Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Lý luận thặng dư? (Hàng hóa sức lao động; Hai phương thức thặng dư, tích lũy tư bản)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.9 KB, 7 trang )

Câu 1. Lý luận thặng dư? (Hàng hóa sức lao động; Hai phương thức thặng dư, tích
lũy tư bản)
1.1. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư
Mục đích của nhà tư bản ứng ra một số tiền mua tư liệu sản xuất và sức lao động là
để tạo ra giá trị thặng dư.
Quá trình nhà tư bản tiêu dùng hàng hóa sức lao động và tư liệu sản xuất để sản
xuất giá trị thặng dư có hai đặc điểm: một là, công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của
nhà tư bản; hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Làm thế nào nhà tư bản có được giá trị thặng dư?
Giả sử, để chế tạo ra 1 kg sợi, nhà tư bản phải ứng ra số tiền 20 ngàn đơn vị tiền tệ
mua 1 kg bông, 3 ngàn đơn vị cho hao phí máy móc và 5 ngàn đơn vị mua sức lao động
của công nhân điều khiển máy móc trong 1 ngày (10 giờ). Giả định việc mua này đúng
giá trị, mỗi giờ lao động sống của công nhân tạo ra giá trị mới kết tinh vào sản phẩm là
1000 đơn vị.
Trong quá trình sản xuất, bằng lao động cụ thể, công nhân sử dụng máy móc để
chuyển 1 kg bông thành 1 kg sợi, theo đó giá trị của bông và hao mòn máy móc cũng
được chuyển vào sợi. Giả định chỉ trong 5 giờ công nhân đã kéo xong 1 kg bông thành
1 kg sợi, thì giá trị 1 kg sợi được tính theo các khoản như sau:
+ Giá trị 1 kg bông chuyển vào = 20.000 đơn vị
+ Hao mòn máy móc = 3.000 đơn vị
+ Giá trị mới tạo ra (trong 5 giờ lao động, phần này vừa đủ bù đắp giá trị sức lao
động) = 5.000 đơn vị
Tổng cộng = 28.000 đơn vị
Nếu quá trình lao động ngừng ở đây thì nhà tư bản chưa có được giá trị thặng dư.
Thời gian lao động (5 giờ) mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang với
giá trị sức lao động của mình gọi là thời gian lao động tất yếu và lao động trong khoảng
thời gian ấy gọi là lao động tất yếu.
Nhưng nhà tư bản đã mua sức lao động trong 1 ngày với 10 giờ, chứ không phải 5
giờ (Hợp đồng lao động giữa nhà tư bản và công nhân tính theo ngày công 10 giờ nên
nhà tư bản có quyền sử dụng sức lao động của công nhân trong 10 giờ). Trong 5 giờ lao
động tiếp, nhà tư bản chi thêm 20.000 đơn vị để mua 1 kg bông và 3.000 đơn vị hao


mòn máy móc và với 5 giờ lao động sau, người công nhân vẫn tạo ra 5.000 đơn vị giá
trị mới và có thêm 1 kg sợi với giá trị 28.000 đơn vị. Tổng số tiền nhà tư bản chi ra để
có được 2 kg sợi sẽ là:
+ Tiền mua bông: 20.000 x 2 = 40000 đơn vị
+ Hao mòn máy móc (máy chạy 10 tiếng):
3.000 x 2 = 6.000 đơn vị


