Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Phát triển hoạt động lưu ký chứng khoán tại Công ty Cổ phần Chứng khoán MB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.14 KB, 69 trang )

sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MBS: Công ty Cổ phần Chứng khoán MB
TTCK: Thị trường chứng Khoán
CTCK: Công ty chứng khoán
UBCKNN: Ủy ban chứng khoán nhà nước
TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán
TTLKCK: Trung tâm lưu ký chứng khoán
TVLK: Thành viên lưu ký
CTCP: Công ty cổ phần
LKCK: Lưu ký chứng khoán
HĐQT: Hội đồng quản trị
HĐCĐ: Hội đồng cổ đông
TCPH: Tổ chức phát hành
P.LK&QLCĐ MB: Phòng lưu ký và quản lý cổ đông của công ty Cổ
phần Chứng khoán MB
BLPH: bảo lãnh phát hành
TDCK: Tự doanh chứng khoán
MG và LK: Môi giới và lưu ký


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

LỜI MỞ ĐẦU
Để thị trường chứng khoán hoạt động và phát triển lành mạnh, công
bằng, sôi động, hiệu quả không thể không nói đến vai trò của hoạt động lưu
ký chứng khoán. Lưu ký chứng khoán là hoạt động quan trọng, là một khâu
không thể thiếu của thị trường chứng khoán, hoạt động này góp phần đảm
bảo cho các giao dịch trên thị trường được thực hiện một cách nhanh chóng,
chính xác và hiệu quả. Một thị trường chứng khoán muốn phát triển mạnh


mẽ và vững vàng thì cần phải có bộ phận lưu ký hiện đại, phù hợp với sự
phát triển của thị trường chứng khoán. Qua quá trình học tập, nghiên cứu và
thực tập tại công ty Cổ phần Chứng khoán MB em nhận thấy hoạt động phát
hành chứng khoán lần đầu ra công chúng cần được nghiên cứu và em đã
chọn nghiên cứu đề tài: “Phát triển hoạt động lưu ký chứng khoán tại
Công ty Cổ phần Chứng khoán MB”.
Mục tiêu nghiên cứu là qua lý thuyết và thực tiễn để đánh giá hiệu quả của
hoạt động lưu ký chứng khoán tại Công ty Cổ phần Chứng khoán MBS.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của chuyên đề thực tập tốt nghiệp được chia thành 3 chương:
Chương I: công ty chứng khoán và lưu ký chứng khoán của công ty
chứng khoán.
Chương II. Thực trang về hoạt động kinh doanh và lưu ký chứng khoán của
công ty cổ phần chứng khoán MB.
Chương III. Giải pháp mở rộng hoạt động lưu ký tại công ty cổ phần chứng
khoán MB.

Do kiến thức và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, mặt khác hoạt động
lưu ký chứng khoán có tính phức tạp đặc thù nên chuyên đề thực tập không


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự đóng
góp và những ý kiến bổ sung của thầy giáo cũng như bạn đọc để chuyên đề
được hoàn thiện hơn.


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG LƯU
KÝ CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1. những vấn đề cơ bản của công ty chứng khoán
1.1 Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán
1.1.1 .Khái niệm, vai trò của công ty chứng khoán.
Khái niệm: Công ty chứng khoán là tổ chức cung cấp các dịch vụ chứng
khoán. Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 thì công ty chứng khoán
được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc CTCP theo
quy định của Luật doanh nghiệp.
UBCKNN cấp Giấy phép thành lập và hoạt động cho CTCK. Giấy phép
này đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
CTCK được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh
sau đây:
 Môi giới chứng khoán;
 Tự doanh chứng khoán;
 Bảo lãnh phát hành chứng khoán;
 Tư vấn đầu tư chứng khoán.
CTCK chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán.
Ngoài các nghiệp vụ kinh doanh quy định trên, CTCK được cung cấp
dịch vụ tư vấn tài chính và các dịch vụ tài chính khác.
Chức năng cơ bản của CTCK:
 Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi
đến người sử dụng vốn (thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành)
 Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch (thông qua hệ thống khớp giá
hoặc khớp lệnh)


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh


 Tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán (hoán chuyển từ chứng
khoán ra tiền mặt, và từ tiền mặt thành chứng khoán một cách dễ dàng).
 Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường (thông qua hoạt động tự
doanh hoặc vai trò nhà tạo lập thị trường).
Vai trò của CTCK:
Với những đặc điểm trên, CTCK có vai trò khác nhau đối với các chủ
thể khác nhau trên TTCK.
Đối với các tổ chức phát hành: Mục tiêu khi tham gia thị trường của
các tổ chức phát hành là huy động vốn thông qua việc phát hành chứng
khoán. Vì vậy thông qua hoạt động làm đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành,
các CTCK có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của TTCK là nguyên tắc trung
gian. Nguyên tắc này yêu cầu những nhà đầu tư và những nhà phát hành
không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung
gian mua bán. Các CTCK sẽ thực hiện vai trò trung gian cho cả nhà đầu tư
và nhà phát hành. Khi thực hiện công việc này, CTCK đã tạo ra cơ chế huy
động vốn cho nền kinh tế thông qua TTCK.
Đối với các nhà đầu tư: thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn,
đầu tư, CTCK có vai trò làm giảm thời gian và chi phí giao dịch, do đó nâng
cao được hiệu quả của các khoản đầu tư. Đối với hàng hóa thông thường,
mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người bán.
Tuy nhiên, đối với TTCK, sự biến đổi thường xuyên của giá cả chứng khoán
cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho các nhà đầu tư tốn kém chi phí, công
sức và thời gian tìm hiểu trước khi ra quyết định đầu tư. Nhưng thông qua
các CTCK, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp các
nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách hiệu quả.
Đối với TTCK: thì CTCK có hai vai trò chính:


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh


Thứ nhất là góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Giá cả chứng
khoán là do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng,
người mua và người bán phải thông qua các CTCK vì họ không được trực
tiếp tham gia vào quá trình mua bán. Các CTCK là những thành viên của thị
trường, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá.
Trên thị trường sơ cấp, các CTCK cùng với các nhà phát hành đưa ra mức
giá đầu tiên. Chính vì vậy, giá cả của mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có
sự tham gia định giá của các CTCK.
Các CTCK còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị
trường. Để bảo vệ các khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của
chính mình, nhiều CTCK đã giành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực
hiện vai trò bình ổn thị trường.
Thứ hai là góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản chính.
TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài
chính. Nhưng các CTCK mới là người thực hiện tốt vai trò đó vì CTCK tạo
ra cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường sơ cấp, do thực hiện các
hoạt động như đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành các CTCK không những
đã huy động một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho nhà phát
hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính được đầu tư
vì các loại chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua bán, giao dịch trên
thị trường thứ cấp. Điều này làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho người
đầu tư. Trên thị trường thứ cấp, do thực hiện các giao dịch mua và bán các
CTCK giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược
lại, do đó tính thanh khoản của chứng khoán được tăng lên.
Đối với các cơ quan quản lý thị trường. Các CTCK có vai trò cung cấp
các thông tin về TTCK cho các cơ quan quản lý TTCK để thực hiện các mục
tiêu. Các CTCK thực hiện được vai trò này bởi vì họ vừa là người bảo lãnh



sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

phát hành cho các chứng khoán mới, vừa là trung gian mua bán chứng khoán
và thực hiện giao dịch trên thị trường. Một trong những yêu cầu của TTCK
các thông tin cần phải được công khai hóa dưới sự giám sát của các cơ quan
quản lý thị trường. Việc cung cấp thông tin này vừa là quy định của hệ thống
luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các CTCK vì CTCK cần phải
minh bạch và công khai trong hoạt động. Các thông tin CTCK có thể cung
cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua bán trên thị trường, thông tin về
các cổ phiếu, trái phiếu và tổ chức phát hành, thông tin về các nhà đầu tư…
Nhờ các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và
chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường.
Tóm lại, CTCK là một tổ chức chuyên nghiệp trên TTCK, có vai trò
cần thiết và quan trọng đối với các nhà đầu tư, các nhà phát hành, các cơ
quan quản lý thị trường và đối với TTCK. Những vai trò này được thể hiện
cụ thể thông qua nghiệp vụ hoạt động của CTCK.
1.2 Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán.
Hoạt động trên thị trường chứng khoán rất là phức tạp, có rất nhiều điều
hạn chế đối với công ty chứng khoán trong quá trình kinh doanh. Điều đó
đòi hỏi các công ty chứng khoán hoạt động theo những nguyêng tắc nhất
định để khắc phục những sai sót, khiếm khuyết. Để khắc phục điều đó công
ty chứng khoán hoạt động dựa trên hai nguyên tắc cơ bản đó là nhóm
nguyên tắc đạo đức và nhóm nguyên tắc mang tính tài chính.
* Trước hết nói về nhóm nguyên tắc đạo đức, công ty chứng khoán là
trung gian trong giao dịch của khách hàng, và do đó công ty phải đảm bảo
giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng. Đồng thời có
nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng về các thông tin liên quan đến khách hàng
như thông tin về tài khoản, khi chưa được sự cho phép của khách hàng hoặc
có chỉ thị của các cơ quan quản lý nhà nước. Công ty chứng khoán khi hoạt
động tư vấn yêu cầu phải có các thông tin về mức độ rủi ro của hoạt động,

và khả năng sinh lời của nó. Để đảm bảo cho khách hàng không bị lừa gạt


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

trong các dịch vụ của công ty. Các công ty chứng khoán không được phép
nhận bất kì một khoản hoa hồng thêm nào khác ngoài các khoản hoa hồng
thông thường. Đồng thời với việc tư vấn đó là công ty chứng khoán không
được dùng các thông tin nội bộ để giao dịch phục vụ cho lợi ích của mình,
một số công ty ngoài các hoạt động như môi giới, tư vấn...còn có hoạt động
tự doanh là việc công ty chứng khoán thực hiện các giao dịch cho mình để
thu lợi nhuận từ kinh doanh chứng khoán. Điều đó dẫn đến các bất đồng về
quyền lợi trong giao dịch giữa khách hàng và công ty chứng khoán. Theo
nguyên tắc đạo đức thì các công ty chứng khoán sẽ phải ưu tiên thực hiện
lệnh cho khách hàng trước rồi mới đến lượt mình. Công ty chứng khoán
cũng là một nhà kinh doanh do đó nó không được phép tiến hành các hoạt
động gây ra sự hiểu lầm về giá cả của khách hàng từ đó kiếm lời. Tuy nhiên,
hoạt động tự doanh không phải là hoạt động chính của công ty do đó hoạt
động phá hoại thị trường của các công ty sẽ rất ít hoặc không có. Bản thân
các công ty chứng khoán đều muốn mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho khách
hàng của mình, có như vậy công ty mới thu hút được sự chú ý của khách
hàng. Hiện nay một số nơi các công ty chứng khoán còn đóng góp thành một
quỹ để đề phòng rủi ro mất khả năng thanh toán của công ty cho khách hàng,
góp phần bảo vệ lợi ích cho nhà đẩu tư. Thông qua đó tạo ra một cảm giác
an toàn cho khách hàng, từ đó thu hút được nhiều nhà đẩu tư mở tài khoản
giao dịch tại công ty.
* Nhóm nguyên tắc mang tính tài chính có tác dụng làm tách biệt các
quan hệ về tài sản giữa công ty với tài sản của khách hàng. Các công ty
chứng khoán để có thể thực hiện được điều trên trước hết cần phải bảo đảm
được các yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán, báo cáo kết

