Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận môn tài chính tiền tệ chủ đề thị trường tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.68 KB, 12 trang )

CHƯƠNG 3: THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

I. Cơ sở hình thành thị trường tài chính.
1. Sự cần thiết khách quan của quá trình điều tiết vốn trong nên kinh tế thị
trường.
Trước đây, khi sản xuất và trao đổi hàng hóa chưa phát triển, quá trình tái sản xuất xã hội
mang nặng tính giản đơn và nền kinh tế không có nhiều dự án đòi hỏi những nguồn vốn
đầu tư lớn. Lượng của cải dư thừa được cất trữ dưới hình thức “cất trữ ngây thơ”.
Khi xã hội phát triển và nền sản xuất hàng hóa được đổi mới về chiều rộng lẫn chiều sâu,
quá trình tái sản xuất đã phát sinh hàng loạt dự án đòi hỏi những khoản vốn đầu tư lớn.
Các doanh nghiệp không thỏa mãn với quy mô hiện có và luôn có kế hoạch ứng dụng
những tiến bộ khoa học kĩ thuật nhằm cải tạo và mở rộng quy mô, nhà nước thực hiện
những công trình phát triển kinh tế xã hội mang tầm vóc quốc gia mà bản thân ngân sách
nhà nước cũng không đủ khả năng đáp ứng. Tất cả đã tạo nên nhu cầu rất lớn về vốn đầu
tư.
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển sôi động, người dân luôn tìm cách so sánh đồng
tiền hiện tại và đồng tiền tương lai, từ đó, muốn tìm mọi biện pháp để tiền được sinh sôi.
Thêm vào đó, với xu hướng quốc tế hóa thị trường thì những nguồn vốn nhàn rỗi từ nước
ngoài cũng tạo nên nguồn cung ứng vốn đầu tư đang đi tìm nơi dừng chân của chúng.
Từ những yếu tố trên, đặt ra yêu cầu là tạo điều kiện cho những dòng chảy cảu vốn gặp
gỡ nhau, thông qua hàng loạt các hình thức đầu tư thích hợp; cho thấy kinh tế thị trường
không chỉ là nơi gặp gỡ của những nguồn cung – cầu về hàng hóa, mà còn là nơi diễn ra
các quan hệ điều tiết vốn tiền tệ, sự giao lưu giữa những nguồn cung – cầu về vốn.
2. Cơ sở hình thành thị trường tài chính.
Sự kết nối giữa cung – cầu về vốn được thực hiện dưới nhiều hình thức:
Tồn tại lâu đời nhất là quan hệ vay mượn trực tiếp giữa các tầng lớp dân cư hoặc quan hệ
tín dụng thương mại giữa các doanh nghiệp. Nhược điểm: quy mô vốn vận động không
lớn và phạm vi vốn điều tiết không rộng.
Hình thức thứ hai là sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các tổ chức tài chính: ngân hàng
thương mại, các tổ chức tín dụng, các công ty tài chính. Nhược điểm: tuy có tính an toàn
ổn định nhưng nguồn vốn tiết kiệm khi gửi ngân hàng sẽ không đem lại nhiều lãi; người


gửi sẽ không biết một cách chính xác đồng vốn của họ đang nằm trong lĩnh vực nào của
nền kinh tế, cự thể hơn là nằm trong vốn kinh doanh của công ty hay xí nghiệp nào.
Hình thức thứ ba được phát triển khi chủ thể đại diện cho nhu cầu vốn đầu tư không
muốn thông qua các tổ chức tài chính trung gian mà họ sẽ chủ động tìm kiếm nguồn vốn
đầu tư bổ sung bằng cách phát hành các chứng từ có giá: tờ công trái do ngân sách nhà
nước phát hành (trái phiếu chính phủ); cổ phiếu, trái phiếu của các doanh nghiệp phát
hành. Đó là những loại giấy tờ có giá trị, gọi chung là các loại chứng khoán. Các loại
chứng khoán được giới đầu tư quan tâm vì nó không những đa dạng về chủng loại, mà
1


