Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

LÍ THUYẾT GRAPH TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN, THỰC NGHIỆM VÀO ĐỌC HIỂU “CẢNH NGÀY HÈ” CỦA NGUYỄN TRÃI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.01 KB, 38 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH
TRƯỜNG THPT XUÂN TRƯỜNG C

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
LÍ THUYẾT GRAPH TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN,
THỰC NGHIỆM VÀO ĐỌC HIỂU “CẢNH NGÀY HÈ”
CỦA NGUYỄN TRÃI

Người thực hiện: ĐOÀN VĂN HIỆU
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ
Chức vụ: Giáo viên THPT
Đơn vị công tác: Trường THPT Xuân Trường C.

Năm học 2014 - 2015
1


1.Tên sáng kiến:
LÍ THUYẾT GRAPH TRONG DẬY HỌC NGỮ VĂN,
THỰC NGHIỆM VÀO ĐỌC HIỂU “CẢNH NGÀY HÈ” CỦA NGUYỄN TRÃI.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Khoa học Sư phạm (Phương pháp dạy học Ngữ văn)
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Từ ngày 25 tháng 8 năm 2012 đến ngày 25 tháng 5 năm 2014.
4. Tác giả:
Họ và tên: Đoàn Văn Hiệu.
Năm sinh: 25 – 02 – 1984.
Nơi thường trú: Bình Minh – Nam Trực – Nam Định.
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ.
Chức vụ công tác: Giáo viên Trường THPT Xuân Trường C, Xuân Đài, Xuân
Trường, Nam Định.
Điện thoại: 0936412405.


5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Trường THPT Xuân Trường C
Địa chỉ: Xã Xuân Đài, Huyện Xuân Trường, Tỉnh Nam Định.
Điện thoại: 0350.3888209.

2


BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến.
1. Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục:
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật hiện nay dẫn đến kết quả là sự xuất
hiện nhanh, nhiều những tri thức, những kĩ năng và những lĩnh vực nghiên cứu mới.
Đồng thời những tri thức cũ nhanh chóng trở nên lỗi thời, lạc hậu, diễn ra với tốc độ
ngày càng nhanh. Không những vậy, những phát minh vĩ đại của yếu tố của lực lượng
sản xuất và của phương thức sản xuất tiên tiến hiện đại, công nghệ cao đã đưa thế giới
bước sang thời kì toàn cầu hóa giai đoạn 3. Hội nhập quốc tế sâu rộng và mạnh mẽ đã
biến các quốc gia, khu vực thành những láng giềng sát vách trong sân chơi của một
“thế giới phẳng”. Nắm vững quy luật này, Việt nam cũng đã chủ động hội nhập, tham
gia trường quốc tế toàn diện, tích cực trên mọi lĩnh vực của đời sống.
Một trong các nhân tố quan trọng đưa nước ta hội nhập thành công, chủ động
nắm bắt thời cơ và vượt qua thử thách mà Việt Nam xác định, đó là giáo dục và đào
tạo. Xác định “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, ngay trong Luật Giáo dục
nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: “Phương pháp giáo dục phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng
năng lực tự học, lòng say mê họctập và ý chí vươn lên” (Luật Giáo dục 2005). Hơn thế
nữa trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2, Ban chấp hànhTrung ương Đảng cộngsản
Việt Nam khoá VIII, khẳng định: “Phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc
phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duysáng tạo của người học.
Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến vàphương tiện hiện đại vào quá trình

dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là
sinh viên đại học”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hànhTrung ương Đảng
cộng sản Việt Nam khoá XI, với Nghị quyết 29-NQ/TW, về việc “Đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa
trong thời kì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, cũng tiếp tục khẳng
định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát
3


huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học;
khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học,
cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri
thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình
thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.
Tất cả các yếu tố trên đã đặt một nhiệm vụ không hề nhỏ, mang tính chất quyết
định bước ngoặt cho giáo dục đào tạo Việt Nam tại thời điểm ngày nay. Đổi mới
phương pháp dạy học sẽ là xu hướng mang tính toàn cầu then chốt trong giáo dục,
trong đó không thể bỏ qua vai trò của giáo dục Ngữ văn trong trường THPT.
2. Đổi mới phương pháp dạy học văn
Thời đại chúng ta đang sống là thời đại hội nhập, toàn cầu hóa với yếu tố then
chốt khoa học công nghệ. Chính yếu tố khách quan này mà đại đa số học sinh (HS) chỉ
muốn học các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật, kinh tế… mà không hứng thú học
văn. Không chỉ dừng ở đó, một quán tính của tư duy dạy học theo kiểu giáo điều đã lâu
năm, không biết đối thoại, không cho đối thoại, thậm chí theo hà khắc của lễ giáo
phong kiến xưa, coi đối thoại tranh luận của trò với thày là hỗn, là láo. Thầy dạy gì,
bảo gì chỉ biết cắm đầu nghe, cắm đầu chép. Và nếu trong giờ học giáo viên có tổ chức
đối thoại, thảo luận thì cũng là thảo luận lấy lệ hình thức cho có chứ chưa đi vào thực
chất vốn có của nó. Nhưng có lẽ theo ý kiến chủ quan của chúng tôi nguyên nhân
chính nằm ở thực tại vấn đề phương pháp giảng dạy. Với phương pháp dạy học cũ, chỉ

dựa vào giảng, bình, diễn giảng, dạy học theo lối cung cấp kiến thức áp đặt (chưa coi
người học là trung tâm, học sinh phải học thuộc kiến giải của thày), chưa xem dạy học
tác phẩm văn học là dạy học đọc văn, một hoạt động có quy luật riêng, đã dẫn đến
sự bế tắc trì trệ của bộ môn Ngữ văn trong hệ thống giáo dục. Hậu quả của nó không
chỉ làm giảm sút hiệu quả giáo dục, mà hơn thế, còn có phản tác dụng là nó làm cho trí
óc học sinh trơ lì, chán học, làm mòn mỏi trí tuệ, phá hoại tư duy. Phải thấy rõ điều đó
thì chúng ta mới thấy nhu cầu đổi mới. Do đó muốn đổi mới căn bản và toàn diện giáo
4


