Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Mối quan hệ giữa phạm vi bảo hiểm tiền gửi, cơ cấu sở hữu đến sự chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 95 trang )

1


Mã số: …45………….
MỐI QUAN HỆ GIỮA PHẠM VI BẢO
HIỂM TIỀN GỬI, CƠ CẤU SỞ HỮU ĐẾN
SỰ CHẤP NHẬN RỦI RO CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
.

1

TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Hoạt động kinh doanh tiền tệ là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhƣ rủi ro nợ xấu, rủi ro
tín dụng và đặc biệt là rủi ro thanh khoản trong bối cảnh khủng hoảng tài chính (2008).
Mặc dù bảo hiểm tiền gửi bảo vệ sự an toàn và ổn định của hệ thống ngân hàng nhƣng
nó, tùy theo phạm vi bảo hiểm và cơ cấu sở hữu của ngân hàng, cũng làm thay đổi hành
vi chấp nhận rủi ro của ngân hàng, có khả năng gây nên rủi ro đạo đức thể hiện qua hiện
tƣợng chấp nhận rủi ro quá mức (excessive risk-taking) và có thể dẫn đến rủi ro cho cả hệ
thống. Một số nghiên cứu trên Thế giới đã đo lƣờng sự liên hệ giữa phạm vi bảo hiểm với
hành vi chấp nhận rủi ro của ngân hàng (Angkinand và Wihlborg, 2010 và gần đây nhất
là Herman Saheruddin, 2013) và mối tƣơng quan giữa cơ cấu vốn sở hữu của ngân hàng
và hành vi chấp nhận rủi ro (Laeven và Levine, 2009) nhƣng ở Việt Nam vẫn chƣa có
những nghiên cứu đo lƣờng các mối liên hệ này.Vì thế, bài nghiên cứu quyết định chọn
đề tài nhằm lƣợng hóa các mối quan hệ này.
Bài nghiên cứu chia làm 3 phần:
 Phần 1: Định nghĩa cùng lý luận về những kết quả nghiên cứu trƣớc đây.
 Phần 2: Phân tích thực trạng, các vấn đề hiện nay của 3 nhân tố: bảo hiểm
tiền gửi, cơ cấu sở hữu và sự chấp nhận rủi ro.
Nghiên cứu về mô hình định lƣợng, OLS regression, fixed effect và random
effect: trên các phƣơng diện lý thuyết, phƣơng pháp tính, cách áp dụng cho


trƣờng hợp của Việt Nam.
 Phần 3: Giải pháp kiến nghị






2

MỤC LỤC
TÓM TẮT ĐỀ TÀI 1
DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH 4
LỜI MỞ ĐẦU 2
1. Tổng quan về mối quan hệ giữa phạm vi bảo hiểm tiền gửi, cơ cấu sở hữu và sự chấp
nhận rủi ro của ngân hàng 5
1.1. Khái quát chung về mối quan hệ 5
1.1.1. Khái niệm liên quan đến sự chấp nhận rủi ro 5
1.1.2. Khái niệm về phạm vi bảo hiểm tiền gửi 10
1.1.3. Khái niệm về cơ cấu sở hữu và các nhân tố xác định 13
1.2. Lý thuyết nền về mối quan hệ giữa bảo hiểm tiền gửi, cơ cấu sở hữu và sự chấp
nhận rủi ro và các quan điểm liên quan. 17
1.2.1. Lý thuyết nền về mối quan hệ giữa bảo hiểm tiền gửi, cơ cấu sở hữu và sự
chấp nhận rủi ro. 17
1.3. Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa bảo hiểm tiền gửi, cơ cấu sở
hữu đến sự chấp nhận rủi ro của ngân hàng. 22
2. Thực trạng về ngành ngân hàng, sự chấp nhận rủi ro, phạm vi bảo hiểm tiền gửi và cơ
cấu sở hữu. 28
2.1. Tổng quan về Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam 28
2.1.1. Tình hình hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam 28

2.1.2. Tình hình của bảo hiểm tiền gửi trong hệ thống ngân hàng thƣơng mại cổ phần
Việt Nam. 39
3

2.1.3. Tình hình của cơ cấu sở hữu trong hệ thống ngân hàng thƣơng mại cổ phần
Việt Nam 45
2.2. Xây dựng mô hình nghiên cứu 50
2.2.1. Dữ liệu nghiên cứu 50
2.2.2. Các biến nghiên cứu 50
2.2.3. Lựa chọn phƣơng pháp nghiên cứu và mô hình nghiên cứu 54
2.2.4. Quy trình nghiên cứu. 57
2.3. Kết quả nghiên cứu 59
2.3.1. Mô tả các biến nghiên cứu 59
2.3.2. Kết quả nghiên cứu 61
3. Gợi ý chính sách liên quan đến mối quan hệ giữa bảo hiểm tiền gửi, cơ cấu sở hữu đến
sự chấp nhận rủi ro của ngân hàng 69
3.1. Định hƣớng phát triển của bảo hiểm tiền gửi và cơ cấu sở hữu 69
3.2. Một số đề xuất khác 74
3.3. Kết luận, hạn chế và hƣớng phát triển đề tài 77
Phụ lục 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87




4

DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH

Bảng 1: Thống kê các nghiên cứu về mối quan hệ của phạm vi bảo hiểm tiền gửi, cơ cấu

sở hữu đến sự chấp nhận rủi ro của ngân hàng 22
Bảng 2: Thống kê về mối quan hệ giữa thành phần cơ cấu sở hữu và sự chấp nhận rủi ro
ngân hàng 26
Bảng 3: Phân biệt NHTM và TCTD phi ngân hàng 29
Bảng 4: Thực trạng vốn điều lệ của các Ngân hàng thƣơng mại cổ phần, Ngân hàng
liên doanh đến thời điểm 30/5/2007: 34
Bảng 5: Tỷ trọng tổng tài sản của các NHTM so với toàn hệ thống. Đơn vị: % 35
Bảng 6: Dự kiến quy mô ngân hàng trƣớc và sau tái cơ cấu. Đơn vị: số lƣợng ngân hàng
37
Bảng 7: Thị phần tiền gửi của các NHTM (%). 42
Bảng 8: Hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi/ GDP bình quân đầu ngƣời của Việt Nam qua
các năm 44
Bảng 9: Thống kê về số lƣợng ngân hàng năm 2010-2011 45
Bảng 10: Thực trạng của các ngân hàng đến ngày 30/4/2013. Đơn vị tính: tỷ VNĐ, %. . 46
Bảng 11: Giải thích các biến 52
Bảng 12: Thống kê kết quả  66
Bảng 13: Số liệu chạy mô hình 80

