1
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, phần lớn các CTCK đều tập trung vào hoạt động tự doanh cổ
phiếu và môi giới mà chưa chú trọng tới hoạt động kinh doanh trái phiếu. Điều
này đã gây ra khá nhiều rủi ro trong quá trình tham gia thị trường của CTCK bởi
tự doanh cổ phiếu là hoạt động có thể mang lại lợi nhuận cao nhưng kèm với nó
là rủi ro lớn. Trong năm 2008, hoạt động tự doanh cổ phiếu đã đưa phần lớn các
CTCK rơi vào tình trạng làm ăn thua lỗ và CTCK Thăng Long cũng không
ngoại lệ. Trước thực trạng trên các CTCK nói chung và CTCK Thăng Long nói
riêng đã nghiên cứu thêm các phương án đầu tư mới trong đó có phương án kinh
doanh trái phiếu. Đây là một hoạt động nhằm giảm bớt rủi ro cho CTCK trong
thời điểm thị trường biến động mà cũng mang lại lợi nhuận không nhỏ hơn so
với hoạt động tự doanh cổ phiếu.
TTTP của Việt Nam vẫn còn khá non trẻ nhưng cũng đã đóng góp 14,2%
GDP tính đến hết năm 2008 và đang trong quá trình phát triển. Trên thế giới,
TPCP, trái phiếu công ty có tỷ trọng giao dịch lớn trên TTCK bởi sự sôi động
của TTCK phái sinh. Thời gian tới, theo xu thế chung của thế giới, hoạt động
giao dịch trái phiếu sẽ ngày càng phát triển, đặc biệt sau khi TTTP chuyên biệt
đã chính thức đi vào hoạt động.
Tham gia vào TTTP từ tháng 6 năm 2008 nhưng CTCK Thăng Long đã
gặt hái được khá nhiều thành công, đóng góp một phần lợi nhuận không nhỏ cho
công ty. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh trái phiếu tại TLS còn nhiều hạn chế
và vẫn chưa phát triển do quy mô hoạt động kinh doanh nhỏ, phương thức đầu
tư còn đơn điệu và mang tính rủi ro cao. Nhận thức rõ vai trò của việc phát triển
hoạt động kinh doanh trái phiếu trong tương lai nên đề tài: “Phát triển hoạt
động kinh doanh trái phiếu tại Công ty cổ phần Chứng khoán Thăng Long” đã
được chọn để nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động kinh doanh trái
phiếu tại CTCK và phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại CTCK.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh trái phiếu tại CTCK
Thăng Long.
- Đề xuất giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại CTCK
Thăng Long.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2
- Nghiên cứu hoạt động phát triển kinh doanh trái phiếu của CTCK.
- Nghiên cứu hoạt động phát triển kinh doanh trái phiếu tại CTCK Thăng
Long từ khi Công ty gia nhập TTTP.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng: phân tích, tổng hợp, tư
duy lôgic và làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
5. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa lý luận về hoạt động kinh doanh trái phiếu tại CTCK, đặc
biệt lý luận về phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại CTCK.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại
CTCK Thăng Long nói chung và cho các CTCK khác hoạt động trên thị trường
tài chính Việt Nam nói riêng.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu làm 3 chương chính
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về phát triển hoạt động kinh
doanh trái phiếu tại CTCK.
Chương 2: Thực trạng phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại
Công ty Cổ phần Chứng khoán Thăng Long.
Chương 3: Một số giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu
tại Công ty Cổ phần Chứng khoán Thăng Long.
3
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH TRÁI PHIẾU TẠI CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN
1.1. Tổng quan về hoạt động kinh doanh trái phiếu tại Công ty chứng
khoán
1.1.1. Hoạt động cơ bản của Công ty chứng khoán
1.1.1.1. Khái niệm về Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt được hình
thành trong thời kỳ phát triển cao của nền kinh tế. Tại Việt Nam, Theo điều 65,
66 Nghị định 144/2003/NĐ-CP của Chính phủ về chứng khoán và TTCK Công
ty chứng khoán là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn được
UBCKNN cấp Giấy phép thành lập để hoạt động kinh doanh, dịch vụ chứng
khoán đáp ứng đủ các yêu cầu sau:
- Có phương án kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế, xã
hội và phát triển ngành chứng khoán.
- Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật cho kinh doanh chứng khoán.
- Giám đốc, Phó giám đốc (Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc), các nhân
viên kinh doanh của CTCK phải đáp ứng đủ điều kiện để được cấp chứng chỉ
hành nghề kinh doanh chứng khoán do ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp.
- Giấy phép bảo lãnh phát hành chỉ được cấp cho công ty có Giấy phép tự
doanh.
- Có mức vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh sau: Đối với
nghiệp vụ môi giới chứng khoán cần số vốn tối thiểu là 25 tỷ đồng; Đối với
nghiệp vụ tự doanh chứng khoán cần vốn tối thiểu là 100 tỷ; Đối với hoạt động
nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành chứng khoán cần số vốn tối thiểu là 165 tỷ và số
vốn tối thiểu cho hoạt động tư vấn là 10 tỷ - Theo Nghị định số 14/2007, quy
định về vốn đối với các nghiệp vụ kinh doanh của CTCK và quản lý quỹ
Như vậy số vốn tối thiểu để một CTCK hoạt động ở tất cả các nghiệp vụ
là 300 tỷ đồng.
4
Tính đến thời điểm tháng 12 năm 2009, ở Việt Nam hiện nay có tất cả 103
CTCK trong đó vốn điều lệ cao nhất là CTCK Sài Gòn với số vốn là 1533,3 tỷ
đồng. Tiếp theo là CTCK Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn với
vốn điều là là 1.200 tỷ đồng và Công ty TNHH chứng khoán Sài gòn thương tín
với vốn điều lệ là 1.100 tỷ đồng. Số CTCK thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ là 35
CTCK. Chi tiết như sau:
STT Vốn điều lệ Số Công ty Thực hiện nghiệp vụ
1 VDL ≥ 300 tỷ 35 Môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát
hành, tư vấn
2 300 tỷ > VDL ≥ 135 tỷ 33 Môi giới, tự doanh, tư vấn
3 135 tỷ > VDL ≥ 35 tỷ 32 Môi giới, tư vấn
4 VDL < 35 tỷ 3 Môi giới
Nguồn: Thống kê từ phòng Marketing – CTCK Thăng Long
Bảng 1.1. Vốn điều lệ các CTCK đến tháng 12/2009
Tại thời điểm thị trường khó khăn, các CTCK đã tự xin rút lui một số
nghiệp vụ như nghiệp vụ tự doanh hay bảo lãnh phát hành để đảm bảo mức vốn
hoạt động theo đúng quy định của Pháp luật
1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của công ty chứng khoán
Là một tổ chức trung gian kết nối sự trao đổi mua bán chứng khoán theo
những quy tắc được ấn định, theo quyết định số 27 về việc ban hành Quy chế tổ
chức và hoạt động CTCK, một CTCK được phép thực hiện tất cả các hoạt động
kinh doanh bao gồm: Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, tư vấn đầu
tư chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán.
• Hoạt động môi giới chứng khoán
Để thực hiện giao dịch mua, bán chứng khoán theo yêu cầu của khách
hàng, CTCK thực hiện chức năng làm trung gian nhận lệnh của khách hàng trực
tiếp hoặc qua điện thoại sau đó chuyển thông tin tới Sở Giao dịch Chứng khoán
Hà Nội và Hồ Chí Minh. Tại Sở giao dịch chứng khoán khi lệnh mua và lệnh
bán gặp nhau và khớp lệnh, CTCK sẽ được hưởng phí giao dịch.
Để thực hiện nghiệp vụ này, CTCK sẽ phải mở tài khoản giao dịch cho
từng khách hàng; Quản lý tiền và chứng khoán của khách hàng; Thu thập và bảo
mật thông tin tài chính, khả năng chịu đựng rủi ro, kỳ vọng lợi nhuận của từng
khách hàng; Thực hiện nghiệp vụ nhận lệnh giao dịch mua bán chứng khoán
5
niêm yết và OTC; Cung cấp các dịch vụ liên quan đến đăng ký chứng khoán
niêm yết, chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết, đăng ký giao dịch
tập trung, quản lý cổ đông, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán cho khách
hàng; Chăm sóc khách hàng; Tư vấn cho khách hàng giao dịch chứng khoán;
Thực hiện sửa lỗi theo quy định của HNX và HSX.