dục thì phải đề cao và tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học thật sự. Vấn đề
không chỉ là đặt ra một vài phương pháp, một vài biện pháp kĩ thuật, mà phải xây dựng
lại một cách cơ bản quan niệm dạy học mới, các khái niệm mới mới mong có sự đổi
mới đích thực về phương pháp dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng.
Đổi mới dạy học Ngữ văn là một vấn đề lớn, phức tạp, còn là xu hướng mang
tính toàn cầu. Nhiệm vụ đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt
động học tập của HS không chỉ là định hướng mà còn đòi hỏi bằng những hoạt động
cụ thể để tiến hành đổi mới phương pháp dạy học. Vì vậy cần nghiên cứu xác định các
nguyên tắc, quy trình vận dụng của những phương pháp dạy học tích cực, giúp cho
giáo viên sử dụng một cách thuận lợi và có hiệu quả. Việc nghiên cứu và áp dụng
phương pháp, kĩ thuật dạy học hiện đại trong dạy học Ngữ văn ở THPT là một hướng
đi đúng đắn nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng và
trong dạy học nói chung.
3. Lí thuyết Graph và dạy học Ngữ văn
3.1. Từ lí thuyết Graph đến phương pháp Graph trong dạy học.
Graph là một lý thuyết có nguồn gốc từ toán học. Theo tiếng Anh, “graph” là đồ
thị, mạng, mạch. Trong tiếng Pháp, “graphe” cũng có ý nghĩa tương tự. Như vậy, hiểu
một cách chung nhất, Graph là một sơ đồ, một đồ thị hay một mạng, mạch. Hiện nay,
do yêu cầu sử dụng thuật ngữ khoa học với xu hướng dùng chung một tên gọi để thống
nhất về quan niệm khi nghiên cứu khoa học, nên người ta vẫn dùng nguyên tên gọi của

nó là Graph chứ không dịch ra tiếng Việt.
Phương pháp nghiên cứu bộ môn và phương pháp dạy học bộ môn luôn có một
sự tương ứng nhất định. Chúng ta luôn có thể chuyển hóa phương pháp nghiên cứu bộ
môn và phương pháp dạy học bộ môn đó thông qua việc xử lí sư phạm của giáo viên.
Lí thuyết đồ thị (Graph) là một phương pháp nghiên cứu chuyên ngành toán học hiện
đại đã được ứng dụng vào nhiều ngành khoa học, kĩ thuật khác nhau vì lý thuyết đồ thị
toán học là phương pháp khoa học có tính khái quát cao, có tính ổn định vững chắc để
mã hóa các mối quan hệ của các đối tượng được nghiên cứu. Có thể nói Graph là một
5


phép toán hữu hiệu kích thích sự hoạt động, óc tư duy, suy luận của trí não thậm chí
còn là một câu trả lời thông minh, logic cho các câu hỏi khó nâng cao của tri thức nhân
loại. Vì thế chúng ta có thể dễ dàng chuyển hóa lí thuyết Graph trong nghiên cứu toán
học trở thành phương pháp Graph trong dạy học, trong thực tế sư phạm. Việc vận dụng
phương pháp Graph trong dạy học các bộ môn khoa học nhằm nâng cao chất lượng
dạy học các môn học này ở trường THPT, được xem như là một trong những bước tiến
vượt bậc cho đổi mới và ứng dụng toán học vào hành trang mới vừa tiếp cận vừa bổ
sung vào hệ thống các phương pháp dạy học truyền thống và đó còn là việc làm tạo ra
sự phong phú cho các phương pháp dạy học. Theo hướng này, có nhiều tác giả đã
thành công trong việc nghiên cứu và vận dụng lý thuyết Graph vào dạy học một số
môn học ở trường phổ thông và đã có những kết quả bước đầu. Năm 1974, Hà Thúc
Quảng đưa ra vấn đề: “Dùng sơ đồ trong việc dạy toán để phát huy tác dụng của sách
giáo khoa”. Năm 1980, tác giả Trần Trọng Dương đã nghiên cứu đề tài: “Áp dụng
phương pháp Graph và algorit hoá để nghiên cứu cấu trúc và phương pháp giải, xây
dựng hệ thống về lập công thức hoá học ở trường phổ thông”. Năm 1983 giáo sư
Nguyễn Ngọc Quang đã đặt vấn đề: “Sự chuyển hóa phương pháp khoa học thành
phương pháp dạy học”. Năm 1984, Phạm Tư với sự hướng dẫn của giáo sư Nguyễn
Ngọc Quang đã nghiên cứu đề tài: “Dùng Graph nội dung của bài lên lớp để dạy và
học chương Nitơ- Phôtpho ở lớp 11 trường trung học phổ thông”. Năm 1987, Nguyễn

Chính Trung đã nghiên cứu: “Vận dụng phương pháp Graph trong việc lập chương
trình môn học tối ưu và cải tiến phương pháp dạy học”. Trong dạy học sinh học ở
trường phổ thông, Nguyễn Phúc Chỉnh là người đầu tiên đi sâu nghiên cứu về lý thuyết
Graph và ứng dụng lý thuyết Graph trong dạy học môn Sinh học: “Sử dụng Graph
nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinhtrong dạy học sinh thái” (4/1999).
Đặc biệt đối với môn Ngữ văn, PGS.TS Nguyễn Quang Ninh đã đưa ra vấn đề dạy học
tiếng Việt bằng Graph: “Sử dụng phương pháp Graph trong dạy học tiếng Việt”.Như
vậy với vài nét khái quát ở trên ta thấy lí thuyết đồ thị Graph đã trở thành phương pháp

6


Graph trong dạy học tạo ra những bước tiến mới cho khoa học bộ môn - phương pháp
dạy học.
Sơ đồ Graph trong dạy học mà chúng tôi nhấn mạnh chủ yếu là sơ đồ tư duy, đồ
thị quan hệ và bảng biểu. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý đến điều kiện để lập
một Graph nội dung, nên có sự lựa chọn chứ không phải tất cả các bài học trong
chương trình đều áp dụng được phương pháp này. Chỉ nên sử dụng sử dụng phương
pháp Graph để dạy những bài học có nhiều kiến thức, phức tạp, gây khó khăn cho sự
lĩnh hội tri thức của người học hoặc hệ thống, tổng kết, đơn giản hóa cô đọng kiến thức
giúp HS dễ học, dễ nhớ.
3.2. Từ phương pháp Graph trong dạy học Ngữ văn đến thực nghiệm trong đọc
hiểu “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi.
Lê nin từng cho rằng: Chỉ khi nào toán học thâm nhập được vào một ngành
khoa học nào đấy thì ngành khoa học ấy mới có những tiến bộ vượt bậc. Điều này đã
được chứng minh trong lịch sử phát triển của nhiều ngành khoa học trong đó có khoa
học xã hội. Phương pháp thống kê của toán học đi vào thống kê ngôn ngữ, thống kê xã
hội học… đã giúp cho những ngành khoa học xã hội này phát triển một cách vượt bậc.
Phương pháp dạy học trong đó có phương pháp dạy học Ngữ văn cũng là một ngành
khoa học, vậy thì có thể đưa phương pháp của toán học vào ứng dụng cho phương

