Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Mối quan hệ giữa tăng trưởng bảo hiểm xã hội và tăng trưởng tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.83 KB, 11 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN
BẢO HIỂM XÃ HỘI

GVGD: Nguyễn Thị Chính
Sinh viên: Ngô Thị Ninh
Mã SV: CQ512367
Lớp tín chỉ: Bảo hiểm xã hội_1
STT:21
Hà Nội, tháng 10 năm 2011

Bài làm


Câu 1: Mối quan hệ giữa BHXH và tăng trưởng và phát triển ở Việt Nam
BHXH theo quan niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), là sự bảo đảm thu nhập
cho người lao động trong những trường hợp họ gặp phải những "biến cố" như ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già… phải tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng
lao động hoặc bị chết, thông qua các biện pháp công cộng. Như vậy, về bản chất, BHXH
là bảo hiểm thu nhập. Chính vì là sự bảo hiểm thu nhập, nên BHXH có cả tính kinh tế và
tính xã hội, mặc dù tính xã hội là tính nổi trội, là tính chủ đạo trong các hoạt động và
trong biểu hiện.
_ Là nhu cầu khách quan đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản
xuất hang hóa hoạt động theo cơ chế thị trường,mối quan hệ thuê mướn lao động
phát triển đến một mức độ nhất định.
_Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động giữa 3
bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH .Bên tham gia BHXH có thể chỉ là
có thể là nguwoif lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên
BHXH thong thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước lập ra và bảo trợ.
_ Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có


thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người
_Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố,
rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại.
Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn dc sử hộ trờ
từ phia nhà nước.
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một
thời kỳ nhất định (thường là một năm). Đó là sự gia tăng quy mô sản lượng nhah hay
chậm so với thời điểm gốc . Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố , nhưng
chủ yếu là:
Vốn:
- Là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra được tích luỹ lại cộng với tài nguyên
thiên nhiên.
- Vốn được thể hiện dưới nhiều hình thức: Hiện vật và tiền tệ.
- Mối quan hệ giữa tăng GDP với tăng vốn đầu tư gọi là hiệu suất sử dụng vốn sản
phẩm gia tăng ICOR. Những nền kinh tế thành công thường là: Tằng 3% vốn đầu tư thì


tăng 1% GDP.
- Vai trò của nhân tố vốn đối với tăng trưởng kinh tế không chỉ thể hiện mức vốn đầu
tư mà còn ở hiệu suất sử dụng vốn.
Con người.
- Là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. Đó là con người có sức khỏe, có
trí tuệ, kỹ năng cao ý chí và nhiệt tình lao động, được tổ chức hợp lý.
- Con người là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững vì:
+ Tài năng, trí tuệ của con người là vô tận. Đây là yếu tố quyết định trong nền kinh tế
trí thức. Còn vốn tài nguyên thiên nhiên là hữu hạn.
+ Con người sáng tạo ra kỹ thuật công nghệ, và sử dụng chúng để sản xuất. Nếu không
có con người các yếu tố này không thể tự phát sinh tác dụng.
Vì vậy, phát triển giáo dục - đào tạo, y tế... là để phát huy nhân tố con người.
Khoa học và công nghệ.

- Kỹ thuật tiên tiến và công nghệ mới; nhất là công nghệ cao là động lực quan trọng đối
với tăng trưởng kinh tế ....Đây là nhân tố cho phép tăng trưởng kinh tế và tái sản xuất
mở rộng theo chiều sâu.
Cơ cấu kinh tế.
Thể chế chính trị và quản lý nhà nước.
- Đây là nhân tố quan trọng và có quan hệ với các nhân tố khác. Thể chế chính trị ổn
định và tiến bộ cùng với sự quản lý có hiệu quả của nhà nước tạo điều kiện để tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững; khắc phục được những khuyết tật của các kiểu
tăng trưởng kinh tế: gây ô nhiễm môi trường; phân hoá giầu nghèo....
=>Muốn tăng trưởng kinh tế tốt phải đảm bảo thực hiện tốt các nhân tố trên. Nhưng
trong đó yếu tố con người và thể chế chính trị là hai nhân tố có vai trò to lớn, đặc biệt
là nhân tố con người.
Phát triển kinh tế và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ nhưng không
đồng nhất với nhau. Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn
thiện cơ cấu, thể chế kinh tế và chất lượng cuộc sống. Muốn phát triển kinh tế phải có
sự tăng trưởng kinh tế, nhưng không phải sự tăng trưởng kinh tế nào cũng dẫn tới sự
phát triển kinh tế .
Các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế.
- Những yếu tố thuộc về LLSX.
+ Các yếu tố thuộc về LLSX tạo thành các yếu tố đầu vào của sản xuất; số lượng và
chất lượng của các yếu tố đầu vào quyết định đến số lượng và chất lượng của hàng