quả kinh doanh theo quy định của uỷ ban chứng khoán nhà nước. Đồng thời
phải bảo đảm các nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh với khách hàng.
Trong đó công ty chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng gửi
trong tài khoản tại công ty. Ngoại trừ các trường hợp phục vụ kinh doanh
của khách hàng. Các công ty cũng không được phép dùng các chứng khoán
cùa khách hàng để đi thế chấp vay tiền phục vụ cho các hoạt động của công
ty, điều đó rất nguy hiểm cho công ty và khách hàng, và cả tổ chức mà công
ty thế chấp chứng khoán. Nhưng công ty có thể thực hiện các hoạt động trên
nếu được sự đồng ý của khách hàng bằng các văn bản.


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

1.2 Hoạt động của công ty chứng khoán
1.2.1.Mô hình, tổ chức của CTCK.
Mô hình công ty chứng khoán.
Hoạt động của các CTCK rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các
doanh nghiệp sản xuất hay thương mại thông thường vì CTCK là một loại
hình định chế tài chính đặc biệt nên vấn đề xác định mô hình tổ chức kinh
doanh của nó cũng có nhiều điểm khác nhau ở các nước. Mô hình tổ chức
kinh doanh của CTCK ở mỗi nước đều có đặc điểm riêng tùy theo đặc điểm
của hệ thống tài chính và sự cân nhắc lợi hại của người làm công tác quản lý
nhà nước. Tuy nhiên, có thể khái quát thành hai mô hình cơ bản hiện nay là:
Mô hình đa năng kinh doanh chứng khoán và tiền tệ: theo mô hình này,
các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh
chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này chia làm hai loại:
Loại đa năng một phần: Các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán,
kinh doanh bảo hiểm phải lập công ty con độc lập, hoạt động tách rời.
Loại đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng được kinh doanh chứng khoán,
kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ.

Ưu điểm của mô hình CTCK đa năng là các ngân hàng có thể kết hợp
nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt được rủi ro trong hoạt động
kinh doanh bằng việc đa dạng hóa đầu tư. Ngoài ra, mô hình này còn có ưu
điểm là tăng khả năng chịu đựng của ngân hàng trước trước những biến
động trên thị trường tài chính. Mặt khác, các ngân hàng sẽ tận dụng được lợi
thế của mình là tổ chức kinh doanh tiền tệ có vốn lớn, cơ sở vật chất hiện đại
và hiểu biết rõ về khách hàng cũng như các doanh nghiệp khi họ thực hiện
nghiệp vụ cấp tín dụng và tài trợ dự án.


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

Tuy nhiên, mô hình này cũng có những hạn chế, đó là do vừa là tổ chức
tín dụng vừa là tổ chức kinh doanh chứng khoán, do đó khả năng chuyên
môn không sâu như các CTCK chuyên doanh. Điều này sẽ làm cho TTCK
kém phát triển vì các ngân hàng thường có xu hướng bảo thủ và thích hoạt
động cho vay hơn là thực hiện các nghiệp vụ của TTCK như: Bảo lãnh phát
hành chứng khoán, tư vấn đầu tư…
Đồng thời do khó tách bạch được hoạt động của ngân hàng và hoạt
động kinh doanh chứng khoán thì trong điều kiện môi trường pháp luật
không lành mạnh, các ngân hàng dễ gây nên tình trạng lũng đoạn thì trường,
và khi đó các biến động trên TTCK sẽ tác động mạnh tới kinh doanh tiền tệ,
gây tác động dây chuyền và dẫn đến khủng hoảng thị trường tài chính. Bên
cạnh đó, do không có sự tách biệt rõ ràng giữa các nguồn vốn, nên các ngân
hàng có thể sử dụng tiền gửi tiết kiệm của dân cư để đầu tư cho chứng
khoán, và khi TTCK biến động theo chiều hướng xấu sẽ tác động tới công
chúng thông qua việc ồ ạt rút tiền gửi, làm cho ngân hàng mất khả năng chi
trả. Do những hạn chế như vậy, nên sau khi khủng hoảng thị trường tài chính
1929-1933 các nước đã chuyển sang mô hình chuyên doanh, chỉ có một số
thị trường như Đức vẫn còn áp dụng mô hình này.

Mô hình CTCK chuyên doanh: theo mô hình này hoạt động chuyên
doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh
vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh
chứng khoán.
Ưu điểm của mô hình này là: Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng,
tạo điều kiện cho TTCK phát triển. Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước
như Mỹ, Nhật, Canada, Hàn Quốc…Tuy nhiên, trong thời gian gần đây các
nước này có xu hướng xóa bỏ dần hàng rào ngăn cách giữa hai loại hình
kinh doanh (tiền tệ, chứng khoán) và hình thành nên các tập đoàn tài chính


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

khổng lồ nên ngày nay một số thị trường cũng cho phép kinh doanh trên
nhiều lĩnh vực tiền tệ, bảo hiểm, chứng khoán nhưng được tổ chức thành các
công ty mẹ và các công ty con có sự quản lý, giám sát chặt chẽ và hoạt động
tương đối độc lập với nhau.
Tổ chức của CTCK: Hiện nay có ba loại hình tổ chức CTCK cơ bản là
công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
Công ty hợp danh: Theo luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 thì công
ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: Phải có ít nhất hai thành viên là chủ
sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là
thành viên hợp danh), các thành viên này cùng tham gia vào quá trình ra
quyết định quản lý công ty. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty.
Ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn, các thành
viên góp vốn không tham gia điều hành công ty và chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào
vì thế thông thường khả năng huy động vốn của công ty hợp danh bị giới

hạn trong số vốn mà các thành viên hợp danh có thể đóng góp.
Công ty trách nhiệm hữu hạn: Là loại hình công ty đòi hỏi các thành
viên chỉ phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
trong phạm vi số vốn mà họ đã góp vào công ty. Vì thế điều này tạo ra tâm
lý nhẹ nhàng hơn cho các nhà đầu tư.
Mặt khác, về phương diện huy động vốn, công ty trách nhiệm hữu hạn
không được phát hành cổ phiếu song cũng đơn giản và linh hoạt hơn so với
công ty hợp danh do được phát hành trái phiếu. Đồng thời, vấn đề tuyển đội
ngũ quản lý cũng năng động hơn, không bị bó hẹp như trong công ty hợp
danh.