+ Tiền lương công nhân sản xuất cả ngày (trong 10 giờ, tính theo đúng giá trị sức
lao động) = 5.000 đơn vị
Tổng cộng = 51.000 đơn vị
Tổng giá trị của 2 kg sợi là: 2 kg x 28000 = 56.000 đơn vị và như vậy, lượng giá trị
thặng dư thu được là: 56.000 - 51.000 = 5.000 đơn vị.
Thời gian lao động (5 giờ) để tạo ra giá trị thặng dư gọi là thời gian lao động thặng
dư, và lao động trong thời gian ấy gọi là lao động thặng dư.
Từ thí dụ trên đây ta kết luận:
Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động
do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. C. Mác viết: "Bí quyết của
sự tự tăng thêm giá trị của tư bản quy lại là ở chỗ tư bản chi phối được một số lượng
lao động không công nhất định của người khác"
Sở dĩ nhà tư bản chi phối được số lao động không công ấy vì nhà tư bản là người
sở hữu tư liệu sản xuất.
Việc nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư do quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
tạo ra gọi là bóc lột giá trị thặng dư.
1.2. Hàng hóa sức lao động
- Sức lao động, sự chuyển hóa sức lao động thành hàng hóa
Để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản, cần tìm trên thị trường
một loại hàng hóa mà việc sử dụng nó có thể tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị của bản
thân nó. Hàng hóa đó là hàng hóa sức lao động.
Sức lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một con

người và được người đó sử dụng vào sản xuất.
Sức lao động là cái có trước, còn lao động chính là quá trình sử dụng sức lao động.
Trong mọi xã hội, sức lao động là yếu tố của sản xuất, nhưng sức lao động chỉ trở
thành hàng hóa khi có hai điều kiện sau đây:
Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao
động của mình và chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định.
Thứ hai, người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình đứng ra tổ
chức sản xuất nên muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.
Việc sức lao động trở thành hàng hóa đánh dấu một bước ngoặt cách mạng trong
phương thức kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất, là một bước tiến lịch sử so với
chế độ nô lệ và phong kiến. Sự bình đẳng về hình thức giữa người sở hữu sức lao động
với người sở hữu tư bản che đậy bản chất của chủ nghĩa tư bản - chế độ được xây dựng
trên sự đối kháng lợi ích kinh tế giữa tư bản và lao động.
- Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động
Giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá
trị và giá trị sử dụng.


Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do số lượng lao động xã hội cần thiết để
sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Giá trị sức lao động được quy về giá trị của
toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, để duy trì
đời sống của công nhân làm thuê và gia đình họ.
Giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó bao hàm
cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của từng nước,
từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được, vào điều kiện lịch sử hình
thành giai cấp công nhân và cả điều kiện địa lý, khí hậu.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động thể hiện ở quá trình tiêu dùng (sử
dụng) sức lao động, tức là quá trình lao động để sản xuất ra một hàng hóa, một dịch vụ
nào đó.
Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị

của bản thân nó; phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư.
Đó chính là đặc điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động. Đặc
điểm này là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản đã
trình bày ở trên.
1.3. Hai phương thức giá trị thặng dư: Có 2 phương thức sản xuất ra giá trị
thặng dư dưới CNTB là phương thức sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị
thặng dư tương đối.
Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là Phương thức nhà tư bản dùng để
kéo dài ngày lao dộng một cách tuyệt đối, qua đó làm tăng thời gian lao động thặng dư,
trong khi thời gian lao động cần thiết không đổi. Phương pháp này chỉ áp dụng phổ biến
ở giai đoạn đầu của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi trình độ công cụ lao động thủ
công và năng suất lao động còn thấp. Thí dụ, ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động
tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, thì tỷ suất giá trị thặng dư là: m’ =
4/4 x 100 % = 100%. Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa, mọi điều kiện khác vẫn
như cũ, thì tỷ xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là m’ = 6/4 x 100 % = 150 %
Phương thức này giúp cho nhà tư bản muốn kéo dài ngày lao động để thu nhiều
hơn giá trị thặng dư, nhưng trên thực tế không thể kéo dài ngày lao động quá giới hạn
sinh lý của công nhân, vì họ còn phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi
sức khoẻ,dể tái sản xuất sức lao động. Vì vậy nó gặp phải sự phản kháng gay gắt của giai
cấp công nhân , bị công nhân đấu tranh đòi giảm giờ làm.
Phương thức giá trị thặng dư tương đối là cách thức mà nhà tư bản dùng để rút
ngắn thời gian lao động cần thiết, làm tăng tương ứng thời gian lao động thặng dư, trong
khi độ dài ngày lao động không đổi, hoặc có thể rút ngắn lại, dựa trên cơ sở tăng năng
suất lao động xã hội. Ví dụ, ngày loa động 8 giờ, thời gian lao động cần thiết là 4 giờ,
thời gian lao động giá trị thặng dư là 4 giờ, tỷ suất lao động giá trị thặng dư là 100%. Nếu
giảm thời gian lao động cần thiết còn 2 giờ thì lao động giá trị thặng dư sẽ là 6 giờ, ty