hoá, dịch vụ và ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế:
Ngày nay khi khoa học và công nghệ phát triển thì sự vận dụng vào sản xuất là vô cùng
quan trọng để phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Nhưng nhân tố hàng đầu của LLSX luôn luôn là con người, Đặc biệt trong điều kiện phát
triển khoa học và công nghệ. Vì vậy đầu tư cho các lĩnh vực để phát huy nhân tố con
người chính là đầu tư cho phát triển kinh tế.
- Những nhân tố thuộc về quan hệ sản xuất:

- Những nhân tố thuộc về kiến trúc thượng tầng:
Quan hệ giữa phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.
Tiến bộ xã hội :
Là sự phát triển con người một cách toàn diện, phát triển các quan hệ xã hội công bằng
và dân chủ.
- Tiến bộ xã hội thể hiện ở các mặt:
+ Sự công bằng xã hội: ở mức sống con người tăng lên; sự phân hoá giàu nghèo ít,
chênh lệch về trình độ phát triển giữa các khu vực nhỏ đi
Tiến bộ xã hội được thể hiện tập trung ở sự phát triển nhân tố con người.
Liên hợp Quốc dùng chỉ số HDI làm tiêu chí đánh giá tiến bộ và sự phát triển của mỗi
quốc gia:
• Tuổi thọ bình quân.
• Thành tựu giáo dục: trình độ học vấn của người dân và số năm đi học bình quan của
người dân tính từ tuổi đi học.
• Mức thu nhập bình quân đầu người.
Quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội.
Phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau.
- Phát triển kinh tế là cơ sở cho tiến bộ xã hội. Tiến bộ xã hội biếu hiện ở sự tăng mức
sống của con người, tức là kinh tế phải tăng trưởng làm cho GDP/ người tăng lên. Tiến
bộ xã hội còn biểu hiện ở sự giảm khoảng cáchgiàu nghèo, ở trình độ phát triển giữa
các vùng chênh lệch ít. Muốn vậy kinh tế phải phát triển mới có thể tạo điều kiện vật
chất để thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo, đầu tư cho phát triển ở các
vùng lạc hậu. Tiến bộ xã hội cũng thể hiện nâng cao dân trí, học vấn, phục vụ y tế, việc
mở rộng các loại phúc lợi xã hội......
- Tiến bộ xã hội lại thúc đẩy sự phát triển kinh tế hơn nữa. Một mặt tiến bộ xã hội xác
định các nhu cầu mới của đời sống xã hội, đòi hỏi nền kinh tế phải đáp ứng. Mặt khác


tiến bộ xã hội thể hiện ở mức sống của con người tăng lên, trình độ học vấn, dân trí
tăng lên, công bằng xã hội tốt hơn... làm cho xã hội ổn định, khả năng lao động sáng

