Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Thuế tiêu thụ đặc biệt và Thực trạng áp dụng pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.72 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thuế tiêu thụ đặc biệt là một khoản thuế gián thu đánh vào một số loại hàng hóa, dịch
vụ đặc biệt với mức thuế suất rất cao. Với tốc độ tăng trưởng bình quân từ số thu từ
thuế tiêu thụ đặc biệt từ 12- 14% Thuế tiêu thụ đặc biệt đã và đang khẳng định được vai
trò to lớn của mình và ngày càng được coi trọng. Vậy pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt
được quy định như thế nào? Thực trạng áp dụng pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ra sao?
Làm như thế nào để việc thực thi pháp luật thế tiêu thụ đặc biệt đạt được hiệu quả?
Những yếu tố nào đã tác động tới hoạt động thực thi đó? Bài viết dưới đây sẽ làm sáng
tỏ những vấn đề đó.

NỘI DUNG
I. Khái quát về thuế tiêu thụ đặc biệt và thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
1. Khái niệm thuế tiêu thụ đặc biệt
1.1 – Khái niệm
Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) là loại thuế tiêu dùng được áp dụng phổ biến ở các
nước trên thế giới với những tên gọi khác nhau: Pháp gọi là thuế tiêu dùng đặc biệt,
Thụy Ðiển gọi là thuế đặc biệt. Đối với Việt Nam, kể từ khi ban hành đến nay, Luật
thuế TTĐB đã qua nhiều lần bổ sung sửa đổi cho phù hợp với chính sách kinh tế - xã
hội của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn phát triển. Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt
năm 2008 không có điều khoản giải thích từ ngữ mà chỉ liệt kê những hàng hóa, dịch vụ
là đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, tuy nhiên có thể đưa ra một khái niệm ngắn gọn
về thuế tiêu thụ đặc biệt như sau: “Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế gián thu, đánh
vào một số hàng hóa và dịch vụ đặc biệt, cần điều tiết mạnh, nhằm hướng dẫn sản xuất
và tiêu dùng đồng thời làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước”.
1.2 – Đặc điểm
Thuế tiêu thụ đặc biệt có một số đặc điểm sau:
+ Thuế TTĐB có diện đánh thuế hẹp. Thuế TTĐB chỉ tập trung điều tiết một số mặt
hàng và dịch vụ nhất định, không được nhà nước khuyến khích tiêu dùng như thuốc lá,
rượu, xăng dầu…
+ Thuế suất thuế TTĐB có thể là thuế suất cố định hoặc thuế suất tỉ lệ và thường cao
hơn so với thuế suất của các loại thuế gián thu khác. Tại Việt Nam áp dụng biểu thuế


suất tỉ lệ cho thuế TTĐB ví dụ như: thuốc lá điếu, xì gà và các chế phẩm khác từ cây
thuốc lá có thuế suất là 65% (Luật thuế TTĐB năm 2008).
+ Thuế TTĐB chỉ thu một lần ở khâu sản xuất hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập khẩu. Cùng
một mặt hàng chịu thuế TTĐB, khi luân chuyển qua khâu lưu thông sẽ không bị đánh
1

Lớp N09 – TL3


thuế TTĐB. Nhận thấy thuế TTĐB khác với thuế doanh thu và thuế GTGT ở chỗ các
loại thuế này đánh trên toàn bộ doanh thu bán hàng hoặc trên giá trị tăng thêm của hàng
hóa ở mỗi khâu trong quá trình lưu thông.
2. Thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt
2.1. Khái niệm thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt
Pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt: là tổng hợp các quy phạm pháp luật do các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình đăng ký, kê khai, nộp thuế, quản lý và quyết toán thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thực thi pháp luật được hiểu chung nhất là hoạt động thực hiện và thi hành pháp
luật. Theo nghĩa hẹp thực thi pháp luật chỉ là hoạt động của riêng cơ quan quản lý nhà
nước trong việc áp dụng, thi hành pháp luật. Nhưng cách hiểu đó là phiến diện và chưa
đầy đủ.Vì vậy thực thi pháp luật phải là hoạt động thực hiện và tuân theo pháp luật của
tất cả mọi người. Đối với pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt
nói riêng việc thực thi pháp luật chia làm 2 nhóm hoạt động thu (quản lý thuế) và hoạt
động đóng thuế tương ứng với 2 nhóm đối tượng đó là cơ quan nhà nước (chủ thể
quyền lực) và chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế (chủ thể mang nghĩa vụ).
2.2. Vai trò của hoạt động thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
Pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt là một trong những công cụ giúp Nhà nước thực
hiện chính sách quản lý đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh và nhập khẩu hàng hóa
dịch vụ giúp Nhà nước quản lý hoạt động nhập khẩu mặt hàng này. Vì vậy, khi thuế
tiêu thụ đặc biệt không được thực thi trên thực tế thì Nhà nước không thể xác định số

lượng của các mặt hàng bị đánh thuế tiêu thụ đặc biệt trên thị trường Việt Nam hiện
nay, điều này sẽ dẫn tới hậu quả là hành vi trốn thuế của các chủ thể có nghĩa vụ nộp
thuế (nhất là đối với loại thuế có mức thuế suất cao như thuế TTĐB), gây khó khăn cho
chủ thể quản lý thuế. Bên cạnh đó, thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt còn nhằm
mục đích điều tiết thu nhập của các tầng lớp trong dân cư có thu nhập cao bằng cách áp
dụng mức thuế cao đối với những mặt hàng đó. Như vậy, việc thực các loại thuế khác,
thuế tiêu thụ đặc biệt tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Việc thực thi pháp luật
thuế tiêu thụ đặc biệt còn có ý nghĩa trong việc đem lại nguồn thu ổn định cho ngân
sách Nhà nước. Đảm bảo cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
II. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
1. Yếu tố khách quan.
1.1- Yếu tố kinh tế:
Ở nước ta, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt được Quốc hội khoá IX ban hành và có hiệu
lực thi hành từ ngày 1/10/1990 và đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với
tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Trong đó những lần
2

