Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Phân tích và đánh giá cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính ở nước ta dưới thời vua lê – chúa trịnh (1599 – 1786)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.21 KB, 70 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Lương Ban Mai
LỜI CẢM ƠN

Để thực hiện và hoàn thành khoá luận em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình
của các thầy cô giáo trong Học viện Hành chính, của gia đình và bạn bè.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành, lòng biết ơn vô hạn đến các thầy cô giáo
trong khoa Hành chính học cũng như toàn thể các thầy cô giáo trong Học viện đã
giảng dạy và giúp đỡ em trong suốt bốn năm học.
Qua đây em cũng xin cảm ơn gia đình, bạn bè, những người luôn ở bên động
viên và chia sẻ với em trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Đặc biệt em xin gửi lời tri ân sâu sắc tới cô giáo, ThS. Lương Ban Mai đã tận
tình quan tâm, chỉ dạy và hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện khoá luận
tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn.
SINH VIÊN
BÙI THỊ HÒA

SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Lương Ban Mai
MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN............................................................................................................1
MỤC LỤC.................................................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................1


2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu..........................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................2
4. Kết cấu của khóa luận............................................................................................3
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ THỜI KỲ VUA LÊ – CHÚA TRỊNH....................4
1.1. Khái quát về bối cảnh lịch sử thời vua Lê – chúa Trịnh và sự xuất hiện của
thiết chế “lưỡng đầu”.................................................................................................4
1.2. Đôi nét về các triều vua – chúa và một số vị vua – chúa tiêu biểu ....................5
1.2.1. Trịnh Kiểm (1503 – 1570)...............................................................................5
1.2.2. Trịnh Tùng (1550 – 1623)...............................................................................6
1.2.3. Trịnh Cương (1686 – 1729).............................................................................6
CHƯƠNG II. CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ CƠ CHẾ VẬN HÀNH CỦA BỘ MÁY
HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA DƯỚI THỜI VUA LÊ – CHÚA TRỊNH.................8
2.1. Khái quát chung về vai trò, vị trí, quyền hạn của vua Lê – chúa Trịnh.............8
2.1.1. Vai trò của vua Lê...........................................................................................8
2.1.2. Quyền của chúa Trịnh...................................................................................10
2.2. Cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính thời vua Lê – chúa
Trịnh........................................................................................................................11
2.2.1. Tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính trung ương...........................11
SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
a. Triều đình và Phủ đường.....................................................................................12
b. Các văn thư phòng...............................................................................................14
c. Lục bộ và Lục phiên............................................................................................16
d. Các cơ quan chuyên môn.....................................................................................20
2.2.2. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương......................................21
2.2.3. Chế độ quan lại..............................................................................................23
a. Các chức quan......................................................................................................23

b. Chế độ tuyển chọn quan lại.................................................................................23
c. Chế độ bổ dụng....................................................................................................26
d. Chế độ đãi ngộ.....................................................................................................27
2.4. Chính sách quản lý kinh tế - xã hội..................................................................28
2.4.1. Chính sách về kinh tế - tài chính...................................................................28
2.4.2. Chính sách xây dựng quân đội......................................................................29
2.4.3. Chính sách đối ngoại.....................................................................................32
2.5. Một số bộ phận, cơ quan khác..........................................................................32
2.5.1. Các cơ quan giám sát.....................................................................................32
2.5.2. Quá trình cải biến, hoàn thiện hệ thống pháp luật.........................................34
CHƯƠNG III. TỔNG QUAN CHUNG VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ KHI NGHIÊN
CỨU CƠ CHẾ VẬN HÀNH CỦA BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NƯỚC TA DƯỚI
THỜI VUA LÊ – CHÚA TRỊNH...........................................................................36
3.1. Tổng quan đánh giá chung...............................................................................36
3.1.1. Những mặt tích cực đạt được........................................................................37
3.1.2. Những hạn chế, tồn tại...................................................................................43

SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế...................................................................49
a. Nguyên nhân lịch sử............................................................................................49
b. Nguyên nhân chính trị (tư tưởng chính danh Nho giáo).....................................49
c. Nguyên nhân xuất phát từ tương quan lực lượng giữa các phe phái phong kiến 50
3.2. Bài học lịch sử..................................................................................................51
3.2.1. Phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng, cơ chế phối hợp linh
hoạt, khoa học trong thực thi công việc..................................................................51
3.2.2. Chức vụ và trách nhiệm nghiêm minh, quyền lợi và nghĩa vụ tương xứng. .52

3.2.3. “Quyền” theo quy định phải được thực thi trên thực tế................................53
3.2.4. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ công chức54
3.2.5. Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính........55
3.2.6. Xây dựng một bộ máy hành chính hợp lý, hiệu quả. Thực hiện cải cách hành
chính đồng bộ và thiết thực.....................................................................................56
KẾT LUẬN.............................................................................................................58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................60
PHỤ LỤC................................................................................................................62

SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Lương Ban Mai
LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX là thời kỳ phát triển của các triều đại phong
kiến Việt Nam, thời kỳ tiêu biểu của lịch sử nhà nước phong kiến với những triều
đại để lại những dấu mốc vô cùng quan trọng như triều Lý, Trần, Hồ, Lê sơ,
Nguyễn và đặc biệt trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể còn tồn tại cả những triều
đại được xem là điển hình trong lịch sử phát triển nhà nước phong kiến như Thể
chế nhà nước lưỡng đầu vua Lê – chúa Trịnh. Một đất nước chịu sự cai trị của hai
thế lực, giữa một bên là Triều đình của các đời Vua Lê và Phủ chúa của các chúa
Trịnh, cùng song song tồn tại, đối trọng nhau về quyền lợi nhưng lại dựa vào nhau,
phối hợp với nhau cùng thực hiện công việc trị nước an dân, và cơ chế lưỡng đầu
ấy cùng tồn tại bên nhau trong suốt một thời gian dài (hơn hai thế kỷ) trong lịch sử
mà hầu như không xảy một biến cố lớn nào. Thể chế chính trị lưỡng đầu Lê - Trịnh
đã trở thành một nét đặc trưng trong lịch sử hoạt động của nền hành chính nhà

nước Việt Nam.
Mặc dù nằm trong một thời kỳ phát triển của kiểu nhà nước phong kiến,
nhưng cơ chế hoạt động của nhà nước thời kỳ vua Lê - chúa Trịnh với những đặc
điểm riêng có của mình, cho đến ngày nay, cũng để lại nhiều bài học lịch sử đáng
phải suy ngẫm.
Trong tiến trình chung của công cuộc cải cách hành chính cũng như vấn đề
xây dựng một bộ máy hành chính nhà nước nói chung sao cho đạt hiệu quả, hiệu
lực luôn luôn cần sự nỗ lực của nhiều ban ngành, sự phối hợp của nhiều kế sách và
phương pháp hữu hiệu. Đồng thời, cũng như những bộ phận khác trong ngành khoa
học xã hội, hành chính luôn mang tính kế thừa rõ nét. Do vậy, vấn đề nghiên cứu,
tìm tòi và đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy hành
chính nhà nước trong các tiến trình khác nhau của lịch sử dân tộc trở thành một yêu
cầu hết sức cần thiết và thiết thực. Điều này còn có ý nghĩa quan trọng trong việc
SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