tạo và nhịt tình lao động của con người tốt hơn, thúc đảy kinh tế phát triển hơn.
Quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội suy cho đến cùng thực chất là quan
hệ biện chứng giữa sự phát triển LLSX với sự phát triển quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng.
=>Quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội về thực chất là mối quan hệ biện
chứng giữa sự phát triển của LLSX với sự phát của QHSX và của KTTT tức là sự phát
triển của hình thái KTXH.
Từ các khái niệm và những nhân tố ảnh hưởng tới tăng trưởng và phát triển ta
thấy rằng: BHXH có mối quan hệ hữu cơ với tăng trưởng và phát triển kinh tế cụ thể :
Tăng trưởng và phát triển gắn bó chặt chẽ với nhau , số lượng và chất lượng phải
đảm bảo bền vững xã hội, chính vì vậy BHXH đã đi vào một cách trực tiếp và gián tiếp.
Nguồn quỹ đã đưa vào bằng hình thức tín dụng,tù đó cũng tạo cho đầu tư về khoa học
kĩ thuật trang thiết bị hiện đại hơn. Nhân tố con người là quan trọng nhất: con người
có tay nghề , có năng suất lao động cao họ sẵn sàng làm việc với năng lực có thể, khi họ
đảm bảo an toàn, không lo ngại rủi ro, san sẽ với mọi người , có mối quan hệ bền chặt
vói nhau => sẽ tạo ra một hệ thống ra tăng lên số lượng và chất lượng cho đất nước.
BHXH góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế
Như đã biết, trong kinh tế thị trường, BHXH được thực hiện theo cơ chế ba bên (người
lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước).
Người lao động khi tham gia BHXH phải đóng góp một phần trong tiền lương/thu nhập
của mình để tự bảo hiểm cho mình.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng BHXH cho người lao động mà họ thuê
mướn hoặc sử dụng, thông qua đóng góp một phần trong quỹ lương trả cho người lao
động.
Nhà nước với tư cách là "người sử dụng lao động" đối với đội ngũ công chức và những
người hưởng lương từ ngân sách, có trách nhiệm BHXH cho những đối tượng này,
thông qua việc trích một phần từ quỹ tiền lương (thực chất là từ ngân sách) để đóng
góp BHXH. Ngoài ra, với tư cách là người quản lý xã hội, Nhà nước có những đóng góp
gián tiếp hoặc có những hỗ trợ, bảo trợ cho hoạt động tài chính BHXH.
Những đóng góp của các bên tham gia BHXH nêu trên là những nguồn cơ bản hình

thành quỹ BHXH.
Ngoài những đóng góp trên, quỹ BHXH còn có có các nguồn thu khác, như thu từ các


hoạt động đầu tư, thu từ các khoản nộp phạt do chậm nộp BHXH của các cơ quan,
doanh nghiệp, thu từ các hỗ trợ của các tổ chức quốc tế (nếu có) và các khoản thu
khác. Nếu gọi Q là tổng quỹ BHXH thì cơ cấu quỹ dưới dạng nguồn như sau:
Q = Đlđ + Đsdlđ + Đnn + Tnp + Hqt + Lđt + Tk
Trong đó:
-Đlđ - Đóng góp của người lao động
-Đsdlđ - Đóng góp của người sử dụng lao động
- Đnn - Đóng góp hoặc hỗ trợ của Nhà nước
- Tnp - Thu từ nộp phạt do chậm nộp BHXH của DN
- Hqt - Khoản hỗ trợ quốc tế (nếu có)
- Lđt - Khoản thu từ lãi đầu tư
- Tk - Thu khác
Chức năng của quỹ BHXH là để chi trả các trợ cấp BHXH và chi phí cho các hoạt động
của hệ thống BHXH. Tuy nhiên, do tính đặc thù, các chi phí BHXH phát sinh không đồng
đều và dàn trải theo thời gian và theo không gian, đặc biệt là các chi phí cho các trợ
cấp dài hạn, nên quỹ BHXH luôn luôn có một lượng "nhàn rỗi tương đối" chưa dùng
đến. Vì quỹ BHXH cũng là một quỹ tiền tệ, nên dòng tiền cần được đưa vào sử dụng để
bảo toàn và tăng trưởng giá trị. Cũng do tính đặc thù, nên việc đầu tư của quỹ BHXH
không thể như những quỹ kinh doanh khác, mà phải đảm bảo những nguyên tắc cơ
bản là: an toàn, thuận tiện khi thu hồi vốn, phục vụ cho những lợi ích công cộng. Vì
vậy, những hướng đầu tư của quỹ BHXH thường là cho Chính phủ vay hoặc trực tiếp
được đầu tư vào các dự án phát triển hoặc những công trình phúc lợi (xây nhà ở cho
người lao động, xây dựng đường xá…). ở Pháp, quỹ BHXH lớn gấp 3 - 4 lần ngân sách
của Chính phủ và thường được đầu tư vào phát triển hạ tầng cơ sở. Phần nhàn rỗi của
quỹ BHXH của Italia chủ yếu được đầu tư vào phát triển nhà ở cho người lao động thuê
lại. Hiện nay, số “tiền nhàn rỗi tương đối’’ của quỹ BHXH lên tới 30.000 tỷ đồng. Nếu