Lớp N09 – TL3


sửa đổi quan trọng vào các năm 1998, 2003 và 2005. Năm 2008, Luật thuế TTĐB (sửa
đổi) được trình Quốc hội thông qua vào tháng 11/2008, có hiệu lực thi hành kể từ
01/04/2009. Như vậy, nhìn chung khung pháp lý cho thuế tiêu thụ đặc biệt xuất hiện
muộn hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nền kinh tế Việt Nam phát
triển muộn hơn so với nhiều nước. Trước đây khái niệm hàng hóa đặc biệt còn khá xa
lạ. Đối với thuế hàng hóa (được xem là tiền thân của thuế TTĐB) được quy định tại
Quyết nghị 487- NQ/QHK4 quy định còn mang tính liệt kê, đánh cả vào những mặt
hàng thiết yếu do lúc đó kinh tế Việt Nam còn mang tính bao cấp, những kinh doanh
ngoài Nhà nước đều không được khuyến khích. Sau khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường Nhà nước chỉ đánh thuế TTĐB vào những mặt hàng không khuyến khích tiêu

dùng nhằm khuyến kích phát triển kinh tế xã hội, bằng cách tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế trong xã hội. Cùng với sự phát triển của kinh tế Việt Nam các mặt hàng bị
đánh thuế liên tục được điều chỉnh để phù hợp với tình hình kinh tế. Các yếu tố kinh tế
thay đổi làm cho hành vi thực thi pháp luật thuế TTĐB cũng thay đổi. Khi các yếu tố
kinh tế thay đổi sẽ có tác động tới việc thực hiện thuế TTĐB: Ví dụ: có nhiều loại mặt
hàng, dịch vụ tương tự những mặt hàng bị đánh thuế TTĐB nhưng pháp luật chưa quy
định, nên các doanh nghiệp sẽ trốn thuế bằng cách áp dụng các hàng hóa, dịch vụ mới
này.Mặt khác, các mặt hàng được xem là xa xỉ như ô tô dưới 24 chỗ sẽ không phải là
đối tượng của thuế TTĐB khi kinh tế tăng lên, đời sống cũng như cơ sở hạ tầng ở Việt
Nam ngày càng đươc nâng cao…
1.2- Văn hóa – giáo dục:
Bất cứ một quốc gia nào trên thế giới đều có pháp luật để đảm bảo trật tự xã hội.
Nhưng văn hóa để thực thi pháp luật ở mỗi quốc gia thì không như nhau. Pháp luật nói
chung và pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt nói riêng luôn có một hệ thống pháp chế để
đảm bảo thi hành, nhưng hoạt động của các cơ quan nhà nước nếu không có văn hóa,
không tôn trọng pháp luật thì việc thực thi pháp luật chắc chắn không đúng và hiệu quả.
Bên cạnh đó, nếu các chủ thể quyền lực này đã có văn hóa, ý thức thực thi đúng pháp
luật nhưng các chủ thể có nghĩa vụ không có văn hóa và ý thức tôn trọng ý thức thực thi
thuế sẽ dẫn tới hành vi trốn thuế, để thu được lợi nhuận cao hơn. Văn hóa bắt nguồn từ
việc giáo dục, giáo dục ở đây mang ý nghĩa rộng tức là giáo dục ý thức của người dân ở
gia đình, nhà trường và cả xã hội. Đối với chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế cần giáo dục họ
nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và muốn làm được điều đó thì trước hết cần giáo dục nhóm
chủ thể mang quyền lực được vai trò của thuế tiêu thụ đặc biệt, giáo dục sự tôn trọng ,
một cách thực sự. Như vậy, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có ảnh
hưởng rất lớn đến việc thực thi pháp luật thuế nói chug và thuế TTĐB nói riêng.
3

Lớp N09 – TL3



1.3 - Hội nhập quốc tế:
Trong xu hướng phát triển toàn cầu, Việt Nam đã gia nhập rất nhiều tổ chức quốc tế,
trong đó có WTO (tổ chức thương mại thế giới). Bên cạnh những lợi ích đạt được như
bình đẳng với các nước lớn hơn, được bảo vệ quyền lợi khi bị xâm phạm, việc ra nhập
WTO cũng đặt ra đối với Việt Nam những thách thức và khó khăn mới trong việc thực
thi pháp luật đang tồn tại. Đặc biệt với thuế tiêu thụ đặc biệt, Việt Nam đã có những
hoạt động cụ thể như sau: Để thực hiện các cam kết hội nhập, việc quy định lộ trình
từng bước tăng thuế đối với một số mặt hàng như ô tô sản xuất lắp ráp trong nước
(2004-2005), thuốc lá, bia hơi (2006-2007) có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp.+ Đối với mặt hàng rượu: Theo cam kết, trong vòng 3 năm
kể từ ngày gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới - WTO, tại Việt Nam tất cả các loại
rượu được chưng cất có nồng độ từ 20 độ cồn trở lên sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối
tính theo lít rượu cồn nguyên chất hoặc một mức thuế phần trăm. + Đối với mặt hàng
bia: Tương tự như rượu, theo cam kết, trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập WTO, Việt
Nam sẽ áp dụng một mức thuế suất phần trăm (%) chung đối với các loại bia, không
phân biệt hình thức đóng gói bao bì. Vì vậy, việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc
biệt năm 2005 không còn phù hợp nữa. Và Việt Nam đã có những điều chỉnh cần thiết
để việc thực thi luật thuế tiêu thụ đặc biệt không vấp phải sự phản đối của thế giới bằng
cách sửa đổi Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008 để phù hợp với hoàn cảnh mới, đảm
bảo thực thi diễn ra phù hợp với xu hướng chung của toàn thế giới.
2. Ảnh hưởng từ phía các cơ quan nhà nước
Dưới các tác động của kinh tế xã hội nêu trên, các cơ quan Nhà nước sẽ là người
quyết định phương hướng thực thi cơ bản của pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt, có thể
xem như kim chỉ nam cho các hoạt động thực thi thuế tiêu thụ đặc biệt. Nếu có các chủ
trương và phương hướng phù hợp sẽ góp phần tích cực tới việc thực thi pháp luật thuế
tiêu thụ đặc biệt trên thực tế. Và ngược lại, cũng có thể làm cho việc thực thi thuế khó
được thực hiện và nếu được thực hiện cũng sẽ gặp phải sự phản đối lớn trong xã hội,
dẫn tới việc không thực thi được hoặc thực thi không đúng và đầy đủ.
2.1 - Chính sách thuế (những quy định của pháp luật thuế TTĐB)
2.1.1- Đối tượng chịu thuế:

Luật thuế TTĐB 2008 đã quy định thêm một số mặt hàng là đối tượng chịu thuế
TTĐB. Bao gồm 10 nhóm hàng hóa và 5 nhóm dịch vụ tại Điều 2. Hiện nay, xăng vẫn
là hàng hóa phải chịu thuế TTĐB, vì xăng vốn là mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, quy định
này nhằm định hướng tiêu dùng, khuyến khích việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, và hạn
chế ô nhiễm môi trường. Tuy đã bổ sung thêm một số loại hàng hóa, dịch vụ vào diện
chịu thuế TTĐB nhưng Luật vẫn chưa bao quát hết các đối tượng cần thiết nhằm hướng
4