người đầu tư sẽ biết chính xác đường đi đồng vốn của mình; người đầu tư không bị bó
buộc trong một phạm vi may rủi hạn hẹp. Và từ đó xuất hiện nhu cầu mua bán, chuyển
nhượng giữa các chủ sở hữu khác nhau các loại chứng khoán. Điều này làm xuất hiện
một loại thị trường để cân đối cung cầu về vốn trong nền kinh tế là thị trường tài chính.
Vậy có thể nói sự ra đời và phát triển của các loại chứng từ có giá và quá trình giao lưu
chuyển nhượng chúng trong nền kinh tế vừa có tác dụng giải quyết vốn đầu tư cho các
chủ thể vay vốn, vừa là cơ sở hình thành thị trường tài chính.
3. Điều kiện cần thiết hình thành thị trường tài chính
_ Nền kinh tế hàng hóa phát triển, tiền tệ ổn định, với mức độ lạm phát có thể kiểm soát
được;
_ Các công cụ của thị trường tài chính phải đa dạng tạo ra các phương tiện chuyển giao
quyền sử dụng các nguồn tài chính;
_ Hình thành và phát triển hệ thống các trung gian tài chính;
_ Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức quản lý nhà nước để giám sát sự
hoạt động của thị trường tài chính;
_ Phải tạo cơ sở vật chất kỹ thuật và hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động
của thị trường tài chính;
_ Cần có đội ngũ các nhà kinh doanh, các nhà quản lý am hiểu thị trường tài chính và
phải có đông đảo các nhà đầu tư có kiến thức, dám mạo hiểm trước những rủi ro có thể

xảy ra.

II. Khái niệm và phân loại thị trường tài chính.
1. Khái niệm.
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động buôn bán các loại giấy có giá, nơi gặp
gỡ của các nguồn cung cầu về vốn, qua đó hình thành nên giá mua và bán các loại cổ
phiếu, trái phiều, kỳ phiếu, tín phiếu,… hình thành nên giá cả các loại vồn đầu tư bao
gồm: lãi suất đi vay, lãi suất cho vay, lãi suất ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Để hình thành nên thị trường tài chính cần có sự kết hợp của ba yếu tố cơ bản:
_ Đối tượng của thị trường tài chính: gồm những nguồn cung và cầu về vốn trong xã hội
như Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và các tầng lớp dân cư.
_ Công cụ tham gia trên thị trường tài chính: bao gồm các loại chứng từ có giá như công
trái do nhà nước phát hành, chứng khoáng do các doanh nghiệp phát hành, các loại trái
phiếu do các tổ chức tài chính phát hành và các loại kỳ phiếu, séc…
_ Chủ thể tham gia trên thị trường tài chính: là những pháp nhân hay thể nhân đại diện
cho những nguồn cung và cầu về vốn nhàn rỗi, chủ yếu là các ngân hàng thương mại,
công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư,… và đặc biệt là các công ty mô giới
2


2. Phân loại.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau ta có thể phân loại thị trường tài chính như sau:
• Dựa vào cách thức huy động vốn trên thị trường tài chính trên cơ sở sử dụng các
công cụ tài chính ta có thị trường các công cụ nợ và thị trường vốn cổ phiếu.
a. Thị trường các công cụ nợ:
Trên thị trường các công cụ nợ, người cần vốn đừng ở tư thế người đi vay sẽ cam kết trả
lãi, kỳ hạn thanh toán và hoàn trả nợ gốc khi phát hành các công cụ nợ để huy động vốn.
Thị trường các công cụ nợ bao gồm:
- Công cụ nợ ngắn hạn: là công cụ nợ có thời gian đáo hạn từ 1 năm trở xuống
- Công cụ nợ trung hạn: là công cụ nợ có thời gian đáo hạn từ 1 năm tới 10 năm

- Công cụ nợ dài hạn: là công cụ nợ có thời gian đáo hạn trên 10 năm.
b. Thị trường cổ phần:
Là thị trường trong đó người cần vốn huy động vốn bằng cách phát hành các cổ phiếu.
Các cổ phiếu này là quyền được chia phần trên lãi ròng và tài sản của các công ty phát
hành cổ phiếu.
• Dựa vào việc mua bán chứng khoán lần đầu chứng khoán mới và mua bán chứng
khoán sau khi phát hành lần đầu người ta chia làm thị trường cấp 1 và thị trường cấp 2.
a. Thị trường cấp 1(thị trường sơ cấp): là thị trường tài chính trong đó những phát hành
mới của chứng khoán được tổ chức phát hành bán cho người mua đầu tiên.
b. Thị trường cấp 2 (thị trường thứ cấp): là thị trường tài chính nơi diễn ra các hoạt động
mua bán lại các chứng khoán được phát hành trên thị trường cấp 1
Dựa vào phương thức giao dịch trên thị trường tài chính, thị trường cấp 2 được chia làm
2 loại: Sở giao dịch và thị trường phi tập trung.
• Căn cứ vào bản chất, chức năng và phương thức hoạt động của các chủ thể tài chính
và các công cụ tài chính giao dịch trên đó, hệ thống tài chính được phân làm 3 thị
trường cơ bản: Thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái và thị trường vốn.
a. Thị trường tiền tệ:
Thị trường tiền tệ là thị trường phát hành và mua bán lại các công cụ tài chính ngắn hạn,
thông thường dưới 1 năm như tín phiếu kho bạc, khoản vay ngắn hạn giữa các ngân hàng,
thoả thuận mua lại, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, ...
b. Thị trường hối đoái:
Tương tự như thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái là nơi giao dịch các công cụ tài chính
tương đối ngắn hạn, nhưng chúng được định giá bằng các loại đồng tiền khác nhau, và ở
thị trường hối đoái cũng chỉ có các giao dịch giữa các đồng tiền khác nhau mới được thực
hiện.
3