được đầu tư tốt sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế rất lớn. Các khoản đầu tư này của
quỹ BHXH một mặt tạo ra “lợi nhuận” thêm cho quỹ BHXH; mặt khác đã trực tiếp hoặc
gián tiếp tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đây chính là mối quan
hệ bản chất (theo chiều thuận) giữa BHXH và tăng trưởng kinh tế. Theo các nhà kinh
tế, nếu được đầu tư đúng hướng và hiệu quả, quỹ BHXH là nhân tố nhân văn rất quan
trọng, góp phần tăng trưởng kinh tế “sạch’’ và tạo ra hiệu ứng kép là tác động ngược
lại tới sự ổn định của hệ thống BHXH.
Mối quan hệ của tăng trưởng và phát triển kinh tế đối với BHXH


Tăng trưởng và phát triển đã đạt được rôi: khi đó xã hội đã lành mạnh , thu nhật đã
khá giả thì việc lo ăn áo mặc đã chở nên quá bình thường , người dân chú trọng hơn
tới sức khỏe và quan tâm đén những chính xách biện pháp giúp họ an toàn nên BHXH
đã tạo niềm tin và hi vọng về điều đó cho họ, họ sẵn sàng đóng góp vào quỹ, họ sắn
sàng san sẻ khi họ cảm thấy họ không bị thiệt hại.
Như đã nêu trên, trong nền kinh tế thị trường việc tham gia BHXH được thể hiện
thông qua việc đóng góp BHXH của các bên. Như vậy, trong mối quan hệ đóng góp của
ba bên này đều có liên quan đến thu nhập. Đối với người lao động đóng góp BHXH liên
quan đến thu nhập, tiền lương. Đối với người sử dụng lao động đó là quỹ lương của cơ
quan, doanh nghiệp. Đối với Nhà nước là khoản chi từ ngân sách. Ban đầu, khi mới xây
dựng hệ thống BHXH theo cơ chế thị trường, số người thụ hưởng còn ít so với số
người tham gia BHXH. Theo thời gian, sự già hoá dân số ngày càng tăng lên, tỷ lệ phụ
thuộc (người hưởng BHXH và người làm việc có tham gia BHXH) ngày càng tăng lên,
nghĩa là số người hưởng BHXH ngày càng nhiều lên. Do vậy, chi phí BHXH ngày càng lớn
lên và gia tăng. Ví dụ, ở Việt Nam hiện nay số người hưởng hưu trí các loại khoảng 2
triệu người và số người tham gia BHXH khoảng 4 triệu người (làm tròn số). Nghĩa là, có
hai người tham gia BHXH thì có một người hưởng, hay nói cách khác tỷ lệ phụ thuộc là
50%. Nếu không mở rộng đối tượng tham gia BHXH, tỷ lệ này sẽ tăng lên đáng kể trong
một số năm tới. Điều này đồng nghĩa với việc quỹ BHXH sẽ giảm đi với tốc độ ngày
càng nhanh. Để khắc phục điều này, có một số cách thường được áp dụng:

- Mở rộng đối tượng tham gia BHXH (cách này thường chỉ được áo dụng đối với những
hệ thống BHXH mới, ví dụ như Việt Nam, còn đối với những nước mà đại đa số người
dân đều đã tham gia BHXH, việc mở rộng đối tượng rất khó khăn).
- Tăng mức đóng góp của các bên tham gia BHXH. Cách này thường được áp dụng hoặc
là đều kỳ (5 năm hoặc 10 năm lại điều chỉnh tỷ lệ đóng góp) hoặc là tăng dần (mỗi năm
hoặc 1 - 2 năm tăng tỷ lệ đóng góp lên một tỷ lệ nhất định).
Ngoài ra, còn có những cách khác như "xiết chặt" các điều kiện để được hưởng BHXH
như tăng tuổi nghỉ hưu, quy định thời hạn "dự bị" phải đóng góp hoặc phải tham gia
BHXH một thời gian trước khi hưởng trợ cấp…
Những sự thay đổi trên đều ảnh hưởng đến thu nhập của các bên tham gia BHXH.
Dưới giác độ người lao động, để vừa đảm bảo được những chi tiêu thường xuyên và
ngày càng tăng lên của gia đình và vừa thực hiện được nghĩa vụ đóng BHXH, họ phải
tìm cách để tăng thêm thu nhập, nghĩa là phải làm việc nhiều hơn hoặc làm việc có
năng suất, có hiệu quả hơn để được trả lương cao hơn. Khi người lao động làm việc có
năng suất, có chất lượng, doanh nghiệp cũng có lợi ích, doanh thu và thu nhập của