pháp dạy học Ngữ văn được hay không? Graph là một phương pháp nghiên cứu của
toán học, vậy có thể áp dụng phương pháp Graph vào dạy học Ngữ văn hiệu quả hay
không? Những câu hỏi đó đang là sự quan tâm lớn của khoa học sư phạm trong đó có
sư phạm Ngữ văn và đặc biệt là các thày cô giáo đang trực tiếp giảng dạy bộ môn này.
Chúng tôi xin được đưa ra ba cơ sở lí luận và một cơ sở thực tiễn sau đây như là tiền
đề áp dụng Graph vào dạy học Ngữ văn.
Thứ nhất là mọi phương pháp nghiên cứu bộ môn và phương pháp dạy học bộ
môn luôn có một sự tương ứng nhất định. Chúng ta có thể chuyển hóa từ phương pháp
nghiên cứu bộ môn thành phương pháp dạy học bộ môn đó thông qua việc sử lí sư
phạm của giáo viên. Ví dụ như phương pháp dạy học bằng thí nghiệm trong dạy học
7


vật lí có nguồn gốc từ phương pháp thí nghiệm của nghiên cứu vật lí, phương pháp
đàm thoại trong dạy học có nguồn gốc từ phương pháp trao đổi seminar trong nghiên
cứu khoa học, hay phương pháp dạy học thuyết trình, diễn giảng cũng có nguồn gốc từ
phương pháp báo cáo trong nghiên cứu khoa học… Phương pháp Graph là một
phương pháp chuyển hóa từ một phương pháp riêng của toán học, trở thành một
phương pháp chung của nhiều ngành khoa học khác nhau trong đó có phương pháp
dạy học cả tự nhiên và xã hội. Vì vậy chúng ta có thể ứng dụng phương pháp Graph
trong dạy học nói chung và trong dạy học (đọc hiểu văn bản) Ngữ văn nói riêng.
Thứ hai là trong nội dung dạy học Ngữ văn, một sự thật là việc nhận thức nội
dung của văn bản, mối quan hệ nghĩa các câu với nhau và với chỉnh thể, giữa nội dung
và hình thức… đối với HS không phải là điều dễ dàng. Vì thế chúng ta phải biến nội
dung trừu tượng của văn bản thành các tín hiệu trực quan giúp HS dễ hình dung nội
dung văn bản. So với dùng lời, việc dùng các giáo cụ trực quan, mang tính cụ thể như
vậy, được coi là phương tiện “thị phạm hóa”, “tường minh hóa”, biến nội dung văn
bản vốn rất trừu tượng khó hiểu khó học trong đơn vị bài học trở nên dễ học đơn giản,
HS dễ dàng quan sát hơn tri nhận sâu sắc hơn. Nội dung của một bài học không chỉ
được tiếp thu bằng cách nghe qua lời giảng của GV mà các em còn được tận mắt

chứng kiến, nhìn, được tham dự vào quá trình nhận thức chủ động, một cách tường
minh mối quan hệ nội dung, hình thức, lí thuyết và thực tế, qua dấu hiệu trực quan của
Graph. Điều này đã được các nhà nghiên cứu tâm lí khẳng định. Trong dạy học, các
giác quan có thể tri giác thông tin hoàn toàn khác nhau. Trong cùng một đơn vị thời
gian, tiếp nhận thông tin của thị giác là 3 triệu bis/s, của thính giác là 30000 – 50000
bis/s. Như vậy tri nhận thông tin của thị giác gấp 100 lần thính giác. Điều này nói nên
ưu thế rõ rệt của dạy học bằng thị giác so với thính giác. Vì thế dạy học bằng các
phương tiện trực quan, trong đó phương pháp Graph là một ưu thế lớn không chỉ cho
các khoa học tự nhiên mà còn có khoa học xã hội trong đó có dạy học Ngữ văn.
Thứ ba là xét trên hoạt động dạy học nói chung và Ngữ văn nói riêng, Graph có
một ưu thế vượt trội so với phương pháp truyền thống. Nhìn từ góc độ lí thuyết Graph,
8


thực chất việc chuẩn bị bài dạy của GV là việc cấu trúc hóa toàn bộ những kiến thức
của một bài học, tiết học nào đó bằng ngôn ngữ trực quan, súc tích và khái quát cao.
Cấu trúc hóa nội dung kiến thức bằng Graph (có hoặc vô hướng, mở hay khép) là một
minh chứng khẳng định GV nắm vững kiến thức, chủ động tổ chức dạy học. Chọn
Graph là chọn một phương pháp tối ưu nhưng lại hết sức sinh động, phong phú để tạo
hệ thống hóa, khái quát hóa bài học trên lớp, mà dùng lời đôi khi khó diễn đạt hết. Đối
với HS, Graph giúp HS có điểm tựa thuận lợi trong việc chủ động lĩnh hội kiến thức.
Do tính trực quan, cô đọng của những lưu ý ghi chú, khái quát của kí hiệu mã hóa nội
dung, các sơ đồ giúp HS nắm vững hơn, tái hiện nội dung bài học thuận lợi hơn. Thêm
vào đó các em vừa nắm vững kiến thức từng bài vừa có cái nhìn tổng thể trong mối
quan hệ của các đơn vị kiến thức cấu thành bài học và các kiến thức bài học khác.
Thứ tư là do tiến trình văn học và nghiên cứu giảng dạy, một đặc điểm nổi bật
của phần văn học viết được biên soạn trong sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn cơ bản lớp
10 là văn học cổ, được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Các tác phẩm đó đã được các
nhà Nho (trí thức phong kiến) sáng tác cách đây nhiều thế kỉ. Điều này là một khó
khăn cho việc tiếp cận văn bản văn học trung đại cho học sinh lớp 10 khi mà các em có

một gián cách khá xa về lịch sử và văn hóa cũng như bề dầy tư tưởng, nhận thức của
các em còn hạn chế. Khó nhưng chúng ta vẫn phải làm vì văn học cổ là quốc hồn là
bản sắc dân tộc. Khó nhưng nếu chúng ta có cách tiếp cận, có sự đổi mới phương pháp,
cái khó đó sẽ trở thành điều hấp dẫn, lôi cuốn các em học sinh trung học phổ thông
(THPT) vì các em đang trong độ tuổi đam mê những điều mới lạ bí ẩn. Văn học trung
đại chứa đựng những mã văn hóa cổ xưa của cha ông, những dấu ấn văn hóa, lịch sử
cũng như hành trình vận động đi từ cơ sở hình thành đến sự phát triển biến động của tư
tưởng, quan niệm nhân sinh, thẩm mĩ của con người Việt Nam theo chiều dài lịch sử.
Đó sẽ là điểm nhấn quan trọng kích thích sự hứng thú say mê văn học cổ cho các em.
Một vấn đề quan trọng khác là lối mòn của phương pháp tiếp cận văn học cổ. Hầu
hết là tiếp cận văn bản qua phân tích từ ngữ, chia nhỏ văn bản thành đoạn, câu, làm
mất đi tính vận động khái quát của tư tưởng người nghệ sĩ. Giáo viên hỏi học sinh trả
9