c. Thị trường vốn:
Thị trường vốn là thị trường phát hành và mua bán lại các công cụ tài chính có kỳ hạn

trên 1 năm hay chính là nơi giải quyết quan hệ cung - cầu về vốn dài hạn.
Ba loại thị trường trên hình thành hệ thống thị trường tài chính. Hoạt động của mỗi thị
trường có ảnh hưởng, tác động tới các thị trường kia. Thị trường tiền tệ và Thị trường vốn
muốn hoạt động có hiệu quả và phái triển thì phải có Thị trường hối đoái, ngược lại hai
thị trường kia phát triển và mở rộng sẽ thúc đẩy thị trường hối đoái hoạt động sôi động
hơn. Ngoài ra, sự phái triển của Thị trường tiền tệ là cơ sở cho sự phát triển của thị
trường chứng khoán, cũng như một Thị trường chứng khoán phát triển tạo điều kiện cho
Thị trường tiền tệ phát triển lên theo.

III. Chức năng và vai trò của thị trường tài chính.
1. Chức năng.
1.1. Chức năng dẫn nguồn tài chính từ những chủ thể có khả năng cung ứng
nguồn tài chính.
Thị trường tài chính là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu nguồn tài chính, là nơi thu hút mạnh
mẽ nguồn tài chính nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi, chuyển các nguồn này cho các nhu cầu
đầu tư phát triển mở rông sản xuất kinh doanh, hoặc thỏa mãn nhu cầu khác của chủ thể
cần nguồn tài chính, là cầu nối giữa người cung nguồn tài chính và người cần nguồn tài
chính. Nó giúp họ gặp nhau, cung ứng nguồn tài chính cho nhau giữa hình thức mua bán
chứng khoán
1.2. Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho chứng khoán.
Thị trường tài chính là nơi chứng khoán mua bán trao đổi. Bởi vậy nhà đầu tư có thể dễ
dàng chuyển đổi chứng khoán thành tiền hoặc các chứng khoán họ muốn. Khả năng
thanh khoản là một trong những yếu tố quyết định tính hấp dẫn của chứng khoán đối với
các nhà đầu tư.
1.3. Cung cấp thông tin kinh tế và đánh giá.
Chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong đó có nhân tố nội tại của chủ thể phát hành , tức
là tình hình hoạt động và kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, giá trị của
doanh nghiệp có cổ phiếu trên thị trường tài chính phụ thuộc vào tổng giá trị thực tế của
các cổ phần đang lưu hành. Vì vậy, thông qua giá cổ phiếu người ta có thể đánh giá được
giá trị của doanh nghiệp đó.

2. Vai trò.
Thực hiện các chức năng của thị trường tài chính sẽ phát huy được vai trò của thị trường
tài chính. Các vai trò đó là:
2.1. Vai trò thu hút, huy động các nguồn tài chính trong và ngoài nước góp
phần quan trọng tài trợ cho nhu cầu phát triển kt xh, khuyến khích tiết kiệm và đầu
tư.
4