suất m’ tăng lên 300%. Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu
sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người công nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất lao

động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản
xuất để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.
Như vậy đây là cơ sở kinh tế để xuất phát cuộc cách mạng công nghiệp. So sánh
2 phương thức này chúng ta thấy được điểm giống của chúng là phản ánh trình độ bóc
lột của nhà tư bản đối với người lao động để tăng giá trị thặng dư. Vì vậy, ngày nay,
cùng với sự phát triển của khoa học, các nhà tư bản áp dụng cả hai phương thức này với
nhiều hình thức khác nhau.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối là
phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác
làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Như thế nhà tư bản chỉ phải bỏ ra ít chi phí hơn các nhà tư bản khác mà vẫn bán
được với giá như các nhà tư bản khác, từ đó thu được giá trị thặng dư cao hơn. Khi số
đông các xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng
dư siêu ngạch của doanh nghiệp đó sẽ không còn nữa.
Trong từng xí nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời,
nhưng trong phạm vi xã hội thì nó lại thường xuyên tồn tại. Giá trị thặng dư siêu ngạch là
động lực mạnh nhất để thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao
động cá biệt, đánh bại đối thủ của mình trong cạnh tranh. C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu
ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:
Qua nghiên cứu, nếu gạt bỏ mục đích và tính chất tư bản chủ nghĩa thì các phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất là pp sx giá trị m tương đối và giá trị m siêu ngạch, có
thể vận dụng trong các doanh nghiệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất, sử dụng kỹ
thuật mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí sx.
Việc nghiên cứu 2 pp sx giá trị m gợi mở cho chúng ta phương thức làm tăng của
cải,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. trong điều kiện điểm xuất phát của ta còn thấp,để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để các nguồn lực nhất là lao động vào sản xuất
kinh doanh. Về cơ bản, lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao động xã hội,
coi đẩy mạnh cnh, hđh nền kinh tế quốc dân là một giải pháp cơ bản để tăng năng xuất
lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

1.4. Tích lũy Tư bản
Kể từ khi sản xuất hàng hoá ra đời, cùng với sự tồn tại và phát triển của XH loài
người, do tính chất tái sản xuất mở rộng đòi hỏi phải tăng sức cạnh tranh, đổi mới công
nghệ và yêu cầu tăng quy mô bóc lột giá trị thặng dư, CNTB không dừng lại, dẫm chân