lời. Giáo viên đọc học sinh chép. Điều này dẫn đến tình trạng phân tán nội dung, khó
nhớ, khó hệ thống,“cụt” về tư duy và dẫn đến chán học văn của các em học sinh. Với
bài Bảo kính cảnh giới số 43 - Cảnh ngày hè, xưa nay khi tiếp cận bài thơ này, thông
thường chúng ta sẽ chia bố cục bài thơ thành hai phần. Sáu câu đầu được xem là phần
tả cảnh thiên nhiên mùa hè. Hai câu thơ sau là tâm sự sâu kín của tác giả về khát vọng
đem lại cuộc sống no ấm, thái bình thịnh trị cho nhân dân. Theo chúng tôi, lối hiểu này
cần xét lại. Bởi nếu như vậy sẽ đánh mất đi tính trọn vẹn về nội dung, hoàn chỉnh về
hình thức, mối quan hệ của chúng và đặc trưng của văn học trung đại trong văn bản
này. Hơn nữa “Thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo” là đặc điểm quan trọng của văn học
xưa, dưới những hình thức đặc thù của thể loại nhất định. Vì thế chúng ta cần có cách
tiếp cận, phương pháp dạy học mới đúng hướng cho văn học cổ nói chung và văn bản
này nói riêng.
Văn học cổ ra đời trong thời kì mà “Văn sử triết bất phân” và mỗi một nhà sáng
tác của văn học trung đại đều là một môn đồ của một hệ tư tưởng triết học, của một tôn
giáo nào đó hay chí ít cũng bị ảnh hưởng phương diện tư tưởng nào đó trong cuộc đời.

Chúng tôi sẽ đưa ra cách tiếp cận văn bản văn học giai đoạn này trên đặc trưng văn
hóa nảy sinh. Tức là chúng tôi sẽ đặt văn bản đó trong không gian văn hóa chúng được
ra đời cũng như văn hóa, tư tưởng chủ đạo và phong cách của người cầm bút sáng tạo
ra chúng. Nhưng làm thế nào vừa đọc hiểu theo thể loại, theo văn hóa vừa chỉ ra cách
đọc, mối quan hệ giữa nội dung, tư tưởng và hình thức biểu đạt, để học sinh dễ hiểu,
dễ nhớ, tự học và vận dụng vào thực tế - đó mới là vấn đề đặt ra cho phương pháp đọc
hiểu văn bản này. Quả là không dễ dàng nhưng từ những điều đã nhận thức và chia sẻ
ở trên, chúng tôi sẽ đọc hiểu văn bản Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới số 43) của
Nguyễn Trãi trên thể loại, mã văn hóa trung đại bằng phương pháp Graph. Trên cơ sở
lí luận và thực tiễn nói trên, với tư cách là một GV THPT đang giảng dạy môn Ngữ
văn lớp 10, chúng tôi sẽ chia sẻ vớ các em HS, các bạn đồng nghiệp và bạn đọc đề
tài:“Lí thuyết Graph trong dạy học Ngữ văn, thực nghiệm vào đọc hiểu “Cảnh ngày
hè” của nguyễn Trãi”.
10


II. Mô tả giải pháp:
1. Bảng so sánh đọc hiểu “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi theo truyền thống và
theo vận dụng lí thuyết Graph.
Nội
dung
Tìm
hiểu
tiểu
dẫn

Tổ chức dạy học
truyền thống
Nội dung: Vị trí, giá
trị tập thơ, bài thơ.

Phương
pháp:
Thuyết trình, phát
vấn.

Tổ chức dạy học theo phương pháp Graph

Nội dung: Vị trí tập thơ, giá trị nội dung và nghệ thuật.
Tìm hiểu vị trí, thể loại bố cục bài thơ.
Phương pháp: Ngoài thuyết trình, phát vấn, chúng tôi
sử dụng tích hợp với kiến thức lịch sử cho HS thảo
luận, học theo sơ đồ tư duy (Graph), hướng dẫn tự học
qua sơ đồ, bảng biểu. Phát huy năng lực tìm thông tin,
tự học, năng lực giao tiếp, tự tin trình bày trước đám
đông.
Đọc Đọc nhanh và tìm Học sinh chuẩn bị bài qua phiếu học tập. Nghiên cứu
hiểu bố cục.
về thể loại và ngôn ngữ, đọc hiểu từ thể loại.
khái Phương
pháp: Phương pháp: Ngoài thuyết trình, phát vấn, chúng tôi
Thuyết trình, phát tích hợp với kiến thức thống kê toán học, biểu đồ địa
vấn.
lí, ngôn ngữ học, cho HS thảo luận, sơ đồ tư duy
(Graph), hướng dẫn tự học qua sơ đồ, bảng biểu. Phát
huy năng lực tìm thông tin, tự học, năng lực giao tiếp,
tự tin trình bày trước đám đông.
Đọc Phân tích văn bản Phân tích văn bản theo bố cục ba phần.
hiểu theo 2 phần: 6 câu
Phần 1 - câu 1: Hoàn cảnh nảy sinh cảm hứng.
chi

đầu là bức tranh
Phần 2 - từ câu 2 đến câu 6: Vẻ đẹp Nguyễn Trãi
tiết ngày hè, 2 cuối là qua bức tranh cảnh ngày hè.
tấm lòng yêu nước
Phần 3 - câu 7 và 8: Khát vọng dân giàu đủ của
của tác giả.
Nguyễn Trãi
Phương
pháp: Phương pháp: Ngoài thuyết trình, phát vấn đọc hiểu
Thuyết trình, phát văn bản đi từ nghệ thuật đến nội dung, chúng tôi tích
vấn. Đi từ nghệ hợp với kiến thức thống kê toán học, ngôn ngữ học,
thuật đến nội dung cho HS thảo luận, sơ đồ tư duy (Graph), hướng dẫn tự
của văn bản.
học qua sơ đồ, bảng biểu. Phát huy năng lực tìm thông
tin, tự học, năng lực giao tiếp, tự tin trình bày trước
đám đông.
Luyện Câu hỏi tự luận tái Đọc hiểu văn bản khác của Nguyễn Trãi, câu hỏi nêu
tập hiện kiến thức, thiên vấn đề ứng dụng thực tế, câu hỏi tích hợp kiến thức,
về ghi nhớ nội dung. câu hỏi kiến thức theo thể loại.
Từ bảng so sánh hai cách học theo truyền thống và theo Graph ở trên, chúng tôi
thấy rằng ưu điểm lớn nhất của phương pháp này là đã chuyển từ hoạt động dạy sang
11


học, học sinh chủ động tích cực từ chuẩn bị đến học và kiểm tra đánh giá. Không
những vậy đơn vị kiến thức đã được sơ đồ hóa của qúa trình tư duy sâu nên hàm súc
HS dễ nhớ, dễ vận dụng vào đọc hiểu văn bản khác cũng như giải quyết các vấn đề đặt
ra trong cuộc sống làm thay đổi thực trạng dạy học thụ động văn hiện nay. Với phương
pháp này đã phát huy được các năng lực phẩm chất người học, tích hợp các kiến thức
phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp và tích hợp liên môn trong dạy học hiện