Lớp N09 – TL3


dẫn tiêu dùng và điều tiết thu nhập như: điện thoại di động giá đắt (Vertu, Mobiado,
Gresso, Goldvish...); đồ trang sức; dịch vụ nghỉ dưỡng cao cấp, các thiết bị cáo cấp, vật
dụng cao cấp bằng pha lê, thảm len, mỹ phẩm cao cấp...Đây đều là những hàng hóa,
dịch vụ xa xỉ, cao cấp, mà thành phần sử dụng đa số là người có thu nhập cao trong xã
hội. Nếu như tàu bay, du thuyền được xem là mặt hàng xa xỉ, nằm trong diện đối tượng
chịu thuế TTĐB thì cũng cần xem xét, xếp các loại hàng hóa, dịch vụ nêu trên vào
danh mục các đối tượng chịu thuế TTĐB. Pháp luật thuế TTĐB hiện hành quy định xe
ô tô 24 chỗ ngồi, kể cả ô tô vừa chở người vừa chở hàng hóa các loại có từ hai hàng
ghế trở lên, có thiết kế vách ngăn giữa hai khoang là đối tượng chịu thuế TTĐB. Tuy
nhiên, mặt hàng ô tô từ 16 – 24 chỗ ngồi nên đưa vào diện không chịu thuế, vì đây là
loại phương tiện lưu thông nhiều chỗ ngồi, cần được khuyến khích sử dụng trong điều
kiện hiện nay, để giảm áp lực giao thông, nhất là ở các thành phố lớn. Đối với mặt hàng
điều hòa luật thuế TTĐB quy định Điều hoà nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở
xuống là đối tượng chịu thuế TTĐB. Việc đánh thuế TTĐB đối với mặt hàng này là
nhằm vào các đối tượng sử dụng điều hòa nhiệt độ trong gia đình, văn phòng, khách
sạn, nhà hàng…..tuy nhiên, do luật chỉ quy định chung điều hòa nhiệt độ có công suất
đưới 90.000 BTU thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB nên khi thực hiện chưa có sự rõ
ràng và nhất quán trong việc thu hay không thu đối với một số loại điều hòa có công
suất dưới 90.000 BTU sử dụng để lắp đặt trên các phương tiện vận tải như ô tô, tàu hỏa,

tàu điện…. Trên thực tế, các loại điều hòa này được coi là tư liệu sản xuất, nếu thu thuế
TTĐB là không hợp lí. Bởi vì, cách đây 10 năm, khi luật thuế TTĐB ra đời, điều hòa
nhiệt độ đúng là hành hóa xa xỉ, vừa đắt vừa tốn nhiều điện. Nhưng hiện nay, loại hành
hóa này đã trở lên quá phổ biến, đại chúng. Vì vậy không nên xếp vào mặt hàng chịu
thuế này.
- Về đối tượng không chịu thuế: theo quy định tại Điều 3 Luật thuế TTĐB, tàu bay, du
thuyền sử dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng hóa, hành khách, khách du
lịch không phải là đối tượng chịu thuế TTĐB, quy định này nhằm không làm ảnh
hưởng đến tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh vận tải và
du lịch. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, cần phải xác định rõ thế nào được xem là để sử
dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng hóa, hành khách, khách du lịch... để
thuộc diện miễn thuế TTĐB. Ranh giới giữa sản xuất và tiêu dùng cá nhân cần được
quy định rõ, tránh những rắc rối trong áp dụng. Những quy định chưa rõ ràng này khiến
cho công tác quản lý gặp khó khăn, có thể bị lợi dụng để trốn thuế.
- Về người nộp thuế: người nộp thuế được quy định tại Điều 4 Thông tư 05/2012/TTBTC hướng dẫn Nghị định 26/2009/NĐ-CP và Nghị định 113/2011/NĐ-CP. Với quy
5

Lớp N09 – TL3


định này, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt đã thể hiện tính minh bạch của pháp luật về chủ
thể nộp thuế.
2.1.2 - Thuế suất
Thuế suất đối với các hàng hóa bị áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt là cao từ 10- 70%.
Trong đó mặt hàng bị đánh thuế cao nhất là vàng mã, hàng mã 70%. Trước đây mức
thuế suất cao nhất 100% năm 1998, 80% năm 2003, 75% năm 2005. Như vậy, mức thuế
suất thuế TTĐB đang giảm dần, điều này góp phần quan trọng trong việc thực thi trong
thực tế. Một mặt, nó phù hợp với xu hướng hợp nhập thế giới của Việt Nam. Mặt khác,
nhận được ủng hộ của các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài dẫn đến việc
luật được tôn trọng hơn và ý thức tuân theo pháp luật thuế TTĐB, giúp việc thực thi

thuế TTĐB diễn ra nhanh chóng và hạn chế được hành vi trốn thuế. Nhưng mức thuế
suất vẫn phải đảm bảo được mục đích hướng dẫn tiêu dùng mà Nhà nước đã đề ra. Cân
bằng lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân. Dư luận thời gian qua đang tranh cãi xung quanh
chuyện công ty Cổ phần công nghệ Hành tinh xanh ở Hải phòng nhập về Việt Nam 10
máy bay cá nhân. Nhiều ý kiến quan ngại việc này sẽ tạo nên một xu hướng tiêu dùng
kiểu “chơi trội” trong khi lô máy bay đã được thông quan với mức thuế suất nhập khẩu
bằng 0%. Thuế tiêu thụ đặc biệt cũng thấp hơn ô tô cá nhân. Thuế tiêu thụ đặc biệt là để
đánh vào những mặt hàng nhà nước không khuyến khích tiêu dùng, trong đó có hai loại
hàng hóa tàu bay và du thuyền, mức thuế suất được áp dụng là 30%. Mức thuế này
nhằm hạn chế việc sử dụng tàu bay, du thuyền làm phương tiện cá nhân. Tuy nhiên
cũng có trường hợp được miễn giảm thuế nếu việc nhập đó để phục vụ chở hành khách,
du lịch, dịch vụ, sản xuất, kinh doanh. Nhập những phương tiện đó để sử dụng với mục
đích cá nhân thì phải chịu thuế theo quy định. Việc này góp phần hạn chế việc sử dụng
những hàng hóa đắt đỏ, xa xỉ trong khi đất nước vẫn đang trong tiến trình phát triển và
chưa thật sự ổn định. Mức thuế tiêu thụ đặc biệt 30% áp cho mặt hàng máy bay cá nhân
như vậy liệu đã đủ để kiểm soát việc tiêu dùng mặt hàng này trong nước. Cũng có ý
kiến cho rằng, thực tế, giá trị lô máy bay nhập khẩu vừa qua tính ra vào khoảng một vài
tỷ đồng/chiếc, còn rẻ hơn nhiều dòng ô tô siêu sang nhập về ngày càng phổ biến hiện
nay (ví dụ, Rolls-Royce Porsche…hay xe đặc chủng làm theo kiểu hàng đơn chiếc rất
đắt) 1. Vậy mức thuế suất đối với 2 mặt hàng này có hợp lý không?
2.1.3 - Phương pháp tính thuế
Phương pháp tính thuế TTĐB được quy định tại Điều 6 Luật thuế TTĐB năm 2008.
Nghị định 26/2009/NĐ-CP ngày 16 tháng 3 năm 2009 về quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật thuế TTĐB quy định chi tiết việc tính thuế TTĐB như sau:
1



6


Lớp N09 – TL3


“1.Đối với hàng hoá sản xuất trong nước, giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt được xác
định:
Giá bán chưa có thuế giá trị gia tăng
Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt =

──────────────────────
1 + Thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt

Trong đó, giá bán chưa có thuế GTGT được xác định theo quy định của pháp luật về
thuế GTGT…
Có thể xem đây là hành lang pháp lý quan trọng nhất để tiến hành việc thực thi pháp
luật thuế TTĐB. Đây cũng là một điểm rất tiến bộ của luật thuế TTĐB 2008. Các cơ
quan quyền lực sẽ dựa vào các quy định này để thực thi luật chính xác, tránh việc bỏ sót
các trường hợp hoặc việc không tuân thủ của các doanh nghiệp và người tiêu dùng vì lý
do không quy định cụ thể nên có cách áp dụng khác nhau. Tuy nhiên Tổng cục Thuế
vừa có công văn gửi cục thuế các tỉnh, thành phố hướng dẫn việc triển khai Luật Thuế
tiêu thụ đặc biệt mới. Theo đó, các mặt hàng rượu, bia sẽ ấn định các mức thuế tiêu thụ
đặc biệt mới theo 2 giai đoạn. Trong đó Đối với mặt hàng bia, từ ngày 1/1/2010 đến hết
ngày 31/12/2012, áp dụng thuế suất 45%. Sau đó, từ ngày 1/1/2013, mức thuế này cũng
được nang lên 50%. Mức thuế cũ áp dụng trong năm 2008-2009 đối với mặt hàng
bia phổ biến ở mức 40%-75%, tùy loại. Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia
là giá chưa có thuế VAT không loại trừ giá trị vỏ bao bì. Cũng theo quy định này, mặt
hàng bia lon sẽ không được trừ giá trị vỏ hộp theo mức 3.800 đồng một lít như trước
đây nữa. Đối với mặt hàng bia chai, nếu cơ sở sản xuất có đặt tiền cược vỏ, định kỳ
hàng quý doanh nghiệp và khách hàng phải thực hiện quyết toán số tiền đặt cược vỏ
chai. Số tiền đặt cược tương ứng giá trị số vỏ chai không thu hồi được phải đưa vào
doanh thu tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt. Như vậy cách tính thuế không trừ vỏ bao bì

cũng dẫn tới sự không công bằng đối với hai mặt hàng bia hộp và bia chai. “ Thực tế,
chỉ có bia hộp phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt vỏ hộp, dẫn đến thuế suất 1 lít bia hộp
bằng 150% thuế suất 1 lít, bia chai, trong khi, bia hộp, bia chai là cùng một mẻ bia, từ
một nồi nấu bia chiết ra”, Ông Vương Đỗ Hải, Tổng giám đốc Liên doanh nhà máy Bia
Đông Nam Á phân tích2.
2.1.4 - Chế độ hoàn thuế, giảm thuế, khấu trừ thuế tiêu thụ đặc biệt
Trong luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 2008 không còn tồn tại khái niệm miễn thuế và
xuất hiện thêm khái niệm khấu trừ thuế. Miễn thuế TTĐB là điều không nên có bởi vì
người nộp thuế thực sự là người dân, mà khi họ đã chấp nhấn sử dụng các hàng hóa,
dịch vụ thuộc danh mục phải chịu thuế TTĐB (là những hàng hóa Nhà nước không
khuyến khích và không thiết yếu trong cuộc sống) là họ đã chấp nhận và có khả năng
2



7

Lớp N09 – TL3


bỏ ra khoản thuế TTĐB vì vậy không cần thiết phải miễn thuế TTĐB. Có thể áp dụng
giảm thuế để góp phần tạo điều kiện giải quyết khó khăn trước mắt của doanh nghiệp.
Khấu trừ thuế là hoạt động không phải tới bây giờ mới áp dụng vì đây là nguyên tắc
“đánh thuế phải đảm bảo không xảy ra tình trạng một đối tượng tính thuế phải chịu
một loại thuế nhiều lần”. Hoàn thuế cũng để đảm bảo nguyên tắc này nhưng phần lớn
đối với hàng xuất khẩu hoặc khi chia cắt, giải thể, phá sản…Như vậy chưa là chưa tính
tới các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa TTĐB trong nước, cần tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp này có thêm vốn để sản xuất, kinh doanh. Theo quy định hiện hành của
chính sách thuế TTĐB thì với các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ (có công suất dưới 10
triệu lít/năm) đang hoạt động nếu nộp đủ thuế TTĐB mà bị lỗ, thì được xét giảm thuế

TTĐB tương ứng với số lỗ trong năm xét giảm thuế. Quy định này trong chừng mực
nào đó không khuyến khích các cơ sở sản xuất nói trên nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh, mở rộng đầu tư vốn. Bên cạnh đó luật còn quy định: Cơ sở lắp ráp sản xuất ô tô
trong nước được giảm đến 95% thuế TTĐB phải nộp. Điều này có sự khác biệt quá lớn
khi nếu là ô tô nhập khẩu thì phải chịu mức thuế suất TTĐB là 30% đến 100%, còn ô tô
trong nước thì chỉ nộp thuế TTDDB với mức thuế tương ứng từ 1,5% đến 5% mà thôi.
2.1.5 - Chế độ hóa đơn chứng từ
Hóa đơn, chứng từ mua bán, nhập khẩu hàng hóa, cung ứng dịch vụ là những yếu tố
quan trọng không chỉ với đối cơ sở kinh doanh hoạt động kế toán, kiểm toán mà còn đối
với cả Nhà nước trong việc xác định đúng, đủ nghĩa vụ thuế của cơ sở kinh doanh đối
với Ngân sách nhà nước. Vì vậy, trong việc thực thi thuế TTĐB không thể không kể tới
việc giữ gìn hóa đơn, chứng từ. Đây là cơ sở để người nộp thuế báo cáo về việc thực thi
pháp luật của mình. Đây cũng là cơ sở để các cơ quan quản lý, quản lý việc tuân theo
pháp luật của người có nghĩa vụ nộp thuế và quản lý số thu cho NSNN, tránh sự tùy
tiện. Hiện tại quy định về quản lý, sử dụng hóa đơn còn nằm rải rác ở các luật thuế mà
nhiều hơn cả là Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn thi hành, khiến người sử
dụng hóa đơn phải mất nhiều thời gian để tìm hiểu, tham chiếu hết quy định này tới các
quy định khác. Thậm chí trong nhiều trường hợp, dù đã mất công như vậy nhưng doanh
nghiệp vẫn vi phạm chế độ sử dụng hóa đơn chứng từ do các văn bản đôi khi hướng dẫn
không thống nhất, không rõ ràng, khiến người nộp thuế hiểu sai khi thực thi.
2.2 - Phương pháp quản lý:
Luật Quản lý thuế đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/7/2007 đã
bãi bỏ các quy định về quản lý thuế như: nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện luật thuế tiêu
thụ đặc biệt (Điều 4 Chương 1); đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế (Điều 8, 9,
10, 11, 12, 14 và Điều 15 Chương III); xử lý vi phạm, khen thưởng (Điều 17, 18, 19, 20
Chương V); khiếu nại, khởi kiện và thời hiệu (Điều 21, 22 Chương VI); Tổ chức thực
8