• Hoạt động tự doanh
Ngoài tư cách là môi giới chứng khoán, CTCK có thể sử dụng nguồn vốn
của mình để tham gia kinh doanh chứng khoán như một tổ chức độc lập trên thị
trường nhằm thu được lợi nhuận về cho CTCK. Hoạt động tự doanh của CTCK
có thể được chia thành hai lĩnh vực thứ nhất là thực hiện việc mua bán chứng
khoán niêm yết cho chính công ty mình, thứ hai là hình thức mua chứng khoán
chưa niêm yết. Ngoài ra CTCK còn mua chứng khoán niêm yết lô lẻ, sau đó sẽ
gộp thành lô chẵn để bán lại trên Sở giao dịch chứng khoán. Đây cũng là hoạt
động mang lại lợi nhuận cho CTCK bởi giá mua lô lẻ là giá thỏa thuận giữa
CTCK và nhà đầu tư nên CTCK có thể chủ động đưa ra mức giá thỏa thuận để
vừa có thể tìm kiếm lợi nhuận vừa có thể thu hút khách hàng. Phần lớn doanh
thu của CTCK thường là từ hoạt động tự doanh.
• Hoạt động phân tích và tư vấn đầu tư chứng khoán
Ở lĩnh vực này đòi hỏi các CTCK phải có các chuyên gia phân tích để đưa
ra sản phẩm là các báo cáo phân tích cơ bản như phân tích ngành, phân tích
công ty chuyên sâu đồng thời nghiên cứu thị trường hàng ngày hoặc hàng tuần
hoặc báo cáo về triển vọng của thị trường. Đây là những sản phẩm đòi hỏi sự
nghiên cứu chuyên sâu của các chuyên gia. Những sản phẩm này có thể được
thực hiện theo Hợp đồng hợp tác với các tổ chức hoặc cá nhân trong và ngoài
nước hoặc có thể là sản phẩm đặc trưng của một CTCK nhằm nâng cao vị thế
trên thị trường.
• Hoạt động tư vấn doanh nghiệp
Hoạt động tư vấn của một CTCK có thể bao gồm những hình thức sau;
+ Tư vấn bảo lãnh phát hành, chào bán chứng khoán riêng lẻ cho khách
hàng.
+ Tư vấn chuyển đổi hình thức doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang
công ty cổ phần chuyển công ty TNHH sang công ty cổ phần hoặc chuyển samg
hình thức công ty mẹ - công ty con hoặc tổng công ty.
6
+ Tư vấn các thủ tục để thực hiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công
chúng cho các DNNN cổ phần hóa và các loại hình doanh nghiệp khác; tư vấn
các thủ tục đấu giá bán bớt phần vốn nhà nước;
+ Tư vấn thủ tục cho các doanh nghiệp huy động vốn thông qua hình thức
chào bán riêng lẻ hoặc chào bán chứng khoán ra công chúng theo đúng các quy
định của pháp luật, phù hợp với nhu cầu tối đa hóa lợi ích của doanh nghiệp đó.
+ Tư vấn cho các doanh nghiệp thực hiện niêm yết chứng khoán tại Sở
giao dịch chứng khoán.
+ Tư vấn tái cấu trúc doanh nghiệp: tư vấn tái cơ cấu tổ chức bộ máy quản
lý và nguồn nhân lực; tư vấn tái cơ cấu hệ thống quản trị bao gồm cơ chế, chính
sách, các quy chế quy định, quy trình công việc; Tư vấn tái cơ cấu chiến lược
hoạt động kinh doanh về mục tiêu chiến lược, kế hoạch kinh doanh, chủng loại
sản phẩm hàng hóa; Tư vấn tái cơ cấu tài chính gồm cơ cấu danh mục tài sản, cơ
cấu tài chính phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Tùy thuộc vào từng CTCK, các nghiệp vụ trên được đẩy mạnh hay đầu tư
với cơ cấu lớn/nhỏ. Một CTCK nhỏ với vốn điều lệ dưới 100 tỷ đồng thông
thường chỉ có thực hiện nghiệp vụ môi giới và phân tích tư vấn đầu tư chứng
khoán.
• Các hoạt động phụ trợ
Hiện nay các CTCK thường mở rộng hoạt động môi giới thông qua các
dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Đó là các hoạt động hỗ trợ tài chính cho
khách hàng tham gia đầu tư chứng khoán hoặc hoạt động kinh doanh vốn trên
thị trường.
+ Kết hợp với hoạt động môi giới, các CTCK có thể cung cấp cho khách
hàng nguồn vốn để đầu tư chứng khoán với tài sản đảm bảo bằng chính những
cổ phiếu của khách hàng. Những cổ phiếu này sẽ bị phong tỏa bởi CTCK và sẽ
được giải tỏa khi khách hàng trả tiền về cho CTCK hoặc khi khách hàng bán
chứng khoán bị phong tỏa, khi đó CTCK sẽ tự động thu phần vốn đã hợp tác
cùng với khách hàng. Nghiệp vụ này áp dụng đối với cả chứng khoán niêm yết
và chứng khoán OTC.
+ Song song với việc cân đối toàn bộ nguồn vốn hoạt động trong CTCK,
một số công ty có bộ phận nguồn vốn trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh
trái phiếu căn cứ vào tình hình nguồn vốn của doanh nghiệp và tình hình thị
trường. Một số CTCK khác kết hợp với một hoặc nhiều ngân hàng để cung cấp
7
các dịch vụ cho khách hàng như hoạt động ứng trước tiền mua chứng khoán,
hợp tác đầu tư chứng khoán với khách hàng. Khi đó ngân hàng trực tiếp đứng ra
ký kết hợp đồng và thu tiền của khách hàng, CTCK chỉ là trung gian và hưởng
phần trăm hoa hồng.
1.1.2. Hoạt động kinh doanh trái phiếu tại công ty chứng khoán
Hoạt động kinh doanh trái phiếu của CTCK được hiểu là việc CTCK thực
hiện hoạt động môi giới trái phiếu cho khách hàng hoặc tự doanh trái phiếu hoặc
cả hai để từ đó thu phí giao dịch, hoa hồng, trái tức hoặc chênh lệch giữa giá
mua và giá bán nhằm mang lại lợi nhuận về cho CTCK.
Để hiểu rõ về hoạt động kinh doanh trái phiếu ta cần làm rõ các khái niệm
xung quanh trái phiếu:
1.1.2.1. Khái quát về trái phiếu
- Trái phiếu là một loại giấy hứa trả tiền dài hạn, do người đi vay phát
hành, hứa sẽ trả tiền cho người nắm giữ trái phiếu một khoản lãi cố định được
xác định trước mỗi năm. Trái chủ là người cho nhà phát hành vay và họ không
chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả và sử dụng vốn của người vay. Nhà phát
hành có nghĩa vụ phải thanh toán theo các cam kết nợ được xác định trong hợp
đồng vay. Trường hợp nếu một công ty không hoàn trả được lãi cho trái phiếu,
người ta sẽ xem xét vấn đề phá sản đối với công ty. Quyền yêu cầu về thu nhập
và tài sản của trái chủ được ưu tiên trước cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường.
Đây sẽ là sự đảm bảo quan trọng cho các nhà đầu tư và như vậy trái phiếu có
mức độ rủi ro thấp hơn so với cổ phiếu.
- Mệnh giá: Mệnh giá hay giá trị danh nghĩa, hay giá trị bề mặt của trái
phiếu là giá trị ghi trên trái phiếu, nó xác định tổng số tiền gốc mà trái chủ được
nhận cho tới hết thời hạn của trái phiếu.
- Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất ghi trên trái phiếu. Nó quy dịnh mức lợi
tức mà trái chủ được hưởng so với mệnh giá của trái phiếu.
- Lãi suất thực: Lãi suất thực của trái phiếu được xem xét trong mối liên
hệ với giá trị thời gian của tiền.
- Kỳ hạn: là độ dài thời gian cho đến khi người phát hành trái phiếu trả lại
toàn bộ tiền gốc cho trái chủ và nhận lại trái phiếu. Kỳ hạn của trái phiếu thường
rất đa dạng, có thể là 1 đến 30 năm. Kỳ hạn của mỗi trái phiếu trong một đợt
phát hành có thể khác nhau do phương thức phát hành và việc tổ chức phát hành
mua lại trái phiếu trước hạn theo điều khoản bán.
8
- Khế ước: Là bản giao kèo mang tính pháp lý giữa công ty phát hành trái
phiếu và người được ủy quyền về trái phiếu (ngân hàng tín thác, người đại diện
sở hữu trái phiếu), đại diện cho quyền của trái chủ, quyền của công ty phát hành
và trách nhiệm của người được ủy quyền.
- Lãi suất hiện tại: Là tỷ lệ giữa khoản lợi tức được trả hàng năm với giá
cả thị trường hiện tại của trái phiếu đó.
- Hạn mức tín nhiệm trái phiếu: liên quan đến đánh giá rủi ro trong tương
lại của trái phiếu, thứ hạng của một trái phiếu nhận được lại ảnh hưởng đến tỷ lệ
lợi tức yêu cầu của các nhà đầu tư đối với trái phiếu đó. Hạng trái phiếu càng
thấp thì tỷ lệ lợi tức yêu cầu trên thị trường vốn càng phải cao. Chúng cung cấp
tín hiệu rủi ro vỡ nợ ảnh hưởng đến tỷ lệ lợi tức mà doanh nghiệp phải chi trả
bằng các quỹ đi vay. Hạn mức tín nhiệm trái phiếu chịu ảnh hưởng tích cực bởi :
Tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần, những hoạt động sinh lời, sự biến thiên ở mức thấp
trong thu nhập quá khứ, quy mô công ty và việc ít sử dụng nợ thứ cấp.
