổ chức nào đặt quan
hệ để sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng đó nữa vì họ biết đồng vốn họ bỏ vào
Ngân hàng đó không được đảm bảo an toàn và không thể sinh lời..
- Làm giảm khả năng thanh toán của NHTM: Để có nguồn vốn đủ cung cấp
tín dụng cho khách hàng thì NHTM phải huy động (hay nói cách khác là đi vay) từ
các tổ chức và dân cư để cấp tín dụng. Nếu rủi ro tín dụng do không thu hồi được
nợ xảy ra, NHTM sẽ hạn chế nguồn để thanh toán tiền gửi cho các chủ nợ.
- Làm giảm lợi nhuận của NHTM: Theo quy định của Ngân hàng nhà nước,
tất cả các khoản cấp tín dụng, ngân hàng đều phải trích dự phòng, tỷ lệ trích dự
phòng tùy theo việc phân loại nợ và tài sản đảm. Có nghĩa là, nợ bị phân loại vào
nhóm nợ càng cao, có tài sản bảo đảm có độ rủi ro cao sẽ phải trích dự phòng cao
hơn các khoản nợ xấu ít hơn và có tài sản đảm bảo rủi ro thấp. Số tiền trích rủi ro
được hạch toán thẳng vào chi phí của NHTM, làm chi phí tăng lên, lợi nhuận sẽ
giảm theo.
- Nguy cơ phá sản Ngân hàng: Rủi ro tín dụng ảnh hưởng đến uy tín, khả
năng thanh khoản và lợi nhuận của ngân hàng. Nếu tiếp tục kéo dài và ăn mòn vào
vốn riêng của ngân hàng, con đường đi đến tuyên bố phá sản ngân hàng là tất yếu.

+ Đối với nền kinh tế:
Ngày nay, hoạt động của Ngân hàng mang tính xã hội hoá cao nên một khi rủi
ro tín dụng xẩy ra đối với Ngân hàng thì nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hầu hết mọi
hoạt động của nền kinh tế. Nếu có sự rủi ro trong hoạt động tín dụng, dù chỉ ở một
Ngân hàng mà không ứng cứu kịp thời thì có thể gây phản ứng dây truyền đe doạ đến
tính an toàn và ổn định của cả hệ thống Ngân hàng. Từ đó sẽ gây ra những vấn đề bất
ổn cho nền kinh tế, thậm chí còn ảnh hưởng đến nền kinh tế khu vực và thế giới.
+ Đối với khách hàng:
- Đối với người gửi tiền: Vốn mà Ngân hàng dùng để cấp tín dụng cho khách
hàng chính là từ tiền gửi của người gửi tiền. Chính vì thế, khi Ngân hàng gặp phải
rủi ro tín dụng, đồng nghĩa với việc không thu được gốc, lãi của những khoản cấp
tín dụng bị rủi ro. Khi đó người gửi tiền cũng phải đối mặt với rủi ro.


10
- Đối với người đi vay: Khi mức độ rủi ro cao, ảnh hưởng và uy tín của Ngân
hàng bị hạ thấp, Ngân hàng sẽ hạn chế cho vay và áp dụng các biện pháp thắt chặt,
có thể phải nâng lãi suất lên để bù đắp những rủi ro đã xẩy ra. Do đó người đi vay
sẽ gặp khó khăn, chi phí lãi suất cao hơn ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh
doanh của bản thân người vay.
- Đối với khách hàng có khoản tín dụng rủi ro: Ngân hàng sẽ áp dụng mức
lãi suất cao hơn, tăng chi phí kinh doanh, uy tín của chính khách hàng bị giảm sút,
cơ hội để khách hàng tìm các nguồn vốn khác sẽ gặp khó khăn.
1.1.2. Quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm về quản trị rủi ro tín dụngcủa ngân hàng thương mại:
Đối với bất cứ một hoạt động kinh doanh nào, khi rủi ro xảy ra đều kéo theo
những ảnh hưởng khó lường và hậu quả của chúng cũng không dễ dàng khắc phục.
Chính vì thế, quản trị rủi ro được coi là hoạt động trọng tâm trong các tổ chức tài
chính - ngân hàng bởi kiểm soát và quản lý rủi ro chặt chẽ đồng nghĩa với việc sử
dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn huy động. Mặt khác, nền kinh tế thị trường