Lớp N09 – TL3



hiện (Điều 23, 24, 25 Chương VI). Như vậy, pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế
tiêu thụ đặc biệt nói riêng đã có cơ chế giải quyết khá hoàn chỉnh, đồng bộ và thống
nhất, được hướng dẫn khá đầy đủ trong luật quản lý thuế 2007 và nghị định
85/2007/NĐ-CP của chính phủ ngày 25 tháng 5 năm 2007 quy định chi tiết một số điều
của luật quản lý thuế. Điều này đã góp phần tích cực cho việc hướng dẫn thi hành thuế
tiêu thụ đặc biệt.
2.3 - Sự tác động từ việc ban hành, đưa các luật thuế khác nhau vào áp dụng trong
thực tiễn:
Việc ban hành các loại thuế khác cũng ảnh hưởng tới việc thực thi luật thuế TTĐB
vì hệ thống các văn bản điều chỉnh quan hệ pháp luật thuế không thực sự ổn định là do
đặc điểm của nền kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi. Pháp luật thuế TTĐB chịu ảnh
hưởng của các luật thuế khác có liên quan như Luật thuế Giá trị gia tăng (GTGT), Luật
thuế xuất khẩu, nhập khẩu…. Ví dụ như trước ngày 01/01/2004 hành hóa , dịch vụ chịu
thuế TTĐB, không nằm trong diện chịu thuế GTGT ở chính khâu phải chịu thuế TTĐB.
Quy định này không tạo ra tác động thực sự về giá đối với người tiêu dùng, mặt khác nó
cũng dẫn tới những khó khăn cho cơ quan quản lí thuế khi xác định số thuế phải nộp,
khó khăn cho người nộp thuế TTĐB khi có những yếu tố đầu vào đã nộp thuế GTGT
nhưng không được khấu trừ dẫn đến cần phải chỉnh sửa bổ sung các luật thuế.
2.4 – Chế tài xử lý hành vi vi phạm của cán bộ thuế: Việc ấn định thuế được quy định
tại điều 25 Nghị định 85/2007/NĐ-CP có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thuế TTĐB
mà doanh nghiệp, cá nhân phải thực hiện. Điều này dẫn tới hậu quả là nếu tồn tại sự
“hợp tác ngầm” giữa cán bộ thu thuế và người nộp thuế sẽ làm thất thoát số thuế TTĐB
phải nộp mà không bị xử lý. Các văn bản pháp luật gần như không có chế tài xử lý
thích đáng đối với đội ngũ cán bộ thuế khi có vi phạm. Với trình độ chuyên môn, vốn
am hiểu pháp luật, các cán bộ thuế rất dễ dàng lợi dụng các lỗ hổng (luật pháp chưa quy
định) bằng việc sử dụng các mánh khóe tinh vi để chuộc lợi mà không có chế tài nào để
xử lí nghiêm minh.
3. Ảnh hưởng từ tâm lý người dân
Yếu tố tâm lý có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực thi pháp luật, nhất là đối với thực

thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Thứ nhất, do loại thuế này có mức thuế suất cao nên dẫn đến tâm lý của các cá nhân,
tổ chức, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là đối tượng phải
chịu thuế TTĐB có 2 khuynh hướng: Một là: muốn trốn tránh để thu được lợi nhuận
cao cho doanh nghiệp mình; Hai là: muốn giảm bớt thuế suất để giảm giá thành tạo sự
cạnh tranh trên thị trường. Từ tâm lý sẽ dẫn tới hành động cụ thể. Nhà nước cũng nhận
thấy ngoài những chế tài xử phạt, muốn pháp thuế TTĐB được thực thi tốt cũng cần có
9

Lớp N09 – TL3


sự tôn trọng thực sự từ phía các cá nhân, tổ chức này chứ không phải riêng chế tài xử
phạt. Vì vậy khi ban hành luật thuế TTĐB Nhà mước đã tham khảo ý kiến của một số
doanh nghiệp sản xuất hàng hóa là đối tượng bị áp dụng thuế TTĐB (Ví dụ: các nhà
máy sản xuất bia) và có những chỉnh sửa phù hợp, điều này chứng tỏ sự tôn trọng nhất
định của Nhà nước đối với đối tượng phải nộp thuế.
- Thứ hai, tâm lý người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ là đối tượng phải chịu thuế TTĐB:
Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế gián thu vì vậy, người phải chịu thuế thực chất là
người tiêu dùng. Vậy hành vi thi hành thuế tiêu thụ đặc biệt được thực thi cụ thể qua
hành vi của mỗi người sử dụng hàng hóa, dịch vụ là đối tượng bị áp dụng thuế TTĐB.
Như đã nói ở trên, Nhà nước muốn điều tiết tiêu dùng vì vậy khi cân nhắc giữa lợi ích
thật và lợi ích mình bỏ ra người tiêu dùng sẽ có những lựa chọn cụ thể. Và khi chấp
nhận sử dụng các loại hàng hóa dịch vụ này đương nhiên họ phải chuẩn bị tâm lý thực
thi pháp luật về thuế TTĐB.
III. Thực trạng thực thi thuế tiêu thụ đặc biệt và một số giải pháp hoàn thiện thực
thi pháp luật thuế.
1. Những thành tựu đạt được trong quá trình thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc
biệt:
Việc thực thi pháp luật thuế TTĐB trên thực tế đã thu được nhiều thành tựu, cụ thể

như sau:
- Một là, thuế tiêu thụ đặc biệt đã góp phần hướng dẫn tiêu dùng: Luật thuế TTĐB quy
định đối tượng hàng hóa và dịch vụ chịu thuế chủ yếu là những chủng loại mà Nhà
nước không khuyến khích tiêu dùng (thuốc lá, rượu, bia...) hoặc việc tiêu dùng được tập
trung vào bộ phận dân cư có thu nhập cao hay những dịch vụ mang tính nhạy cảm về
mặt xã hội. Quy định này là phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần tích cực trong việc
hình thành một xu thế tiêu dùng xã hội lành mạnh; khuyến khích sản xuất và tiêu dùng
các mặt hàng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của đất nước trong từng giai
đoạn cụ thể.
- Hai là, thuế tiêu thụ đặc biệt góp phần vào việc hội nhập kinh tế: Để thực hiện các
cam kết hội nhập, việc quy định lộ trình từng bước tăng thuế đối với một số mặt hàng
như ô tô sản xuất lắp ráp trong nước, thuốc lá, bia hơi có ý nghĩa quan trọng
- Ba là, thuế tiêu thụ đặc biệt góp phần ổn định và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà
nước: Thuế TTĐB mặc dù có diện đối tượng chịu thuế thu hẹp nhưng lại có thuế suất
cao hơn các loại thuế gián thu khác vì vậy Thuế TTĐB đem lại được cho Ngân sách
nhà nước nguồn thu không nhỏ. Theo thống kê tỷ trọng số thu từ thuế TTĐB lớn thứ tư
trong tỷ trọng các số thu từ sắc thuế hiện hành:
10