1.1.2.2. Các hình thức kinh doanh trái phiếu tại công ty chứng khoán
a, Căn cứ vào công cụ đầu tư:
Trái phiếu được chia thành hai loại chính: TPCP và trái phiếu công ty
tương ứng hoạt động kinh doanh trái phiếu được chia thành kinh doanh TPCP
(TPCP và TPCQĐP, trái phiếu kho bạc, và trái phiếu đô thị) và kinh doanh
TPDN hay trái phiếu công ty.
Việc phân loại hoạt động kinh doanh trái phiếu theo công cụ đầu tư có thể
giúp các nhà quản lý xây dựng danh mục đầu tư với mức độ rủi ro phù hợp, trên
cơ sở đó dễ dàng thay đổi kết cấu danh mục đầu tư. Đầu tư vào TPCP được coi
là có rủi ro thấp nhất do được đảm bảo khả năng trả nợ của Chính phủ. Không
những vậy, TPCP còn có khả năng thanh khoản cao, dễ dàng chuyển thành tiền
mặt. Trái phiếu công ty cũng có rủi ro thấp nhưng vẫn phụ thuộc vào tình hình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đầu tư kinh doanh trái phiếu công ty
còn có thể được phân chia thành đầu tư vào trái phiếu thế chấp (trái phiếu có bảo
đảm bằng một lượng tài sản tương ứng ký thác tại cơ quan để đảm bảo chắc
chắn khả năng hoàn trả của trái phiếu) và loại trái phiếu công ty có tính rủi ro
cao hơn là đầu tư vào trái phiếu tín chấp hay trái phiếu không có bảo đảm, loại
trái phiếu này chỉ có thể được mua khi tổ chức phát hành là các công ty lớn, có
uy tín danh tiếng trên thị trường.
Dù đầu tư vào TPCP hay TPDN thì hoạt động kinh doanh trái phiếu là
khá an toàn bởi dòng tiền cố định mà nhà đầu tư được nhận đã ấn định từ khi
9
phát hành trái phiếu chứ không phụ thuộc vào tình hình hoạt động cũng như kế
hoạch phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp.
b, Căn cứ vào nguồn vốn và trách nhiệm của công ty
Hoạt động kinh doanh trái phiếu của CTCK được chia thành hoạt động tự
doanh trái phiếu và môi giới giao dịch trái phiếu cho khách hàng.
• Tự doanh trái phiếu là hoạt động CTCK sử dụng nguồn vốn của mình để
kinh doanh trái phiếu trên thị trường. Khi đó, khác với tổ chức trung gian,
CTCK đóng vai trò là một trong hai phía mua hoặc bán khi thực hiện giao
dịch, lúc này công ty sử dụng nguồn vốn của mình để mua hoặc bán trái
phiếu trên thị trường từ đó được hưởng lợi nhuận thu được từ việc
mua/bán trái phiếu hoặc phải chịu rủi ro khi bị thua lỗ. Đối với hoạt động
tự doanh, bất cứ khi nào cần bán/mua, công ty có thể bán hết lượng trái
phiếu đang nắm giữ hoặc mua tối đa nguồn vốn phân bổ cho hoạt động tự
doanh mà không chịu bất cứ ràng buộc nào – đây là điểm khác giữa hoạt
động kinh doanh tự doanh trái phiếu và hoạt động tạo lập thị trường của
các tổ chức tài chính khác.
Hoạt động tự doanh trái phiếu có thể được chia thành hoạt động đầu tư
hưởng lợi khi tới thời điểm đáo hạn trái phiếu hoặc kinh doanh hưởng chênh
lệch giá. Ở hoạt động đầu tư trái phiếu tới thời khi đáo hạn, CTCK sẽ quan tâm
tới kỳ hạn nguồn vốn có thể sử dụng cho việc đầu tư trái phiếu và lãi suất
coupon của trái phiếu để từ đó lựa chọn trái phiếu kỳ hạn 1 năm, 3 năm hay 5
năm…và loại TPCP hay TPDN. Khi đó, ngay từ khi mua trái phiếu, căn cứ vào
trái tức nhận được hàng năm hoặc hàng quý và mệnh giá trái phiếu khi đáo hạn
trái phiếu, công ty có thể tính được lợi suất theo yêu cầu của trái phiếu. Trường
hợp kinh doanh hưởng chênh lệch giá, CTCK có thể bán trái phiếu trước thời
điểm đáo hạn của trái phiếu căn cứ vào tình hình thị trường khi lợi suất theo yêu
cầu đạt kỳ vọng của CTCK. Nắm giữ trái phiếu tới khi đáo hạn hay bán trước
khi đáo hạn tùy thuộc vào nguồn vốn sử dụng cho hoạt động kinh doanh trái
phiếu của CTCK và khả năng phân tích thị trường của mỗi CTCK để từ đó đánh
giá được thời điểm bán trái phiếu tốt nhất.
• Môi giới hay đại lý (tổ chức trung gian)
Lúc này, CTCK đứng ra thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch và
hưởng phí giao dịch. Trong giao dịch trái phiếu, người bán và người mua đã có
thỏa thuận thực hiện hoạt động mua/bán trái phiếu, chỉ là thông qua CTCK để
10
đặt lệch giao dịch. Để thực hiện chức năng này, CTCK phải là thành viên giao
dịch trên hệ thống giao dịch TPCP. Kể từ ngày 24/09/2009, hệ thống giao dịch
trái phiếu chuyên biệt chính thức đi vào hoạt động, chỉ có các CTCK thành
viên mới có chức năng giao dịch môi giới cho khách hàng ngoài hoạt động tự
doanh của mình, các NHTM – thành viên đặc biệt chỉ có thể giao dịch tự doanh
và các CTCK không phải là thành viên hệ thống TPCP chuyên biệt sẽ phải đặt
lệch qua các CTCK thành viên.
c, Căn cứ vào mục tiêu kinh doanh:
Căn cứ theo tiêu thức này có thể chia hoạt động kinh doanh trái phiếu
thành ba loại là kinh doanh đầu tư hưởng lợi, kinh doanh đầu tư phòng vệ và nhà
tạo lập thị trường.
• Kinh doanh đầu tư hưởng lợi: Hoạt động này nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh đầu tư trái phiếu có thể có từ trái tức
được phân phối hàng năm và từ chênh lệch giá khi bán trái phiếu. Hoạt
động kinh doanh đầu tư hưởng lợi còn có thể chia thành hoạt động đầu cơ,
kinh doanh chênh lệch giá và kinh doanh xuống giá.
+ Đầu cơ trái phiếu: Là hoạt động đầu tư trái phiếu nhằm tìm kiếm lợi
nhuận từ trái tức và chênh lệch giá trong dài hạn. Hoạt động đầu cơ làm cho trái
phiếu trở nên khan hiếm và giá trái phiếu tăng khi đó nhà đầu cơ có thể kiếm
được lợi từ việc tăng giá trái phiếu.
+ Kinh doanh chênh lệch giá: Là hoạt động mua bán trái phiếu nhằm tìm
kiếm lợi nhuận trong ngắn hạn từ chênh lệch giá mua và giá bán. Giá chênh lệch
có thể do địa điểm mua bán khi tỷ giá giữa hai đồng tiền tại hai khu vực khác
nhau hoặc khi CTCK tìm được người có nhu cầu bán và người có nhu cầu mua
trái phiếu mà giá mua cao hơn giá bán khi đó CTCK sẽ là trung gian để hưởng
chênh lệch này.
+ Kinh doanh giảm giá: Là hoạt động kinh doanh đầu tư hưởng lợi khi có
hiện tượng giảm giá trái phiếu. Khi dự báo lãi suất tăng, CTCK sẽ bán trái phiếu
để chờ giá trái phiếu giảm xuống và mua lại. Trường hợp đặc biệt của hoạt động
kinh doanh giảm giá trái phiếu là bán khống. Khi đó, CTCK sẽ vay trái phiếu
của nhà tạo lập thị trường để bán khống lượng trái phiếu đó khi lãi suất thị
trường có xu hướng tăng lên trong tương lai làm giá trái phiếu giảm và mua lại
trả nhà tạo lập thị trường khi giá trái phiếu đã giảm tới mức kỳ vọng. Phần
chênh lệch giữa giá bán và giá mua sau khi trừ đi phí giao dịch sẽ là thu nhập
của CTCK. Khi giá trái phiếu không xuống thấp như kỳ vọng mà tăng lên,
11
CTCK vẫn phải mua trái phiếu trả lại nhà tạo lập thị trường và chịu thua lỗ.