Hình 1: Chi tiết cơ cấu hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam qua các năm. 30
Hình 2: Tổng tài sản của hệ thống ngân hàng vào cuối các năm 2010-2013, đơn vị tính:
nghìn tỷ đồng 34
Hình 3: Tổng tài sản hệ thống ngân hàng từ 12/2012-12/2013 35
Hình 4: So sánh tăng trƣởng tín dụng và tăng trƣởng GDP 36
Hình 5: Tỷ lệ nợ xấu 37
Hình 6: Quy mô quỹ BHTG và Tỉ lệ % quỹ BHTG trên số dƣ tiền gửi đƣợc bảo hiểm 43
5

Hình 7: Thực trạng về sở hữu chéo của các NHTM nhà nƣớc tại các ngân hàng thƣơng
mại cổ phần 48
Hình 8: Mô tả các biến phụ thuộc 59

Hình 9: Mô tả sự tự tƣơng quan giữa các biến 60
Hình 10: Kết quả chạy mô hình Fixed Effect 1, 2, 3, 4, 5, 6. 61
Hình 11: Kết quả chạy mô hình Random Effect 1, 2, 3, 4, 5, 6. 61
Hình 12: Kiểm định Hausman Test cho mô hình thứ nhất 62
Hình 13: Kiểm định phƣơng sai thay đổi trong mô hình RE 62
Hình 14: Kiểm định Hausman và Breusch-Pagan Lagrange Multiplier cho REM cho mô
hình 2 63
Hình 15: Kiểm định Hausman và Breusch-Pagan Lagrange Multiplier cho REM cho mô
hình 3 63
Hình 16: Kiểm định Hausman và Breusch-Pagan Lagrange Multiplier cho REM cho mô
hình 4 64
Hình 17: Kiểm định Hausman và Breusch-Pagan Lagrange Multiplier cho REM cho mô
hình 5 64
Hình 18: Kiểm định Hausman và Breusch-Pagan Lagrange Multiplier cho REM cho mô
hình 6 65
Hình 19: Mô hình hồi quy cổ điển với lựa chọn robust cho mô hình 1, 2, 3, 4, 5, 6. 66
Hình 20: Phƣơng hƣớng hoàn thiện quy chế pháp lý về BHTG tại Việt Nam 75







2



LỜI MỞ ĐẦU
 Lý do chọn đề tài

Hoạt động kinh doanh tiền tệ là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhƣ rủi ro nợ xấu, rủi ro
tín dụng và đặc biệt là rủi ro thanh khoản trong bối cảnh khủng hoảng tài chính (2008).
Mặc dù bảo hiểm tiền gửi bảo vệ sự an toàn và ổn định của hệ thống ngân hàng nhƣng
nó, tùy theo phạm vi bảo hiểm và cơ cấu sở hữu của ngân hàng, cũng làm thay đổi hành
vi chấp nhận rủi ro của ngân hàng, có khả năng gây nên rủi ro đạo đức thể hiện qua hiện
tƣợng chấp nhận rủi ro quá mức (excessive risk-taking) và có thể dẫn đến rủi ro cho cả hệ
thống. Một số nghiên cứu trên Thế giới đã đo lƣờng sự liên hệ giữa phạm vi bảo hiểm với
hành vi chấp nhận rủi ro của ngân hàng (Angkinand và Wihlborg, 2010 và gần nhất là
Herman Saheruddin, 2013) thấy rằng giới hạn bảo hiểm quá cao hoặc quá thấp có liên
quan với hành vi gặp rủi ro cao hơn và mối tƣơng quan giữa cơ cấu vốn sở hữu của ngân
hàng và hành vi chấp nhận rủi ro (Laeven và Levine, 2009) nhận ra rằng các ngân hàng
có tập trung quyền sở hữu hơn thì có xu hƣớng có hành vi chấp nhận rủi ro cao hơn
nhƣng ở Việt Nam vẫn chƣa có những nghiên cứu đo lƣờng các mối liên hệ này. Vì thế,
bài nghiên cứu hƣớng đến đề tài nhằm lƣợng hóa các mối quan hệ này tại Việt Nam.
 Mục tiêu nghiên cứu
- Về mặt định tính:
Tập trung nghiên cứu các lý thuyết về mối quan hệ giữa phạm vi bảo hiểm tiền gửi, cơ
cấu sở hữu và sự chấp nhận rủi ro của các ngân hàng trên thế giới. Phân tích, tìm hiểu về
2

đặc điểm của 3 nhân tố bảo hiểm tiền gửi, cơ cấu sở hữu và sự chấp nhận rủi ro của các
ngân hàng Việt Nam nói chung hiện nay. Từ đó đi tìm mối quan hệ giữa phạm vi bảo
hiểm tiền gửi, cơ cấu sở hữu và sự chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thƣơng mại cổ
phần Việt Nam và đƣa ra các giải pháp cải thiện mức độ chấp nhận rủi ro cũng nhƣ ứng
dụng công cụ bảo hiểm tiền gửi và cải thiện cơ cấu sở hữu theo hƣớng có lợi cho doanh
nghiệp.
- Về mặt định lƣợng:
Nghiên cứu áp dụng mô hình pooled regression, fixed effect và random effect nhằm xác
định mối quan hệ của các nhân tố đã đề cập bằng cách tìm ra những bằng chứng thực
nghiệm.