nay.
2. Vận dụng lí thuyết Graph vào đọc hiểu “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi.
Hoạt động dạy học và tiến trình dạy học.
Bài Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới số 43) trong sách giáo khoa Ngữ văn cơ
bản lớp 10 được chia làm bốn phần với các phần tương ứng là tiểu dẫn, văn bản,
hướng dẫn học bài và luyện tập. Chúng tôi sẽ hướng dẫn học sinh tiếp cận bài học trên
đi từ tiểu dẫn đến đọc hiểu văn bản và cuối cùng là luyện tập.
2.1. Tìm hiểu phần tiểu dẫn
Ở phần tiểu dẫn chúng tôi đặt ra các đề mục định hướng sau:
2.1.1. Tập thơ Quốc âm thi tập:
- Vị trí của tập thơ: là tập thơ Nôm sớm nhất hiện còn, Nguyễn Trãi đã đặt nền
móng và mở đường cho sự phát triển của thơ tiếng Việt.
- Kết cấu Quốc âm thi tập: gồm bốn phần là Vô đề, Môn thời lệnh, Môn hoa mộc,
Môn cầm thú.
- Nội dung của tập thơ: phản ánh vẻ đẹp con người Nguyễn Trãi hòa quyện người
anh hùng với lí tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân và tâm hồn một nhà thơ với
tình yêu lớn với thiên nhiên, con người và cuộc sống.
- Nghệ thuật của tập thơ: thể thơ thất ngôn Đường luật của Trung Quốc đã được
Nguyễn Trãi sử dụng như thể thơ dân tộc khi sáng tác bằng chữ Nôm và đôi khi xen
câu thơ lục ngôn (sáu chữ).
12


Học sinh dễ dàng phát hiện được kiến thức cơ bản trên qua việc tìm hiểu tiểu
dẫn trong SGK Ngữ văn cơ bản lớp 10. Từ đó chúng tôi sẽ mở rộng liên kết với thực
tiễn qua hai câu hỏi nêu vấn đề và sơ đồ hóa cho HS. Đây là tình huống buộc học
sinh phải huy động kiến thức liên môn mà cụ thể là bộ môn lịch sử để sơ đồ hóa
kiến thức bài học.
Câu hỏi 1: Nêu năm sinh - mất của Nguyễn Trãi? Những con số đó có mối quan
hệ như thế nào với nội dung tập thơ Quốc âm thi tập?

Câu hỏi 2: Nêu đặc điểm lớn số 3 về nghệ thuật của văn học trung đại Việt
Nam? Đặc điểm này biểu hiện như thế nào về thể loại trong tập thơ Quốc âm thi tập?
Để trả lời câu hỏi 1học sinh phải vận dụng kiến thức liên môn lịch sử. Chúng
tôimở rộng cho học sinh từ con số năm sinh mất 1380 - 1442 (kiến thức THCS các em
đã học). Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động của Việt Nam với những sự kiện nhà
Trần suy thoái, nhà Hồ thay thế nhưng không được hợp lòng dân, giặc Minh sang xâm
lược và đô hộ Việt Nam, khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi toàn thắng, nhà Lê thành lập.
Năm 1429 Nguyễn Trãi và nhiều công thần khai quốc bị thất sủng và tập thơ Quốc âm
thi tập ra đời. Dù thăng trầm chính trị nhưng Nguyễn Trãi là người với tấm lòng yêu
nước, luôn hướng mọi tâm trí và hành động với cuộc đời con người và đất nước vì vậy
hình tượng người anh hùng Nguyễn Trãi đã tỏa sáng trong thơ ca qua giá trị nội dung
của tập thơ Quốc âm thi tập.
Sơ đồ 1: Thời gian ra đời tập thơ.
1380

1400

1420

1427

Quốc âm (1438) ra đời

1442

Sinh Làm quan (nhà Hồ) K/N Lam Sơn Nhà Lê sơ Thất sủng lui về Côn Sơn Mất
Ngoài ra câu hỏi 2 học sinh tái hiện kiến thức cũ lịch sử văn học ở bài khái quát
văn học trung đại với đặc điểm nghệ thuật: tiếp thu và dân tộc hóa tinh hoa văn học
nước ngoài. Ở đây Nguyễn Trãi đã tiếp thu và dân tộc hóa ngôn ngữ và thể loại của
13



văn học Trung Quốc. Tập thơ Quốc âm thi tập được sáng tác bằng chữ Nôm (kiểu chữ
do người Việt sáng tạo từ chữ Hán ghi âm tiếng Việt) đặc biệt là có hệ thống âm thuần
Việt trong đó có nhiều từ Việt cổ và biến đổi thể loại thơ thất ngôn Đường luật bằng
xen câu thơ sáu chữ trong văn bản tạo nên thể loại văn học biến thể giữa ngoại sinh và
nội sinh. Điều này sẽ liên kết và được chúng tôi làm sáng rõ ở phần sau.
2.1.2. Văn bản Cảnh ngày hè.
- Vị trí: Cảnh ngày hè là bài số 43/61 bài thơ thuộc mục Bảo kính cảnh giới Gương báu răn mình, của phần Vô đề (Vô đề, Môn thời lệnh, Môn hoa mộc, Môn cầm
thú) trong Quốc âm thi tập.
Sơ đồ 2: Vị trí bài thơ trong sự nghiệp

- Thể loại: Thơ Nôm Đường luật biến thể, biến đổi thể loại thơ thất ngôn Đường
luật bằng việc xen câu thơ sáu chữ vào, ngắt nhịp 3/4 trong câu thơ 7 chữ, tạo nên thể
loại văn học tiếp biến yếu tố ngoại sinh và nội sinh.
Sơ đồ 3: Thể loại văn bản.

14


- Bố cục: ba phần.
+ Phần 1 - câu1: Hoàn cảnh nảy sinh cảm hứng.
+ Phần 2 - từ câu 2 đến câu 6: Vẻ đẹp Nguyễn Trãi qua bức tranh cảnh ngày hè.
+ Phần 3 - câu 7 và 8: Khát vọng dân giàu đủ của Nguyễn Trãi
Từ kiến thức cơ bản mà học sinh phát hiện trong SGK và bố cục, chúng tôi cho
HS sơ đò hóa xuất xứ bố cục văn bản.
Từ sơ đồ, chúng tôi định hướng mở rộng hơn từ tên phần mục Bảo kính cảnh
giới. Cảnh giới chính là Tu thân (sửa mình cho đúng theo điều lẽ nào đó) để hành động
mà đạt tới niềm vui an lạc trong một cảnh giới của cuộc sống. Nhưng đâu là cái gốc, là
chủ nhân làm “Gương báu” cho Nguyễn Trãi răn mình, soi mình? Mục đích của “răn

mình” là gì? Từ câu hỏi này, chúng tôi sẽ dẫn dắt, định hướng học sinh vào phần đọc
hiểu văn bản để giải đáp câu hỏi đó.