nếu không chấp nhận rủi ro thì không thể tạo ra các cơ hội đầu tư và kinh doanh
mới. Do đó, quản trị rủi ro là một nhu cầu tất yếu đặt ra trong quá trình tồn tại và
phát triển của NHTM.
Quản trị rủi ro tín dụng là hoạt động trong đó những nghĩa vụ, biện pháp,
phương pháp quản trị có quan hệ lẫn nhau được thực hiện nhằm đảm bảo rủi ro tín
dụng trong phạm vi ngân hàng có thể chấp nhận được ( Ngô Hướng,2001)
Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chính sách
và biện pháp quản lý tín dụng nhằm đạt mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển
bền vững.
Chủ thể của hoạt động quản trị rủi ro trong ngân hàng là sự thống nhất của
nhiều cấp độ: của Hội đồng quản trị của ngân hàng, của Ban Giám đốc, của bộ phận
quản lý tín dụng và ngay bản thân mỗi cán bộ tín dụng của ngân hàng.
Mục đích chung nhất của quản trị rủi ro tín dụng là đảm bảo rủi ro trong
phạm vi ngân hàng có thể chấp nhận đựơc. Mục đích này phụ thuộc vào mục đích
hoạt động của ngân hàng là tối đa hoá giá trị mà ngân hàng hi vọng được xác định


11
trong điều kiện biến động của môi trường kinh doanh (Trần Viết Hoàng, Cung Trần
Việt , 2008)
Quản trị rủi ro tín dụng là một trong những nội dung quản trị rủi ro của
NHTM bao gồm: những đánh giá mức độ rủi ro, thực thi những giải pháp quản trị
hạn chế khả năng xảy ra rủi ro. Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng
gắn chặt với hoạt động của cấp tín dụng.
Hiện nay vẫn có sự phân biệt chưa rõ ràng giữa quản trị và quản lý rủi ro tín
dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Quản lý rủi ro tín dụng là: việc tổ
chức, điều khiển và thực hiện các hoạt động, các quy trình liên quan đến việc cấp
tín dụng nhằm đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất mà ngân
hàng có thể chấp nhận được. Công tác quản lý này được thực hiện ngay từ khi xem
xét hồ sơ xin vay vốn, thẩm định khách hàng, ký kết hợp đồng tín dụng và việc thực

hiện giải ngân và kiểm soát khi cho vay đến việc thu nợ và xử lý nợ quá hạn.
1.1.2.2. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
+ Nhận biết rủi ro tín dụng
Ngân hàng cần có phương pháp nhận ra những dấu hiệu rủi ro tín dụng để từ
chối cho vay (trong trường hợp trước khi cho vay) hoặc để ngăn ngừa xử lý kịp thời
(trong trường hợp đã cho vay). Có thể sắp xếp các dấu hiệu của rủi ro tín dụng theo
các nhóm sau:
* Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng:
- Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản
của khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu
quan trọng gồm: phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối; khó khăn trong
thanh toán lương; sự dao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư tài
khoản tiền gửi…
- Các hoạt động vay: mức độ vay thường xuyên gia tăng; thanh toán chậm
các khoản nợ gốc và lãi; thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo hạn; yêu cầu các
khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
- Phương thức tài chính: sử dụng nhiều các khoản tài trợ thương mại cho các
hoạt động phát triển dài hạn; chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất, ví dụ:


12
thường xuyên sử dụng nghiệp vụ chiết khấu các khoản phải trả (factoring); giảm các
khoản phải trả và tăng các khoản phải thu; các hệ số thanh toán phát triển theo chiều
hướng xấu; có biểu hiện giảm vốn điều lệ.
* Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý của khách hàng:
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban điều hành.
- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, quản trị,
điều hành độc đoán hoặc ngược lại quá phân tán.
- Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện: được hoạch định bởi
HĐQT hoặc Giám đốc điều hành ít hay không có kinh nghiệm; HĐQT hoặc Giám