Để phát triển kt - xh cần huy động tối đa các nguồn tài chính. Sự hoạt động của tttc với
các công cụ là chứng khoán, đa dạng về hình thức, phong phú về mệnh giá và thời gian
sử dụng kết hợp với cơ chế lịnh hoạt: mua bán chứng khoán thuận lợi nhanh chóng, do đó
tttc đã thu hút các nguồn tài chính nhàn rỗi bé nhỏ, phân tán trong xh thành nguồn tài
chính to lớn, tài trợ kịp thời cho nhu cầu đầu tư phát triển kt - xh. TTTC với cơ chế pháp
lý hoàn chỉnh, bộ máy quản lý hữu hiệu và sự phổ biến hướng dẫn rộng rãi về chứng
khoàn và đầu tư chứng khoán, người dân sử dụng nguồn tài chính tiết kiệm được của
mình để mua chứng khoán với niềm tin là khoản vốn và lãi của mình sẽ được đảm bảo.
Nguồn tiết kiệm này, nếu không có tttc sẽ tiếp tục nằm yên , không sinh lợi và sẽ không
đóng góp gì cho phát triển kt xh. Hoạt động có hiệu quả của TTTC sẽ làm giảm nhu cầu
tiêu cao,dành nguồn tài chính vào đầu tư , tiền mặt trong tay người tiêu dùng giảm xuống
nên những nhu cầu tiêu dùng cao không thiết yếu sẽ được giảm xuống. Những nhu cầu
thiết yếu sẽ kịp thời được đáp ứng qua hoạt động mua bán chứng khoán. Như vậy tính
thanh khoản của chứng khoán trên tttc đã thúc đẩy tiết kiệm và đầu tư.
Thị trường tài chính không chỉ thu hút vốn trong nước mà còn thu hút nguồn tài chính
nước ngoài. Việc hình thành thị trường tài chính tạo điều kiện cho các NĐT nước ngoài
có các nguồn tài chính với quy mô khác nhau có thể bỏ vào đầu tư mua các chứng khoán
trên thị trường một cách dễ dàng, nhờ đó các nguồn tài chính với các quy mô khác nhau
được vận động từ nước ngoài vào trong nước không cần phải qua các thủ tục phức tạp và
không cần số vốn lớn như hình thức đầu tư trực tiếp. TTTC là nơi NĐT nước ngoài theo
dõi và nhận định hoạt động của các ngành,các doanh nghiệp trong nước. Nó là cầu nối

giữa vốn đầu tư nước ngoài và trong nước , góp phần thực hiện chính sách mở của kinh
tế, tận dụng được nguồn tài chính nước ngoài cung cấp cho sự phát triển kinh tế xã hội
trong nước.
2.2. Vai trò thúc đẩy và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính, giảm chi
phí hợp đồng và xử lý thông tin
Việc huy động và sử dụng nguồn tài chính trên thị trường tài chính diễn ra trên cơ sở
quan hệ cung cầu. Khi sử dụng bất kỳ nguồn tài chính cũng phải trả giá. Điều đó buộc
người cần nguồn tài chính phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng đồng vốn bằng việc lựa
chọn phương án kinh doanh tối ưu, lựa chọn hình thức và thời điểm thích hợp để giảm
giá của việc tài trợ.Mặt khác, thị trường tài chính bắt buộc các doanh nghiệp phải công bố
các vấn đề tài chính, những thông tin về doanh nghiệp và phải đảm bảo tính chính xác
của các thông tin đó. Ban quản lý thị trường chỉ chấp nhận các chứng khoáng của doanh
nghiệp có đủ điều kiện: kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, có doanh lợi và dân
chúng chỉ mua chứng khoáng của doanh nghiệp thành đạt, tương lai sáng sủa. Với sự tự
do lựa chọn của người mua chứng khoáng, không còn cách nào khác hơn là các nhà
doanh nghiệp phải làm ăn tính toán đàng Hoàng, và sử dụng nguồn tài chính, cả tự có, cả
đi vay phải có hiệu quả.
Thị trường tài chính không chỉ thúc đẩy sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính trong từng
doanh nghiệp mà còn thúc đẩy sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính trong tổng thể kinh
tế. Sự đa dạng hóa về thời hạn sử dụng các nguồn tài chính, vừa tận dụng được nguồn tài
chính trong nền kinh tế, vừa tạo điều kiện cho nguồn tài chính vận động từ nơi kinh
doanh kém hiệu quả sang nơi kinh doanh hiệu quả hơn. Với chức năng cung cấp thông tin
chính xác, thị trường tài chính giúp cho người có nguồn tài chính phân tích và có quyết
5


định đúng đắn, đảm bảo cho nguồn tài chính của mình vận động đúng đến nơi mà chúng
được sử dụng có hiệu quả
2.3 Vai trò thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của Nhà nước.
Thị trường tài chính hoạt động đã bổ sung thêm hình thức huy động nguồn tài chính cho