Xây dựng mô hình kiểm định để lựa chọn mô hình định lƣợng phù hợp.
Từ những bằng chứng thực nghiệm và các kết quả thống kê mô tả, bài nghiên cứu đƣa ra
các gợi ý về chính sách liên quan nhằm hạn chết sự chấp nhận rủi ro, phát triển và thay
đổi bảo hiểm tiền gửi và cơ cấu sở hữu cho phù hợp.
 Phương pháp nghiên cứu
- Nguồn dữ liệu:
Chủ yếu, bài nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu sở hữu sử dụng những báo cáo quản trị
ngân hàng hàng năm và cơ cấu sở hữu đƣợc gửi bởi nhóm ngân hàng thƣơng mại cổ phẩn
hoạt động tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2013 bao gồm 6 ngân hàng
thƣơng mại là Vietcombank, Sacombank, MB, Eximbank, BIDV, Techcombank tạo
thành bộ dữ liệu panel data gồm có 48 quan sát.
Bài nghiên cứu bổ sung cho cơ sở dữ liệu này với thông tin từ các trang web, tạp chí và
các nguồn thông tin khác của ngân hàng với các biến phạm vi bảo hiểm tiền gửi và các
3

biến vĩ mô khác. Đối với những biến kế toán đƣợc dùng để đo lƣờng sự rủi ro nhận đƣợc
của nhân hàng (bank risk taking), bài nghiên cứu sử dụng báo cáo tài chính hàng năm của
ngân hàng.
- Phƣơng pháp:
Đối với các mục tiêu định tính: bài nghiên cứu tập trung vào phƣơng pháp thống kê mô
tả, quan sát thu thập các tài liệu nghiên cứu trƣớc đây và một số tạp chí tài chính đƣợc cơ
quan chính phủ Việt Nam công nhận.
Đối với các mục tiêu định lƣợng: Bài nghiên cứu sử dụng phƣơng pháp định lƣợng bằng
cách chạy mô hình tự pooled regression, fixed effect và random effect đối với cơ sở dữ
liệu bảng.
- Công cụ: Sử dụng phần mềm Stata 10 để ƣớc lƣợng các mô hình.
 Nội dung nghiên cứu
Bài nghiên cứu chia làm 3 phần:
- Phần 1:
Giải thích các định nghĩa, lý thuyết nền cùng lý luận về những kết quả nghiên cứu trƣớc

đây
- Phần 2:
Phân tích thực trạng, các vấn đề hiện nay liên quan đến 3 nhân tố: bảo hiểm tiền gửi, cơ
cấu sở hữu và sự chấp nhận rủi ro.
4

Nghiên cứu về mô hình định lƣợng pooled regression, fixed effect và random effect: trên
các phƣơng diện lý thuyết, phƣơng pháp tính, cách áp dụng cho trƣờng hợp của Việt
Nam.
Các thu thập dữ liệu và xử lý cho dữ liệu bảng.
Kết quả của định lƣợng.
- Phần 3: Giải pháp kiến nghị và kết luận đƣa ra hạn chế cùng hƣớng phát triển đề
tài.
 Đóng góp của đề tài
Đóng góp quan trọng của đề tài thể hiện ở 2 phƣơng diện sau:
- Về mặt lý luận
Nghiên cứu cho ta thấy đƣợc mối quan hệ giữa phạm vi bảo hiểm tiền gửi, cơ cấu sở hữu
và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng qua các bài nghiên cứu trƣớc đây trên phạm vi
toàn thế giới. Đƣa ra 1 cái nhìn tổng quan trên cơ sở lý thuyết của nhiều tác giả quan
trọng. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu cũng đƣa ra những khái niệm quan trọng về bảo hiểm
tiền gửi, cơ cấu sở hữu và mức độ chấp nhận rủi ro trên phạm vi quốc gia cụ thể là Việt
Nam. Từ đó, ta có sự phân tích sâu sắc về đối tƣợng nghiên cứu.
- Về mặt thực tiễn
Bài nghiên cứu đƣa ra đƣợc mối quan hệ định lƣợng từ những số liệu thực tế của Việt
Nam từ đó xác định mối quan hệ trên cơ sở khoa học bằng cách lƣợng hóa các biến của
dữ liệu các ngân hàng thƣơng mại cổ phần Việt Nam. Từ đó, ta đƣa ra đƣợc những ảnh
hƣởng xấu và tốt đến mức độ chấp nhận rủi ro và tìm ra hƣớng khắc phục vấn đề hiện tại.
 Hướng phát triển của đề tài
Đề tài có thể mở rộng theo hƣớng áp dụng cho toàn bộ cho các ngân hàng trong hệ thống
ngân hàng ở Việt Nam. Từ đó, ta có thể tìm ra đƣợc thêm các ảnh hƣởng của cơ cấu sở

5

hữu đến mức độ chấp nhận rủi ro của hệ thống ngân hàng ở Việt Nam bằng cách đa dạng
hóa các danh tính cơ cấu sở hữu nhƣ là gia đình, chính phủ địa phƣơng, tìm ra các bằng
chứng thực nghiệm của sở hữu chéo, sở hữu kim tử tháp, cùng phân tích rõ hơn các khía
cạnh của sự chấp nhận rủi ro trên phƣơng diện nợ xấu.
1. TỔNG QUAN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHẠM VI BẢO HIỂM TIỀN
GỬI, CƠ CẤU SỞ HỮU VÀ SỰ CHẤP NHẬN RỦI RO CỦA NGÂN
HÀNG.
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ
1.1.1. KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN SỰ CHẤP NHẬN RỦI RO
 Định nghĩa về rủi ro:
Theo Frank Knight, 1921, thì rủi ro là sự bất trắc có thể đo lƣờng đƣợc.
Theo Irving Prefler, 1956, thì rủi ro là tổng hợp những sự ngẫu nhiên có thể đo lƣờng
đƣợc bằng xác suất.
Theo Allen Willett, 1951 thì rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một
biến cố không mong đợi.
 Phân loại rủi ro:
- Cách 1: Rủi ro có thể tính toán và không thể tính toán
Rủi ro có thể tính toán (Rủi ro tài chính): Là những rủi ro mà tần số xuất hiện cũng nhƣ
mức độ trầm trọng của nó có thể tiên đoán đƣợc
Rủi ro không thể tính toán (Rủi ro phi tài chính): Ngƣời ta không thể (hoặc chƣa thể) tìm
ra quy luật vận động nên không thể (hoặc chƣa thể) tiên đoán đƣợc xác suất xảy ra biến
cố trong tƣơng lai