1


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
tránh được phần nào những sai sót, hạn chế đã từng mắc phải trong quá trình tổ
chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước trong lịch sử nước ta, đồng
thời tận dụng thêm nhiều mặt tích cực như là nền tảng để phát triển nền hành chính
nhà nước theo hướng hợp lý và hiệu quả.
Xuất phát từ lý do trên, em xin chọn đề tài: “Phân tích và đánh giá cơ cấu
tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính ở nước ta dưới thời vua Lê –
chúa Trịnh (1599 – 1786)” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình với hy
vọng giới thiệu một số nét cơ bản về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước của một
trong những mốc lịch sử quan trọng trong thời kỳ lịch sử phong kiến ở nước ta và
phần nào đó rút ra được những bài học kinh nghiệm cho công cuộc cải cách hành

chính nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành
chính ở nước ta dưới thời vua Lê – chúa Trịnh (1599 – 1786), trong đó tập trung
phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính. Trên cơ sở
những thành công của cơ chế “lưỡng đầu” và những mâu thuẫn nảy sinh của cơ chế
này, dưới góc nhìn của một sinh viên học tập và nghiên cứu về quản lý hành chính
nhà nước, qua khóa luận mạnh dạn nêu lên một số ý kiến về bài học kinh nghiệm
với hy vọng đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao hơn nữa hiệu quả tổ chức
và hoạt động của của bộ máy hành chính nhà nước cũng như công cuộc cải cách
hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Nghiên cứu cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ
máy hành chính ở nước ta dưới thời vua Lê – chúa Trịnh dựa trên cơ sở các nguyên
tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời cũng có sự xâu chuỗi, đối chiếu với hệ
thống quan điểm chỉ đạo, định hướng của Đảng và Nhà nước về quản lý nhà nước,

SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

2


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
tổ chức bộ máy nhà nước và cải cách nền hành chính nhà nước trong thời kì công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, sơ đồ
hóa và các phương pháp khác.
4. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, khóa

luận bao gồm 3 chương:
Chương I: Khái quát về bối cảnh lịch sử thời vua Lê – chúa Trịnh. Đôi nét về
các triều vua – những dòng chúa và giới thiệu một số vị vua – chúa tiêu biểu.
Chương II: Cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính ở
nước ta dưới thời vua Lê – chúa Trịnh.
Chương III: Tổng quan về cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy
hành chính ở nước ta dưới thời vua Lê – chúa Trịnh. Những bài học lịch sử và một
số ý kiến nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính
nhà nước ở nước ta hiện nay.

SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

3


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ THỜI KỲ VUA LÊ – CHÚA TRỊNH
1.1. Khái quát về bối cảnh lịch sử thời vua Lê – chúa Trịnh và sự xuất hiện của
thiết chế “lưỡng đầu”
Quốc gia Đại Việt đã trải qua hơn 500 năm thống nhất, với một nhà nước
phong kiến trung ương tập quyền ngày càng được củng cố. Nhưng đến đầu thế kỷ
XVI, các Hoàng đế Lê Sơ mất dần thực quyền, bắt đầu phải nhờ cậy đến các thế lực
võ quan để duy trì và phục hồi địa vị, quyền lợi thống trị của mình. Hậu quả là
không lâu sau đó, võ tướng Mạc Đăng Dung đã lật đổ nhà Lê, lập ra triều Mạc
(1527).
Sau khi nhà Lê bị họ Mạc cướp ngôi, phất ngọn cờ “phù Lê diệt Mạc”, một
võ tướng khác là Hữu vệ Điện tiền tướng quân, tước An Thành hầu Nguyễn Kim
đứng ra tập hợp lực lượng ở Sầm Châu (Ai Lao), dựng Lê Duy Ninh lên ngôi
Hoàng Đế (1533). Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Kim, đội quân phù Lê đã tiến đánh

Thanh Hóa, Nghệ An, thu phục Tây Đô (1543), mở ra thời kỳ trung hưng của triều
Lê.
Sau cái chết đột ngột của Nguyễn Kim (1545), mọi binh quyền được trao vào
tay Trịnh Kiểm, con rể Nguyễn Kim. Nhờ tài năng của Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, quân nhà Lê dần dần thắng
thế. Năm 1592, quân Nam triều chiếm được Thăng Long, họ Mạc bỏ chạy lên cát cứ ở Cao Bằng

và đến năm 1688 thì

bị tiêu diệt hoàn toàn. Trải Nam chinh, Bắc chiến, uy thế dòng Trịnh tộc ngày càng
lớn mạnh.
Đánh bại nhà Mạc, quyền hành họ Trịnh trên thực tế đã lấn át triều Lê. Ngày
7 tháng 4 năm Kỷ Hợi (1599), vua Thế Tông sai Hoàng Đình Ái đem sách vàng tấn
phong Trịnh Tùng làm Đô nguyên súy Tổng quốc chính Thượng phụ Bình An
vương. Từ đó họ Trịnh được thế tập tước vương, được mở phủ chúa, đặt quan chức
và nhờ vậy ngày càng thâu tóm mọi quyền hành trong tay. Vua Lê là hư vị, chỉ còn
được giữ lại 5.000 quân lính túc trực, 7 thớt voi, 20 thuyền rồng, ngụ lộc 1.000 xã
SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

4


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
làm lộc thượng tiến và cử hành một vài nghi lễ mang tính hình thức như “mặc áo
long bào, cầm hốt ngọc, nhận lễ triều yết”.
Với quyền lực như vậy, các chúa Trịnh có thừa khả năng để phế truất nhà Lê,
lập ra triều đại riêng của mình. Tuy nhiên, họ đã không đi vào vết xe đổ của họ
Mạc. Các chúa Trịnh hiểu rằng thành công của sự nghiệp trung hưng phần lớn là
dựa trên ảnh hưởng và uy tín của nhà Lê, trong điều kiện mới, ngọn cờ chính trị
“tôn phù Lê thất” vẫn nguyên giá trị. Nhận thức được tình thế đó, các chúa Trịnh đã