các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian bằng cách phát hành cổ phiếu, trái
phiếu…, giải quyết khó khăn về mặt tài chính, phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp,
các tổ chức tài chính trung gian. Thị trường tài chính còn tạo điều kiện và thúc đẩy các
chủ thể lựa chọn hướng đầu tư đúng đắn và sử dụng vốn có hiệu quả nên đã góp phần
thực hiện chính sách huy động nguồn tài chính , sử dụng nguồn tài chính hay chính sách
tài chính. Một bộ phận quan trọng của chính sách tài chính là chính sách ngân sách. Tận
dụng các nguồn thu ngân sách luôn luôn là vấn đề đặt ra trong chính sách tài chính của
một quốc gia. Thị trường tài chính lại là nơi Nhà nước tiến hành vay nợ dân chúng một
cách dễ dàng nhất Nhà nước cũng có thể vay tổ chức và cá nhân nước ngoài thông qua
phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ. Ở hầu hết các nước , việc nhà nước vay tiền của dân
đã trở thành thông dụng và đã trở lại nguồn thu thường xuyên để cân đối ngân sách. Đây
cũng chính là giải pháp tích cực vì Nhà nước không phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân
sách. Điều này sẽ góp phần giải quyết mộtt rong những nguyên nhân chủ yếu của luật
pháp, làm giảm áp lực của lạm phát, kiềm chế lạm phát. Đồng thời thị trường tài chính
hoạt động có hiệu quả cũng làm giảm tiêu dùng cao, tăng cung nguồn tài chính, khuyến
khích đầu tư. Như vậy sẽ góp phần làm giảm nhu cầu kéo, giảm chi phí đẩy, tăng cung
hàng hóa, góp phần giải quyết lạm phát, thực hiện chính sách tiền tệ.
2.4. Giảm thiểu rủi ro bằng cách đa dạng hóa đầu tư.
Thị trường tài chính giúp nhà đầu tư linh hoạt hơn trong việc đầu tư. Nhà đầu tư có thể
lựa chọn danh mục mình tin tưởng, đảm bảo vốn và lợi nhuận. Với việc linh hoạt lựa
chọn danh mục đầu tư , NDT có thể dàn trải nguồn tài chính đầu tư vào từ đó cả thể làm
giảm rủi ro.

IV. Thị trường tiền tệ.
1. Khái niệm và phân loại.
1.1. Khái niệm.
Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn có kỳ hạn dưới
một năm, là nơi đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cho nền kinh tế.
1.2. Phân loại.
Phân loại thị trường tiền tệ dựa trên một số tiêu thức sau:

_ Nếu căn cứ vào cơ cấu tổ chức, thị trường tiền tệ bao gồm:
a) Thị trường tiền tệ cổ Điển: là thị trường vay vốn ngắn hạn giữa các tổ chức tín dụng và
đặt dưới sự quản lý của ngân hàng trung ương.
6


b) Thị trường tiền tệ mới: Đây là thị trường các trái phiếu ngắn hạn, cơ cấu của nó gồm 2
cấp:
• Thị trường tiền tệ sơ cấp: là thị trường tiền tệ chuyên phát hành các loại trái phiếu ngắn
hạn lần đầu.
• Thị trường tiền tệ thứ cấp: là thị trường tiền tệ tổ chức mua bán lại các trái phiếu đã phát
hành ở thị trường sơ cấp.
• Thị trường mở: là thị trường mua bán các loại chứng khoán nhà nước ngắn hạn như: tín
phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ,... nhằm điều tiết cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế.
Tức là thông qua thị trường mở, Ngân hàng trung ương (NHTW) có thể làm cho “tiền dự
trữ” của các Ngân hàng thương mại (NHTM) tăng lên hoặc giảm xuống, từ đó tác động
đến khả năng cung cấp tín dụng của NHTM làm ảnh hưởng đến khối lượng tiền tệ của
nền kinh tế.
_ Nếu căn cứ vào đối tượng tham gia trên thị trường, thị trường tiền tệ bao gồm:
a) Thị trường tín dụng ngắn hạn giữa các NHTM (hay thị trường liên ngân hàng –
Interbank): Thị trường này dưới sự điều hành của NHTW nhằm mục đích điều tiết vốn
trong hệ thống NHTM đồng thời tạo điều kiện cho NHTW thực hiện vai trò là người cho
vay cuối cùng.
b) Thị trường các công cụ nợ ngắn hạn như: tín phiếu kho bạc, thương phiếu, kỳ phiếu
ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi, các khế ước cho vay, … bao gồm cả thị trường phát hành
và thị trường lưu thông, thị trường này biểu hiện cho sự phát triển thị trường tiền tệ.
c) Thị trường hối đoái: là thị trường giao dịch các loại ngọai tệ và các phương tiện thanh
toán có giá trị ngoại tệ, là một bộ phận quan trọng trong kết cấu thị trường tiền tệ. Thị
trường hối đoái mang đặc trưng là tính quốc tế cao, hoạt động của nó đáp ứng những nhu
cầu về thương mại, đầu tư ngắn hạn trên bình diện quốc tế, đặc biệt là tạo điều kiện can