6

- Cách 2: Rủi ro động và tĩnh
Rủi ro động: Là những rủi ro vừa có thể dẫn đến khả năng tổn thất vừa có thể dẫn đến 1
khả năng kiếm lời. Cũng vì khả năng kiếm lời đó mà ngƣời ta còn gọi những rủi ro này là

rủi ro suy tính hay rủi ro đầu cơ.
Rủi ro tĩnh: Là những rủi ro chỉ dẫn đến khả năng tổn thất hoặc không tổn thất chứ không
có khả năng kiếm lời
Trong bài nghiên cứu này, rủi ro ở đây đƣợc phân loại vào nhóm rủi ro tài chính và rủi ro
động.
 Định nghĩa về sự chấp nhận rủi ro:
Sự chấp nhận rủi ro (risk-taking) tức là sự tham gia vào các hành vi có thể dẫn đến khả
năng tổn thất cao nhƣng đồng thời cũng mang lại những kết quả tích cực, tức là có thể
mang lại khả năng sinh lợi.
Trong định nghĩa về rủi ro thì sự chấp nhận rủi ro mà chúng ta nghiên cứu đƣợc xếp vào
hình thái rủi ro động, tức là những rủi ro liên quan đến sự luôn thay đổi, đặc biệt là trong
nền kinh tế. Đó là những rủi ro mà hậu quả của nó có thể có lợi, nhƣng cũng có thể sẽ
mang đến sự tổn thất (sự thay đổi về thị hiếu khách hàng có thể phù hợp với sản phẩm mà
doanh nghiệp đang kinh doanh hay không, sự thay đổi về công nghệ kĩ thuật có phù hợp
với khả năng tài chính của doanh nghiệp hay không, sự thay đổi đó có quá nhanh hay
không? ). Trong trƣờng hợp của Ngân hàng (bank risk-taking) thì ở đây có thể ví dụ tình
huống cho khách hàng vay ở các mức tín nhiệm khác nhau, nếu khách hàng có mức độ
tín nhiệm thấp thì ngân hàng sẽ có thể cho khách hàng cho vay với lãi suất cao hơn
nhƣng bù lại khả năng mất vốn, khả năng thiệt hại của ngân hàng cũng cao hơn.
 Sự chấp nhận rủi ro quá mức
Bên cạnh đó ta có khái niệm về sự chấp nhận rủi ro quá mức của ngân hàng (excessive
risk-taking by banks), đây chính là sự chấp nhận rủi ro bất chấp những thiệt hại lớn có thể
7

xảy ra. Nghiên cứu về thuật ngữ này, ta tìm ra 1 số tác nhân dẫn đến sự chấp nhận rủi ro
quá mức nhƣ sau:
- Thứ nhất:
Do quản trị doanh nghiệp, theo Hamid Mehran, Alan Morrison, and Joel Shapiro, 2012,
cho rằng quản trị doanh nghiệp có thể đặc biệt yếu do sự đa dạng của các bên liên quan
(ngƣời gửi tiền đƣợc bảo hiểm và không có bảo hiểm, công ty bảo hiểm tiền gửi, chủ sở

hữu trái phiếu, nợ trực thuộc cổ đông và sở hữu chứng khoán lai), và sự phức tạp của các
ngân hàng hoạt động. Hơn nữa, rủi ro đạo đức đƣợc tạo ra bởi tình hình quá lớn để thất
bại có thể dẫn bảng để khuyến khích chấp nhận rủi ro khi họ biết rằng thiệt hại lớn sẽ
đƣợc thanh toán phần lớn là do ngƣời nộp thuế chứ không phải là các bên liên quan.
Dòng này của lý luận hƣớng sự chú ý đến cơ cấu quản trị công ty tổ chức tài chính là một
trong những nguồn gốc của quá nhiều hành vi nguy hiểm do các ngân hàng làm những gì
các nhà quản lý của họ quyết định và quản lý , lần lƣợt, đƣợc điều khiển bởi một ban
giám đốc . Do đó quá nhiều rủi ro phải liên quan đến một sự cố trong kiểm soát, hoặc
mong muốn trên một phần của hội đồng quản trị để khuyến khích hoạt động nhƣ vậy.
- Thứ hai:
Theo Xavier Freixas and Mathias Dewatripont, 2012, nhận định, sự chấp nhận rủi ro quá
mức có liên quan đến cơ chế chuyển hóa của các ngân hàng ( banking resolution regime)
đƣợc coi là một trong những nền tảng của bất kỳ liên minh ngân hàng - nó quyết định
những gì sẽ xảy ra khi các ngân hàng bị phá sản. Nó tƣơng đƣơng với quy định bảo đảm
an toàn và giám sát (để giảm xác suất của các vấn đề), và chƣơng trình đảm bảo tiền gửi
(để giảm xác suất của ngân hàng chạy gây phá sản), và hỗ trợ thanh khoản từ các ngân
hàng trung ƣơng (để giảm nguy cơ các ngân hàng dung môi đi theo do thiếu tính thanh
khoản).
Theo các tác giả, nếu ngân hàng biết trƣớc rằng sẽ đƣợc giải cứu, rủi ro là không bao giờ
quá rủi ro cho ngân hàng.
8