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

Do những ưu điểm đó của công ty trách nhiệm hữu hạn so với công ty
hợp danh mà hiện nay nhiều công ty chứng khoán được tổ chức dưới dạng
công ty trách nhiệm hữu hạn.
Công ty cổ phần: Theo luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 thì công ty
cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần
bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ
đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong
phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đông có quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ những trường hợp bị cấm
theo quy định của pháp luật.
Đặc điểm của công ty cổ phần:
CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh, với các chủ sở hữu là các cổ đông. CTCP có quyền phát hành
chứng khoán các loại để huy động vốn, vì vậy về phương diện huy động vốn
thì CTCP có thể huy động vốn một cách linh hoạt nhất.

Đại hội đồng cổ đông của công ty có quyền bầu ra hội đồng quản trị.
Hội đồng này sẽ định ra các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc
cùng các chức vụ quản lý khác đề điều hành công ty theo các sách lược kinh
doanh đã đề ra.
Giấy chứng nhận cổ đông hay sổ cổ đông không thể hiện một món nợ
của công ty, mà thể hiện quyền lợi của người sở hữu nó đối với tài sản của
công ty.
Công ty vẫn tồn tại khi quyền sở hữu của công ty thay đổi.
CTCP có các ưu điểm sau:
Đây là loại hình công ty tồn tại liên tục không phụ thuộc vào việc thay
đổi cổ đông, tỷ lệ sở hữu.


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

Rủi ro mà chủ sở hữu công ty phải chịu được giới hạn ở một mức hạn
chế nhất định. Nếu công ty thua lỗ hoặc phá sản thì cổ đông chỉ phải chịu
thiệt hại ở mức vốn đã đầu tư vào công ty.
Quyền sở hữu được chuyển đổi dễ dàng thông qua việc mua bán cổ
phiếu
Ngoài ra, đối với CTCK nếu được tổ chức theo mô hình CTCP thì khi
thực hiện niêm yết tại sở giao dịch thì coi như họ đã được quảng cáo miễn
phí.
Hình thức tổ chức quản lý, chế độ báo cáo và công bố thông tin đối với
công ty tổ chức theo mô hình CTCP tốt hơn là công ty tổ chức theo các mô
hình khác.
Do các ưu điểm này mà ngày nay các CTCK chủ yếu tổ chức theo mô
hình CTCP, thậm chí ở nhiều nước (như Hàn Quốc) còn quy định CTCK bắt
buộc phải là CTCP.
Tóm lại, CTCK cũng là một loại hình công ty nhưng do hoạt động

nghiệp vụ của nó đặc biệt khác so với các công ty sản xuất hay thương mại
nói chung nên về mặt tổ chức của chúng cũng có nhiều sự khác biệt. Các
CTCK ở các nước khác nhau hay trong cùng một nước vẫn được tổ chức rất
khác nhau tùy thuộc vào tính chất công việc của mỗi công ty hay mức độ
phát triển của thị trường.
1.2.2.Các hoạt động chủ yếu của CTCK.
Như đã trình bày ở trên, CTCK được thực hiện các nghiệp vụ chủ yếu
như sau: Hoạt động môi giới chứng khoán, hoạt động tự doanh chứng khoán,
hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán, hoạt động tư vấn đầu tư chứng
khoán. Trong phần này sẽ trình bày cụ thể về từng nghiệp vụ đó của CTCK.
Nghiệp vụ môi giới chứng khoán:


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

Khái niệm: Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng
khoán trong đó một CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch
thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay tại thị trường
OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của
việc giao dịch đó.
Chức năng của hoạt động môi giới:
Cung cấp dịch vụ với hai tư cách:
Nối liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư cung cấp cho khách
hàng các báo cáo nghiên cứu và khuyến nghị đầu tư.
Nối liền những người bán và người mua: Đem đến cho khách hàng tất
cả các loại sản phẩm và dịch vụ tài chính.
Đáp ứng những nhu cầu tâm lý của khách hàng khi cần thiết: trở thành
người bạn, người chia sẻ những lo âu căng thẳng và đưa ra những lời động
viên kịp thời.
Khắc phục trạng thái xúc cảm quá mức (điển hình là sự sợ hãi và tham

lam), để giúp khách hàng có những quyết định tỉnh táo.
Đề xuất thời điểm mua và bán hàng để khách hàng ra quyết định đầu tư.
Những nét đặc trưng của nghề môi giới chứng khoán
Lao động cật lực, thù lao xứng đáng.
Những phẩm chất cần có: Kiên nhẫn, giỏi phân tích tâm lý và ứng xử.
Nỗ lực cá nhân là quyết định, đồng thời không thể thiếu sự hỗ trợ của
công ty trong việc cung cấp thông tin và kết quả phân tích cũng như việc
thực hiện lệnh của khách hàng.
Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán:
Khái niệm: Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các hoạt động mua bán
chứng khoán cho chính công ty mình.