thiệp của NHTW nhằm đảm bảo sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia.
2. Chủ thể tham gia trên thị trường tiền tệ.
Các chủ thể tham gia trên thị trường tiền tệ bao gồm:
_ Ngân hàng trung ương: là chủ thể quan trọng, đặc biệt trên thị trường tiền tệ, có nhiệm
vụ cung cấp cho hệ thống ngân hàng khả năng thanh toán cần thiết để đáp ứng nhu cầu
cho nền kinh tế, tương ứng với các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
_ Ngân hàng thương mại: là chủ thể trung gian trên thị trường tiền tệ, vừa là người được
vay, vừa là người cho vay ngắn hạn.
_ Kho bạc nhà nước: tham gia thị trường tiền tệ chủ yếu để vay nợ, bù đắp thiếu hụt tạm
thời của ngân sách Nhà nước và thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách phát hành tín
phiếu kho bạc.
_ Người đầu tư bao gồm các tổ chức tài chính tín dụng, các tổ chức KT - XH và người
đầu tư tư nhân tham gia với mục đích duy trì khả năng thanh toán, huy động thêm nguồn
tài chính, bù đắp cho phần thiếu hụt, cho vay nguồn tài chính dư thừa để kiếm lời hoặc đề
phòng rủi ro trong đầu tư.
7


_ Người môi giới và người kinh doanh: Người môi giới đưa người mua và người bán lại
với nhau để hưởng hoa hồng. Chức năng của người môi giới là cung cấp thông tin cho
các chủ thể tham gia thị trường.
3. Các nghiệp vụ trên thị trường tiền tệ.
3.1. Nghiệp vụ vay và cho vay vốn ngắn hạn.
Nghiệp vụ này diễn ra chủ yếu giữa các ngân hàng thương mại , xuất phát từ họat động
kinh doanh tiền tệ, tại một thời điểm nhất định một số ngân hàng thương mại tạm thời
thừa vốn trong khi đó một số ngân hàng thương mại khác rơi vào tình trạng thiếu vốn tạm
thời. Do đó để đảm bảo cho khả năng thanh toán, quan hệ điều tiết vốn giữa các Ngân
hàn thương mại diễn ra thông qua các hình thức sau:
_Cho vay bằng tiền mặt:
Khi Ngân hàng thương mại thiếu hụt vốn tạm thời, có thể đi vay tại một Ngân hàng

thương mại khác đang thừa vốn tạm thời tại thời điểm đó để đảm bảo khả năng thanh
toán. Giao dịch liên ngân hàng chủ yếu dưới hình thức tín chấp hoặc đảm bảo bằng số dư
tiền gửi đối ứng tại ngân hàng cho vay…; Thời hạn cho vay rất ngắn: hàng ngày (qua
đêm), định kỳ 1 tuần, 2 tuần, tháng…
_ Cho vay dưới hình thức cầm cố hoặc chiết khấu các chứng từ có giá:
Khi có nhu cầu lớn về vốn, các Ngân hàng thương mại đã vay vốn tại các Ngân hàng
thương mại khác nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu thì Ngân hàng trung ương có thể
hỗ trợ bằng các nghiệp vụ sau:
+Tái chiết khấu chứng từ có giá: Ngân hàng trung ương sẽ nhận chiết khấu lại những
chứng từ có giá mà trước đây Ngân hàng thương mại đã chiết khấu cho khách hàng.
+Bảo chứng lại: Ngân hàng trung ương sẽ cho Ngân hàng thương mại vay vốn trên cơ
sở cầm cố các chứng từ có giá mà trước đây Ngân hàng thương mại đã nhận cầm cố từ
khách hàng
3.2. Nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn.
Công cụ chủ yếu của nghiệp vụ này là các loại trái phiếu ngắn hạn được phát hành từ thị
trường tiền tệ sơ cấp và bán lại ở thị trường thứ cấp.
Nghiệp vụ này phát sinh trong trường hợp một số chủ thể kinh tế cần bổ sung vốn bằng
tiền của mình nên phát hành một lượng trái phiếu ngắn hạn ra thị trường, trong khi một
số chủ thế khác đang muốn sinh lợi cho khoản vốn nhàn rỗi của mình bằng con đường
kinh doanh trên thị trường tiền tệ, họ sẽ mua bán trái phiếu ngắn hạn. Ở nghiệp vụ này,
ngoài trái phiếu ngắn hạn thì còn có kỳ phiếu thương mại, khế ước nợ, kỳ phiếu ngân
hàng, các lọai thư tín dụng…. Và đặc biệt là họat động của thị trường mở - thực hiện việc
mua bán ngắn hạn dưới 1 năm các giấy tờ có giá trị như tín phiếu, trái phiếu kho bạc.
Thông qua nghiệp vụ này, Ngân hàng trung ương điều tiết cung cầu về tiền tệ: tùy theo
mục tiêu từng thời kỳ mà Ngân hàng trung ương bơm tiền hay rút bớt tiền ra khỏi lưu
thông.
8