15


2.2. Hướng dẫn đọc hiểu văn bản.
Ở phần này, chúng tôi sẽ hướng dẫn học sinh đọc hiểu khái quát và đọc hiểu chi
tiết chủ yếu qua những bảng hệ thống bảng biểu, biểu đồ của môn Địa lí, qua việc
thống kê các chỉ số, số liệu của môn Toán học. Qua câu hỏi hướng dẫn của SGK và
câu hỏi nêu vấn đề định hướng của chúng tôi, văn bản tác phẩm và trên kiến thức các
em đã tự tìm hiểu được từ những nguồn tri thức khác mà các em học sinh thu thập, các
em tự mình hoàn thành bảng.
2.2.1. Hướng dẫn đọc hiểu khái quát.
GV hướng dẫn HS đọc văn bản bài thơ. Từ đó chúng tôi cho HS hoàn thiện
bảng hướng dẫn sau đây.
Sơ đồ 3: Đọc hiểu theo thể loại văn bản.
Thể loại

Chữ viết

Thơ
thất Chữ Nôm
ngôn bát cú
Đường luật

Vay mượn
tiếp thu thể
loại
của

văn
học
Trung
Quốc. Phổ
biến
của
văn
học
trung đại.

Chữ viết do
người Việt
sáng tạo, đặt
nền
móng
mở đường
cho sự phát
triển thơ ca
tiếng
Việt
khi ghi lại
âm và tiếng
của
người
Việt.

Vị trí câu thơ 6
Từ Việt cổ
chữ
Câu 1 và câu 8

Rồi: rỗi rãi;
Thức: dáng
vẻ, màu vẻ;
Dắng dỏi: inh
ỏi; Dẽ có: lẽ
ra nên có;
Đòi: nhiều.
Đổi mới sáng Ngôn
ngữ
tạo trên thể loại dân tộc, dân
vay mượn. Việt dã bình dị. Ý
thức dân tộc
hóa thể loại. Ở
của Nguyễn
câu mở đầu và Trãi
trong
câu cuối bài thơ. việc giữ gìn
Có tác dụng tạo tiếng Việt.
điểm nhấn mở kết, dồn nén
cảm xúc chủ đạo
của bài thơ.

16

Ngắt nhịp câu thơ
Câu 1: 1/2/3
Câu 2, 5, 6, 7: 4/3
Câu 3, 4: 3/4
Câu 8: 3/3


Ngắt nhịp 4/3 là phổ
biến của thơ thất
ngôn Đường luật.
Ngắt nhịp 3/4 lạ hóa
nhấn mạnh sự chú ý.
Câu 1 là 1/2/3, nhịp
nhàng đều đặn như
tiếng thở nhẹ nhàng
nhưng chứa đựng
suy tư chiều sâu.
Câu 8 là 3/3, hài hòa
cân đối mãn nguyện
của nhà thơ.


Học sinh dễ dàng phát hiện ở phần đầu bảng với các dấu hiệu cần tiếp cận văn
bản. Phần ý nghĩa phía sau chúng tôi sẽ gợi ý và mở rộng cho học sinh (liên kết với
phần kết luận bài tác giả Nguyễn Trãi ở tập 2). Văn bản này là minh chứng cho đặc
điểm nghệ thuật văn học trung đại Việt Nam là tiếp thu và dân tộc hóa tinh hoa văn
học nước ngoài chủ yếu là văn học Trung Quốc trên bình diện ngôn ngữ là thể loại.
Vậy ngoài việc Việt hóa thể loại qua thơ Nôm Đường luật xen lục ngôn , chúng tôi dẫn
dắt HS tìm hiểu đóng góp về ngôn ngữ của Nguyễn Trãi qua bảng, phiếu học tập sau.
Sơ đồ 5: Ngôn ngữ của văn bản.
Từ Hán Việt
Trường, lục, thạch
lựu, hồng liên trì,
hương, ngư phủ,
cầm, lầu tịch
dương, Ngu cầm,
dân, phương.


18 chiếm 33,3%

Từ thuần Việt

Từ Việt cổ

Hóng mát, thuở, Rồi, thức, dắng
ngày, hòe, đùn đùn, dỏi, dẽ có, đòi.
còn, phun đỏ, tán rợp
giương, đã tiễn mùi,
lao xao, chợ cá, làng,
ve, đàn, một tiếng,
giầu đủ, khắp.
29 chiếm 53,7%.

7 chiếm 13%

17

Tống số
Câu1 và 8: 6 chữ.
2 X 6 = 12
Câu 2, 3, 4, 5, 6, 7: 7
chữ.
6 X 7 = 42
Tổng bài thơ có 54 chữ
tương ứng 54 tiếng.



Qua biểu đồ chúng ta thấy âm Việt chiếm 67.7%, số lượng âm Hán Việt chiếm
33.3%. Âm thuần Việt = 2 lần âm Hán Việt. Đặc biệt có một hệ thống âm Việt cổ mà
Nguyễn Trãi ý thức sử dụng chiếm 13%. Điều này đã chứng minh cho kết luận đã
được khẳng định ở tiểu dẫn: Nguyễn Trãi đã đặt những viên gạch nền móng đầu tiên
cho thơ ca tiếng Việt của dân tộc. Đây cũng là minh chứng niềm tự hào ý thức dân tộc
qua ngôn ngữ của tác giả cũng như sự chủ động trong vấn đề độc lập tự do văn hóa tư
tưởng mà Nguyễn trãi đặt ra cho trí thức người Việt lúc bấy giờ và có ý nghĩa đến
ngày nay. Nguyễn Trãi đã gìn giữ và phát huy sự trong sáng của tiếng Việt. Đó cũng là
trách nhiệm và sứ mệnh của mỗi người Việt nam ở mọi tầng lớp và thời đại.
2.2.2. Đọc hiểu chi tiết.
Ở phần này trên cơ sở của tiếp cận các phần trước chúng tôi hướng dẫn học sinh
đọc hiểu văn bản trên bố cục ba phần.
2.2.2.1. Phần 1: Câu 1.
Học sinh dễ dàng phát hiện câu mở đầu 6 chữ (lạ hóa) mở ra hoàn cảnh nảy sinh
bài thơ và cũng thấy hoàn cảnh nhàn hạ, rảnh rỗi của Nguyễn Trãi qua từ “rồi, hóng
mát, ngày trường”.
Từ đó chúng tôi đặt câu hỏi nêu vấn đề cho các em. Tại sao lại là ngày dài
(trường)? Câu thơ gợi dẫn điều gì về tâm trạng của tác giả?
Để giải quyết tình huống và trả lời câu hỏi này học sinh phải huy động kiến thức
lịch sử vấn đề văn hóa tư tưởng về tác giả Nguyễn Trãi.
Ở câu thơ này còn chứa đựng cái bất thường giữa nội dung bên trong và biểu
hiện ngôn từ. Rồi hóng mát (những phút hiếm hoi của một vị quan Nguyễn Trãi, rất có
thể tác giả viết bài thơ này lúc lui về Côn Sơn ở ẩn khi cuộc đời làm quan của Nguyễn
Trãi phải có rất nhiều thăng trầm), Nguyễn Trãi có một ngày dài, thân nhàn không lo
âu, để đến và tận hưởng cảnh vật thiên nhiên. Thế nhưng thời gian được đong, đếm
một cách đầy tâm trạng: “ngày trường” - ngày dài, thời gian tâm lí, mang tâm
trạng. Với một con người có triết lí hành động gắn với dân nước thì hành động Nguyễn
18