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

Hoạt động tự doanh của CTCK có thể được thực hiện trên các thị
trường giao dịch tập trung hoặc trên thị trường OTC…Trên thị trường giao
dịch tập trung, lệnh giao dịch của CTCK được đưa vào hệ thống và thực
hiện tương tự như lệnh giao dịch của các khách hàng. Trên thị trường OTC,
các hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty với các đối
tác hoặc thông qua một hệ thống mạng thông tin. Tại một số nước, hoạt
động tự doanh của các CTCK còn được thực hiện thông qua hoạt động tạo
lập thị trường (ví dụ như ở Mỹ). Trong hoạt động này, CTCK còn đóng vai
trò nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng nhất định của một số loại
chứng khoán và thực hiện mua bán với các khách hàng nhằm hưởng phí giao
dịch và chênh lệch giá.
Mục đích của hoạt động tự doanh: Mục đích chính của hoạt động tự
doanh của các CTCK là nhằm thu lợi cho chính mình. Tuy nhiên, để đảm
bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường, pháp luật các nước đều yêu
cầu các CTCK khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh phải đáp ứng đủ một số yêu

cầu nhất định về vốn và con người, vì vốn và con người là hai điều kiện cơ
bản để thực hiện các nghiệp vụ trong kinh doanh chứng khoán.
Để thực hiện nghiệp vụ tự doanh, các CTCK phải có đủ một số vốn
nhất định theo quy định của pháp luật. Theo Luật chứng khoán số
70/2006/QH11 thì CTCK phải có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở lên mới
được hoạt động nghiệp vụ tự doanh. Việc quy định mức vốn trên nhằm mục
đích đảm bảo rằng các CTCK thực sự có vốn và dùng vốn của họ để kinh
doanh.
Tương tự như vậy, con người cũng là yếu tố quyết định tới sự thành
công của hoạt động tự doanh. Kinh doanh chứng khoán là một lĩnh vực đặc
thù có sự chi phối rất lớn của nhân tố con người và thông tin. Nhân viên thực
hiện nghiệp vụ tự doanh của công ty phải có một trình độ chuyên môn nhất


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

định, có khả năng tự quyết cao và tính nhạy cảm trong công việc. Tại một số
nước như Thái Lan, Mỹ…nhân viên tự doanh của CTCK phải đáp ứng đủ
một số tiêu chuẩn nhất định như kinh nghiệm làm việc lâu năm trong ngành,
phải có bằng thạc sĩ trở lên và phải có một số chứng chỉ chuyên môn nhất
định. Ở Việt Nam, theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 thì phải có ít
nhất ba nhân viên có chứng chỉ hành nghề cho mỗi nghiệp vụ.
Những yêu cầu đối với CTCK trong hoạt động tự doanh:
Tách biệt quản lý: Các CTCK phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự
doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt
động. Sự tách bạch này bao gồm cả yếu tố con người và các quy trình nghiệp
vụ. Các CTCK phải có đội ngũ nhân viên riêng biệt để thực hiện nghiệp vụ
tự doanh, các nhân viên này phải hoàn toàn tách biệt với bộ phận môi giới.
Bên cạnh đó, các CTCK còn phải đảm bảo sự tách bạch về tài sản của khách
hàng với tài sản của chính công ty.

Ưu tiên khách hàng: Pháp luật của hầu hết các nước đều yêu cầu CTCK
phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên cho khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự
doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý
trước lệnh tự doanh của công ty. Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng cho
các khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán. Do có tính đặc thù về
khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các CTCK có
thể dự đoán được trước diễn biến của thị trường và sẽ mua, bán tranh của
khách hàng nếu không có nguyên tắc trên.
Bình ổn thị trường: Do tính đặc thù của TTCK, đặc biệt là các TTCK
mới nổi, bao gồm chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ thì tính chuyên
nghiệp trong hoạt động đầu tư không cao. Điều này rất dễ dẫn đến những
biến động bất thường trên thị trường. Vì vậy, các nhà đầu tư lớn, chuyên
nghiệp rất cần thiết để làm tín hiệu hướng dẫn cho toàn bộ thị trường. Bên


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

cạnh hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán, các CTCK với khả năng
chuyên môn và nguồn vốn lớn của mình có thể thông qua hoạt động tự
doanh góp phần rất lớn trong điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả của các loại
chứng khoán trên thị trường. Thông thường, chức năng bình ổn giá cả không
phải là một quy định bắt buộc trong hệ thống pháp luật của các nước, tuy
nhiên đây thường là nguyên tắc nghề nghiệp do các hiệp hội chứng khoán
đặt ra trên thị trường và các CTCK phải tuân thủ theo trong quá trình hoạt
động.
Bên cạnh đó, các CTCK còn phải tuân thủ một số các quy định khác
như các giới hạn về đầu tư, các lĩnh vực đầu tư…Mục đích của các quy định
này là nhằm đảm bảo một độ an toàn nhất định cho các CTCK trong quá
trình hoạt động, tránh những sự đổ vỡ gây thiệt hại chung cho cả thị trường.
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán:

Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng bảo lãnh
(được gọi tắt là tổ chức bảo lãnh – TCBL) giúp tổ chức phát hành thực hiện
các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng
khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát
hành. Trên TTCK, TCBL phát hành không chỉ có CTCK mà còn bao gồm
các định chế tài chính khác như ngân hàng đầu tư, nhưng thông thường việc
CTCK nhận bảo lãnh phát hành thường kiêm luôn việc phân phối chứng
khoán, còn các ngân hàng đầu tư thường đứng ra nhận bảo lãnh phát hành
(hoặc thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành) sau đó chuyển phân phối chứng
khoán cho các CTCK tự doanh hoặc các thành viên khác. Đây là nghiệp vụ
chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của CTCK.
Khi một tổ chức muốn phát hành chứng khoán, tổ chức đó gửi yêu cầu
bảo lãnh phát hành đến CTCK. CTCK có thể sẽ ký một hợp đồng tư vấn
quản lý để tư vấn cho tổ chức phát hành về loại chứng khoán cần phát hành,