V. Thị trường vốn.

1. Khái niệm và phân loại.
1.1. Khái niệm.
Thị trường vốn là thị trường giao dịch của các công cụ tài chính có kỳ hạn trên một năm ,
là thị trường cung ứng vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế.
1.2. Phân loại.
Nhìn chung thị trường vốn bao gồm:
_ Thị trường vay nợ dài hạn biểu hiện qua hoạt động của hai dạng thị trường phổ biến là
thị trường tín dụng thuê mua và trị trường vay thế chấp
_ Thị trường chứng khoán
Phân loại thị trường vốn có thể dựa vào một số căn cứ sau:
⃰ Căn cứ vào cơ cấu tổ chức thị trường tài chính được chia thành thị trường sơ cấp và thị
trường thứ cấp
-Thị trường sơ cấp là thị trường trong đó các chứng khoán mới được các nhà phát hành
bán cho các khách hàng đầu tiên, và do vậy còn được gọi là thị trường phát hành. Thị
trường sơ cấp tạo điều kiện tăng quy mô vốn đầu tư và là nơi cung ứng chứng khoán vào
lưu thông.
- Thị trường thứ cấp là thị trường trong đó các chứng khoán đã được phát hành trên thị
trường sơ cấp được mua đi bán lại, làm thay đổi quyền sở hữu chứng khoán.Thị trường
thứ cấp được xem như thị trường bán lẻ các chứng khoán để phân biệt với thị trường sơ
cấp là thị trường bán buôn các chứng khoán.
Sự khác nhau chủ yếu giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là ở chỗ hoạt động của
thị trường sơ cấp làm gia tăng thêm vốn cho nền kinh tế còn hoạt động của thị trường thứ
cấp chỉ làm thay đổi quyền sở hữu các chứng khoán đã phát hành, mà không làm tăng
thêm lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có
mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau.
⃰ Căn cứ vào các công cụ tham gia trên thị trường vốn, thị trường vốn được cấu thành bở
3 bộ phận:
- Thị trường chứng khoán nhà nước: là nơi mua bán các loại giấy ghi nợ do nhà nước
phát hành để huy động vốn trong xã hội như công trái, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ đầu
tư.

- Thị trường trái phiếu doanh nghiệp: là nơi mua bán các loại trái phiếu do doanh nghiệp
phát hành để huy động vốn.
- Thị trường cổ phiếu: là thị trường có lãi suất phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của
công ty. Phản ánh đời sống, kinh tế chính trị , xã hội.
2. Các công cụ trên thị trường vốn.
9


Các công cụ trên thị trường vốn bao gồm 2 loại chủ yếu là những công cụ vốn và công cụ
nợ có thời gian đáo hạn trên 1 năm. Công cụ vốn biểu hiện dưới hình thức cổ phiếu và
các công cụ nợ bao gồm các loại trái phiếu.
2.1. Cổ phiếu.
- Cổ phiếu: là là một loại chứng khoán xác nhận quền sở hữu vốn góp vào công ty và
quyền được hưởng 1 khoản cổ tức theo định kỳ.
- Phân loại:
* Dựa vào hình thức cổ phiếu, có thể phân biệt cổ phiếu ghi danh và cổ phiếu vô danh.
_ Cổ phiếu ghi danh: là cổ phiếu có ghi tên người sở hữu trên tờ cổ phiếu. Cổ phiếu này
có nhược điểm là việc chuyển nhượng phức tạp, phải đăng ký tại cơ quan phát hành và
phải được Hội đồng Quản trị của công ty cho phép.
_ Cổ phiếu vô danh: là cổ phiếu không ghi tên người sở hữu. Cổ phiếu này được tự do
chuyển nhượng mà không cần thủ tục pháp lý.
* Dựa vào quyền lợi mà cổ phiếu đưa lại cho người nắm giữ, có thể phân biệt cổ phiếu
phổ thông (cổ phiếu thường) và cổ phiếu ưu đãi.
_ Đây là cách phân loại phổ biến nhất. Khi nói đến cổ phiếu của một công ty, người ta
thường nói đến cổ phiếu phổ thông (cổ phiếu thường) và cổ phiếu ưu đãi. Các loại cổ
phiếu này tuơng ứng với các loại cổ phần.
2.2. Trái phiếu.
- Trái phiếu: là một chứng thư xác nhận nghĩa vụ trả những khoản lãi theo định kỳ và vốn
gốc đến hạn của tổ chức phát hành. Nó có bản chất là công cụ nợ, phản ánh mối quan hệ
vay mượn giữa người đi vay là nhà phát hành và người cho vay là các nhà đầu tư.