Phần thua lỗ là khoản chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Đây cũng là hoạt
động mang tính rủi ro cao nên để ra quyết định đầu tư, CTCK cần phải xem xét
tình hình kinh tế vĩ mô và tình hình biến động lãi suất để từ đó tránh những rủi
ro không đáng có.
• Kinh doanh đầu tư phòng vệ: Là hoạt động kinh doanh đầu tư các công
cụ trái phiếu phái sinh như hợp đồng giao sau (Forwards), Hợp đồng kỳ
hạn (Futures), Hợp đồng quyền mua (Call Options), Hợp đồng quyền bán
(Put Options) … CTCK tham gia kinh doanh đầu tư vào các hợp đồng này
nhằm mục đích hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh đầu tư trái
phiếu. Ngoài mục đích phòng vệ, ngày nay tại các nước phát triển, các
công cụ phái sinh này không chỉ sử dụng cho nghiệp vụ phòng vệ mà còn
được được sử dụng cho nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch giá và nghiệp vụ
đầu cơ.
• Tạo lập thị trường: Là khi CTCK đảm nhận tạo lập thị trường cho các
loại trái phiếu. Các tổ chức này thường được UBCKNN cấp phép thực
hiện nắm giữ một lượng trái phiếu đủ lớn và thực hiện mua bán theo yêu
cầu nhằm tạo tính thanh khoản cho trái phiếu. Nhà tạo lập thị trường có
thể thu được lợi tức đầu tư từ trái tức, phần chênh lệch tăng giá trái phiếu
và tiền hoa hồng khi thực hiện môi giới cho các nhà đầu tư, được miễn
giảm thuế, miễn giảm phí giao dịch, được miễn phí thông tin, thuê trang
thiết bị với giá rẻ và các hỗ trợ khác. Khi tham gia thị trường với tư cách
là nhà tạo lập thị trường, CTCK có thể hoạt động giao dịch dưới hai hình
thức là hoạt động tự doanh - mua bán trái phiếu cho chính mình bằng
nguồn vốn của công ty hoặc hoạt động môi giới - làm môi giới đại lý trái
phiếu cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
+ Hoạt động tự doanh: Khác với tự doanh trái phiếu tại các CTCK khoán
khác, công ty có thể mua hoặc không mua, có thể bán hết lượng trái phiếu mình
nắm giữ nếu cần. Còn hoạt động tự doanh của CTCK với tư cách là nhà tạo lập
thị trường thì CTCK luôn phải nắm giữ một lượng nhất định trái phiếu đủ lớn để
sẵn sàng bán khi có nhu cầu đặt mua đồng thời phải dự trữ ngân quỹ khi nhà đầu
tư có yêu cầu bán. Khi đó CTCK với vai trò là nhà tạo lập thị trường đồng thời
thực hiện quản lý ngân quỹ và đầu tư.
+ Hoạt động môi giới hay đại lý (tổ chức trung gian): Không chỉ đứng ra
thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch và hưởng hoa hồng giống như các
12
thành viên giao dịch khác, với tư cách là nhà tạo lập thị trường, khi lệnh đặt mua
đến nhưng nhà tạo lập TTTP không đủ số trái phiếu đặt mua trong tài khoản của
mình hoặc lệnh đặt bán đến nhưng nhà tạo lập thị trường không đủ khả năng để
mua toàn bộ lượng trái phiếu đặt bán của khách hàng thì khi đó nhà tạo lập thị
trường sẽ phải tìm một lệnh đối ứng khác thỏa mãn toàn bộ hoặc một phần khối
lượng đặt mua của khách hàng đặt ra bằng cách tìm đến một nhà tạo lập thị
trường khác.
Việc phân loại hoạt động kinh doanh trái phiếu theo hình thức này có thể
giúp nhà quản trị CTCK kiểm soát được lượng tiền sử dụng cho hoạt động kinh
doanh trái phiếu theo các hình thức đã được xác định.
1.1.2.3. Quản lý danh mục đầu tư trái phiếu
Hiện nay, hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng khoán nói chung và
trái phiếu nói riêng là một công cụ hữu hiệu không chỉ cho các nhà đầu tư tổ
chức mà còn cho cả các nhà đầu tư cá nhân. Như vậy, hoạt động quản lý danh
mục đầu tư trái phiếu là nhu cầu quản lý danh mục đầu tư trái phiếu trong kho tự
doanh của CTCK, trong kho đối với CTCK là nhà tạo lập TTTP hoặc danh mục
trái phiếu được ủy thác quản lý của các nhà đầu tư. Tiền đầu tư trái phiếu có thể
là tiền tự có của CTCK hoặc tiền ủy thác của các nhà đầu tư trong đó CTCK
cam kết trả thanh toán cho nhà đầu tư với một tỷ lệ lãi và kỳ trả lãi nhất định.
• Vai trò của quản lý danh mục đầu tư trái phiếu
Cũng như các nhà đầu tư kinh doanh khác, CTCK luôn mong muốn lợi
nhuận cao nhất mà rủi ro nếu thua lỗ là thấp nhất. Vì vậy, nhu cầu đa dạng hóa
danh mục đầu tư để giảm thiểu rủi ro tránh “cho trứng vào cùng một rỏ” để giảm
nguy cơ thua lỗ khi trái phiếu giảm giá là rất rõ ràng. Nếu dồn toàn bộ tiền của
mình vào một loại trái phiếu như TPDN thì khi nhà phát hành trái phiếu rơi vào
tình trạng làm ăn thua lỗ, không trả được trái tức, CTCK sẽ gặp bất lợi trong
việc thu hồi tiền hoặc chỉ kinh doanh TPCP mặc dù rủi ro là rất thấp vì khả năng
Chính phủ không trả được tiền là hầu như không có nhưng cơ hội để thu được
lợi nhuận cao lại thấp hơn so với TPDN.
Như vậy, nếu với một khoản tiền, CTCK “rải” ra nhiều loại trái phiếu
khác nhau, thì tính tổng khoản đầu tư, rủi ro của trái phiếu này sẽ được bù đắp
khoản trái tức hoặc chênh lệch giá của trái phiếu khác. Đó chính là đa dạng hóa
đầu tư để giảm thiểu rủi ro.
• Các chiến lược quản lý danh mục đầu tư trái phiếu
13
Việc lựa chọn một chiến lược quản lý danh mục đầu tư trái phiếu là rất
quan trọng trong quá trình hoạch định hướng đầu tư của CTCK. Có ba chiến
lược quản lý danh mục đầu tư mà CTCK có thể lựa chọn đó là chiến lược quản
lý thụ động, chiến lược quản lý bán chủ động và chiến lược quản lý chủ động.
- Chiến lược quản lý thụ động
Chiến lược quản lý thụ động là chiến lược mua và nắm giữ trái phiếu cho
đến khi đáo hạn mà không cần quan tâm đến các biến động của lãi suất. Đối với
chiến lược này, về cơ bản khong cần phân tích dự báo tình hình của biến động
lãi suất, song người đầu tư vẫn cần có sự phân tích để đa dạng hóa danh mục
nhằm giảm thiểu rủi ro và xác định số lượng trái phiếu đưa vào danh mục phù
hợp với danh mục đầu tư. Theo phương pháp này, tốt nhất là đầu tư vào các
danh mục có thành phần trái phiếu tương tự như các chỉ số trên thị trường nhằm
thu được kết quả tương tự của chỉ số đó.
Các bước tiến hành khi thực hiện chiến lược đầu tư thụ động như sau:
Bước 1: Lựa chọn chỉ số trái phiếu:
Trên thị trường có nhiều loại trái phiếu có mức độ rủi ro khác nhau. Do
vậy, nhà quản lý danh mục đầu tư thụ động cũng cần phải xem xét hai yếu tố để
quyết định nên đầu tư theo danh mục loại nào. Yếu tố thứ nhất là xác định mức
độ rủi ro thanh toán mà CTCK có thể chấp nhận được. Nếu lựa chọn danh mục
dựa trên chỉ số chứa đựng hoàn toàn trái phiếu công ty thì sẽ phải gặp rủi ro tín
nhiệm hơn là chỉ số TPCP. Nếu mức rủi ro quá cao không thể chấp nhận được
thì tốt nhất không nên dựa vào chỉ số đó để lập danh mục. Vấn đề thứ hai là phải
tuân theo mục tiêu của công ty đề ra. Chẳng hạn lợi suất của các chỉ số có thể
khá đồng đều, song độ biến thiên của chúng lại khác nhau mỗi khi có biến động
lãi suất. Do vậy, nếu mục tiêu của người đầu tư là lựa chọn những danh mục có
biến thiên lợi suất thấp thì cần phải đầu tư theo chỉ số có thời gian đáo hạn bình
quân rất ngắn.
Bước 2: Phương pháp đầu tư:
Khi người quản lý danh mục đầu tư đã quyết định được nên đầu tư theo
chỉ số nào thì bước tiếp theo là phải xây dựng danh mục đầu tư theo phiên bản
của chỉ số đó. Để thực hiện công việc này thì người quản lý có thể tiến hành
theo một số cách sau:
Thứ nhất: Mua tất cả các trái phiếu có trong chỉ số chuẩn mà mình cần
tuân theo, với tỷ trọng đầu tư vào mỗi trái phiếu bằng tỷ trọng trái phiếu đó
CTCK chiếm trong chỉ số chuẩn.