đốc điều hành các doanh nghiệp lớn tham gia quá sâu vào vấn đề thường nhật;
Thiếu quan tâm đến lợi ích của cổ đông, chủ nợ; Thuyên chuyển nhân viên diễn ra
thường xuyên; lập kế hoạch xác định mục tiêu kém, xuất hiện các hành động nhất
thời, không có khả năng đối phó với những thay đổi.
- Quản lý có tính gia đình: có biểu hiện thiếu tin tưởng vào những người
quản lý không thuộc gia đình; cho thành viên của gia đình chưa được đào tạo, huấn
luyện đầy đủ đảm đương cương vị then chốt.
- Có tranh chấp trong quá trình quản lý.
- Có các chi phí quản lý bất hợp lý: tập trung quá nhiều chi phí để gây ấn
tượng như thiết bị văn phòng quá hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền, Ban
Giám đốc có cuộc sống xa hoa, lẫn lộn giữa chi phí kinh doanh và tài chính cá nhân.
* Nhóm các dấu hiệu liên quan tới các ưu tiên trong kinh doanh:
- Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: doanh nghiệp bị ám ảnh bởi một khách
hàng có tên tuổi mà sau này có thể trở nên lệ thuộc; Ban Giám đốc cắt giảm lợi
nhuận nhằm có được những hợp đồng lớn.
- Dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: bị ám ảnh bởi một sản phẩm mà không
chú ý đến các yếu tố khác.
- Sự cấp bách không thích hợp như: do áp lực nội bộ dẫn tới việc tung ra sản
phẩm dịch vụ quá sớm, các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không thực tế, tạo
mong đợi trên thị trường không đúng lúc...


13
* Nhóm các dấu hiệu thuộc vấn đề kỹ thuật thương mại:
- Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất; thay đổi thị hiếu; cập nhật kỹ thuật
mới; mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn; thêm đối thủ cạnh tranh.
- Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao.
- Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế.
* Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính, kế toán:
- Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn nộp các báo

cáo tài chính.
- Những kết luận về phân tích tài chính cho thấy sự gia tăng không cân đối
về tỷ lệ nợ thường xuyên; khả năng tiền mặt giảm;tăng doanh số bán nhưng lãi giảm
hoặc không có lãi. Số khách hàng nợ tăng nhanh và thời hạn thanh toán của các con
nợ được kéo dài; hoạt động lỗ…
- Những dấu hiệu phi tài chính khác: những vấn đề về đạo đức, dáng vẻ của
nhà kinh doanh; sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh doanh; kho lưu trữ hàng hoá
quá nhiều, hư hỏng và lạc hậu.
+ Phân tích và đo lường rủi ro tín dụng
Tuy rủi ro tín dụng là khách quan, song ngân hàng phải quản lí rủi ro tín
dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những nguyên
nhân nảy sinh rủi ro tín dụng, ngân hàng cụ thể hóa thành những dấu hiệu chính
phát sinh trong hoạt động tín dụng, phản ánh rủi ro tín dụng:
* Nợ quá hạn:
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: Nợ quá hạn là khoản nợ mà
khách hàng không trả được khi đã đến hạn thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.
- Nợ xấu hay nợ khó đòi và tỷ lệ nợ xấu, nợ khó đòi. Là các khoản nợ dưới
chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn
của chủ nợ. Nợ xấu gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên thường quá
ba tháng căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay
vào các nhóm thích hợp.
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi
ro tín dụng khác nhau. Các quan điểm khác nhau, các tính toán khác nhau về kì hạn
nợ và nợ quá hạn có thể làm các chỉ tiêu này bị biến dạng.


14
+ Thứ nhất, do kì hạn nợ không đúng. Nhiều cán bộ ngân hàng khi cho vay
không quan tâm thích đáng đến chu kì kinh doanh của người vay, hoặc do nguồn
ngắn hạn là chủ yếu, họ đặt kì hạn nợ ngắn để hạn chế rủi ro. Kì hạn nợ không phù