áp dụng một định chế mà ở đó ngôi vị của vua Lê vẫn được bảo tồn, đồng thời họ
Trịnh vẫn duy trì được địa vị thống trị của mình và đảm bảo thực thi quyền lực. Cơ
chế liên kết này phải luôn đảm bảo tính ổn định, bền vững để không thể bị phá vỡ
dẫn đến tình trạng phong kiến phân quyền. Đó là cơ sở thiết lập nên một thiết chế
hết sức đặc biệt trong lịch sử phong kiến Việt Nam – thiết chế “lưỡng đầu” vua Lê
- chúa Trịnh.
1.2. Đôi nét về các triều vua – chúa và một số vị vua – chúa tiêu biểu
- Triều Lê trung hưng của các vua Lê (1533 – 1789) kéo dài 256 năm, trong
đó tồn tại song song với triều Mạc từ 1533 – 1592, có 17 đời vua nối tiếp nhau.
- Các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài (1545 – 1787) và các chúa Nguyễn ở Đàng
Trong.
1.2.1. Trịnh Kiểm (1503 – 1570)
Trịnh Kiểm là người mở đầu sự nghiệp nắm quyền của họ Trịnh. Đương thời
khi cầm quyền ông không xưng là chúa nhưng được đời sau truy tôn là Minh
Khang Thái Vương. Ông là người nắm quyền chỉ huy quân đội trong triều các vua
Lê thời Nam - Bắc triều từ năm 1545 tới khi mất. Thời kỳ này ông không thể hiện
về vai trò quản lý kinh tế hay vai trò người đứng đầu cơ quan hành pháp, do các
vấn đề quân sự khi đó đã lấn át tất cả, nhưng có một số tư liệu cho thấy vai trò quản
lý nhà nước về kinh tế của ông trong việc sai các viên quan đi đo đạc đất đai để thu

SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

5


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
thuế hay đắp đê, làm đường. Ngoài ra, Trịnh Kiểm còn là người biết trọng dụng
nhân tài, hội tụ hào kiệt bốn phương.
1.2.2. Trịnh Tùng (1550 – 1623)

Trịnh Tùng là người có công lao trong việc hoàn thành công cuộc trung hưng
của nhà Lê và chính thức xác định vị thế vững chắc cho cơ nghiệp hơn 200 năm
của họ Trịnh với Đàng Ngoài.
Trịnh Tùng cầm quyền trong thời loạn nên luôn phải đối phó với nhiều lực
lượng và nguy cơ chống đối nên muốn giữ vững ngôi vị, ngoài tài năng cầm quân
và cai trị, ông buộc phải trở thành người cứng rắn, minh triết và thực tế. Sau khi lên
cầm quyền, Trịnh Tùng đã từng bước kiện toàn và tăng cường hiệu quả quản lý của
bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương, tổ chức khoa cử kén chọn nhân
tài, ban hành nhiều chính sách lớn để phát triển kinh tế, đặc biệt khá thông thoáng
trong việc mở cửa giao thương với phương Tây. Ông không những là người biết sử
dụng được hết các “hiền tài nguyên khí” do chính mình đào tạo mà còn biết thu
phục những kẻ sĩ Bắc triều phụ tá cho mình trong công cuộc an dân trị quốc. Do
đó, thời kỳ Trịnh Tùng nắm quyền, đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt ở Kinh đô
Thăng Long, mang một sắc thái mới hơn so với trước đó.
1.2.3. Trịnh Cương (1686 – 1729)
Trịnh Cương là vị chúa Trịnh thứ 6 thời Lê trung hưng. Ông là chúa Trịnh
duy nhất có cuộc đời và sự nghiệp trong thời thái bình thịnh trị không hề có nạn
binh đao.
Không giống như các chúa Trịnh trước và sau mình, Trịnh Cương trưởng
thành trong nhung lụa, cai trị trong hoà bình, không được trau rèn qua chiến trận
nhưng ông không sa vào hưởng lạc, không có thái độ hống hách kiêu căng mà lại
sớm tỏ ra là người chín chắn, tận tụy khi tiếp quản cơ nghiệp họ Trịnh và củng cố
thêm nền cai trị ở Bắc Hà. Đứng trên cương vị của một vị chúa nắm hết quyền hành
điều hành chính sự của nhà nước, nhưng Trịnh Cương vẫn luôn thể hiện sự khiêm
SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

6


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Lương Ban Mai
nhường và giữ đúng lễ nghĩa vua tôi, điều này thể hiện qua vấn đề lễ nghi, triều
phục… Với những việc làm có phần giữ lễ như vậy, ông được người đời rất tin
phục.
Thời kỳ ở ngôi chúa, Trịnh Cương đã cho thi hành nhiều chính sách tích cực
nhằm ổn định nền chính trị - xã hội ở Đàng Ngoài và tiến hành được một số cải
tiến, đổi mới như cải tiến quản lý kinh tế tài chính (đặc biệt là cải cách thuế), cải
tiến bộ máy quản lý hành chính, đổi mới chế độ giáo dục thi cử và nâng cao chất
lượng tuyển chọn nhân tài, tiềm lực quốc phòng được tăng cường và góp phần quan
trọng trong việc giữ gìn lãnh thổ và bảo vệ chủ quyền đất nước. Do vậy, thời Trịnh
Cương nắm quyền thiên hạ được giữ yên, thần dân được chăm lo, đất nước thịnh
vượng.

SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

7


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
CHƯƠNG II. CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ CƠ CHẾ VẬN HÀNH CỦA BỘ MÁY
HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA DƯỚI THỜI VUA LÊ – CHÚA TRỊNH
2.1. Khái quát chung về vai trò, vị trí, quyền hạn của vua Lê – chúa Trịnh
Chính quyền Lê - Trịnh là “lưỡng đầu” chế điển hình trong lịch sử chế độ
phong kiến Việt Nam, điển hình về độ dài của thời gian tồn tại (suốt hai thế kỷ),
điển hình cả về độ sâu của các yếu tố cấu thành một thể chế “lưỡng đầu”. Đây là
chính quyền của hai dòng họ - hai thế lực phong kiến lớn, vừa phải dựa vào nhau
để trị nước quản dân, vừa mâu thuẫn với nhau về quyền lực và quyền lợi.
- Nhà vua kế thừa sự nghiệp của tổ tông, bước lên ngôi báu để tiếp tục giữ
gìn tông miếu, xã tắc, phát huy đức độ, thừa hưởng và bảo tồn uy phúc của tổ tiên.