tại chỗ, mà thông qua tích luỹ tư bản, nó vận động, biến đổi và phát triển theo tính liên
tục, không ngừng, không nghỉ của các chu kỳ sản xuất. Như vậy TLTB là sự chuyển hóa
1 phần m trở lại thành TB nhằm tìm kiếm m thặng dư mới lớn hơn.
Thực chất của quá trình tích lũy tư bản chính là quá trình tái sản xuất mở rộng TB
không ngừng. Thông qua tái sản xuất, ta có thể thấy được nguồn gốc của TLTB là m do
người lao động tạo ra.
Trong quá trình tích luỹ, TB lớn lên không ngừng, đồng thời các bộ phận khác nhau
của nó có sự thay đổi không giống nhau, song đều tuân theo một quy luật-quy luật chung
của tích luỹ TB. Quy luật này thể hiện sự thống nhất giữa hai mặt đối lập: một bên là tích
luỹ sự giàu có về phía giai cấp tư sản và một bên là đẩy sự bần cùng hoá về phía những
người làm thuê. Tức là nó thể hiện cách vận động lớn lên của TB và hệ quả tất yếu của
quá trình lớn lên đó.
Quy mô tích lũy tư bản bị ảnh hưởng bởi những nhân tố sau:
- Trình độ bóc lột lao động bằng những biện pháp: tăng cường độ lao động, kéo dài
ngày lao động, cắt giảm tiền lương của công nhân. Có nghĩa là, thời gian công nhân sáng
tạo ra giá trị càng được kéo dài ra nhưng chi phí càng được cắt giảm, do vậy khối lượng
giá trị thặng dư càng lớn và quy mô của tích lũy tư bản càng lớn
- Năng suất lao động xã hội: năng suất lao động xã hội tăng lên làm cho giá cả
TLSX và tư liệu tiêu dùng giảm đi từ đó tạo điều kiện tăng quy mô giá trị thặng dư dành
cho tích lũy.
- Sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng: + Tư bản sử dụng
là khối lượng giá trị của tư liệu lao động, mà xét về mặt hiện vật khi tham gia vào quá
trình sản xuất thì nó tham gia toàn bộ cấu trúc hiện vật của nó nhưng giá trị của nó thì
được chuyển từng phần.

+ Tư bản tiêu dùng là bộ phận tư bản được chuyển hóa vào trong giá trị của sản
phẩm theo mỗi chu kỳ sản xuất thông qua khấu hao.
+ Sự chênh lệnh giữa giá trị tư liệu lao động và tư bản tiêu dùng phản ánh sự tiến
bộ của lực lượng sản xuất, tiến bộ ngày càng phát triển thì càng tạo điều kiện tăng năng
suất lao động, từ đó càng tạo điều kiện để tăng quy mô tích lũy cho nhà tư bản.
- Quy mô của tư bản ứng trước: TB ứng trước càng lớn, quy mô sản xuất càng
được tăng lên theo chiều rộng và chiều sâu từ đó tạo điều kiện tăng quy mô tư bản tích
lũy.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này: Nghiên cứu tích lũy tư bản cho thấy rõ
hơn bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Thứ nhất, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư và tư bản tích
lũy chiếm tỷ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. CMac nói rằng, tư bản ứng trước chỉ là
một giọt nước trong dòng sông của tích lũy mà thôi. Trong quá trình tái sản xuất, lãi (m)


cứ đập vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn, do đó lao động của công nhân trong quá
khứ lại trở thành những phương tiện để bóc lột chính người công nhân.
- Thứ hai, quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa
biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hóa giản đơn, sự trao
đổi giữa những người sản xuất hàng hóa theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản không dẫn
tới người này chiếm đoạt lao động không công của người kia. Trái lại, nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một phần lao động
của công nhân mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó.
Quá trình tích luỹ TB gồm 3 quy luật sau:
+ Quy luật 1: quá trình tích lũy tư bản là quá trình tăng cấu tạo hữu cơ tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản bao gồm cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị. Cấu tạo kỹ
thuật là mối quan hệ tỷ lệ về lượng giữa số lượng sức lao động với số lượng tư liệu sản
xuất. Cấu tạo giá trị là mối quan hệ về lượng giữa giá trị hàng hóa sức lao động với giá
trị của tư liệu sản xuất được ký hiệu là C/V trong đó C là tư bản bất biến, V là tư bản
khả biến.