doanh nghiệp tăng cao hơn và cũng có điều kiện hơn để thực hiện tốt hơn trách nhiệm
và nghĩa vụ của mình đối với người lao động. Đến lượt mình, khi người lao động và
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, Nhà nước sẽ có nguồn thu nhiều hơn
(thu thuế cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp) có điều kiện tài chính tốt hơn để
đóng góp cho quỹ BHXH.
Từ khía cạnh khác, tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho người dân có cuộc sống tốt
hơn, tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động tham gia vào các hoạt động
kinh tế. Người lao động có thu nhập càng cao và ổn định càng có điều kiện tốt hơn
tham gia BHXH. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với những nước mới thực hiện BHXH,
cần thu hút nhiều người tham gia BHXH. Đây là tác động tích cực của tăng trưởng kinh
tế đối với BHXH. Đồng thời, khi kinh tế phát triển, Nhà nước và các doanh nghiệp có
điều kiện để đầu tư thêm trang thiết bị hiện đại, cải thiện điều kiện làm việc cho
người lao động. Nhờ vậy, những rủi ro trong lao động như tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp sẽ giảm đi và do đó quỹ BHXH sẽ giảm chi do đối tượng hưởng giảm. Đây là ảnh
hưởng, tác động gián tiếp của tăng tưởng kinh tế đối với BHXH. Mặt khác, khi kinh tế
tăng trưởng, Nhà nước có khả năng hơn để cải thiện điều kiện sống cho người lao
động, như đầu tư vào các cơ sở hạ tầng công cộng, đầu tư cải thiện điều kiện chăm
sóc sức khoẻ cho dân cư nói chung và người lao động nói riêng. Nhờ vậy, người lao
động ít bị những rủi ro xã hội hơn như giảm được tai nạn, giảm được ốm đau, bệnh
tật, giảm được những rủi ro khi sinh đẻ (đối với lao động nữ)… Đây cũng là ảnh hưởng
tác động gián tiếp của tăng trưởng kinh tế đối với BHXH. Ngoài ra, khi kinh tế tăng
trưởng, môi trường kinh tế càng được hoàn thiện, việc đầu tư của quỹ BHXH càng tốt
hơn, an toàn hơn, tránh được những rủi ro từ kinh tế, góp phần tăng trưởng quỹ
BHXH…
Một nước đang phát triển như nước ta thì BHXH không được chú trọng cho lắm
nhưng trong tương lai thì chắc chắn hai vấn đề này sẽ khăng khít , hữu cơ hơn nũa.Phải
đảm bảo đội ngũ quản lí và chi trả đáng tin cậy , đúng luật để tạo long tin cho người
tham gia bảo hiểm và ngày càng mở rộng các đối tượng áp dụng
Câu 2 : so sánh BHXH, CTXH và ƯĐXH
Giống nhau:
_Đều là chính xách xã hội nằm trong hệ thống ASXH nhằm thực hiện mục tiêu tạo ra
mạng lưới bảo vệ an toàn cho các thành viên trong xã hội khi gặp điều kiện rủi ro, yếu
thế trong cuộc sống .