- Còn việc trị quốc an dân, nhà vua hoàn toàn nhờ cậy Trịnh vương giúp
giập, trông coi.
Như vậy, thiết chế “lưỡng đầu” được đặc trưng bởi tính nhị nguyên trong
phân chia ngôi vị vua – chúa và bản chất quyền lực của hai cương vị đó. Trong cơ
chế này, vua là một biểu tượng quan trọng nhưng chỉ có hư quyền; còn chúa ở địa
vị thứ yếu nhưng lại nắm thực quyền lực cai trị đất nước. Tất cả được phản ánh
trong câu nói ngắn gọn nhưng súc tích thường được người đương thời nhắc đến:
“Hoàng gia giữ uy phúc, Vương phủ nắm quyền bính”.
2.1.1. Vai trò của vua Lê
Theo thuyết “Tôn quân quyền” và thuyết “Thiên mệnh” trong Nho giáo, tất
cả sự biến chuyển trong trời đất đều tùng theo một mệnh lệnh duy nhất là mệnh
Trời và Hoàng đế là Thiên tử nhận trách nhiệm thay trời hành đạo trị vì thiên hạ.
Chính vì thế, vua Lê là vẫn “thiên tử”, người có quyền năng tối thượng, đại diện
hợp pháp duy nhất của quốc gia.
Xét về hình thức, vua Lê có địa vị chí tôn và có những đặc quyền vượt trên
tất cả các quần thần. Pháp luật nhà Lê nghiêm cấm tất cả các quan lại và dân chúng
SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

8


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
không được sử dụng sắc phục của nhà vua. Trong mọi điển lễ quốc gia, những nghi
thức cử hành đối với Hoàng đế luôn là trang trọng nhất. Tất cả biểu thị sự trang
nghiêm trước quyền uy của đấng trị vì muôn dân.
Xét về nội dung, vua Lê có những vai trò không thể thay thế, đặc biệt là trên
phương diện thần quyền. Hoàng đế là người duy nhất có quyền phong sắc cho bách
thần và cử hành những nghi lễ trọng đại nhất. Trên phương diện thế quyền, vua Lê
về danh nghĩa là nguyên thủ nhưng thực chất đã chia quyền cùng chúa Trịnh trên

cương vị người đứng đầu nền lập pháp, tư pháp và hành pháp quốc gia.
Về lập pháp, vua chỉ có quyền ban hành những văn bản luật pháp có tính
chất phổ quát, đưa ra những nguyên tắc cốt yếu dưới dạng dụ hay sắc dụ (nếu quan
trọng) hoặc chỉ chuẩn, chiếu hay sắc chiếu (nếu ít quan trọng). Đối với những văn
bản lập pháp ở dạng này, hầu như không thấy sự can thiệp của chúa Trịnh. Những
khi ban hành chiếu hay dụ, nhà vua thường cho tổ chức rất trọng thể tại chính điện
Kính thiên, đích thân làm chủ tọa, với sự hiện diện của chúa và đông đủ văn võ bá
quan.
Về tư pháp, vua Lê vẫn là vị thẩm phán cao nhất về phương diện biểu kiến,
duy nhất có quyền ban bố chiếu đại xá, giảm miễn tội cho các phạm nhân.
Đối với nền hành pháp, vua là người trực tiếp có quyền gia phong, thăng
giáng, bãi miễn đối với các chức quan từ hàm tam phẩm trở lên, kể cả ngôi chúa dù
trong thực tế có thể nhà chúa đã dùng những biện pháp khéo léo nhằm gây áp lực
đối với các quyết định của nhà vua. Với những chức quan ngoại nhiệm và từ hàm
tứ phẩm trở xuống, mặc dù theo quy định chúa Trịnh trực tiếp có quyền bổ nhiệm
nhưng để hợp lễ chúa vẫn phải chuyển hồ sơ sang triều đình để vua ban sắc chiếu
và làm chủ tọa trong những buổi lễ khâm ban. Đối với những mệnh lệnh có tính
chất quan trọng, chúa Trịnh cũng không thể tự quyết định mà phải đệ lên vua phê
duyệt và đứng chủ tọa trong lễ ban chiếu. Trên lĩnh vực quân sự, vua Lê chủ trì
những buổi lễ ban bố mệnh lệnh liên quan đến chính sách quốc phòng, những buổi
SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

9


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
lễ xuất chinh, hay ban sắc phong chức cho những tướng lĩnh cao cấp trong quân
đội. Trong quan hệ bang giao, vua là người đại diện hợp pháp duy nhất quốc gia.
Hoàng đế Trung Hoa chỉ thừa nhận vua Lê là “An Nam Quốc vương”, có quyền

đón tiếp các sứ giả Trung Quốc và đứng tên trong các văn thư ngoại giao với “thiên
triều” phương Bắc.
2.1.2. Quyền của chúa Trịnh
Trên danh nghĩa pháp lý, chỉ có Lê đế mới được coi là vị vua độc tôn duy
nhất trên toàn cõi Đại Việt và có niên hiệu, còn Trịnh Vương vẫn chỉ là bầy tôi của
nhà vua nhưng là một bầy tôi đặc biệt, vượt lên trên tất cả các bầy tôi khác, thay
nhà vua trông coi bá quan và bách tính.
Theo thông lệ trước đây của nhà Lê, thường chỉ có con cháu của nhà vua mới
được phong tước vương, nhưng từ đời Lê Thế Tông và Trịnh Tùng trở đi, vua phải
phong vương cho chúa. Để tăng uy quyền và danh vị của mình, các chúa Trịnh đều
buộc các vua Lê phải tổ chức nghi lễ phong vương cho mình một cách trọng thể,
nhưng Trịnh vương không phải là vua, “vương” chỉ là tước, một tước vị cao nhất.
Vì thế, trong một số nghi thức nhất định, chúa Trịnh không được phép vượt quá
giới hạn trên, ví dụ như trong vấn đề triều phục và lễ nghi. Dẫu vậy, trong thực tế,
chúa Trịnh có một phạm vi quyền lực rất rộng lớn thể hiện trong cả lập pháp, tư
pháp và hành pháp.
Về lập pháp, chúa cũng có quyền ban hành những văn bản có tính pháp quy
dưới dạng các lệnh hay lệnh dụ (nếu có tính chất ngăn cấm, khuyên răn) hoặc chỉ
hay chỉ truyền (để ban bố những thể lệ, luật lệnh). Các văn bản pháp luật do chúa
ban hành có tính ứng dụng cao, là sự cụ thể hóa các chiếu, sắc dụ của nhà vua trong
đời sống thực tiễn mà không có sự can thiệp hay kiểm soát của nhà vua hay triều
đình.

SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

10


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai

Về tư pháp, chúa Trịnh là vị quan tòa cao nhất, có quyền chung thẩm các vụ
án, quyết định các hình thức xử phạt hoặc miễn giảm, ân xá cho các phạm nhân, dù
rằng, để cho hợp thức phải thông qua các sắc, chiếu của vua Lê.
Về hành pháp, chúa Trịnh là người đứng đầu nền hành chính quốc gia. Với
chức Tổng quốc chính do vua Lê phong, chúa Trịnh có toàn quyền trong việc tuyển
bổ, thăng giáng, bãi miễn các chức quan và ban hành lệnh dụ, chỉ truyền đối với
các quan ngoại nhiệm, quan hàm từ tam phẩm trở xuống, mà trên thực tế họ mới
chính là những người thực sự điều hành nền nội chính. Chúa Trịnh cũng có quyền
ban hành những mệnh lệnh có tính lập quy, những quyết định hành chính liên quan
đến việc điều động mọi chức quan lại trong ngoài. Với chức Đại nguyên súy, chúa
Trịnh cũng chính là vị tổng chỉ huy quân đội cả nước, toàn quyền điều động, tuyển
bổ binh lính, thăng giáng tướng lĩnh, quyết định những chính sách quốc phòng và
nắm quyền cao nhất về việc đảm bảo an ninh quốc gia. Chúa Trịnh còn là người
kiểm soát toàn bộ nền kinh tế, tài chính trong nước. Trên phương diện bang giao,
chúa Trịnh nắm thực quyền trong việc quyết định đường lối ngoại giao, đón tiếp
các sứ thần ngoại quốc và cử người đi sứ nước ngoài…
Nhìn chung, chúa Trịnh nắm hầu hết quyền hành cai trị đất nước, còn vua Lê
chỉ tồn tại trên danh nghĩa, rất ít quyền lực. Địa vị, chức tước và quyền lực của
chúa được cha truyền con nối, cũng như sự thế tập ngôi báu hư vị của vua. Điều đó
trở thành tập quán chính trị bền vững của cơ chế lưỡng đầu Lê – Trịnh và chi phối
toàn bộ cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, mối quan hệ của các cơ quan phụ tá cho vua ở
triều đình và phụ tá cho chúa ở Phủ liêu.
2.2. Cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính thời vua Lê –
VUA
CHÚA
chúa Trịnh
TRIỀU ĐÌNH
PHỦ ĐƯỜNG
2.2.1. Tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính trung ương