Cơ chế chuyển hóa của các ngân hàng đƣợc xem nhƣ là một trò chơi thƣơng lƣợng giữa
các cổ đông và nhà quản lý. Cổ đông muốn để tối đa hóa giá trị cổ phần của họ trong khi
mục tiêu chính cơ quan quản lý là để bảo vệ sự ổn định tài chính với chi phí thấp nhất có
thể . Vì điều này , các tác giả tranh luận về các quy định phá sản đƣợc thiết kế đặc biệt
cho ngành ngân hàng ( và khác với những áp dụng cho các công ty phi tài chính ). Các
tác giả cũng cho rằng thời gian là điều cốt yếu, ngay cả với các thủ tục phá sản hoàn toàn
hiệu quả . Ngân hàng bị nạn phải đƣợc nhanh chóng đóng cửa hoặc nhanh chóng giải cứu
. Kiểm tra chƣơng của các cuộc khủng hoảng ngân hàng ở các nƣớc khác nhau cho thấy

sự đa dạng trong các thủ tục tiếp theo và kết luận lý thuyết mà không có khuyến nghị rõ
ràng để cung cấp
Rõ ràng việc thiết kế các cơ chế giải quyết ngân hàng là rất quan trọng . Một đề nghị là
thêm một lớp vốn để ngăn chặn các cuộc khủng hoảng trong tƣơng lai, nhƣng các tác giả
bảo vệ các khả năng mở vốn ( nhƣ bảo hiểm vốn). Họ lập luận rằng các loại cơ chế sẽ bảo
vệ các đặc điểm tốt nhất của các khoản nợ và do đó hạn chế rủi ro đạo đức . Các tác giả
kết luận bằng cách xem xét giải quyết giữa các nƣớc và những thách thức nó ngụ ý và
thảo luận về những thay đổi gần đây trong khuôn khổ giải quyết ngân hàng châu Âu .
- Thứ ba:
Theo Xavier Freixas and Christian Laux, 2012, sự chấp nhận rủi ro quá mức của ngân
hàng bị ảnh hƣởng lớn từ sự công bố thông tin, minh bạch và kỷ luật thị trƣờng. Trƣớc
khi cuộc khủng hoảng, kỷ luật thị trƣờng đƣợc cho là bổ sung hoàn hảo để giám sát –
truyền tải thông tin trong khi các tổ chức rơi vào tình trạng quá mạo hiểm . Cuộc khủng
hoảng đã thay đổi quan điểm đó , hầu hết các nhà quản lý và các học giả bây giờ nhìn
thấy kỷ luật thị trƣờng là một lực lƣợng yếu . Các tác giả của chƣơng này xem xét các
khía cạnh lý thuyết khác nhau nhƣ thế nào không hoàn hảo có thể làm tê liệt việc truyền
tải thông tin - thành phần quan trọng của kỷ luật thị trƣờng . Ngoài các vấn đề mang tính
hệ thống , tình hình xấu đi trong một cuộc khủng hoảng vì cả hai công ty và tổ chức phát
hành có động lực để che giấu thông tin xấu .
9

Nguồn chính của thị trƣờng thông tin là báo cáo tài chính và các cơ quan xếp hạng tín
dụng của các công ty và các tác giả giải quyết một số trách móc nhằm vào cả hai. Trên
báo cáo tài chính , việc sử dụng phân tích giá trị hợp lý đã đến cho những lời chỉ trích
mạnh mẽ vì nó gây ra các công ty viết ra tài sản giảm xuống khi thị trƣờng sụp đổ với
điều này dẫn đến vốn bị xói mòn và sự không chắc chắn cao . Tuy nhiên các tác giả lập
luận rằng giá trị hợp lý không phải là nhiều để đổ lỗi vì nó chỉ ảnh hƣởng đến danh mục
đầu tƣ kinh doanh của các ngân hàng và có quyết định đáng kể cho các ngân hàng đình
chỉ nếu thiệt hại đƣợc coi là tạm thời. Họ là quan trọng hơn khi nói đến các cơ quan xếp
hạng tín dụng , kết luận rằng các công ty lợi nhuận tối đa là trong một môi trƣờng thể chế

không đầy đủ đề với xung đột lợi ích . Họ kêu gọi quy định hơn của các cơ quan xếp
hạng tín dụng để khắc phục tình trạng này.
Nguồn chính của thị trƣờng thông tin là báo cáo tài chính và các cơ quan xếp hạng tín
dụng của các công ty và các tác giả giải quyết một số trách móc nhằm vào cả hai. Trên
báo cáo tài chính , việc sử dụng phân tích giá trị hợp lý đã đến cho những lời chỉ trích
mạnh mẽ vì nó gây ra các công ty viết ra tài sản giảm xuống khi thị trƣờng sụp đổ với
điều này dẫn đến vốn bị xói mòn và sự không chắc chắn cao . Tuy nhiên các tác giả lập
luận rằng giá trị hợp lý không phải là nhiều để đổ lỗi vì nó chỉ ảnh hƣởng đến danh mục
đầu tƣ kinh doanh của các ngân hàng và có quyết định đáng kể cho các ngân hàng đình
chỉ nếu thiệt hại đƣợc coi là tạm thời. Họ là quan trọng hơn khi nói đến các cơ quan xếp
hạng tín dụng , kết luận rằng các công ty lợi nhuận tối đa là trong một môi trƣờng thể chế
không đầy đủ đề với xung đột lợi ích . Họ kêu gọi quy định hơn của các cơ quan xếp
hạng tín dụng để khắc phục tình trạng này.
- Thứ tƣ
Ảnh hƣởng đến sự chấp nhận rủi ro quá mức chính là các yêu tố vĩ mô và các yếu tố thị
trƣờng( Procyclicality), theo Rafael Repullo and Jesus Saurina thì sự khủng hoảng của
các yếu tố thị trƣờng đẩy các ngân hàng đến những quyết định mang tính rủi ro, Các tác
giả tập trung vào một khía cạnh của điều này , cụ thể là câu hỏi liệu và bao nhiêu vốn bổ
sung nên đƣợc yêu cầu trong các giai đoạn tăng trƣởng tín dụng quá mức, và làm thế nào
10