_Nằm dưới sự quản lý và giám sát của bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội.
_Hoạt động dựa vào nguồn quỹ hình thành.
_Hình thức có sử dụng tiền đẻ chi trả.
_Đối tượng: thu nhập của người , điều kiện sinh sống của dân cư.
_Nhằm mục đích : đảm bảo ổn định xã hội , cân bằng xã hội, ổn định thể chế chính trị
xã hội
_ Nhà nước đứng ra quản lí và chi trả
Khác nhau:

Tiêu chí

BHXH

CTXH

ƯĐXH

Đối
tượng

Phần thu nhập bị
mất hoặc bị giảm
của nguồn lao động
khi rủi ro xảy ra

Những thành viên
trong xã hội gặp rủi ro
dẫn đến không có khả
năng tự lo liệu cho
cuộc sống của bản
thân và gia đình hoặc
nếu có thể lo liệu thì lo
liệu ở mức thấp

Những người cá nhân tổ
chức có những cống hiến
hi sinh đặc biệt cho xã
hội trong quá trình xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.

Bao gồm thương binh
liệt sĩ, anh hùng lao
động….

Vai trò

Là trụ cột chính của
hệ thống ASXH, đóng
vai trò điều tiết các
chính xách khác

Là trụ cột chính thứ 2
của hệ thống ASXH

Là chính sách xã hội dặc
biệt quan trong hệ thống
ASXH ở mỗi quốc gia

Tình trạng thực tế:sức
khỏe , mức độ khốn
cùng của người gặp
nạn

Những người có cống
hiến đặc biệt trong công
cuộc bảo vệ tổ quốc và
trong công cuộc xây
dựng đất nước,

Khá đồng đều


Phụ thuộc vào mức độ
góp công
Đầu tư xã hội, nhằm tái
sản xuất những giá trị

Cơ sở
Thâm niên, thu nhập,
xác định tình trạng thực tế,
quyền lợi tình trạng của người
lao động, tỉ lệ
thương tật, ốm
đau…..
Mức độ Phụ thuộc vào thu
hỗ trợ
nhập
Mục tiêu Đảm bảo nhu cầu
thiết yếu của người

Chuyển nhượng các
nguồn lực cho cá


lao động trong
trường hợp bị giảm
hoặc mất thu nhập,
mất việc làm

Tài chính


Đặc
điểm

Sự đóng góp từ 2
bên là chủ yếu:
người lao động ,
người sử dụng lao
đông ngoài ra còn
ngân sách nhà
nước,việc đầu tư
quỹ tạm thòi nhàn
rỗi
Người được trợ cấp
muốn được hưởng
thì phải tham gia
đóng góp hình thành
nên quỹ
Điều kiện được
hưởng khắt khe
phức tạp
Hình thức trợ cấp
chỉ là bằng tiền

Tính chất Mang tính bắt buộc
đối với người lao
động và người sử
dụng lao động
BHXH là một quỹ tiền
tệ lâu dài và mang
tính chất chủ động

Vai trò
Đóng vai trò phụ ,chỉ
của nhà
tham gia hỗ trợ bù
nước
trừ cân bằng thu chi

nhân, các hộ gia đình
và các bộ phận dân cư,
rơi vào tình trạng túng
quẫn và dể bị tổn
thương nhất , từ đó
giúp họ đảm bảo được
mức sống tối thiểu và
cải thiện điều kiện
sống
Ngân sách nhà nước,
cộng đồng dân cư và
các tổ chức trong xa
hội , nguồn viện trợ từ
nước ngoài.

tinh thần cao đẹp của
đan tộc

Người được trợ cấp
không nhất thiết phải
tham gia đóng góp
hình thành nên quỹ
Hình thức trợ cấp có

thể bằng tiền hay
bằng hiện vật
Ít khắt khe, thường
mang tính chất theo
khu vực

Người được trợ cấp
không nhất thiết phải
tham gia đóng góp hình
thành nên quỹ
Hình thưc trợ cấp bằng
vật chất: tiền , hiện vật,
ưu đãi về tinh thần
Điều kiện được hưởng:
có công vói đất nước

Mang tính chất bắt
buộc thiên về mãng
đạo đức
Mang tính chất chủ
động hơn vì nó thường
mang tích chất khẩn
cấp, thời gian ngắn.
Đóng vai trò chủ chốt
và quan trọng nhất

Mang tích chất nhân văn
cao đẹp,tính đạo đức,
thể hiện long kính trọng
của thế hệ hôm nay

Mang tính chất khách
quan

Ngân sách nhà nước, sự
đóng góp của các tổ
chức kinh tế xã hội, của
các cá nhân, đóng góp
bản thân các đối tượng.

Đóng vai trò chủ chốt và
quan trọng nhất




×