CácBùi
cơ Thị Hòa
Ngự – KH8G
Lục
SVTH:
quan
chuyên
môn

sử
đài

khoa

Lục
tự

Lục
11
bộ

Các
văn
thư
phòng
TW

Lục
phiên


Phủ
liêu

Ngũ
phủ


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Lương Ban Mai

Sơ đồ 1: Tổ chức bộ máy hành chính trung ương thời Lê – Trịnh
Về hình thức, triều đình vua Lê vẫn được tổ chức theo mô hình thời Lê sơ
bao gồm các quan đại thần, Lục Bộ, Lục Khoa, Lục Tự và các cơ quan khác. Các
cơ quan này, về cơ bản, vẫn có cơ cấu tổ chức và chức năng như trước đây nhưng
quyền hạn ngày càng bị hạn chế bởi các cơ quan bên phủ chúa.
Chỉ với danh nghĩa thần tử chúa Trịnh đã thâu tóm mọi quyền hành của vua
Lê. Song, để đảm bảo địa vị của mình, chúa Trịnh còn lập ra Phủ đường (Phủ liêu)
trong thế đối sánh với Triều đình nhà Lê. Nếu Triều đình có các văn thư phòng
giúp việc Hoàng đế, có Lục bộ để điều hành các việc chuyên môn; thì Phủ chúa
cũng lập ra các cơ quan riêng để quản lý mọi hoạt động của đất nước. Tuy cùng
thực hiện chung một nhiệm vụ, nhưng các cơ quan bên cung vua và bên phủ chúa
lại không hề có sự chồng chéo; mà ngược lại chúng luôn có sự phân công rõ ràng,
phối hợp nhịp nhàng khi triển khai công việc.
a. Triều đình và Phủ đường
* Triều đình (hay triều đường) vốn là nơi dự bàn quốc sự của đại thần văn
võ bá quan. Tuy nhiên, dưới thời Trung hưng vai trò họp bàn chính sự của triều Lê
không còn. Đây trở thành nơi hội tụ của quần thần chủ yếu để thăm viếng, chúc
tụng vua Lê theo nghi lễ định kỳ hàng tháng hoặc những ngày đại lễ khánh hạ hay
khi vua ban hành các sắc dụ, chiếu chỉ.

SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G
12


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
* Phủ đường là nơi chúa Trịnh tụ họp các đại thần để luận bàn những việc
quân quốc trọng sự và điều hành toàn bộ hoạt động của bộ máy hành chính nhà
nước, dù rằng cách bài trí và các nghi lễ cử hành nơi Phủ chúa không trang nghiêm
và phức tạp như bên Triều đình.
Sau khi lên ngôi chúa, Trịnh Tùng đặt chức Tham tụng và Bồi tụng đứng đầu
hàng văn bên Phủ đường, gọi là quan Phủ liêu; còn đứng đầu hàng võ (đứng đầu
Ngũ phủ quân) là chức Chưởng phủ, Thự phủ và Quyền phủ, gọi là quan Ngũ phủ;
hợp nhất các chức Tham tụng, Bồi tụng, Chưởng phủ, Thự phủ và Quyền phủ gọi
là quan Ngũ phủ Phủ liêu. Các chức quan này được giao trách nhiệm trực tiếp điều
hành mọi hoạt động hành chính, quân sự bên Phủ đường và là những chức có
quyền hạn lớn nhất trong bộ máy quan lại thời Lê – Trịnh.
Giữ ngôi vị Tể tướng bên Phủ liêu là chức Tham tụng, còn chức Bồi tụng giữ
ngôi vị Á tướng. Theo quan chế thời Trung hưng, số người giữ chức Tham tụng và
Bồi tụng không hạn chế và những người giữ chức này thường có quyền hạn rất lớn.
Khi chọn người giữ chức Tham tụng và Bồi tụng, chúa Trịnh không quan tâm lắm
đến phẩm trật do Triều đình ban, mà cốt chọn người có năng lực, trung thành với
chúa, không nhất thiết phải đỗ đạt khoa bảng.
Các chức Chưởng phủ, Thự phủ, Quyền phủ là những võ quan cao cấp đứng
đầu Ngũ phủ quân và trực tiếp thống lĩnh quân đội toàn quốc. Người được chọn giữ
chức này là những thân cận của chúa Trịnh. Họ đồng thời là những bậc huân thần,
được ban phong tước phẩm rất cao bên triều đình.
Theo quy định, chúa ngự điện thính chính, chủ tọa mọi cuộc luận bàn quốc
sự đều đặn vào chín ngày định kỳ ở Phủ đường. Ngoài ra, vào những ngày đại lễ,
như lễ phong Vương cho chúa, phong Tiết chế cho Thế tử, lễ sinh nhật của chúa…

các quan cũng phải có mặt đông đủ để chúc mừng. Trong những buổi mở Phủ
đường, những người dự họp gồm quan Ngũ phủ Phủ liêu và các quan viên khác có
mặt tại kinh đô. Khi có việc khó hoặc hệ trọng cần giải quyết, chúa thường ban
SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