14
Thứ hai: Chỉ mua chọn lọc một số lượng nhất định các trái phiếu trong chỉ
số.
Thứ ba: Phương pháp chia nhỏ, đây là phương pháp phân chia chỉ số theo
các nhóm nhỏ đại diện cho những đặc tính khác nhau của chỉ số.
Thứ tư: Phương pháp tối ưu hóa (optimization approach).Trong phương
pháp này người quản lý danh mục phải xây dựng một danh mục, một mặt ăn
khớp với các nhóm chia nhỏ như phương pháp thứ ba, mặt khác phải tuân theo
một số điều kiện và đồng thời tối ưu các mục tiêu đề ra.
- Chiến lược quản lý bán chủ động
Trên thực tế có rất ít nhà quản lý danh mục đầu tư theo chiến lược thụ
động đơn thuần mà thường là hướng danh mục đầu tư thụ động theo một số mục
tiêu nhất định. Phương pháp quản lý thụ động đơn thuần chỉ có tác dụng đa dạng
hóa danh mục, giúp giảm thiểu rủi ro phi hệ thống của danh mục và đạt được kết
quả tương tự mức bình quân của thị trường mà không có tác dụng phòng tránh
rủi ro hệ thống. Để đạt được các mục tiêu đề ra và phòng tránh rủi ro hệ thống,
các nhà quản lý danh mục một mặt thiết lập danh mục theo phương pháp thụ
động, một mặt quản lý danh mục mang tính chủ động. Phương pháp này được
gọi là quản lý bán chủ động.
Phương pháp được dùng chủ yếu trong chiến lược quản lý bán chủ động
là phương pháp trung hòa rủi ro lãi suất. Đây là phương pháp phổ biến trong
chiến lược loại bỏ rủi ro cho danh mục đầu tư. Đó là biện pháp xây dựng một
danh mục trái phiếu sao cho khi lãi suất biến động thì rủi ro về giá và rủi ro tái
đầu tư gây ra những tác động chính xác bằng nhau và ngược chiều nhau, do đó
chúng triệt tiêu nhau. Vì vậy, danh mục đầu tư không bị ảnh hưởng. Để phòng
tránh rủi ro lãi suất, một biện pháp trung hòa rủi ro thường được sử dụng là đầu
tư vào trái phiếu có thời gian đáo hạn bình quân bằng kỳ đầu tư. Một trong
những phương pháp có thể sử dụng là đầu tư vào trái phiếu không coupon có
thời gian đáo hạn bằng kỳ đầu tư. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào
cũng sẵn có loại trái phiếu này phù hợp với ý muốn của người đầu tư. Do vậy,
người đầu tư có thể lựa chọn loại trái phiếu đó bằng kỳ đầu tư dự kiến.
- Chiến lược quản lý chủ động:
Chiến lược quản lý chủ động là phương pháp mà người quản lý danh mục
dùng khả năng tiên đoán và thủ thuật đầu tư của mình để xây dựng danh mục
đầu tư đạt mức sinh lời cao hơn mức sinh lời chung của thị trường.
15
Các yếu tố chủ yếu mà nhà quản lý danh mục phải theo dõi và dự đoán đó là
sự thay đổi về mặt bằng lãi suất, sự thay đổi cơ cấu kỳ hạn lãi suất và thay đổi
mức chênh lệch lãi suất giữa các loại trái phiếu khác nhau.
Phương pháp chủ yếu áp dụng:
- Chiến lược hoán đổi lãi suất: Chiến lược này được thực hiện theo một số
nguyên tắc sau:
+ Đánh giá hai loại trái phiếu tương đương chất lượng và thời gian đáo
hạn, chuyển từ loại có coupon thấp sang loại có coupon cao nhưng giá lại không
cao hơn nhiều để hy vọng thu được lợi suất cao hơn.
+ Dự đoán mức độ tín nhiệm của một công ty có xu hướng tăng lên,tức
lợi suất đầu tư vào trái phiếu do công ty này phát hành sẽ giảm, do vậy phải mua
ngay loại trái phiếu này và bán loại tương đương không có triển vọng.
- Chiến lược dự đoán lãi suất:
Đây là phương pháp đơn giản nhất của chiến lược quản lý chủ động. Chìa
khóa của phương pháp này là dự đoán được xu hướng biến động của lãi suất
trong tương lai để từ đó xây dựng một danh mục nhạy cảm với sự biến động đó.
Vì thời gian đáo hạn bình quân là đơn vị đo mức nhạy cảm của danh mục tới sự
biến động lãi suất nên người quản lý dự đoán lãi suất sẽ giảm thì cần phải xây
dựng danh mục đầu tư có thời gian đáo hạn bình quân dài và ngược lại.
- Chiến lược dự đoán chênh lệch đường cong lãi suất
Dự đoán chênh lệch đường cong lãi suất có nghĩa là nhà quản lý dự đoán
sự khác nhau trong xu hướng biến động của lãi suất hai kỳ hạn khác nhau của
một loại trái phiếu (hoặc hai trái phiếu tương đương về ngành nghề, chất lượng
và coupon…). Nếu tại một thời điểm nào đó người ta thấy sự biến động lãi suất
của hai loại kỳ hạn diễn ra bất thường (vượt xa ngoài mức biến động bình quân
thường có trong quá khứ) thì người ta dự đoán nó sẽ đổi chiều vào một thời
điểm nào đó trong tương lai từ đó có hiện lượng đầu tư thích hợp.
- Chiến lược đường cong lãi suất
Chiến lược đường cong lãi suất là chiến lược mà người quản lý chỉ cần dự
đoán về mức biến động của lãi suất, tức lãi suất biến động ít hay nhiều mà
không cần dự đoán về xu hướng lãi suất.
Chẳng hạn, một nhà đầu tư dự kiến kỳ đầu tư 5 năm vậy trước hết để
phòng ngừa rủi ro lãi suất, anh ta phải chọn danh mục có thời gian đáo hạn bình
quân bằng 5 theo một trong các cách sau:
16
+ Có thể rải đều tiền vào tất cả các loại trái phiếu có kỳ hạn khác nhau.
+ Có thể đầu tư toàn bộ vào loại trái phiếu khong coupon kỳ hạn 5 năm.
+ Có thể đầu tư một nửa vào loại kỳ hạn 3 năm và một nửa vào kỳ hạn 7
năm.
Một đặc điểm cần lưu ý là tất cả các phương án trên đều phải có thời gian
đáo hạn bình quân của danh mục bằng kỳ đầu tư.
• Quy trình quản lý danh mục đầu tư của CTCK
- Xác định rõ mục tiêu đầu tư (policy statement): Trong hoạt động đầu tư
và quản lý danh mục đầu tư, đây là một bước tối quan trọng. Khi thực
hiện bước này CTCK phải xác định rõ ba vấn đề chính. Thứ nhất là kì
vọng lợi nhuận của mình ở mức nào qua đó lựa chọn tài sản đầu tư thích
hợp. Thứ hai CTCK cần phải nhận thức rõ các hạn chế của mình khi
thực hiện hoạt động đầu tư như tiềm lực vốn, thời gian dự định đầu tư.
Thứ ba các CTCK cần phải xác định rõ khả năng chịu đựng rủi ro của
mình ở mức độ nào, điều này sẽ rất có ích trong việc lựa chọn các tài
sản để đầu tư thích hợp.
- Thiết lập chiến lược đầu tư (investment strategy): Đây là bước nhằm
thực hiện các quyết định đã được đưa ra ở bước thứ nhất bằng cách
phân tích tài chính và kinh tế. Qua các bước phân tích cẩn trọng các
CTCK sẽ phải xác định một loạt các quyết định đầu tư xem cần thực
hiện chiến lược đầu tư bị động, bán chủ động hay chủ động để nhằm
thỏa mãn các mục tiêu đầu tư của mình.
- Thực hiện chiến lược đầu tư. Đây là bước cụ thể hóa các bước trên bằng
cách xây dựng danh mục đầu tư cụ thể bao gồm danh sách các loại tài sản để
đầu tư và tỷ trọng vốn đầu tư vào các loại tài sản đó. Việc xây dựng danh mục
đầu tư chú trọng nhất là khâu xác định tỷ trong phân bổ vốn đầu tư vì nó đóng
vai trò quyết định trong thành công của hoạt động này. Các thống kê cho thấy
việc xác định đúng tỷ trọng phân bổ vốn đầu tư chiếm đến 90% khả năng thắng
lợi của một danh mục đầu tư.