Cùng với quá trình tích lũy tư bản thì cấu tạo hữu cơ tư bản không ngừng tăng lên.
+ Quy luật 2: Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày
càng tăng.
Cùng với quá trình TLTB là quá trình tích tụ và tập trung TB ngày càng tăng.
Tích tụ tư bản là quá trình làm tăng huy mô của tư bản cá biệt bằng cách không
ngừng tư bản hóa giá trị thặng dư.
Tập trung tư bản là quá trình làm tăng quy mô của tư bản cá biệt thông qua sáp
nhập, tích gộp các tư bản cá biệt với nhau. Như vậy tích tụ tư bản vừa làm tăng quy mô
của tư bản cá biệt đồng thời vừa làm tăng quy mô của TBXH. Trong khi tập trung TB
chỉ làm tăng quy mô của tư bản cá biệt. Trong quá trình tích lũy tư bản thì tích tụ và tập
trung tư bản liên tục tăng lên như 1 quy luật kinh tế khách quan.
+ Quy luật 3: Quá trình tích lũy tư bản là quá trình bần cùng hóa giai cấp vô sản.
Quá trình tích lũy tư bản là quá trình không ngừng bần cùng hóa giai cấp công
nhân. Bần cùng hóa được hiểu là phân hóa về lao động, tích lũy tư bản phát triển dẫn
đến nạn thất nghiệp. Bần cùng hóa dược hiểu dưới hai dạng:
- Bần cùng hóa tuyệt đối: đời sống của người lao động có xu hướng giảm xuống đi
cùng với sự phát triển của CNTB. Tức là nền sx TBCN liên tục tăng trưởng nhưng ngày
càng có nhiều người lao động bị đẩy vào tình trạng nghèo khổ. - Bần cùng hóa tương
đối: là tốc độ tăng của thu nhập thực tế của người lao động tăng không nhanh bằng tốc
độ tăng thu nhập thực tế của giai cấp tư sản.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Ngày nay, trong thời kỳ quá độ XD CNXH, với quan điểm xuất phát từ thực tế, tôn
trọng các quy luật khách quan, tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh nhân loại trong


đó có những tiến bộ về quản lý kinh tế, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần, chấp nhận áp dụng cơ chế thị trường theo định hướng XHCN.
Điều đó có nghĩa là, ta phải xem và thừa nhận sản xuất giá trị thặng dư là một tất yếu
khách quan và còn sản xuất giá trị thặng dư thì còn tích luỹ TB. Do vậy, ta phải thông
qua quá trình tích luỹ TB để phát triển lực lượng sản xuất, đặc biệt là đẩy mạnh sự nghiệp

CNH, HĐH sản xuất nhằm tạo ra ngày một nhiều giá trị mới (giá trị thặng dư), từng bước
đưa đất nước tiệm cận mục tiêu quốc phú, dân cường. Một khi lực lượng sản xuất đã tích
luỹ đủ về lượng, phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn sẽ thay thế phương thức hiện tại
là xu hướng tất yếu của lịch sử.
Tích lũy TB làm cho nền kinh tế nước ta tích lũy được nguồn vốn phát triển ktế và
xây dựng CNXH. Để đạt được điều đó cần phải:
- Tiết kiệm tiêu dùng, ưu tiên cho đầu tư phát triển, tăng cường hơn nữa công tác
phòng chống tệ nạn tham ô, lãng phí để có thể tích lũy được nhiều nguồn vốn hơn nữa
trong quá trình phát triển kinh tế.
- Năng động, sáng tạo, tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tạo
ra hàng hóa có chất lượng tốt, năng suất cao, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa trên
thị trường. Đồng thời cần mở rộng hội nhập để mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Đào
tạo đội ngũ công nhân, lao động có tay nghề, thúc đẩy sản xuất.
- Không ngừng tăng năng suất lao động bằng cách đổi mới công nghệ, đổi mới
phương thức tổ chức, quản lý sản xuất cả về vĩ mô và vi mô, cần phát triển hơn nữa kinh
tế tri thức.
- Huy động vốn đầu tư trong nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng quy mô tổng
sản phẩm quốc nội (GDP), tăng quy mô tích lũy vốn cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó, quá trình tích lũy tư bản cũng có những tác động tiêu cực đến nền kinh
tế nước ta hiện nay như: Việc tích lũy tư bản không đúng mục đích làm cho xã hội Việt
Nam có sự phân hóa giàu nghèo, tạo nên sự mất bình đẳng xã hội ngày càng lớn, tăng
nguy cơ thất nghiệp, các tệ nạn xã hội tăng.



×