13


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
lệnh dự họp chính phủ tại Nghị sự đường để bàn định. Trong buổi họp này, chúa
không dự mà thành phần chỉ có các quan chính phủ, gồm: Tham tụng, Bồi tụng và
sáu viên Tri phiên.
Tóm lại, Phủ đường có chức năng như một triều đình thứ hai nhưng quan
trọng hơn. Với cơ quan thường trực tối cao riêng có, Ngũ phủ Phủ liêu trực tiếp
đảm trách việc điều hành toàn bộ guồng máy hành chính quốc gia và nắm thực
quyền cai trị đất nước. Những quan chức làm việc tại Phủ đường là những đại thần
cao cấp nhất, trụ cột của triều Lê – Trịnh. Họ đồng thời cũng nắm giữ những trọng
trách bên triều đình, nhờ vậy mà phủ chúa thâu tóm mọi hoạt động của vua Lê.
b. Các văn thư phòng
Để giúp triển khai các công việc của Triều đình và Phủ đường, chính quyền
Lê – Trịnh cùng lúc duy trì ba loại cơ quan văn phòng ở trung ương: các văn thư
phòng giúp việc Hoàng đế, các văn thư phòng giúp việc nhà chúa và các văn thư
phòng giúp việc chung cho cả vua và chúa.
* Các văn thư phòng giúp việc Hoàng đế
- Thông chính ty là cơ quan giữ nhiệm vụ liên lạc, chuyển đạt công văn,
mệnh lệnh của vua tới quan lại và dân chúng cùng các tấu chương của quan, các
đơn từ, khiếu nại của dân tới nhà vua. Đứng đầu Thông chính ty là một viên Thông
chính sứ và một viên Thông chính phó giúp việc.
- Bí thư giám trông coi về thư viện của Triều đình, đồng thời có nhiệm vụ

sao chép, lưu giữ những công văn đệ đạt lên vua hoặc do vua ban hành. Đứng đầu
Bí thư giám có Bí thư giám học sĩ và Bí thư giám điển thư đứng thứ hai.
- Hoàng môn sảnh là cơ quan chuyên việc giữ ấn và đóng ấn của vua vào
các văn thư. Hoàng môn sảnh được giao cho một viên Hoàng môn thị lang phụ
trách.
* Các văn thư phòng giúp việc nhà chúa

SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

14


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
- Phủ liêu là cơ quan thuộc quyền điều khiển trực tiếp của nhà chúa, có
nhiệm vụ trông coi mọi công việc bên Phủ đường, từ việc nghi lễ đến việc thu và
phát các công văn, giấy tờ. Sắc dụ năm 1751 quy định các nhiệm vụ chủ yếu của
Phủ liêu là: 1- Uốn nắm lòng vua, 2- Chọn lựa quan lại, 3- Chọn phép trị dân, 4Thẩm xét binh cơ, 5- Chế định tài chính, 6- Định lệ kiện tụng, 7- Hội kê đinh điền,
8- Làm đúng thưởng phạt, 9- Giữ đúng pháp lệnh. Quan Phủ liêu gồm các chức
Tham tụng và Bồi tụng, ngoài ra còn có các Nội sai, Thị nội thư giúp việc. Các
chức này đều do đích thân chúa Trịnh chọn lựa.
- Bí thư các là các cơ quan có nhiệm vụ phê duyệt công văn, sổ sách và lưu
trữ các hồ sơ bên phủ chúa, do hai quan Học sĩ đứng đầu và các viên Chính tự giúp
việc. Bí thư các được thiết lập tương đối giống với Bí thư giám bên cung vua.
* Các văn thư phòng giúp việc chung cho cả vua và chúa
- Hàn lâm viện thời Lê – Trịnh vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức và hoạt động
giống triều Lê sơ. Đây là cơ quan có nhiệm vụ khởi thảo các bài chế, cáo, thơ văn,
văn thư nhưng có điều khác trước là Hàn lâm viện thời kỳ này phải thừa mệnh của
cả vua và chúa. Các quan Hàn lâm thời Trung hưng có chức tước và phẩm hàm cao.
Ngoài công việc ở Viện Hàn lâm, họ đồng thời còn kiêm nhiệm chức vụ của nhiều

cơ quan khác.
- Đông các được lập ra dưới triều Hồng Đức (1470 – 1479) và tiếp tục được
duy trì trong suốt thời Lê – Trịnh. Đây là cơ quan chuyên việc sửa chữa các bài chế
cáo, thơ, ca, văn thư của vua và chúa. Đồng thời, Đông các còn có nhiệm vụ khác
là trông coi việc bảo cử ở triều đình, sẵn sàng tâu trình lên vua hoặc khải với chúa
về những chức vị xét thấy chưa hợp lý.
- Trung thư giám thời Trung hưng vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức và nhiệm
vụ như thời Lê sơ từ năm 1471. Theo đó, Trung thư giám là cơ quan phụ trách việc
biên chép các tờ kim tiên, ngân tiên, chế, cáo, sắc và các bài biểu, giản, văn tế ở
điện miếu. Đứng đầu Trung thư giám là viên Trung thư giám Xá nhân, giúp việc có
SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

15


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
các chức Trung thư giám Điển thư chuyên khảo về kinh điển và văn thư, Trung thư
giám Chính tự lo việc hiệu đính lại văn bản các bài văn thư.
c. Lục bộ và Lục phiên
Đây là loại cơ quan cơ bản của Triều đình và của Phủ chúa. Thể hiện rõ nhất
sự phân định cơ cấu quyền hạn giữa hai bên. Cạnh Lục bộ của triều đình, theo Đại
việt sử ký tục biên, cuối năm 1718, “bắt đầu đặt Lục phiên. Theo chế độ cũ thì phủ
chúa chỉ có ba phiên binh, hộ, thủy sư, dùng hơn trăm tướng thuộc lại làm việc.
Đến nay mới đặt làm 6 phiên: lại, hộ, lễ, binh, hình, công”.
* Cơ cấu tổ chức của Lục bộ
Cơ cấu tổ chức của Lục bộ được hoàn thiện dưới thời Lê Thánh Tông (1460
– 1497) và tiếp tục được duy trì đến hết thời Lê – Trịnh. Phụ trách mỗi Bộ vẫn là
một ban điều hành gồm một Thượng thư và hai viên Tả hữu thị lang. Thống kê từ
nguồn sử liệu cho thấy các chức trưởng quan Lục bộ được đặt thường xuyên, với số

lượng lớn. Để giải quyết những công việc thường nhật, mỗi Bộ đều có một cơ quan
văn phòng trung ương là Tư vụ sảnh. Tùy theo khối lượng công việc mà mỗi Bộ có
một hoặc một vài cơ quan chuyên môn và các Nha môn thừa hành.
Giúp việc cho Lục bộ có Lục tự, gồm: Đại lý tự, Thái thường tự, Quang lộc
tự, Thái bộc tự, Hồng lô tự và Thượng bảo tự. Đứng đầu mỗi tự là Tự khanh, Thiếu
khanh và Tự thừa. Tuy nhiên, với sự xuất
của Lục phiên và sự suy giảm quyền
TRIhiện
PHIÊN
lực của Lục bộ, Lục tự thời Lê –Trịnh không còn đóng vai trò quan trọng như
trước, các chức đặt ra
chỉ TRI
là “hàm hư không và nhàn tản”.THIÊM TRI
PHÓ
ĐÔ)
Thời kỳ này,(PHÓ
Lục bộ
mặc dù không thay đổi lớn (THIÊM
về cơ cấuĐÔ)
tổ chức so với
trước, nhưng số nhân viên (quan và lại), đặc biệt số lại viên các bộ có sự biến động
thutùy
thuế
theophạm
địa phương
hiệu thu
thuế
lớn quaCác
các hiệu
thời kỳ

theo
vi hoạt độngCác
và quyền
hạn
củatheo
Lụcsản
bộ vật
tại những
thời điểm tương ứng.
Cơphiên
quan tiếp nhận thuế
* Cơ cấu tổ chức của Lục
và cấp phát bổng lộc
SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