hợp với chu kì thu nhập của người vay. Khi đến hạn người vay dĩ nhiên sẽ không
thể trả nợ được, gây nợ quá hạn. Khoản nợ này trở thành mối đe dọa tài chính đối
với người vay, buộc họ phải trả thêm khoản “phụ phí ” để được gia hạn nợ, hoặc
phải chịu lãi suất phạt.
+ Thứ hai, do đảo nợ hoặc giãn nợ. Nhiều khoản nợ người vay không có khả
năng hoàn trả có thể được đảo nợ để làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để che
giấu với ngân hàng cấp trên, hoặc để không phải chịu lãi phạt, khách hàng và nhân
viên ngân hàng thỏa thuận vay khoản mới để trả khoản nợ cũ. Nhân viên ngân hàng
cũng có thể thực hiện giãn nợ đối với các khoản nợ mà chắc chắn người vay không
trả được. Những hành vi này làm chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi không phản ánh
đầy đủ rủi ro tín dụng.
+ Thứ ba, do chính sách cho vay. Rất nhiều các khoản vay khó đòi không thể
thu hồi bằng phát mại tài sản (doanh nghiệp nhà nước, người nghèo, tài sản không
rõ ràng…). Những khoản cho vay này hầu hết là cho vay theo chỉ thị của Chính
phủ. Khi chính phủ chưa có biện pháp giải quyết, chúng vẫn tồn tại trên bảng cân
đối của ngân hàng, trở thành tài sản ảo.Việc xử lí các khoản nợ này là rất phức tạp.
Nhiều ngân hàng loại chúng ra khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi, xếp vào nợ
khoanh (khi được Chính phủ đồng ý). Tuy nhiên chúng thực sự đe dọa thu nhập của
các ngân hàng nếu chính phủ không tìm được nguồn bù đắp.
* Các chỉ tiêu khác: Bên cạnh nợ quá hạn, nhà quản lí ngân hàng còn sử dụng
các hình thức đo rủi ro tín dụng khác, gắn liền với chiến lược đa dạng hóa tài sản, lập
hồ sơ khách hàng, trích lập quỹ dự phòng, đặt giá đối với các khoản cho vay…
- Các khoản cho vay có vấn đề: mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ
quá hạn song trong quá trình theo dõi, nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều khoản
tài trợ đang có dấu hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Khoản
cho vay có vẫn đề được xây dựng dựa trên quy định của ngân hàng.
- Điểm của khách hàng: Thông qua phân tích tình hình tài chính, năng lực
sản xuất kinh doanh, hiệu quả dự án, mối quan hệ và tính sòng phẳng… ngân hàng



15
lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại và cho điểm. Khách hàng loại A hoặc điểm cao,
rủi ro tín dụng thấp; khách hàng loại C hoặc điểm thấp, rủi ro cao. Chỉ tiêu này
được xây dựng dựa trên các dấu hiệu rủi ro mà ngân hàng xây dựng. Điểm của
khách hàng cho thấy rủi ro tiềm ẩn.
- Mất tính ổn định vĩ mô: Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao,
tình hình chính trị mất ổn định, vùng hay bị thiên tai… đều tạo nên mất ổn định vĩ
mô, tác động xấu đến người vay. Do mất ổn định vĩ mô được ngân hàng xem là một
nội dung quan trọng phản ánh rủi ro tín dụng.
- Tính kém đa dạng của tín dụng: Đa dạng hóa là biện pháp hạn chế rủi ro.
Những thay đổi trong chu kì của người vay là khó tránh khỏi. Nếu ngân hàng tập
trung tài trợ cho một nhóm khách hàng, của một ngành, hoặc một vùng hẹp thì rủi
ro sẽ cao hơn so với đa dạng hóa.
+ Kiểm soát rủi ro tín dụng:
* Khái niệm về kiểm soát rủi ro tín dụng:
Kiểm soát rủi ro tín dụng là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ,
chiến lược và những quá trình nhằm chủ động điều khiển, biến đổi rủi ro tín dụng
tại một ngân hàng bằng cách kiểm soát tần suất, mức độ rủi ro.
* Đặc điểm của kiểm soát rủi ro tín dụng: là những hoạt động nhằm giảm
thiểu rủi ro trước khi rủi ro xảy ra.
* Các phương thức kiểm soát rủi ro tín dụng:
- Né tránh rủi ro: là việc né tránh những đối tượng, những hoạt động hoặc
những nguyên nhân làm phát sinh tổn thất, mất mát có thể xảy ra. Thông qua hoạt
động thẩm định, xếp loại và sàng lọc khách hàng: đối với những khách hàng đã thấy
rõ ràng là có chứa rủi ro lớn, không phù hợp với chính sách cho vay thì biện pháp
tốt nhất là né tránh, từ chối cho vay.
- Ngăn ngừa rủi ro: bằng cách loại bỏ những nguyên nhân gây ra rủi ro, đối
với những khoản vay mà yếu tố rủi ro được xác định nhưng có thể khắc phục được
thì ngân hàng có thể xem xét, cân nhắc để cho vay và thực hiện việc giám sát nhằm
không xảy ra các nguy cơ gây ra rủi ro như: sử dụng vốn sai mục đích, không đảm

bảo vốn tự có tham gia phương án sản xuất kinh doanh/dự án đầu tư, tiến độ thực
hiện và nguồn thanh toán, tuân thủ việc thực hiện hợp đồng với đối tác…


×