những giai đoạn tăng trƣởng tín dụng quá mức sẽ đƣợc xác định . Họ nghiên cứu cách
khuôn khổ pháp lý Basel III đề xuất để giải quyết các vấn đề và mức độ mà các quy tắc
thực hiện các mục tiêu của họ.
Quy định ngƣợc chu trình, Basel III yêu cầu tỷ lệ cao hơn vốn để cho vay khi tỷ lệ tín
dụng trên GDP lệch khỏi xu hƣớng của nó . Phân tích của họ , tuy nhiên , cho thấy các
công trình này một cách sai lầm cho một phần lớn của các quốc gia ; độ lệch tƣơng quan
tiêu cực với tăng trƣởng GDP. Trong ngắn hạn, các ngân hàng thực hiện theo các quy tắc
sai lệch so với xu hƣớng thực sự có thể đƣợc theo đuổi một mục tiêu kinh tế nào đó hơn
là một chính sách vốn chu kỳ. Các tác giả đề xuất một quy tắc đơn giản - tốc độ tăng

trƣởng tín dụng.
1.1.2. KHÁI NIỆM VỀ PHẠM VI BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1.1.2.1. KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN BẢO HIỂM TIỀN GỬI
Khái niệm về bảo hiểm tiền gửi đã đƣợc hình thành từ rất lâu trên thế giới. Hoạt động tài
chính - ngân hàng luôn gắn liền với sự nhạy cảm và tiềm ẩn rủi ro, chính vì vậy mỗi quốc
gia cần phải có tổ chức đứng ra bảo vệ ngƣời gửi tiền trong trƣờng hợp ngân hàng xảy ra
đổ vỡ để ổn định tình hình an ninh - xã hội. Trong thực tế, khi các quốc gia chƣa hình
thành hệ thống bảo hiểm tiền gửi thì họ cũng đã sử dụng công cụ “bảo hiểm ngầm” có
nghĩa là mặc dù không cam kết công khai trƣớc công chúng về việc bảo vệ tiền gửi của
họ trong trƣờng hợp ngân hàng đổ bể nhƣng nếu điều đó xảy ra thì Chính phủ phải đứng
ra chi trả tiền gửi cho ngƣời gửi tiền. Tuy nhiên, việc bảo vệ ngầm đó không thật sự mang
lại lợi ích cho quốc gia cũng nhƣ không mang lại niềm tin của công chúng đối với hệ
thống tài chính - ngân hàng, vì vậy, hệ thống bảo hiểm công khai đã ra đời.Nguồn gốc ra
đời của bảo hiểm tiền gửi gắn liền với việc chuyển từ bảo vệ ngầm sang bảo vệ công
khai tiền gửi.
Theo định nghĩa của Cẩm nang cho Tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi của Tổ chức Bảo
hiểm Tiền gửi Việt Nam (viết tắt là DIV): “Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là cam kết công
11

khai của tổ chức BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG và ngƣời gửi tiền về việc tổ chức
BHTG sẽ trả tiền gửi đƣợc bảo hiểm cho ngƣời gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị
chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán cho ngƣời gửi tiền.”
Theo Luật Bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13 thì: “Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm
hoàn trả tiền gửi cho ngƣời đƣợc bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi
tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho
ngƣời gửi tiền hoặc phá sản.”
Từ khái niệm bảo hiểm tiền gửi, ta hƣớng đến khái niệm trọng tâm của bài nghiên cứu là
phạm vi bảo hiểm tiền gửi, hay còn gọi là sự che phủ của bảo hiểm tiền gửi. Khi khủng
hoảng xảy ra, ngƣời gửi tiền sẽ đƣợc hoàn trả lại số tiền gửi toàn bộ hay một phần, đó
chính là phạm vi của bảo hiểm tiền gửi. Phạm vi bảo hiểm tiền gửi đƣợc đo lƣờng bằng

số tiền mà tổ chức bảo hiểm trả cho ngƣời gửi tiền và thƣờng có một giới hạn cao nhất
(coverage limit) còn gọi là giới hạn của bảo hiểm tiền gửi.
Bên cạnh đó Luật Bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13 cũng định nghĩa 1 số khái niệm
sau:
 “Ngƣời đƣợc bảo hiểm tiền gửi là cá nhân có tiền gửi đƣợc bảo hiểm tại tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi.”
 “Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nƣớc ngoài thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng đƣợc nhận tiền
gửi của cá nhân.”
 “Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính nhà nƣớc, hoạt động không vì mục
tiêu lợi nhuận, thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi, góp phần duy trì sự ổn định
của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của
hoạt động ngân hàng.”
 “Phí bảo hiểm tiền gửi là khoản tiền mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải
nộp cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi để bảo hiểm cho tiền gửi của ngƣời đƣợc bảo
hiểm tiền gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.”
12

1.1.2.2. BẢN CHẤT CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI
Bảo hiểm tiền gửi cũng mang bản chất của các loại hình bảo hiểm nói chung, theo Dennis
Kessler, 1994, tức là hoạt động theo nguyên lý lấy số đông bù số ít nhƣng bên cạnh đó nó
còn mang tính chất đặc thù, đó là:
 Hoạt động BHTG là hoạt động cung cấp dịch vụ công, có nghĩa là BHTG là công
cụ đƣợc sử dụng để thực hiện chính sách công của từng quốc gia.
 Hoạt động của tổ chức BHTG thông thƣờng không vì mục tiêu lợi nhuận. Chính
phủ các quốc gia thành lập tổ chức BHTG nhằm mục đích để thực hiện chính sách
công. Bởi trong thực tế, hoạt động tài chính - ngân hàng là hoạt động nhạy cảm,
gắn với tính lan truyền rất cao; đồng thời sự đổ vỡ của hệ thống tài chính -ngân
hàng sẽ ảnh hƣởng đến toàn bộ nền kinh tế và gây ra những bất ổn về mặt xã hội.
Do đó, Chính phủ các quốc gia đã sử dụng công cụ tài chính là BHTG nhằm góp