16
Cơ quan chuyên môn
Văn phòng trung ương


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Ths. Lương Ban Mai

Sơ đồ 2: Tổ chức Lục phiên thời Lê – Trịnh
Lục phiên là cơ quan thừa hành công vụ quan trọng nhất của Phủ đường thời
Lê – Trịnh, tương ứng với Lục bộ bên triều đình. Mỗi phiên đều được hợp thành
bởi ba hệ thống cơ quan: 1- Hệ thống văn phòng trung ương gồm Công điếm giữ
nhiệm vụ hành chính, chuyên việc thu phát và lưu giữ các công văn, giấy tờ thuộc
Phiên; Loát hiệu chuyên thu nhận những sổ sách về việc thu thuế do các loát quan

(quan thu thuế) đem nộp; Quan khố là kho lưu trữ lúa của bản Phiên; 2- Hệ thống
các hiệu được chia làm ba loại, gồm các hiệu phụ trách thu thuế theo địa phương,
các hiệu phụ trách thu thuế theo sản vật, các hiệu chuyên thu nhận thuế má và cấp
phát bổng lộc; 3- Hệ thống các cơ quan chuyên trách đảm nhận các công việc
chuyên môn của Phiên.
Đứng đầu mỗi phiên là quan Tri phiên, các Phó tri phiên, Thiêm tri phiên
giúp việc. Lúc đầu, với nhiệm vụ chủ yếu là trông coi việc thu thuế do các hiệu
đem nộp nên các chức trưởng quan Lục phiên không mấy quan trọng. Đến khi hiệu
định quan chế năm 1751, các chức quan Lục phiên trở nên rất quan trọng. Phần lớn
SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G
17


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
trong số họ là các văn thần xuất thân khoa mục. Riêng chức Tri phiên chỉ đặt một
người chuyên trách và thường do Thượng thư các bộ đảm nhiệm. Trợ giúp Tri
phiên vẫn gồm 02 Phó tri phiên và 02 Thiêm tri phiên như trước. Chức Phó tri
phiên thường được chọn trong số các viên Thiêm tri, Tự khanh “ở chức đã lâu năm,
làm việc xứng chức, và nghiêm nghị ngay thẳng” để bổ nhiệm. Bên cạnh các chức
trưởng quan nắm quyền quản lý chung, mỗi phiên còn có bộ phận thừa hành công
vụ là các Nội sai và Lại viên. Các chức Nội sai và Lại viên đều do chúa Trịnh tùy ý
bổ dụng, cốt chọn người có năng lực, trung thành với nhà chúa chứ không có quy
định thống nhất.
Như vậy, xét về nguồn gốc, Lục phiên là một sản phẩm đặc biệt và riêng có
của thời Lê – Trịnh. Tổ chức này chưa từng xuất hiện trong lịch sử Việt Nam trước
đó và cả về sau. Tuy nhiên có thể nhận thấy Lục phiên được các chúa Trịnh thiết
lập và kiện toàn trong thế đối sánh với Lục bộ bên triều đình, vì thế Lục phiên có
thể được coi là bản sao nguyên mẫu từ Lục bộ nếu xét về cơ cấu tổ chức. Song dù
vậy, phạm vi quyền hạn cũng như chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan này lại

luôn có sự biến đổi, hoán đổi theo thời gian. Đó là xu hướng tất yếu khi mà vai trò
của các vua Lê ngày càng bị thu hẹp nhường chỗ cho sự gia tăng quyền lực của
chúa Trịnh.
* Phạm vi quyền hạn và sự phân công nhiệm vụ giữa Lục bộ và Lục phiên
Có thể phân theo bốn giai đoạn sau:
- Giai đoạn trước 1718: Tam phiên khi ấy chưa thực sự đóng vai trò quan
trọng trong bộ máy chính quyền triều Lê mà chỉ là một cơ quan nhỏ phục vụ quyền
lợi riêng cho bên Phủ chúa, nên về cơ bản quyền lực của Lục bộ vẫn được bảo toàn,
bởi vì lúc ấy uy thế của Lê đế còn lớn, nhà chúa chưa dám lộ liễu lấn quyền.
- Giai đoạn 1718 – 1751: Chúa Trịnh cho lập đủ Lục phiên và từ đó quyền
hạn, phạm vi hoạt động của cơ quan này ngày càng gia tăng.

SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

18


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
Với quyền quản lý trực tiếp Lục cung, Lục phiên đảm nhận trách nhiệm
trông coi ruộng đất, nhân khẩu và thu tô thuế ở 7115/7727 xã thuộc 11/13 trấn cả
nước. Công việc này trước đây do bộ Hộ đặc trách, nay bộ Hộ chỉ còn quyền thu tô
thuế ở phủ Trung đô và 612 xã còn lại thuộc hai trấn Thuận Hoá và Quảng Nam.
Bộ Hộ cũng không còn nắm quyền quản lý ngân sách quốc gia, mà giới hạn nhiệm
vụ chỉ còn là ấn định các khoản thu chi cho riêng nhà vua, đồng thời quản lý tài
sản, vật dụng hoàng cung. Quyền quản lý việc thu chi cho Phủ chúa và toàn bộ nền
tài chính quốc gia nay thuộc cả về Hộ phiên. Đối với nhiệm vụ cấp phát thóc tiền,
lương bổng cho quan lại trong ngoài và binh sĩ, bộ Hộ nay chỉ còn đóng vai trò
trung gian, tiếp nhận đề nghị từ phía các Bộ, chuyển đạt và nhận tiền từ các Phiên
tương ứng rồi chuyển lại cho Bộ theo yêu cầu.