- Điều chỉnh và cập nhật. Trong hoạt động đầu tư một danh mục đầu tư
không phải là bất biến mà luôn cần được phân tích và điều chỉnh nhằm
đáp ứng tốt mục tiêu đầu tư và thích ứng với sự biến chuyển không
ngừng của tình hình kinh tế vĩ mô cũng như tình hình kinh doanh của
các doanh nghiệp. Việc điều chỉnh này bao gồm điều chỉnh tỷ trọng đầu
tư vào các tài sản, chấm dứt đầu tư vào một hay nhiều loại tài sản hay
17
bắt đầu đầu tư vào các loại tài sản khác nhau. Tuy nhiên sự điều chỉnh
này phải luôn luôn tuân thủ các mục tiêu đầu tư đã được nêu ra ở các
bước trên.
1.1.2.4. Vai trò của hoạt động kinh doanh trái phiếu tại công ty chứng khoán
Hoạt động kinh doanh trái phiếu ngày càng thể hiện rõ ưu việt của nó
trong thị trường tài chính bởi hoạt động này giúp Tăng tính lỏng và tính sinh lời
của các tài sản đầu tư. Bất kỳ một tổ chức nào khi tiến hành đầu tư cũng phải
bảo đảm được tính thanh khoản của danh mục đầu tư. Tại CTCK, tài khoản
thanh toán của công ty và tài khoản của các nhà đầu tư được tách riêng theo quy
định của UBCKNN để đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư. CTCK cũng là
một nhà đầu tư tham gia vào thị trường tài chính và để đảm bảo tính thanh
khoản của mình, CTCK luôn phải duy trì một khoản mục dự trữ nhất định. Tuy
nhiên, vấn đề đặt ra là mặc dù dự trữ càng nhiều thì thanh khoản càng được bảo
đảm nhưng không sinh lời hoặc sinh lời rất thấp. Trong khi đó một yêu cầu cũng
được đặt ra là phải tăng lợi nhuận. Vì vậy, các CTCK cũng như các tổ chức tài
chính khác như NHTM đã tính tới việc kinh doanh TPCP hoặc trái phiếu công ty
vì chúng có thể mang lại được thu nhập ổn định và có tính thanh khoản cao do
một số loại còn có thể được bán tại hầu hết thị trường tài chính thế giới như trái
phiếu kho bạc Mỹ và các nước Châu Âu,… Bên cạnh đó, các loại trái phiếu còn
có thể được sử dụng để huy động nguồn vốn dễ dàng thông qua các nghiệp vụ
repo trái phiếu. Đây là nghiệp vụ khá phát triển và là tài sản thế chấp có tính rủi
ro rất thấp do trái phiếu là tài sản đảm bảo chắc chắn bởi chính phủ hoặc là tài
sản nợ của các doanh nghiệp phát hành nên các tổ chức tín dụng rất ưa dùng.
Thứ hai, đa dạng hóa tài sản đầu tư, hạn chế rủi ro: Không rủi ro bằng
các ngân hàng nhưng hoạt động của CTCK cũng chứa đựng những rủi ro tiềm
tàng như rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán tự doanh, rủi ro do CTCK
sử dụng các dịch vụ tài chính để hợp tác kinh doanh chứng khoán với các cá
nhân hoặc tổ chức đầu tư chứng khoán. Nhưng hoạt động này chứa đựng rất
nhiều rủi ro do thị trường biến đổi không ngừng vì vậy để giảm rủi ro thì CTCK
cần có cơ cấu danh mục đầu tư, đa dạng hóa tài sản đầu tư. Khi tiến hành đầu tư
chứng khoán, CTCK có thể tiến hành đầu tư linh hoạt theo danh mục cổ phiếu
bên cạnh đó cũng cần kinh doanh trái phiếu để đảm bảo khả năng an toàn, từ đó
đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động được trên thị trường. Vì vậy,
bên cạnh danh mục cổ phiếu, CTCK cần có danh mục đầu tư cả TPCP, TPDN.
Theo thống kê tính tới cuối năm 2008, tổng dư nợ trái phiếu của Việt Nam
18
tương đương 14,2% GDP, trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực luôn ở
mức cao, như Singapore 66,8%, Thái Lan 52,4%, Philippines 34,2%... Trong đó,
TPCP (TPCP) chiếm tỷ trọng chủ yếu, TPDN chiếm tỷ trọng khá nhỏ, năm 2008
chỉ là 5,84% (ở Malayssia, Singapore, tỷ trọng này khoảng 70 - 80%). Như vậy,
xét về nhu cầu và xu hướng, TTTP Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng để phát
triển..
Thứ ba, thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn cho nền kinh tế, cung ứng
vốn: Thông qua hoạt động kinh doanh trái phiếu với tư cách là nhà đầu tư
chuyên nghiệp, CTCK nói riêng và các tổ chức kinh doanh trái phiếu nói chung
đã góp phần tài trợ vốn cho các doanh nghiệp phát hành, góp phần điều tiết từ
nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn từ đó thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn cho
nên kinh tế. Tạo sự khơi thông và linh hoạt đẩy mạnh nền kinh tế phát triển.
1.2. Phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại công ty chứng khoán
1.2.1. Quan niệm về phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại công ty
chứng khoán
Phát triển là sự thay đổi về lượng và chất theo hướng tích cực. Như vậy,
phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu tại CTCK được hiểu là sự tăng lên về
chất và lượng trong hoạt động kinh doanh trái phiếu. Đó sẽ là sự thay đổi trên
các mặt sau:
- Gia tăng quy mô kinh doanh trái phiếu trên cơ sở gia tăng quy mô trái
phiếu trong danh mục kinh doanh hoặc gia tăng loại trái phiếu kinh doanh hoặc
cả hai.
- Tăng hiệu quả và chất lượng kinh doanh nhằm tăng doanh thu, giảm rủi
ro trong kinh doanh trái phiếu từ đó gia tăng lợi nhuận. Để tăng hiệu quả và chất
lượng kinh doanh, CTCK cần gia tăng số lượng và chất lượng cán bộ quản lý và
cán bộ nhân viên đáp ứng nhu cầu công việc bên cạnh đó cần nâng cao tính
chuyên nghiệp trong hoạt động kinh doanh trái phiếu trên cơ sở chuẩn hóa quy
trình kinh doanh trái phiếu, phát triển hệ thống trang thiết bị phục vụ cho hoạt
động kinh doanh.
- Tăng giá trị đầu tư thể hiện qua việc tăng lên về số lượng tiền đầu tư vào
kinh doanh trái phiếu như vậy danh mục kinh doanh và số lượng trái phiếu cũng
tăng lên tương ứng.
- Gia tăng thị phần giao dịch trong hoạt động kinh doanh trái phiếu.
19
- Đa dạng hóa phương thức kinh doanh: CTCK không chỉ tham gia hoạt
động môi giới trái phiếu mà còn tham gia tự doanh trái phiếu hay kinh doanh
đầu tư hưởng lợi, kinh doanh đầu tư phòng vệ từ đó tiến tới trở thành nhà tạo lập
thị trường.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá mức phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu
của công ty chứng khoán
Đánh giá sự phát triển của hoạt động đầu tư trái phiếu cần sử dụng các chỉ
tiêu sau:
1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính
- Tính đa dạng của hoạt động kinh doanh trái phiếu thể hiện qua việc
CTCK thực hiện kinh doanh các loại trái phiếu khác nhau với nhiều kỳ hạn khác
nhau, hay nhiều mảng thị trường khác nhau. Công ty có thể đầu tư vào TPCP
hay trái phiếu công ty hay đầu tư vào các công cụ phái sinh để giảm thiểu rủi ro
kinh doanh trái phiếu. Mỗi loại trái phiếu có ưu điểm và nhược điểm riêng nên
CTCK cần quản lý danh mục đầu tư trái phiếu để thu được lợi nhuận cao nhất.
Công ty có thể chỉ phát triển mảng môi giới trái phiếu hay cả mảng tự doanh
hoặc trở thành nhà tạo lập thị trường.
Thông thường, các CTCK chỉ có thể tham gia môi giới trái phiếu hoặc
đầu tư tự doanh khi nguồn vốn dùng cho kinh doanh trái phiếu là nhỏ. Nhưng
với mức đầu tư vốn lớn, CTCK sẽ hướng tới việc trở thành nhà tạo lập thị
trường trên trái phiếu nhằm tạo nên vị thế, tính chuyên nghiệp cao. Chính vì
vậy, tính đa dạng trong hoạt động kinh doanh cũng là một chỉ tiêu đánh giá sự
phát triển của hoạt động kinh doanh.
Tương tự vậy, tính đa dạng trong kinh doanh trái phiếu có kỳ hạn khác
nhau cũng đánh giá mức độ phát triển của hoạt động kinh doanh trái
phiếu.Thông thường, kỳ hạn của trái phiếu đầu tư càng đa dạng càng thể hiện
hoạt động kinh doanh trái phiếu của CTCK phát triển. Các CTCK mới tham gia
TTTP thường chỉ đầu tư trái phiếu có kỳ hạn ngắn để có thể thu hồi được vốn
sau thời gian ngắn.