Trãi chịu lui về miền thôn dã để ngắm cảnh quả là một điều khác thường. Thế nên thời
gian trôi đi rất nặng nề, dài dằng dặc gợi cho thấy ẩn sau sự nhàn hạ đó của cái vẻ bên
ngoài Nguyễn Trãi, sẽ chứa đựng sự vận động tư tưởng suy nghĩ bên trong. Vậy điều
gì đã khiến cho một con người đã kinh qua nhiều thăng trầm của cả bản thân và thời
cuộc phải suy ngẫm? Câu hỏi này sẽ được chúng tôi đẫn dắt làm định hướng cho học
sinh đi tìm hiểu các câu phía sau.
2.2.2.2. Phần 2: 5 câu thơ tiếp.
Để tìm hiểu bức tranh cảnh ngày hè, chúng tôi định hướng sự tiếp cận của học
sinh qua bảng chỉ dẫn. Qua hệ thống bảng chúng tôi đã định hướng cho học sinh cách
tiếp cận, nâng cao sự tích cực chủ động của các em ttrong quá trình tiếp cận văn bản.
Học sinh cả lớp có thể hoàn thành bảng ở nhà (chúng tôi hướng dẫn chuẩn bị bài ở nhà
ở tiết học trước) hoặc giáo viên cho học sinh thực hành nhóm trên lớp qua phiếu trả lời
và bảng phụ (bóng kính và đèn chiếu). Đây là nội dung chính quan trọng của văn bản
thể hiện rõ sự vận động của tư tưởng của Nguyễn Trãi và cũng là một căn cứ để lí giải
việc tác giả biên soạn SGK lại đặt nhan đề bài thơ là Cảnh ngày hè.
Chúng tôi cho HS đọc hiểu bức tranh cảnh ngày hè (phương diện nội dung chính
của bài học) qua các phương diện sau:
+ Không gian nghệ thuật.
+ Thời gian nghệ thuật.
+ Hình ảnh (sự vật).
+ Động từ, tính từ (trạng thái của hình ảnh sự vật).
+ Màu sắc.
+ Âm thanh.
+ Nhận xét đánh giá các phương diện đó

19


Sơ đồ 6: Các phương diện của bức tranh ngày hè.
Thời gian


Hình ảnh

Cuối
ngày: lầu
tịch
dương.

Màu sắc

-Thiên nhiên
ngày hè: hòe
lục,
thạch
lựu,
sen
ao
- Cuối hè: trong
sen đã hết (liên trì)…
mùi.
-Cuộc sống
con người:
chợ cá, làng
ngư phủ.

Đỏ của lựu,
vàng
của
hoàng hôn,
xanh lục của

hòe,
màu
hồng
hoa
sen.

Thời gian
cuối

cuối ngày

giây
phút vạn
vật
chuyển
dần từ vận
động sang
nghỉ ngơi.

Đầy
sống
trưng
hè.

- Dân dã
chân
thực
của
cuộc
sống nông

thôn
làng
quê
trong
mùa hè.

Âm thanh

Động, tính từ

-Thiên nhiên Phun,
rợp
qua tiếng ve. giương, tiễn
-Cuộc sống đùn đùn, lao
con
người xao, dắng dỏi.
qua lao xao
chợ cá.

Không gian
-Hẹp gần là
nơi Nguyễn
Trãi
nghỉ
ngơi. (Thân
nghỉ ngơi nơi
yên tĩnh.)
-Rộng xa là
không gian
ven sông làng

chài
(làng
ngư
phủ).
(Tâm hướng
ngoại ra cuộc
sống
bên
ngoài.)

sức - Sôi động Động từ mạnh
đặc tràn đầy sức không chỉ tả
mùa sống.
sức sống cảnh
- Hài hòa vật con người
Đều là ga giữa
âm mà còn thấy
màu nóng, thanh thiên được dáng vẻ
hài hòa với nhiên và con phô ra, căng
Thiên nhau ở sự người
tạo tràn, ứa ra của
nhiên và con biểu hiện vận nên
âm sự sống từ
người hòa động hướng thanh
của bên trong.
hợp,tạo nên tới sự sống cuộc
sống
một khung cho cảnh vật. thanh bình
cảnh
bình

yên ả.
yên đầy sức
sức sống.

Nguyễn Trãi
luôn vượt ra
không gian
hẹp của cá
nhân,
mở
lòng, hướng
mình ra bên
ngoài
đón
nhận không
gian rộng lớn
của
thiên
nhiên
con
người cuộc
sống.

Để giải quyết tình huống và rào cản tri thức này học sinh phải sử dụng một trong
những thao tác toán học là thống kê phân loại, kiến thức về môn sinh học qua các giác
quan. Học sinh dễ dàng tìm được thống kê phân loại dựa trên bảng hướng dẫn nhờ vào
văn bản đã dẫn. Phần ý nghĩa của mỗiphương diện đó chúng tôi đặt các câu hỏi: Như
thế nào? Có ý nghĩa biểu đạt ra sao? Mối quan hệ của chúng như thế nào? để học sinh
20