Trong lĩnh vực quân sự, bộ Binh chỉ nắm quyền ấn định những nguyên tắc
chung về binh nhung, tổ chức quân cấm vệ, trông coi xe ngựa, nghi trượng, khí
giới, việc biên cảnh… và bàn bạc cùng Binh phiên trong các vấn đề về tuyển bổ
binh lính, khám sức khỏe tân binh. Trong khi đó, Binh phiên ngoài trách nhiệm
tham bàn cùng bộ Binh để tuyển chọn binh lính, bổ dụng các chức còn nắm quyền
kiểm kê quân số, đặc biệt là quản lý toàn bộ việc chi tiêu của quân đội toàn quốc.
Trong lĩnh vực hình án, mặc dù bộ Hình vẫn giữ được những chức nhiệm
chính của mình, nhưng đã bị Hình phiên của Lục phiên can thiệp thông qua việc
nắm đặc quyền xét xử tất cả các vụ án liên quan đến vấn đề thuế khóa trên địa bàn
11 trấn do Lục cung quản lý. Sự can thiệp này của Lục phiên cũng không nằm
ngoài mục đích tăng cường khả năng kiểm soát nền kinh tế, tài chính của Phủ chúa.
Với những Bộ còn lại (Lại, Lễ, Công), tuy Lục phiên không can thiệp trực
tiếp vào chức trách chuyên môn, nhưng lại kiểm soát và chi phối tới các Bộ này
thông qua đặc quyền cấp phát kinh phí, lương bổng, phẩm vật.
Như vậy, trong giai đoạn thứ hai, phạm vi hoạt động và quyền hạn của Lục
bộ đã bị sụt giảm đáng kể. Trọng tâm trong bước lấn quyền thứ hai này được chúa
SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

19


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
Trịnh đặt vào lĩnh vực kinh tế, tài chính, thông qua đó mà kiểm soát các quyền lực
khác. Từ đó, “chính quyền trong nước về hết Lục phiên, mà Lục tự, Lục bộ chỉ đặt
cho đủ vị mà thôi”.
- Giai đoạn 1751 – 1762: Hiệu định quan chế (1751) được ban hành đã chính
thức khẳng định quyền hạn của Lục phiên bên cạnh Lục bộ. Với đạo dụ này, Phủ
chúa từ quyền kiểm soát các lĩnh vực quân sự, kinh tế - tài chính đã tiến thêm một
bước trong việc thâu tóm quyền hành trên phương diện chuyên môn của các Bộ.

Những nhiệm vụ trước đây vốn được coi là đặc trách của Lục bộ, thì nay Lục bộ
hoặc phải chia quyền hoặc chỉ còn hoạt động trong phạm vi cung vua mà thôi.
- Giai đoạn 1763 – 1786: Lục phiên được xác lập hoàn toàn quyền về cả
danh nghĩa và thực chất. Lúc này Lục bộ đóng vai trò là những cơ quan cố vấn
danh dự cho Lục phiên, tồn tại bởi hư quyền, trong khi đó mọi quyền hành trước
đây thuộc Lục bộ nay đều do Lục phiên nắm giữ. Cơ cấu quyền lực này kéo dài 14
năm, đến 1787 thì kết thúc cùng với sự sụp đổ của Phủ chúa.
- Giai đoạn 1787 – 1789: chứng kiến sự phục hồi quyền lực của Lục bộ nhà
Lê. Năm 1787, vua Lê Chiêu Thống ban chiếu rằng: “Quốc triều buổi đầu theo đời
xưa đặt quan, đặt ra sáu Bộ, chia việc đốc suất thuộc hạ, giữ liêm giữ phép, cùng
noi theo nhau, mưu lớn về trị bình, để lại làm phép tắc mãi mãi. Từ thời Trung
hưng trở đi, quyền coi việc chia cho sáu Phiên, thể thống rối loạn bởi quan hệ
riêng, tích lâu thành hỏng, nên mới có ngày nay” và hạ lệnh “tham chiếu quan chế
cũ đời Hồng Đức mà định lại”. Tuy nhiên, quyền hạn đó cũng chỉ duy trì trong gần
hai năm thì chấm dứt cùng với sự tiêu vong của triều Lê.
d. Các cơ quan chuyên môn
Để thực hiện các công việc ngoài trách nhiệm của Lục bộ và Lục phiên, triều
Lê – Trịnh tiếp tục duy trì hoạt động của các cơ quan chuyên môn, gồm: Quốc sử
giám, Quốc sử viện, Tư thiên giám, Hà đê sứ và các sở về nông nghiệp… Bên cạnh
đó, noi theo quan chế thời Trần, triều Trung hưng lập Tôn nhân phủ chuyên việc
SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G

20


Khóa luận tốt nghiệp
GVHD: Ths. Lương Ban Mai
khảo xét tài năng, phẩm hạnh của những người trong tôn thất để đưa sang bộ Lại
chọn bổ và chuyên việc khám hỏi các vụ kiện trong hoàng gia. Đứng đầu tôn nhân
phủ là một viên Tôn nhân lệnh, giúp việc có hai viên Tả hữu Tôn chánh, một viên

Thủ lĩnh và một viên Kiểm hiệu.
2.2.2. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
Trên danh nghĩa, hệ thống chính quyền địa phương phụ thuộc vào cả vua và
chúa. Nhưng trong thực tế, do chúa có quyền tuyển bổ, thăng giáng, thuyên chuyển
những quan lại từ hàm tứ phẩm trở xuống và các quan lại địa phương cũng thường
mang hàm từ tứ phẩm trở xuống, nên chính quyền địa phương hầu như là của chúa.
Chính quyền địa phương thời Lê – Trịnh về cơ bản vẫn phỏng theo thời
Hồng Đức (các cấp: đạo, phủ, huyện/châu, xã), tuy vậy có một vài thay đổi. Đầu
thế kỷ XVII, chúa Trịnh đổi 13 xứ thừa tuyên thành 13 trấn (đổi đạo thành trấn).
Đến đầu thế kỷ XVIII, trấn lại được đổi lại thành Thừa tuyên.
Chính quyền mỗi trấn là Tam ty (Trấn ty, Thừa ty, Hiến ty). Đứng đầu Trấn
ty là Đốc trấn hoặc Trấn thủ hay Lưu thủ chuyên giữ quyền hành về quân sự, an
ninh trật tự, xét xử các vụ kiện, vụ án. Từ năm 1726 lập thêm chức Tuần phủ giúp
việc cho Trấn thủ. Thừa ty chuyên trông coi các công việc quản lý dân tình, hành
chính sự vụ, xem xét công trạng các quan lại trong địa hạt của Trấn, đứng đầu là
quan Thừa chính sứ. Hiến ty chuyên giám sát các hoạt động công vụ của các quan
TWvà thẩm định lại những việc do
lại trong Trấn, tổ chức đi tuần đểTRIỀU
dò xétĐÌNH
tình hình
Trấn thủ xét xử, đứng đầu là quan Hiến sát. Dưới trấn vẫn là cấp phủ, huyện/châu
ĐẠO/TRẤN
và xã – đứng đầu là Tri phủ, Tri huyện/Tri
châu và các xã trưởng: chức quan phủ lo
Trấn ty/Thừa ty/Hiến ty
giải quyết những vụ kiện tụng mà huyện/châu xử bị kêu lại, kiểm soát quan huyện
thuộc phủ, đốc thúc thuế khóa, quân dịch, thực hiện lệnh từ trên xuống; chức quan
PHỦ
huyện lo việc tuần hành, bảo vệ an ninh, xét xử kiện tụng, giữ sổ sách thuế khóa,
thừa hành các chiếu chỉ của cấp trên.

HUYỆN
SVTH: Bùi Thị Hòa – KH8G
TỔNG
XÃ/PHƯỜNG

CHÂU
21
XÃ/SÁCH/
ĐỘNG/NGUỒN


×