phần đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống tài chính - ngân hàng
và ổn định xã hội.
1.1.2.3. MỤC TIÊU CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI:
Mục tiêu của mỗi hệ thống BHTG ở các quốc gia có khác nhau nhƣng đều nhằm đạt đƣợc
các mục tiêu sau:
 Bảo vệ số đông ngƣời gửi tiền, đối tƣợng có tiền gửi ít, hạn chế trong tiếp cận
thông tin về quản trị, điều hành và tình hình hoạt động của các TCTD.
 Góp phần đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính quốc gia và tạo điều kiện cho
các giao dịch tài chính có hiệu quả hơn bằng cách phòng, tránh đổ vỡ ngân hàng.
 Góp phần xây dựng một thị trƣờng có tính cạnh tranh và bình đẳng cho các tổ
chức tài chính có quy mô và trình độ phát triển khác nhau.
 Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của ngƣời gửi tiền, tổ chức tài chính, Chính
phủ và giảm thiểu gánh nặng tài chính cho ngƣời đóng thuế trong trƣờng hợp có
TCTD đổ bể.
13

1.1.3. KHÁI NIỆM VỀ CƠ CẤU SỞ HỮU VÀ CÁC NHÂN TỐ XÁC ĐỊNH
1.1.3.1. CÁC KHÁI NIỆM VỀ CƠ CẤU SỞ HỮU
Theo Wen Wen (2010) có đề cập tới cơ cấu sở hữu đƣợc mô tả nhƣ sau:
Quan điểm 1, He (1998), Zhou (1999), cơ cấu sở hữu là những dạng khác nhau của
nguồn vốn ví dụ cổ phiếu A, cổ phiểu B hoặc cổ phiếu đặc biệt
Quan điểm 2, Wu (2003), cơ cấu sở hữu là tỷ lệ nguồn vốn đƣợc chiếm giữ bới nhiều cổ
đông ví dụ cổ phần nhà nƣớc, cổ phần cá nhân, cổ phần do ngƣời đại diện của chính phủ
nắm giữ
Quan điểm 3, Sun (2002), cơ cấu sở hữu là sự sở hữu của nguồn vốn tức là cấu trúc vốn
ví dụ tỷ lệ phần trăm cổ phần đƣợc nắm giữ bởi các cổ đông
Một tham chiếu cổ điển về cơ cấu sở hữu là Jensen và Meckling [1976]. Một tài liệu
tham khảo mới về chủ đề này là Holderness, Kroszner, và Sheehan [1999]. Họ cho rằng
cơ cấu sở hữu đƣợc xác định bởi sự phân bố của vốn chủ sở hữu liên quan đến quyền
biểu quyết, cơ cấu vốn và còn bởi danh tính của chủ sở hữu. Những cấu trúc này có tầm

quan trọng lớn trong quản trị doanh nghiệp, vì họ xác định động cơ của các nhà quản lý
và do đó hiệu quả kinh tế của các tập đoàn họ quản lý.
Trong tham chiếu này ta chú ý đến các nhân tố quan trọng xác định chủ sở hữu bao gồm
quyền biểu quyết (vote rights), quyền dòng tiền (cash flow rights). Trong bài nghiên cứu
này, ta dùng quyền biểu quyết để xác định chủ sở hữu cuối cùng trong trƣờng hợp có sự
giống nhau trong quyền dòng tiền.
Trong đó quyền biểu quyết (vote rights) đƣợc định nghĩa là quyền đƣợc sa thải và thuê
giám đốc, thay đổi chính sách của công ty, bán, thanh lý công ty, để thay đổi điều lệ công
ty, vv, cụ thể bao gồm:
 Bầu cử các nhà quản lý
14

 Quyền được thông tin về tình hình tài chính của công ty
 Quyền khởi kiện người quản lý vi phạm nghĩa vụ
 Quyền trì hoãn thủ tục phá sản
Bên cạnh đó, quyền dòng tiền (cash flow right) đƣợc mô tả là bao gồm các quyền nhƣ
sau:
 Quyền được nắm bắt dòng tiền còn lại
 Quyền được nhận cổ tức
 Dễ dàng chuyển nhượng cổ phần
Cuối cùng, ta đề cập đến vấn đề danh tính của chủ sở hữu. Các ngân hàng đƣợc phân loại
dựa theo danh tính của chủ sở hữu bao gồm các danh tính nhƣ là nhà nƣớc, cá nhân, pháp
nhân, tổ chức tín dụng trong nƣớc và nƣớc ngoài, tổ chức nƣớc
1.1.3.2. PHÂN LOẠI CƠ CẤU SỞ HỮU
 Phân loại theo mức độ phân tán và tập trung:
Có 2 loại cấu trúc sở hữu là phân tán và tập trung.
Trong cấu trúc sở hữu tập trung, cả quyền sở hữu lẫn quyền kiểm soát công ty tập trung
vào tay một số cá nhân, gia đình, ban quản lý, hoặc các định chế cho vay. Những cá nhân
và nhóm này (ngƣời bên trong) thƣờng kiểm soát và chi phối lớn đến cách thức công ty
vận hành. Bởi vậy, cấu trúc tập trung thƣờng đƣợc xem là hệ thống nội bộ. Những cổ