- Cơ cấu danh mục đầu tư: Một trong các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển
hoạt động kinh doanh đầu tư trái phiếu của CTCK là việc cơ cấu danh mục đầu
tư trên cơ sở lựa chọn chiến lược quản lý danh mục đầu tư. Một cơ cấu danh
mục đầu tư tốt là cơ cấu đảm bảo danh mục đầu tư có lợi nhuận cao nhất đồng
thời hạn chế được rủi ro. Việc quản lý danh mục đầu tư theo chiến lược chủ
20
động luôn là một chiến lược mang lại lợi nhuận tốt nhất đồng thời hạn chế được
rủi ro tốt nhất. Tuy nhiên, để làm được điều này đòi hỏi CTCK cần đầu tư mạnh
vào hoạt động kinh doanh trái phiếu cả về vốn kinh doanh và nhân sự. Từ đó,
CTCK có một danh mục trái đạt mức sinh lời cao hơn mức sinh lời chung của
thị trường và một đội ngũ chuyên gia giỏi để dự đoán tình hình lãi suất thị
trường căn cứ vào tình hình biến động kinh tế vĩ mô.
- Tính chuyên nghiệp trong hoạt động kinh doanh trái phiếu và chất lượng
cán bộ tham gia hoạt động kinh doanh trái phiếu. Điều này thể hiện ở cơ cấu tổ
chức hoạt động kinh doanh trái phiếu trong công ty, hệ thống trang thiết bị phục
vụ cho hoạt động kinh doanh trái phiếu và khả năng kinh doanh của các cán bộ
tham gia trực tiếp kinh doanh trái phiếu. Đánh giá khả năng của cán bộ nhân
viên phụ thuộc vào chuyên môn và độ nhạy bén cao khi tham gia hoạt động kinh
doanh trái phiếu.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
- Chỉ tiêu về mức tăng doanh thu kinh doanh
Để đánh giá mức độ tăng trưởng về doanh thu kinh doanh người ta thường
so sánh so với năm trước (kỳ trước):
Mức tăng doanh thu từ
hoạt động kinh doanh
=
Chênh lệch doanh thu kinh
doanh năm nay (kỳ này)
Doanh thu kinh doanh năm trước
(kỳ trước)
x 100%
Trong đó chênh lệch doanh thu kinh doanh năm nay (kỳ này) và năm
trước (kỳ trước) được tính như sau:
Chênh lệch doanh thu kinh
doanh năm nay (kỳ này)
=
Doanh thu kinh
doanh năm nay (kỳ
này)
-
Doanh thu kinh
doanh năm trước
(kỳ trước)
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh bao gồm phí, hoa hồng, trái tức và
chênh lệch giá khi bán chứng khoán…
Mức tăng doanh thu kinh doanh là tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát
triển của hoạt động kinh doanh. Để có kết luận cụ thể, người ta thường so sánh
chỉ tiêu này giữa các công ty có các điều kiện kinh doanh tương đồng với nhau
và so sánh với mức trung bình của ngành trong cùng thời kỳ.
- Chỉ tiêu về tỷ lệ chi phí hoạt động kinh doanh
21
Tỷ lệ chi phí là một trong những chỉ tiêu thể hiện hiệu quả của hoạt động
kinh doanh. Tỷ lệ chi phí cao hay thấp ảnh hưởng trực tiếp tỷ lệ lợi nhuận từ
hoạt động kinh doanh của CTCK.
Tỷ lệ % chi phí hoạt
động kinh doanh
=
Chi phí của hoạt động kinh
doanh trong kỳ
Doanh thu từ hoạt động kinh
doanh trong kỳ
x 100%
Chi phí cho hoạt động kinh doanh bao gồm: chi phí tiền lương cho nhân
viên bộ phận kinh doanh trái phiếu, chi phí thông tin, chi phí giao dịch trả cho
Sở giao dịch chứng khoán, các khoản lỗ trong hoạt động kinh doanh… Tỷ lệ chi
phí hoạt động kinh doanh càng thấp thể hiện chất lượng đầu tư càng cao, hoạt
động kinh doanh càng phát triển.
- Chỉ tiêu lợi nhuận trên vốn
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn là chỉ tiêu đo lường mức sinh lợi của đồng vốn.
Tỷ suất lợi nhuận trên
vốn
=
Lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh
Vốn
x 100%
Trong đó,
Lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh
=
Doanh thu từ hoạt
động kinh doanh
-
Chi phí từ hoạt
động kinh doanh
Tỷ suất lợi nhuận càng cao chứng tỏ hoạt động kinh doanh càng hiệu quả.
Thông thường chỉ tiêu này được sử dụng để so sánh với các chỉ tiêu: chi phí cơ
hội của vốn kinh doanh, chi phí lãi vay...
- Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng của tỷ suất lợi nhuận trên vốn
Tỷ suất lợi nhuận trên
vốn
=
Tỷ suất lợi nhuận
năm nay
–
Tỷ suất lợi nhuận
năm trước
Vốn
x 100%
Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng của tỷ suất lợi nhuận hoạt động kinh doanh
được đánh giá theo từng giai đoạn cụ thể. Trong giai đoạn hoạt động kinh doanh
đang phát triển thì chỉ tiêu này cần duy trì ở mức cao và tỷ lệ này sẽ thấp khi tỷ
suất lợi nhuận đạt mức ổn định.
- Chỉ tiêu về tốc độ gia tăng thị phần của CTCK trong hoạt động kinh
doanh trái phiếu
22
Thị phần gia tăng của công
ty trong năm
=
Thị phần của công ty
năm nay
-
Thị phần của công
ty năm trước
Đây cũng là một chỉ tiêu khá quan trọng để nói lên tốc độ phát triển hoạt
động kinh doanh trái phiếu của CTCK. Để có thể gia tăng thị phần hoạt động,
CTCK phải thực hiện nhiều giao dịch với giá trị giao dịch của năm sau cao hơn
năm trước và tăng nhiều hơn so với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường. Do
vậy, qua thị phần giao dịch trái phiếu của CTCK trên thị trường có thể đánh giá
được sự phát triển của hoạt động kinh doanh trái phiếu.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu
tại công ty chứng khoán
Hoạt động kinh doanh trái phiếu của CTCK chịu ảnh hưởng rất nhiều các
nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Tác động của các nhân tố như sau:
1.3.1 Nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Quan điểm của lãnh đạo CTCK về phát triển hoạt động kinh doanh trái
phiếu
Đối với mỗi nghiệp vụ hoạt động của CTCK thì quan điểm của ban lãnh
đạo có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của nghiệp vụ đó. Với các mục tiêu kế
hoạch đặt ra, mọi hoạt động của CTCK đều hướng tới đạt được mục tiêu này.
Khi CTCK hướng tới mục tiêu phát triển thị phần, Ban lãnh đạo sẽ phê duyệt
mọi phương án để phát triển thị phần môi giới như giảm phí giao dịch cho các
nhà đầu tư lớn, tập trung vốn hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh chứng khoán, đẩy
mạnh hệ thống broker nhằm lôi kéo khách hàng trên cơ sở chia sẻ lợi nhuận …
từ đó với khối lượng và giá trị giao dịch lớn, CTCK sẽ nâng thị phần môi giới
trên thị trường. Với một ban lãnh đạo quan tâm và chú trọng tới hoạt động phát
triển bền vững, họ sẽ đặt cao mục tiêu kinh doanh trái phiếu bên cạnh việc phát
triển các hoạt động thu nhiều lợi nhuận nhưng rủi ro cao. Từ đó, họ sẽ đầu tư
một lượng vốn đáng kể cho hoạt động này, tuyển nhân sự đào tạo nhân viên có
chuyên môn cao, đầu tư một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, từ đó thúc đẩy hoạt
động kinh doanh trái phiếu phát triển và ngược lại, khi không quan tâm tới hoạt
động này, ban lãnh đạo sẽ không đầu tư thời gian và vốn cũng như công nghệ
phát triển, từ đó hoạt động kinh doanh trái phiếu của công ty sẽ bị bỏ ngỏ hoặc
mảng hoạt động kinh doanh trái phiếu sẽ chỉ là một hoạt động rất nhỏ nhằm đa
dạng hóa loại hình đầu tư của CTCK mà không được chú trọng phát triển. Như
vậy, không có nguồn vốn, không có sự quan tâm của ban lãnh đạo, không có sự
đầu tư nhân sự và kỹ thuật, hoạt động KDTP cũng không thể phát triển.
23
1.3.1.2. Cơ cấu tổ chức của công ty
Với một cơ cấu hoạt động trong CTCK không hiệu quả, các bộ phận
không có sự phối hợp chặt chẽ sẽ làm cho hoạt động kinh doanh trái phiếu kém
hiệu quả. Hoạt động này đòi hỏi sự phân tích tổng hợp về tình hình thị trường,
tình hình kinh tế vĩ mô cũng như ảnh hưởng của các chính sách tài chính tiền tệ,
vì vậy, mọi thông tin đều quan trọng và tác động tới TTCK nói chung và TTTP
nói riêng. Vì vậy, nếu không có sự phối kết hợp giữa nhiều phòng ban như
phòng Phân tích và tư vấn đầu tư cổ phiếu, phòng quản trị rủi ro cũng như bộ
phận Môi giới, thì thông tin đến hoạt động kinh doanh trái phiếu là không đầy
đủ từ đó sẽ giảm hiệu quả kinh doanh.