tiếp cận được vấn đề. Từ vấn đề, phương diện đã tìm hiểu chúng tôi tiếp tục định
hướng tổng hợp vấn đề cho học sinh qua ba câu hỏi sau.
Câu 1. Nguyễn Trãi đã đến với cảnh vật và con người qua những giác quan nào?
Câu 2. Cách chiếm lĩnh và miêu tả bức tranh ngày hè có điều gì đặc biệt?
Câu 3. Có sự đối sánh nào giữa trạng thái của cảnh vật ngày hè với Nguyễn
Trãi? Qua đó Nguyễn Trãi đã răn mình như thế nào?
Trên cơ sở câu trả lời của HS, chúng tôi rút ra một vài luận điểm chính sau đây.
Sự vận động tư tưởng suy nghĩ bên trong của nguyễn Trãi được thể hiện rõ nét
qua bức tranh cảnh ngày hè. Nguyễn Trãi đã huy động tất cả các giác quan, tổng hòa
các giác quan để chủ động tận hưởng và giao cảm mạnh mẽ với vạn vật thiên nhiên và
con người. Vượt qua không gian hẹp (có thể có cả suy ngẫm nội tâm) của nhàn hạ nghỉ
ngơi, Nguyễn Trãi đã hướng ra không gian bên ngoài để đón nhận cuộc sống.
Nguyễn Trãi hướng ngoại hòa nhập toàn tâm, toàn ý, toàn hồn với cuộc sống.
Vẻ đẹp đó được nhà thơ biểu đạt qua chi tiết tả thực trong bức tranh ngày hè với đầy
đủ màu sắc, âm thanh và trạng thái vận động. Nguyễn Trãi đã phát hiện ra sự vận động
bên trong của cảnh vật và con người. Và không chỉ cảm nhận đón nhận vạn vật, bức
tranh mùa hè bằng trực giác của các giác quan mà trên hết và sâu sắc có ý nghĩa hơn cả
là Nguyễn Trãi đã nắm được cả sự vận động bên trong, sức sống linh hồn, trạng thái
sống của vạn vật để rồi bằng tài năng của người nghệ sĩ biểu đạt chúng bằng những
hình tượng và phương diện biểu đạt nghệ thuật độc đáo.
Nguyễn Trãi đã đặt đối sánh mình với tương quan bên ngoài của thiên nhiên vạn
vật. Cuối ngày cuối hè nhưng vạn vật vẫn căng tràn sự sống - như quy luật vốn có của
tạo hóa sinh tồn, hiến dâng vẻ đẹp đặc trưng, sức sống để làm đẹp cho cuộc sống, để
lại dấu ấn tồn tại của chúng trong sự vận động sự sống. Vậy thì sao con người lại
không thể làm được cái điều đơn giản đó? Nguyễn Trãi đã tìm ra một bài học, một
gương báu soi mình vào mà răn mình là: con người sống là phải sống ở giữa cuộc đời,
cuộc đời trần thế biết hiến dâng hết mình xây dựng cuộc đời và đất nước đem lại cuộc
21



sống có ý nghĩa cho mọi người và cho bản thân để lại dấu ấn tồn tại, danh tiếng của
mình. Cuộc sống trần thế qua hình ảnh đầy sức sống của thiên nhiên và con người
trong không thời gian đặc biệt chính là chủ thể đối tượng làm gương báu cho Nguyễn
Trãi răn mình. Vậy đâu là mục đích và lí tưởng của điều răn, bài học đó? Câu hỏi sẽ
giúp chúng tôi dẫn dắt và định hướng học sinh sang phần kế tiếp.
2.2.2.3. Phần 3: 2 câu cuối.
Chúng tôi cho học sinh tìm hiểu điển tích, điển cố qua từ“Ngu cầm”. HS thông
qua chú thích chân trang 118 SGK Ngữ văn 10 cơ bản tập 1, tìm được ý câu 7.
Câu 7: Nguyễn Trãi mong muốn có một cây đàn của vua Ngu Thuấn (triều đại
phong kiến lí tưởng, xã hội thanh bình, nhân dân hạnh phúc) để gảy khúc Nam phong
(ngọn gió nam thuận hòa cho dân thêm nhiều của).
Câu cuối chúng tôi đặt ba câu hỏi cho học sinh.
Câu 1. Hình thức câu cuối có gì đáng chú ý? Nhà thơ khát vọng điều gì?
Câu 2. Bảo kính và Cảnh giới biểu hiện như thế nào ở câu kết?
Câu 3. Giữa nhàn hạ tận hưởng và trách nhiệm với dân với nước Nguyễn Trãi đã
lựa chọn và ứng xử như thế nào?
Học sinh dễ dàng phát hiện câu 8 (câu cuối) có 6 chữ, là câu kết như khép lại
tâm tư, suy nghĩ của nhà thơvà thể hiện khát vọng của Nguyễn Trãi với dân với nước.
Chốn chốn thanh bình nhân dân no đủ - đó là niềm vui lớn, lẽ sống lớn suốt đời theo
đuổi của Nguyễn Trãi. Điểm kết ở bài thơ vẫn là con người, vẫn là dân là nước. Khát
vọng của của nhà thơ Nguyễn Trãi là dân hạnh phúc no đủ nhưng hạnh phúc đó phải là
cho mình tác giả mà là cho mọi người dân, cho mọi miền quê trên đất nước. Với dân
với nước, Nguyễn Trãi luôn canh cánh mang một Tâm ưu lớn. Luôn dằn vặt trăn trở,
bởi dân là món nợ suốt đời của Nguyễn Trãi để nhà thơ hành động, đạt đến niềm vui
của Cảnh giới. Cuộc sống với sức sống, hướng động tích cực của vạn vật đã là Bảo

22



kính trợ giúp Nguyễn Trãi đến Cảnh giới giành hết cuộc đời tâm trí phục vụ cho dân
cho nước.
Sau cùng chúng tôi và học sinh rút ra sơ đồ và trả lời những câu hỏi đã đặt ra ở
bài học đểnhấn mạnh khắc sâu kiến thức:
Sơ đồ 7: Câu thơ 6 chữ và giá trị biểu đạt.

Sơ đồ 8: Vẻ đẹp Nguyễn Trãi.
23


Sơ đồ 9: Cội nguồn của Bảo kính cảnh giới.

24


Sơ đồ10 : Nội dung và giá trị của văn bản.
Bức tranh thiên nhiên đầy sức sống.
(Tình yêu thiên nhiên)

Câu 1 mở ra Thân nhàn

Câu 8 khép lại Tâm ưu.

Con người vận động trong lẽ sinh tồn.
(Tình yêu con người, cuộc sống)
Bảo kính

Cảnh giới.

(Gương báu)


(Răn mình)

Chúng tôi rút ra các kết luận sau và những tình huống nhận thức hành động cho
học sinh sau khi rút ra các kết luận.
=> Thiên nhiên là cái nôi để nhà thơ nuôi dưỡng ý chí nghị lực tâm hồn. Trách nhiệm
với dân với nước luôn được nhà thơ đặt lên hàng đầu.
=> Bài học răn mình là con người phải sống có trách nhiệm với bản thân với cộng
đồng dân tộc đất nước và phải biết hành động cho sự tốt đẹp của cuộc sống, con người
và xã hội.
Tình huống nhận thức hành động cho học sinh.
Tình huống: Qua việc đọc hiểu văn bản các em hãy nêu trách nhiệm của cá
nhân với sự phát triển của dân tộc cộng đồng?
Để giải quyết tình huống này học sinh phải huy động những kiến thức xã hội và tri
thức của bộ môn giáo dục công dân để xác định nhiệm vụ vai trò của mình với văn hóa
dân tộc mà ở đây là tiếng Việt, trách nhiệm với chủ quyền độc lập dân tộc cũng như ý
chí nghị lực rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp, đóng góp dựng xây đất nước giầu đẹp.
25


×