Lớp N09 – TL3


(Nguồn: Ban dự toán - Tổng cục thuế)
2. Những hạn chế trong công tác thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt:
- Thứ nhất, việc áp dụng hệ thống thuế suất của thuế TTĐB có nguy cơ tiềm ẩn hành vi
trốn lậu thuế:
Tồn tại lớn nhất của việc thực thi thuế TTĐB đó là hành vi trốn thuế của các đơn vị sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là đối tượng chịu thuế TTĐB. Các đơn vị tìm cách
trốn thuế bằng cách chuyển giá hàng hóa, dịch vụ. Các doanh nghiệp nhập khẩu hàng
hóa, đã khai báo giá của đối tượng chịu thuế như thuế TTĐB thấp hơn trên thị trường,

ví dụ như cùng một sản phẩm giày xuất vào cùng một thị trường, các doanh nghiệp
khác xuất ở mức giá 100 USD/đôi thì doanh nghiệp này chỉ xuất với giá là 50USD/đôi.
Việc cơ quan hải quan phải chứng minh giá mà doanh nghiệp khai báo là không đúng
cũng hết sức phức tạp…Bên cạnh đó, còn tồn tại sự “hợp tác ngầm” giữa cán bộ thu
thuế và người nộp thuế, làm thất thoát số thuế TTĐB phải nộp mà không bị xử lý.
- Thứ hai, công tác triển khai thực hiện luật thuế tiêu thụ đặc biệt cũng như công tác
quản lý thuế còn nhiều bất cập:
Ý thức, văn hóa tôn trọng pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý thuế. Đây là đội ngũ
thay mặt cho Nhà nước thực thi pháp luật thuế TTĐB ở thu, kiểm tra việc thi hành của
người nộp thuế TTĐB. Vì vậy, ý thức tôn trọng pháp luật của họ sẽ quyết định phần
quan trọng tới việc thực thi pháp luật. Hành vi trốn thuế dù tinh vi đến đâu nếu thực
hiện kiểm tra một cách triệt để, công minh thì đều có thể tìm ra. Nếu không có các quy
định rõ ràng sẽ dẫn tới việc tiếp tay cho hoạt động trốn thuế, hoặc chính bản thân cán bộ
sẽ gợi ý cho đối tượng nộp thuế có quen biết cách trốn thuế.
3. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện thực thi pháp luật thuế:
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, với những thời cơ và thách thức đặt ra đối với đất
nước ta nhất định phải có một lộ trình cải cách pháp luật thuế nói chung và pháp luật
thuế TTĐB nói riêng để định hướng tiêu dùng phù hợp với tình hình phát triển kinh tế
xã hội, thực hiện các cam kết quốc tế, nghiên cứu, bổ sung quy định về giá tính thuế đối
với một số trường hợp hợp tác, phân công giữa các nước trong chuỗi sản xuất toàn cầu.
Trong khuôn khổ bài tiểu luận em xin đưa ra một số ý kiến nhằm thực thi tốt pháp luật
thuế TTĐB, cụ thể như sau:
11

Lớp N09 – TL3


3.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật:
Sự hoàn thiện các quy định của pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả thực thi
pháp luật thuế. Các cơ quan lập pháp cần phải rà soát các quy định còn chưa rõ ràng,

chưa hợp lý, không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước để sửa đổi, bổ
sung hoặc thay thế.
- Thứ nhất, cần bổ sung thêm đối tượng chịu thuế: Nên quán triệt nguyên tắc mở
rộng hàng hoá, dịch vụ chịu thuế TTĐB. Luật thuế TTĐB đã quy định đối tượng chịu
thuế, điều này là hợp lí nhưng vẫn chưa bao quát hết các đối tượng cần thiết nhằm điều
tiết tiêu dùng và thu nhập như : Điện thoại di động giá đắt, dịch vụ nghỉ dưỡng cao cấp,
các thiết bị điện, điện tử gia dụng cao cấp làm bằng pha lê, thảm len, mỹ phẩm cao cấp,
không phân biệt đó là hàng hóa sản xuất trong nước hay hàng hóa nhập khẩu. Việc mở
rộng diện chịu thuế TTĐB với những loại hàng hóa, dịch vụ này sẽ góp phần điều tiết
thu nhập, định hướng tiêu dùng, mở rộng thêm được nguồn thu. Tuy nhiên, mức thuế
suất không nên cao quá (khoảng 10% để tránh hiện tượng trốn thuế). Thêm vào đó, việc
mở rộng diện chịu thuế như vậy là phù hợp với thông lệ quốc tế và pháp luật thuế của
các nước trong khu vực. Đối với ô tô từ 16 đến 24 chỗ ngồi và trở lên nên đưa vào diện
không chịu thuế TTĐB nhằm khuyến khích các doanh nghiệp sản suất không chỉ các
dòng xe có mức thuế suất thấp và động viên người dân tiêu dùng, bảo vệ sức khỏe, đảm
bảo văn minh đô thị, tránh tình trạng ùn tắc giao thông.

Bên cạnh đó, các loại ô tô là

đối tượng chịu thuế nên chia làm 2 loại: Dưới 10 chỗ ngồi, từ 10 đến 16 chỗ và tương
ứng với nó là các mức thuế suất khác nhau. Đối với điều hòa nhiệt độ dưới 90.000 BTU
như phân tích ở phần hạn chế về việc thực thi pháp luật thuế TTĐB trên thì nên bổ sung
vào diện không chịu thuế TTĐB.
- Thứ hai, về thuế suất: Luật quy định rất nhiều loại khác nhau, thậm chí trong một số
trường hợp đối với cùng một loại hàng hóa nhưng lại chia theo các tiêu chí khác nhau
để áp dụng các mức thuế suất rất chênh lệch nhau, vì vậy càng làm cho biểu thiếu them
phức tạp, việc xác định mức thuế suất áp dụng dễ bị tùy tiện. Ví dụ như cùng một mặt
hàng là rượu có 2 mức thuế suất khác biệt: Rượu từ 20 độ trở lên: 55%; Rượu dưới 20
độ, rượu thuốc: 20%....Có thể nói, các mức thuế suất nêu trên và khoảng cách giữa
chúng khá xa, cần thiết phải điều chỉnh thấp hơn. Điều này phù hợp và trong tương

quan với các sắc thuế khác. Trong điều kiện thuế nhập khẩu tiếp tục được điều chỉnh
giảm theo cam kết thực hiện CEPT 3, áp dụng thuế GTGT đối với hàng hóa, dịch vụ
thuộc diện chịu thuế TTĐB, thuế suất TTĐB hiện hành giảm xuống mức hợp lí nhằm
không làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất, kinh doanh của các mặt hàng, dịch vụ này.
Tuy nhiên đối với mặt hàng thuốc lá, loại hàng rất độc hại cho sức khỏe người dân thì
3

Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan khu vực ASEAN

12

Lớp N09 – TL3


nên áp dụng mức thuế cao hơn (70%) nhằm hạn chế tới mức cao nhất tiêu dùng loại
hàng này. Bên cạnh đó, để phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, mỗi loại hàng hóa thuộc
diện chịu thuế TTĐB chỉ nên áp dụng một hoặc ahi mức thuế suất để đảm bảo tính đơn
giản, khả thi chứ không nên chia nhỏ như hiện nay làm cho thuế TTĐB phức tạp và khó
áp dụng.
- Thứ ba, về vấn đề miễn giảm thuế: Cần bổ sung quy định giải thích rõ về trường hợp
được giảm thuế TTĐB do tai nạn bất ngờ (Điều 9 Luật thuế TTĐB). Bởi lẽ, thế nào là
“Tai nạn bất ngờ”, trường hợp nào được xác định là “bất ngờ”, hiệ nay chưa có văn bản
nào giải thích về vấn đề này. Tuy nhiên, tốt hơn hết là không nên áp dụng chế độ miễn
giảm thuế TTĐB cho các cơ sở sản xuất hàng hóa thuộc diện chịu thuế TTĐB bởi đây
là loại thuế gián thu do người tiêu dùng chịu thuế, các cơ sở sản xuất chỉ là người nộp
thuế nên việc quy định miễn giảm thuế đối với loại thuế này là không hợp lí, hơn nữa
đây là những loại hàng hóa, dịch vụ mà nhà nước cần điều tiết, định hướng cho việc sản
xuất, tiêu dùng để đảm bảo lợi ích cộng đồng, xã hội, hầu hết những loại hàng hóa dịch
vụ này không phải là những mặt hàng thiết yếu cho đời sống nhân dân, không thuộc
diện khuyến khích tiêu dùng nên việc quy định miễn giảm thuế đối với các mặt hàng

này là không cần thiết.
- Thứ tư, về giá tính thuế: Cần áp dụng thống nhất quy định giá tính thuế đối với hàng
hóa thuộc diện chịu thuế TTĐB, theo đó giá tính thuế là giá do cơ sở sản xuất bán ra tại
nơi sản xuất chưa có thuế TTĐB, tức là giá tính thuế bao gồm cả giá trị bao bì, vỏ hộp.
Ngoài ra, cần thiết áp dụng quy định giá tính thuế TTĐB theo giá thị trường đối với loại
hàng hóa đó trong những trường hợp các cơ sở sản xuất kê khai giá bán không hợp lí
nhằm hạn chế việc các cơ sở sản xuất hàng hóa thuộc diện chịu thuế TTĐB lợi dụng
việc quy định khống chế về giá TTĐB để lách thuế hoặc áp dụng thuế suất tuyệt đối
cho các hàng hóa dịch vụ.
- Thứ năm, về khấu trừ hoàn thuế TTĐB: Luật thuế TTĐB quy định khá chung chung
về vấn đề khấu trừ và hoàn thuế TTĐB, dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong quá trình
áp dụng. Bởi vậy, cần quy định rõ cơ sở, điều kiện, trường hợp được hoàn lại thuế này.
- Thứ sáu, Quản lí chặt chẽ hóa đơn chứng từ :Vì các văn bản quản lí hóa đơn, chứng
từ còn nằm rải rác ở các văn bản khác nhau nên nhất thiết phải có riêng một văn bản
quy phạm pháp luật quy định việc quản lí hóa đơn chứng từ để tạo hành lang pháp lý
thuận lợi cho cơ quan thuế trong quá trình thực thi công vụ với đầy đủ chức năng.
* Một số đề xuất chống gian lận thuế tiêu thụ đặc biệt: Tại Việt Nam từ lâu chúng ta
đã có quy định về xử lí chuyển giá, trước đây được quy định tại các thông tư của Bộ Tài
chính (BTC) hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài, hiện
nay BTC ban hành ban hành thông tư số 66/2010- BTC ngày 22/4/2010 hướng dẫn xác
13

Lớp N09 – TL3


định giá thị trường trong các giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết.
Nhưng theo ý kiến của em thì hành lang pháp lí này vẫn còn khá “mỏng”, nên về lâu về
dài chúng ta nên lập dự thảo và ban hành Luật Chống chuyển giá- nhằm quản lí chung
mọi hoạt động liên quan đến việc quản lí thuế. Cần hoàn thiện quy chế phối hợp giữa
các cơ quan chức năng có liên quan với cơ cơ quan thuế trong hoạt động chống chuyển

giá, đặc biệt là cơ quan ngoại giao của Việt nam ở nước ngoài.
- Về chế tài xử lí cán bộ thuế khi vi phạm: Trước mắt cần bổ sung một số điều luật về
xử lý cán bộ thuế khi vi phạm - đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc chống sự lạm
quyền, lợi dụng nghề nghiệp để thông đồng với những đối tượng thực hiện hành vi trái
pháp luật thuế nói chung và trái pháp luật thuế TTĐB nói riêng. Hơn nữa nhất thiết phải
có các văn bản hướng dẫn đi kèm để áp dụng các trường hợp giải quyết hành vi vi phạm
của cán bộ thuế. Đồng thời, cần có sự phối hợp của các ban, ngành, các cơ quan chức
năng trong việc quản lí cán bộ dưới quyền của mình, tăng cường hoạt động kiểm tra,
thanh tra hoạt động của các cán bộ thuế và phải sử dụng mức hình phạt thật sự nghiêm
khắc đối với sự vi phạm của các cán bộ thuế.
3.2 - Hoàn thiện hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật thuế
Sự hoàn thiện của cơ chế áp dụng pháp luật thể hiện ở những điều kiện vật chất – kĩ
thuật cần thiết đảm bảo cho hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành bình thường,
hiệu quả. Hiện đại hóa quản lý thuế là một trong các yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả
của hoạt động áp dụng pháp luật thuế TTĐB. Vì vậy, ngành thuế cần tăng cường ứng
dụng công nghệ thông tin vào quản lý, hỗ trợ người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ của
mình. Chế độ hóa đơn, chứng từ cũng cần được cải cách cho phù hợp, đảm bảo tính rõ
ràng, minh bạch trong việc tính toán, xác định nghĩa vụ thuế nhằm tránh những hiện
tượng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trốn thuế. Bên cạnh đó, cần xác định mức ấn định
thuế TTĐB tối thiểu có thể sẽ cao hơn mức cần phải nộp thực tế của doanh nghiệp
nhưng phải có biện pháp mạnh thì mới có thể răn de và hạn chế sự vi phạm. Tránh hành
vi “thỏa thuận ngầm” giữa cán bộ thuế và đối tượng nộp thuế về mức ấn định thấp.
3.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế
Do thực hiện quy trình quản lý thu thuế mới, đối tượng nộp thuế vẫn tự tính thuế, kê
khai và nộp thuế nên cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền hướng dẫn, giải thích thật cụ
thể về nội dung, chính sách thuế, quy trình quản lý thuế, cách ghi chép hóa đơn chứng
từ, công khai quy trình miễn thuế, hoàn thuế, giảm thuế tới từng cơ sở tính, nộp thuế.
Cần có sự phối hợp giữa các cơ quan thông tin đại chúng, đoàn thể, xã hội trong tuyên
truyền, giáo dục pháp luật về thuế. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát đối tượng nộp thuế kết hợp với tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan

14

Lớp N09 – TL3


thuế với các cơ quan chức năng khác, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm.
Nâng cao ý thức pháp luật cho người dân bằng cách tuyên truyền, giáo dục một cách
sâu rộng tới tất cả các tầng lớp. Thuế TTĐB là loại thuế mà nhiểu người đã nộp mà
không biết. Không phải riêng các đối tượng có thu nhập cao mới là người sử dụng các
hàng hóa, dịch vụ là đối tượng của thuế TTĐB. Có những đối tượng là người dân bình
thường khi sử dụng hàng mã, vàng mã, thuốc lá…Họ không biết mình đang phải nộp
thuế TTĐB và như vậy việc hướng dẫn và điều tiết chi tiêu của Nhà nước.
3.4. Tăng cường đào tạo nghiệp vụ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ
cán bộ thuế
Muốn thực thi được thuế TTĐB tốt thì trước hết cần có sự gương mẫu của đội ngũ
cán bộ. Các yếu kém của đội ngũ cán bộ có thể do 2 lý do: Thứ nhất là sự yếu kém
trong trình độ, thứ hai là sự yếu kém trong quản lý. Đối với yếu kém trong trình độ thì
cần có chính sách để đào tạo lại những cán bộ đã làm việc lâu năm, tránh việc hiểu sai,
áp dụng sai. Và tạo nguồn cán bộ mới phù hợp với yêu cầu. Đối với yếu kém trong
quản lý thì cần có chế tài xử lý nghiêm khắc để răn đe và cần quy định thêm hệ thống
cán bộ thanh tra các bộ thuế. Hiện nay, đại bộ phận đội ngũ cán bộ thuế chưa có kĩ năng
chuyên nghiệp, đào tạo bài bản về nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp, khả năng ứng
dụng công nghệ tin học vào quản lý thuế chưa phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính
thuế. Thái độ và phong cách xử lý của một đại bộ phận cán bộ thuế chưa thật sự tận tụy,
công tâm. Do đó, cần tổ chức lại và kiện toàn bộ máy cơ quan thuế kết hợp với tăng
cường đào tạo chuyên môn sâu về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán
bộ thuế. Ngoài ra, còn phải quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ thuế
và gia đình họ, giúp họ giảm bớt những khó khăn về vật chất và tinh thần để có thể tận
tâm dồn hết thời gian, sức lực và trí tuệ cho công việc, không bị mua chuộc về vật chất,
giữ được thái độ vô tư, khách quan trong công việc.


KẾT LUẬN
Thuế tiêu thụ đặc biệt là một trong những công cụ giúp Nhà nước thực hiện chính
sách quản lý đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh và nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, góp
phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Đồng thời, góp phần điều tiết thu nhập, hướng dẫn
tiêu dùng hợp lý và ổn định, tăng cường nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Khi phân
tích được các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực thi thuế TTĐB sẽ xác định được hướng
thay đổi để phù hợp để thực thi pháp luật thuế TTĐB 1 cách tốt hơn. Cần thay đổi để
phù hợp với các yếu tố khách quan và tạo ra khuôn khổ pháp lý phù hợp để mỗi người
thực hiện công tác thực thi thuế TTĐB tốt hơn. Đảm bảo cân bằng giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích Nhà nước./.
15

Lớp N09 – TL3


1.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
*
*
*
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Tư Pháp, Hà
nội 2004.

2.

Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tài chính, Hà Nội, 2007

3.


Trần Vũ Hải, Tìm hiểu thuật ngữ pháp luật tài chính công, Nxb. Tư pháp,
Hà Nội, 2009.

4.

Hoàn thiện pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, Hoàng Thị Quỳnh
Trâm, KLTN, Hà Nội 2012.

5.

Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt 2005

6.

Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt 2008

7.

Luật Quản lý thuế 2006

8.

Nghị định 85/2007/NĐ-CP của chính phủ ngày 25 tháng 5 năm 2007 quy
định chi tiết một số điều của luật quản lý thuế.

9.

Một số website:
www.slideshare.net/pnquang/ta-netluat-thue-ttdb-072010

/> />


* Chú thích:
- Điều 2. Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008:
Đối tượng chịu thuế
1. Hàng hóa:
a) Thuốc lá điếu, xì gà và chế phẩm khác từ cây thuốc lá dùng để hút, hít, nhai, ngửi,
ngậm;
b) Rượu;
c) Bia;
d) Xe ô tô dưới 24 chỗ, kể cả xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàng loại có từ hai hàng
ghế trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang chở người và khoang chở
hàng;
đ) Xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xi lanh trên 125cm 3;
e) Tàu bay, du thuyền;
g) Xăng các loại, nap-ta (naphtha), chế phẩm tái hợp (reformade component) và các
chế phẩm khác để pha chế xăng;
h) Điều hoà nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống;
16

Lớp N09 – TL3


i) Bài lá;
k) Vàng mã, hàng mã.
2. Dịch vụ:
a) Kinh doanh vũ trường;
b) Kinh doanh mát-xa (massage), ka-ra-ô-kê (karaoke);
c) Kinh doanh ca-si-nô (casino); trò chơi điện tử có thưởng bao gồm trò chơi bằng

máy giắc-pót (jackpot), máy sờ-lot (slot) và các loại máy tương tự;
d) Kinh doanh đặt cược;
đ) Kinh doanh gôn (golf) bao gồm bán thẻ hội viên, vé chơi gôn;
e) Kinh doanh xổ số.
- Điều 4. Thông tư 05/2012/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 26/2009/NĐ-CP và
Nghị định 113/2011/NĐ-CP:
Người nộp thuế
1. Người nộp thuế TTĐB là tổ chức, cá nhân có sản xuất, nhập khẩu hàng hóa và
kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB, bao gồm:
1.1. Các tổ chức kinh doanh được thành lập và đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh
nghiệp, Luật Doanh nghiệp Nhà nước (nay là Luật Doanh nghiệp) và Luật Hợp tác
xã.
1.2. Các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ
trang nhân dân, tổ chức sự nghiệp và các tổ chức khác.
1.3. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp tác
kinh doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (nay là Luật đầu tư); các tổ
chức, cá nhân nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam nhưng không thành lập
pháp nhân tại Việt Nam.
1.4. Cá nhân, hộ gia đình, nhóm người kinh doanh độc lập và các đối tượng khác có
hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu.
2. Cơ sở kinh doanh xuất khẩu mua hàng chịu thuế TTĐB của cơ sở sản xuất để xuất
khẩu nhưng không xuất khẩu mà tiêu thụ trong nước thì cơ sở kinh doanh xuất khẩu
là người nộp thuế TTĐB. Khi bán hàng hóa, cơ sở kinh doanh xuất khẩu phải kê khai
và nộp đủ thuế TTĐB.

17

Lớp N09 – TL3




×