Bên cạnh đó, theo kinh nghiệm của các nước phát triển hoạt động kinh
doanh trái phiếu là một mảng lớn không nhỏ hơn thị trường cổ phiếu vì vậy để
phát triển hoạt động này, cần phải có, một bộ phận chuyên biệt, một đội ngũ cán
bộ chuyên gia giỏi chuyên trách từ đó mới có thể phân tích xu thế, quản lý danh
mục kinh doanh trái phiếu và phát triển mảng hoạt động môi giới trái phiếu. Có
như vậy mới gây dựng vị thế của CTCK trên TTTP và hướng tới tầm cao mới là
trở thành một nhà tạo lập thị trường trong tương lai.
1.3.1.3. Đội ngũ nhân viên thực hiện hoạt động kinh doanh trái phiếu
Nhân viên của CTCK sẽ thay mặt CTCK tìm kiếm đối tác trên TTTP và
thực hiện giao dịch tự doanh của mình hoặc hiện chức năng môi giới, tư vấn trái
phiếu với khách hàng. Như vậy, một đội ngũ nhân viên giỏi với trình độ nghiệp
vụ cao, nhiều kinh nghiệm sẽ giúp CTCK kinh doanh có lãi và trở thành một
công ty có vị thế trên thị trường.
Trong nghiệp vụ tự doanh của CTCK, nếu CTCK có một đội ngũ nhân
viên có khả năng tổng hợp tình hình kinh tế vĩ mô từ đó dự đoán được sự biến
động của lãi suất, họ sẽ điều chỉnh kịp thời mức đáo hạn bình quân để đón đầu
những biến động lãi suất thị trường. Kết quả là CTCK có thể nắm giữ được danh
mục trái phiếu với thời gian đáo hạn bình quân dài khi lãi suất có xu hướng giảm
và ngược lại, nắm giữ thời hạn trung bình của những trái phiếu thấp khi lãi suất
thị trường có xu hướng tăng, từ đó có thể tối ưu hóa được lợi nhuận và hạn chế
được rủi ro cho công ty.
Trong nghiệp vụ môi giới, nhân viên của CTCK là người thay mặt công ty
trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng và khả năng
của mình đáp ứng nhu cầu đó qua việc tư vấn cho khách hàng để từ đó khách
hàng tự ra quyết định và đặt lệnh. Lúc này, đội ngũ nhân viên thực hiện nghiệp
24
vụ sẽ là người đại diện và bảo vệ quyền lợi cho khách hàng. Để giữ vững uy tín
và vị thế của công ty đòi hỏi nhân viên môi giới có trình độ chuyên môn cao,
nhiều kinh nghiệm từ đó đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, có như vậy
CTCK mới thu được nhiều phí giao dịch hay phí hoa hồng trong trường hợp
công ty là nhà tạo lập TTTP gia tăng lợi nhuận cho CTCK.
Bên cạnh đó, nhân viên của CTCK cần phải có tư cách đạo đức nghề
nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh trái phiếu, khi có xung đột lợi ích giữa
nhân viên – công ty - thị trường – nhà đầu tư, họ có thể hoặc kết cấu với khách
hàng trong việc đặt, nâng, hạ giá trái phiếu nhằm gây biến động giá ảnh hưởng
tới hoạt động của thị trường, hoặc bán khống, mua bán nội gián, thông tin sai sự
thật, tham gia hoạt động tín dụng và cho vay trái phiếu, lũng đoạn thị trường.
Như vậy sẽ làm ảnh hưởng tới hình ảnh của CTCK thậm chí gây phương hại tới
nền kinh tế của đất nước.
1.3.1.4. Quy mô vốn cho hoạt động kinh doanh trái phiếu
Với hoạt động môi giới trái phiếu, CTCK chỉ là trung gian giao dịch giữa
người mua và người bán khi đó chỉ cần CTCK là thành viên giao dịch TPCP.
Trong hoạt động tự doanh trái phiếu hay với tư cách là nhà tạo lập thị trường,
CTCK luôn phải đặt yếu tố vốn sử dụng cho hoạt động kinh doanh là tiêu chí
đầu tiên cần phải xem xét khi phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu.
Khối lượng và giá trị của mỗi lần giao dịch trái phiếu thường trên 10 tỷ, là
rất lớn so với một lần giao dịch cổ phiếu hay các hàng hóa khác, do vậy với khả
năng tài chính mạnh mẽ CTCK có thể mua bán nhiều loại trái phiếu khác nhau,
tham gia vào nhiều giao dịch hơn từ đó sẽ không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh tạo
nên vị thế trên TTTP.
Trường hợp, CTCK muốn trở thành nhà tạo lập thị trường thì cũng phải
đáp ứng đủ các yêu cầu về vốn cho không chỉ khoản đặt cọc tại cơ quan quản lý
thị trường mà trong quá trình hoạt động quy mô vốn lớn sẽ hạn chế rủi ro vỡ nợ
khi tổ chức phát hành phá sản, nhà tạo lập thị trường đối với trái phiếu đó không
chỉ chịu tác động trực tiếp đến số trái phiếu còn trong kho của mình mà còn chịu
trách nhiệm đối với trái phiếu đã bán cho khách hàng và những trái phiếu đã
mua vào trong danh mục đầu tư mà khách hàng nhờ quản lý.
Bên cạnh đó, nếu nguồn vốn dùng cho kinh doanh trái phiếu là đi vay, khi
hoạt động quản lý nguồn vốn là yếu kém, kỳ hạn trái phiếu không khớp với kỳ
hạn nguồn vốn, món vay không gia hạn được, CTCK có thể bị mất thanh khoản
và có thể dẫn đến rủi ro vỡ nợ. Như vậy, việc có một khoản vốn lớn hoặc một
25
chỗ dựa tài chính vững chắc là rất cần thiết đối với hoạt động kinh doanh trái
phiếu.
1.3.1.5. Các nhân tố khác
• Cơ sở vật chất kỹ thuật
Nếu như uy tín, khả năng tài chính và chất lượng hoạt động của một
CTCK trong hoạt động kinh doanh trái phiếu là điều kiện quyết định đến sự phát
triển hoạt động kinh doanh trái phiếu thì trình độ công nghệ lại là cơ sở tạo điều
kiện để thực hiện các hoạt động đó. TTTP luôn nhạy cảm với mọi sự biến động
của nền kinh tế xã hội trong nước và quốc tế nên việc có đầy đủ các thông tin
cần thiết là vô cùng quan trọng. Để cung cấp các dịch vụ trái phiếu cho khách
hàng hay để có các thông tin cập nhật về thị trường tài chính thì CTCK phải có
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại để đảm bảo việc tiếp nhận và thực hiện các yêu
cầu của khách hàng một cách nhanh chóng và chính xác và phục vụ chính hoạt
động tự doanh trái phiếu của công ty.
Cơ sở vật chất hiện đại cần phải được gắn với việc xây dựng và hoàn
thiện chiến lược khách hàng sẽ cho phép tìm kiếm, tiếp cận và thỏa mãn ở mức
cao nhất nhu cầu của mọi đối tượng khách hàng. Bí quyết thành công của các
CTCK trên thế giới trong việc phát triển hoạt động kinh doanh trái phiếu đó là
xác định đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích của mình và khách hàng, phương
châm hoạt động vì khách hàng và không ngừng đổi mới.
Trên thế giới, hoạt động kinh doanh trái phiếu tại các tổ chức tài chính
luôn chú trọng tới việc phát triển các mảng dịch vụ nhằm mục đích hỗ trợ khách
hàng trong hoạt động kinh doanh cũng như quản lý sử dụng vốn. Các công ty
này đều có đội ngũ cán bộ có trình độ kỹ thuật cao thuộc nhiều lĩnh vực khoa
học kỹ thuật và công nghệ khác nhau. Ngoài ra họ còn có đội ngũ cộng tác viên
và mối quan hệ mật thiết với các trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ
trong và ngoài nước. Áp dụng công nghệ từ đó đưa ra những đánh giá quan
trọng trong hoạt động quản lý rủi ro cho phép các công ty tiến hành và trợ giúp
đối với khách hàng và chính bản thân công ty từ đó có thể hạn chế được những
rủi ro trong kinh doanh bởi vấn đề then chốt trong hoạt động kinh doanh của
công ty là giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích và rủi ro từ đó đạt được mục
tiêu an toàn ở mức độ nhất định mà vẫn thỏa mãn những đòi hỏi về hiệu quả
kinh doanh.
• Hệ thống thông tin