- Phân loại:
Căn cứ vào chủ thể phát hành, trên thị trường vốn có các loại trái phiếu sau:
_ Trái phiếu doanh nghiệp: là loại trái phiếu do các công ty hoặc các xí nghiệp đang hoạt
động phát hành với mục đích bổ sung vốn kinh doanh.
Trái phiếu doanh nghiệp có các loại như sau:
+ Trái phiếu có đảm bảo bằng tài sản của công ty hoặc được bảo lãnh bởi uy tín của
một doanh nghiệp khác (thường là ngân hàng đầu tư hoặc công ty chứng khoán…).
+ Trái phiếu không cần đảm bảo: thông thường trái phiếu này được phát hành từ một
công ty danh tiếng đã hoạt động lâu năm hoặc từ một công ty công cộng.
+ Trái phiếu có thể chuyển hoán thành cổ phiếu thường của công ty, loại trái phiếu
này sẽ tăng giá nếu công ty làm ăn phát đạt.
+ Trái phiếu phát hành bán với mệnh giá: Loại trái phiếu này được công ty phát hành
trong thời kỳ lãi suất tín dụng trên thị trường tiền tệ đang cao.
10


_ Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm bù đắp cho
những thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích hoặc làm công cụ điều tiết
tiền tệ. Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoáng không có rủi ro thanh toán và có tính
thanh khoản cao.
_ Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho những
muc đích cụ thể, thường là để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng hay công trình phúc
lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ trung ương hoặc chính quyền địa
phương phát hành.
_ Trái phiếu đầu tư do một công ty đầu tư phát hành, người mua trái phiếu sẽ là người gia
nhập quỹ đầu tư.
3. Các chủ thể hoạt động trên thị trường vốn.
_ Chủ thể phát hành chứng khoán: đây là chủ thể có nhu cầu về vốn đầu tư và được Nhà
nước cho phép phát hành chứng khoán để huy động vốn. Họ đại diện cho nguồn cung
ứng chứng khoán vào lưu thông, đó là các công ty, xí nghiệp, các tổ chức tài chính và

Nhà nước...
_ Người đầu tư: đó là những người có vốn nhàn rỗi và họ muốn mua chứng khoán trên
thị trường để kiếm lời. Với mục đích đầu tư lâu dài họ thường nắm giữ chứng khoán của
những công ty có uy tín. Những người đầu tư trên thị trường là những pháp nhân kinh tế
và các thể nhân.
_ Người môi giới chứng khoán: nguyên tắc cơ bản của hoạt động giao dịch trên thị
trường chứng khoán là nguồn cung - cầu chứng khoán thường được kết nối thông qua
tầng lớp trung gian đó là người môi giới chứng khoán. Vì vậy người môi giới có vị trí
quan trọng nhất định đối với sự tồn tại và nhịp sống sôi động của thị trường chứng khoán.
Người môi giới có thể hoạt động với tư cách là thể nhân hay pháp nhân (công ty môi
giới). Để hành nghề mô giới phải được Nhà nước cấp giấy phép, phải hội đủ các điều
kiện mà quy chế về nghề môi giới theo luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán ban
hành. Hoạt động môi giới theo đúng nghĩa là chỉ nhận lệnh mua hoặc bán chứng khoán
cho khách hàng để hưởng hoa hồng, nghĩa là họ không được mua bán chứng khoán cho
chính mình nhằm đảm bảo tính khách quan trong nghề môi giới. Do đó, người môi giới
giống như một đại lý trung gian.
_ Người kinh doanh chứng khoán: không giống như người môi giới, người kinh doanh
chứng khoán chỉ mua bán chứng khoán cho bản thân nhằm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên,
hoạt động của họ có ý nghĩa nhất định khi luật chứng khoán các nước quy định người
kinh doanh chứng khoán phải giành một tỷ lệ phần trăm trong giao dịch của mình vào
mục đích điều tiết giá chứng khoán trên thị trường. Họ chỉ được mua vào khi giá của đợt
bán ra trước đó giảm và chỉ bán ra khi giá của đợt bán ta trước đó tăng.
_ Người tổ chức thị trường: là Ban điều hành của các Sở giao dịch giữ nhiệm vụ tổ chức
các khâu hoạt động trên thị trường, là người chuyển tải những luật lệ của Nhà nước vào
thực tiễn quản lý thị trường.

11


_ Người điều hòa thị trường: là cơ quan được Nhà nước thành lập như Ủy ban điều hành

thị trường chứng khoán, Hội đồng chứng khoán Quốc gia... giữ nhiệm vụ ban hành các
luật lệ, tổ chức giám sát hoạt động giao dịch và mua bán chứng khoán trên thị trường.

12



×