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

số lượng chứng khoán cần phát hành, định giá chứng khoán và phương thức
phân phối chứng khoán thích hợp đến nhà đầu tư. Để được phép bảo lãnh
phát hành, CTCK phải đệ trình một phương án bán và cam kết bảo lãnh lên
UBCKNN. Khi các nội dung cơ bản của phương án phát hành được
UBCKNN thông qua, CTCK có thể trực tiếp ký hợp đồng bảo lãnh hoặc
thành lập nghiệp đoàn bảo lãnh để ký hợp đồng bảo lãnh giữa nghiệp đoàn
và tổ chức phát hành.
Khi UBCKNN cho phép phát hành chứng khoán và đến thời hạn giấy
phép phát hành có hiệu lực, CTCK (hoặc nghiệp đoàn bảo lãnh) thực hiện
phân phối chứng khoán. Các hình thức phân phối chứng khoán chủ yếu là:
 Bán riêng cho các tổ chức đầu tư, các quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm. hưu
trí.

 Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có
quan hệ với tổ chức phát hành như cổ đông chiến lược.
 Bán rộng rãi ra công chúng.
Đến đúng ngày theo hợp đồng, công ty bảo lãnh phát hành phải giao
tiền bán chứng khoán cho tổ chức phát hành. Số tiền phải thanh toán là giá
trị chứng khoán phát hành trừ đi phí bảo lãnh.
Nghiệp vụ tư vấn đầu tư:
Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là việc
CTCK thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích
các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan
đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng.
Để hiểu rõ hoạt động tư vấn chứng khoán, chúng ta có thể phân loại
hoạt động này theo một số tiêu chí như sau:
Theo hình thức của họat động tư vấn: thì bao gồm tư vấn trực tiếp và tư
vấn gián tiếp.


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

Tư vấn trực tiếp: tức là khách hàng có thể gặp gỡ trực tiếp nhà tư vấn
hoặc sử dụng các phương tiện truyền thông như điện thoại, fax…để được tư
vấn.
Tư vấn gián tiếp: là cách mà người tư vấn xuất bản các ấn phẩm hay
đưa thông tin lên các phương tiện thông tin truyền thông như Internet để bất
cứ khách hàng nào cũng có thể tiếp cận nếu muốn.
Theo mức độ ủy quyền của hoạt động tư vấn: bao gồm có tư vấn gợi ý
và tư vấn ủy quyền.
Tư vấn gợi ý tức là người tư vấn chỉ có quyền nêu lên ý kiến của mình
về những diễn biến trên thị trường, gợi ý cho khách hàng về những phương
pháp, cách thức xử lý nhưng quyền quyết định là ở khách hàng.

Tư vấn ủy quyền tức là nhà tư vấn tư vấn và được quyết định hộ khách
hàng theo mức độ ủy quyền của khách hàng.
Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: bao gồm có tư vấn cho người
phát hành và tư vấn cho người đầu tư.
Tư vấn cho người phát hành: Hoạt động tư vấn cho người phát hành
tương đối đa dạng, từ việc phân tích tình hình tài chính đến đánh giá giá trị
của doanh nghiệp, tư vấn về loại chứng khoán phát hành hay giúp công ty
phát hành cơ cấu lại nguồn vốn, thâu tóm hay sáp nhập với công ty khác.
Tư vấn đầu tư: Là loại hình tư vấn cho người đầu tư về thời gian mua
bán, nắm giữ, giá trị của các loại chứng khoán, các diễn biến trên thị trường.
Các cách phân loại tư vấn như vậy đan xen vào nhau và làm nên tính
phong phú của hoạt động này. Muốn đi sâu hơn vào từng hoạt động thì cách
chia theo tiêu chí thứ ba là có cái nhìn tổng quan nhất đối với toàn bộ nghiệp
vụ.
Điều kiện của hoạt động tư vấn:


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

Điều kiện về vốn: Vì hoạt động tư vấn là hoạt động kinh doanh hiểu
biết nên các yêu cầu về vốn tối thiểu đối với hoạt động này không lớn, lượng
vốn với nghiệp vụ này chỉ cần đủ để duy trì các hoạt động bình thường của
công ty như thuê văn phòng, trả lương nhân viên, chi phí hành chính khác…
Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 thì yêu cầu về vốn pháp định đối
với hoạt động này là 10 tỷ đồng.
Điều kiện về nhân sự: Bên cạnh điều kiện về vốn là không lớn thì điều
kiện về nhân sự lại tương đối chặt chẽ. Những người làm công tác tư vấn
phải có kiến thức chuyên môn rất sâu trong lĩnh vực của mình. Riêng đối với
ngành chứng khoán, họ phải có giấy phép hành nghề tư vấn chứng khoán với
các yêu cầu cao hơn với những người chỉ làm môi giới thông thường. những

yêu cầu này có thể bao gồm các loại bằng cấp tối thiểu như phải tốt nghiệp
đại học và phải vượt qua một số kỳ thi do ngành chứng khoán tổ chức.
Thường đó là kỳ kiểm tra của hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. Ở
Việt Nam, trong thời gian đầu, do chưa thể có hiệp hội các nhà kinh doanh
chứng khoán nên để xây dựng thị trường, UBCKNN sẽ là cơ quan chịu
trách nhiệm đào tạo nhân lực cho ngành chứng khoán thông qua trung tâm
đào tạo của mình.
Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn: Hoạt động tư vấn là việc
người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn họ bỏ ra kinh doanh, nhưng
những báo cáo của họ lại có tác động tâm lý rất lớn đến người được tư vấn
và có thể làm cho người được tư vấn hưởng lợi hay bị hại. Nhà tư vấn phải
luôn là những người thận trọng khi đưa ra những lời bình luận về giá trị của
các loại chứng khoán, nếu nhà đầu tư có lợi, kiếm được tiền từ những lời tư
vấn này thì họ sẽ vui mừng, nhưng nếu họ bị thiệt hại thì họ sẽ kiếm các nhà
tư vấn để phàn nàn, thậm chí bắt bồi thường. Do vậy, khi hành động, nhà tư
vấn cần phải tuân theo một số nguyên tắc tối thiểu như:


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

Không đảm bảo chắc chắn về giá trị của chứng khoán: Giá trị của
chứng khoán không phải là một số cố định, nó luôn thay đổi theo các yếu tố
kinh tế và tâm lý. Giá trị chứng khoán là tổng hợp quan niệm của các nhà
đầu tư về loại chứng khoán đó, do vậy nó có thể thay đổi liên tục cùng với
những thay đổi trong nhận định của các nhà đầu tư.
Luôn nhắc nhở khách hàng của mình rằng những lời tư vấn của mình có
thể là không hoàn toàn chính xác và khách hàng cần biết rằng nhà tư vấn sẽ
không chịu trách nhiệm về những lời khuyên đó.
Không được dụ dỗ, mời gọi khách hàng mua hay bán một loại chứng
khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ cơ sở khách quan là

sự phân tích tổng hợp một cách logic, khoa học.
Những nguyên tắc này xem ra có vẻ đơn giản nhưng rất khó thực hiện.
Khi một nhà tư vấn thực hiện hoạt động của mình có thể phạm phải một số
sai lầm kể trên và đó sẽ là nguyên nhân dẫn đến những mâu thuẫn giữa
khách hàng với nhà tư vấn đó.

2 . Lưu ký chứng khoán của công ty chứng khoán
2.1. khái niệm lưu ký chứng khoán
2.1.1 Chứng khoán
Chứng khoán là hàng hóa của TTCK . Đó là những tài sản tài chính vì
nó mang lại thu nhập và khi cần người sở hữu nó có thể nó để thu tiền về.
Theo sự phát triển của thị trường, hàng hóa ngày càng phong phú, đa dạng.
Nói chung, người ta phân chia chứng khoán thành cổ phiếu, trái phiếu,
chứng chỉ quỹ, và các chứng khoán phái sinh.
2.1.1.1Cổ phiếu.
Khái niệm: Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 thì cổ phiếu được
định nghĩa như sau:


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành.
Khi mua cổ phiếu, những người đầu tư (hay còn được gọi là các cổ
đông) sẽ trở thành những người chủ sở hữu đối với công ty. Mức độ sở hữu
đó tùy thuộc vào tỷ lệ cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Là chủ sở hữu, các cổ
đông cùng nhau chia sẻ mọi thành quả cũng như tổn thất trong quá trình hoạt
động của công ty. Trong trường hợp xấu nhất là công ty phải thanh lý hay
phá sản, cổ đông chỉ nhận được những gì còn lại sau khi công ty đã trang trải
xong các khoản nghĩa vụ khác (như thuế, nợ ngân hàng hay trái phiếu…).

Cổ phiếu là công cụ tài chính không có thời hạn, các cổ đông có thể tiến
hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên thị trường thứ cấp theo quy
định của pháp luật.
Theo tính chất của các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông, có
thể chia thành hai loại cổ phiếu cơ bản: Cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu
đãi.


Cổ phiếu phổ thông:

Cổ phiếu phổ thông là loại cổ phiếu điển hình nhất. Nếu một công ty
chỉ được phát hành một loại cổ phiếu, nó sẽ phát hành cổ phiếu phổ thông.
Cổ phiếu phổ thông mang lại các quyền sau cho các cổ đông:
Quyền hưởng cổ tức
Cổ tức là phần lợi nhuận của công ty dành để trả cho những người chủ
sở hữu. Cổ tức có thể được trả bằng tiền (dạng phổ biến nhất), cũng có thể
được trả bằng cổ phiếu. Cổ phiếu phổ thông không quy định mức cổ tức tối
thiểu hay tối đa mà cổ đông được nhận. Việc có trả cổ tức hay không, tỷ lệ
và hình thức chi trả cổ tức cho cổ đông phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh
doanh và chính sách của công ty, chính sách này do đại hội đồng cổ đông
quyết định.


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

Quyền mua cổ phiếu mới
Khi công ty phát hành một đợt cổ phiếu mới để tăng vốn, các cổ đông
hiện đang nắm giữ cổ phiếu phổ thông có quyền được mua trước cổ phiếu
mới, trước khi đợt phát hành được chào bán ra công chúng, trong một thời
hạn nhất định. Lượng cổ phiếu mới được mua theo quyền này tương ứng với

lỷ lệ cổ phiếu đang nắm giữ. Như vậy quyền này cho phép cổ đông hiện hữu
duy trì tỷ lệ sở hữu của mình trong công ty sau khi công ty đã tăng thêm
vốn.
Mỗi cổ phiếu đang nắm giữ mang lại cho cổ đông một quyền mua
trước. Số lượng quyền cần có để mua cổ phiếu mới sẽ được quy định cụ thể
trong từng đợt chào bán, cùng với giá mua, thời hạn của quyền mua và ngày
phát hành cổ phiếu mới.
Cổ phiếu bán theo quyền thường có mức giá thấp hơn so với giá thị
trường hiện hành. Khi cổ đông thực hiện quyền, công ty sẽ huy động được
thêm vốn. Nếu cổ đông không muốn thực hiện quyền thì có thể bán quyền
trên thị trường.
Quyền bỏ phiếu
Cổ đông phổ thông có quyền bỏ phiếu bầu và ứng cử vào các chức vụ
quản lý trong công ty, có quyền tham gia các đại hội cổ đông và bỏ phiếu
quyết định các vấn đề quan trọng của công ty. Nếu không tham gia được, cổ
đông có thể ủy quyền cho người khác thay mặt họ biểu quyết theo chỉ thị của
họ hoặc tùy ý người được ủy quyền.
Tùy theo quy định, mỗi cổ đông có thể được bỏ số phiếu tối đa cho mỗi
ứng cử viên bằng số cổ phiếu nắm giữ, hoặc được dồn toàn bộ số phiếu có
thể chi phối (bằng tổng số phiếu nhân với số ứng cử viên) để bầu cho một
(hoặc hơn) ứng cử viên. Cách thứ hai có lợi cho các cổ đông nhỏ, vì tuy có ít


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

phiếu bầu nhưng lại có thể tập trung phiếu để tăng thêm giá trị quyền bỏ
phiếu của mình.
Ngoài những quyền lợi cơ bản về kinh tế trên đây, cổ đông phổ thông
còn có những quyền pháp lý khác nữa, như quyền được kiểm tra sổ sách của
công ty khi cần thiết, được yêu cầu triệu tập đại hội đồng cổ đông bất

thường…


Cổ phiếu ưu đãi

Cổ phiếu ưu đãi dành cho cổ đông nắm giữ nó những ưu đãi so với cổ
phiếu phổ thông. Cổ phiếu ưu đãi bao gồm hai loại chính là ưu đãi về cổ tức
và ưu đãi quyền biểu quyết.
Cổ phiếu ưu đãi cổ tức ấn định một tỷ lệ cổ tức tối đa so với mệnh giá,
hay một mức cổ tức tuyệt đối tối đa. Trong điều kiện công ty hoạt động bình
thường, cổ đông ưu đãi sẽ đc hưởng mức cổ tức này, vì thế thu nhập từ cổ
tức của cổ phiếu ưu đãi hầu như là cố định. Đổi lại điều đó, cổ đông ưu đãi
không được tham gia bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng của công
ty.
Trong trường hợp công ty không có đủ lợi nhuận để trả theo tỷ lệ đó,
công ty sẽ trả theo khả năng có thể. Đặc biệt khi thua lỗ, công ty có thể
không trả cổ tức ưu đãi, và khi mà cổ đông ưu đãi chưa được trả cổ tức thì
cổ đông phổ thông cũng chưa được trả.
Trong trường hợp công ty thanh lý tài sản, cổ đông ưu đãi được ưu tiên
nhận lại vốn trước cổ đông phổ thông, nhưng sau người có trái phiếu.
Cổ phiếu ưu đãi cũng có thể kèm theo đó những điều khoản để tăng
thêm tính hấp dẫn của nó. Cổ phiếu ưu đãi cộng dồn quy định rằng nếu chưa
trả cổ tức cho cổ đông ưu đãi thì xem như công ty còn mắc nợ, cho đến khi
nào có đủ lợi nhuận để trả, và tất nhiên cho tới khi đó, khi trả hết cổ tức kể
cả cộng dồn của cổ phiếu ưu đãi thì cổ đông phổ thông mới nhận được cổ


sinh viên: phan văn chiến- CQ47/17.01GV hướng dẫn:PGS. TS. Hoàng Văn Quỳnh

tức. Cổ phiếu ưu đãi tham dự cho phép cổ đông ưu đãi được chia sẻ thành

quả hoạt động của công ty khi công ty làm ăn phát đạt. Cổ đông sẽ được
nhận mức cổ tức cao hơn mức tối đa đã quy định nếu cổ tức thường vượt
quá một mức nhất định. Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi cho phép cổ
đông, trong những điều kiện cụ thể có thể chuyển đổi cổ phiếu ưu đãi thành
cổ phiếu thường. Tỷ lệ và điều kiện chuyển đổi thì được quy định cụ thể tùy
theo trong điều lệ của từng công ty.
Ngoài cổ phiếu ưu đãi về cổ tức còn có cổ phiếu ưu đãi về quyền biểu
quyết.
Lợi tức của cổ phiếu
Lợi tức của cổ phiếu bao gồm cổ tức và lãi vốn. Cổ tức là một phần
trong lợi nhuận của doanh nghiệp dành chia cho cổ đông, được gọi là thu
nhập của cổ đông. Trừ trường hợp cổ phiếu ưu đãi, nói chung cổ tức là
không cố định. Tuy nhiên mức độ cao thấp của cổ tức cũng như tính chất ổn
định tương đối của việc chi trả cổ tức giữa các ngành và các công ty trong
từng ngành có sự khác nhau.
Lãi vốn là khoản chênh lệch giữa giá thu được khi bán cổ phiếu và giá
đã mua vào. Lãi vốn cấu thành một phần quan trọng trong tổng lợi tức mà cổ
phiếu đem lại cho cổ đông. Tuy nhiên, chỉ khi nào giá cổ phiếu tăng lên thì
mới có lãi vốn. Nếu giá cổ phiếu giảm xuống thì sẽ gây lỗ vốn. Vì thế người
đầu tư cũng phải quan tâm tới khả năng tăng giá của cổ phiếu. Giữa mức cổ
tức được chi trả và khả năng tăng giá của cổ phiếu không có mối liên hệ cố
định. Có loại cổ phiếu có mức trả cổ tức cao và ổn định nhưng tiềm năng
tăng giá lại ít, trái lại có loại cổ phiếu trả cổ tức thấp, thậm chí không trả cổ
tức nhưng lại hứa hẹn khả năng tăng giá cao. Tùy theo mục tiêu và mức độ
chấp nhận rủi ro của từng nhà đầu tư mà có thể lựa mua những loại cổ phiếu
mà những đặc điểm về khả năng đem lại lợi tức là khác nhau


×