đông lớn kiểm soát doanh nghiệp trực tiếp bằng cách tham gia hội đồng quản trị và ban
điều hành. Cổ đông lớn có thể không sở hữu vốn toàn bộ nhƣng có quyền biểu quyết
đáng kể, nên vẫn có thể đƣợc kiểm soát doanh nghiệp.
Trong cấu trúc sở hữu phân tán thì có nhiều cổ đông, mỗi cổ đông sở hữu một số cổ phần
doanh nghiệp, quyền kiểm soát hoạt động công ty do ban giám đốc nắm giữ. Các cổ đông
nhỏ ít có động lực để kiểm tra chặt chẽ hoạt động và không muốn tham gia điều hành
15

công ty. Bởi vậy họ đƣợc gọi là ngƣời bên ngoài và cấu trúc phân tán đƣợc gọi là hệ
thống bên ngoài.
Mỗi hệ thống cấu trúc sở hữu có những điểm thuận lợi và bất lợi cũng nhƣ tiềm ẩn những
thách thức về quản trị doanh nghiệp. Đối với cấu trúc sở hữu tập trung, doanh nghiệp do
những ngƣời bên trong kiểm soát có những điểm thuận lợi đáng chú ý. Những ngƣời này
có quyền lực và động lực để kiểm soát doanh nghiệp chặt chẽ. Nhờ đó, giảm thiểu đƣợc
tình trạng sai phạm hay gian dối trong quản trị và điều hành.
Hơn nữa, do nắm quyền sở hữu và quyền kiểm soát lớn, những ngƣời này có khuynh
hƣớng giữ vốn đầu tƣ trong doanh nghiệp trong thời gian dài. Vì thế họ sẽ ủng hộ những
quyết định giúp tăng cƣờng hiệu quả hoạt động dài hạn hơn là những quyết định mang lại
lợi ích ngắn hạn.
Tuy nhiên, hệ thống này cũng dẫn doanh nghiệp đến những thất bại trong quản trị. Chẳng
hạn, khi những ngƣời điều hành là các cổ đông lớn hay có quyền biểu quyết lớn, họ có
thể dùng quyền của mình để tác động đến quyết định của hội đồng quản trị sao cho có lợi
cho mình nhƣng lại không có lợi cho công ty.
Một trƣờng hợp phổ biến là các nhà quản lý thuyết phục hội đồng quản trị trả lƣơng và
phúc lợi rất cao cho cấp quản lý hoặc phê duyệt việc mua bán yếu tố đầu vào giá cao từ
các công ty mà họ có sở hữu hoặc có mối quan hệ. Nghiêm trọng hơn, họ có thể sử dụng
những thông tin bí mật để trục lợi nhƣ giao dịch nội gián.
 Phân loại dựa trên sự độc lập trong sự sở hữu, kiểm soát và các mối quan hệ liên
quan.
Một ngân hàng hay công ty có thể đƣợc sở hữu và kiểm soát bởi 2 nhóm ngƣời khác

nhau, nhƣng sự không độc lập hay sự tồn tại các mối quan hệ liên quan, liên kết giữa 2
nhóm ngƣời này cũng gây ra vấn đề tƣơng tự nhƣ vấn đề của cấu trúc tập trung. Một khả
năng dễ xảy ra nhất là sự tồn tại các cấu trúc sở hữu chéo và cấu trúc kim tự tháp giữa
16

các công ty. Hai hình thức sở hữu này thƣờng thấy ở các công ty thành viên của tập đoàn
hoặc các nhóm công ty.
- Sở hữu kim tự tháp
Là hình thức sở hữu bởi một ngƣời kiểm soát thực sự thông qua nhiều tầng nấc sở hữu tại
các công ty khác. Chẳng hạn, A nắm 20% vốn của B, B lại nắm 10% vốn của C. A đƣợc
gọi là chủ sở hữu sau cùng của C, vì A kiểm soát C thông qua B. A có thể tác động lên
một quyết định nào đó của C nhƣng chỉ chịu 2% (= 20% x 10%) mức độ ảnh hƣởng
(hoặc mức độ thiệt hại) của quyết định đó.
- Sở hữu chéo
Xuất hiện khi A kiểm soát B (trong ví dụ trên) nhƣng trong trƣờng hợp này, B cũng nắm
quyền kiểm soát tại A. Mặc dù với tỉ lệ sở hữu chéo không cao, nhƣng sự ràng buộc sở
hữu chéo này lại làm gia tăng mức độ liên kết của A và B trong việc kiểm soát C.
Về nguyên tắc, cấu trúc sở hữu chéo giúp các công ty gia tăng mức độ liên kết, cam kết
và hợp tác thực hiện chiến lƣợc, nhƣng nếu năng lực kiểm soát việc thực thi pháp luật
không cao có thể sẽ dẫn đến tình trạng các công ty liên kết vi phạm quyền lợi cổ đông
nhỏ.
Về lý thuyết, sở hữu chéo có thể phân ra làm 2 loại, sở hữu chéo tích cực và tiêu cực
Sở hữu chéo tích cực sẽ thúc đẩy thƣơng mại Việt Nam và quốc tế, nâng cao quản trị vốn
hiệu quả, các mối quan hệ bao gồm:
NHTM nhà nước và NHTM nước ngoài
Cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM
Cổ đông tại các NHTM là các công ty quản lý quỹ
17

Sở hữu chéo tiêu cực trái lại tiềm ẩn nguy cơ xấu cho tính ổn định của hệ thống Ngân

hàng, các mối quan hệ bao gồm:
Sở hữu của NHTM nhà nước tại NHTM cổ phần
Sở hữu lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần
Sở hữu NHTM CP bởi tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân
1.2. LÝ THUYẾT NỀN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA BẢO HIỂM TIỀN GỬI,
CƠ CẤU SỞ HỮU VÀ SỰ CHẤP NHẬN RỦI RO VÀ CÁC QUAN
ĐIỂM LIÊN QUAN.
1.2.1. LÝ THUYẾT NỀN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA BẢO HIỂM TIỀN GỬI,
CƠ CẤU SỞ HỮU VÀ SỰ CHẤP NHẬN RỦI RO.
Mối quan hệ của ba nhân tố bảo hiểm tiền gửi, cơ cấu sở hữu và sự chấp nhận rủi ro có
nền tảng từ hai học thuyết quan trong đó là lý thuyết đại diện (agency theory) và lý thuyết
hợp đồng (contracting theory).
Những nghiên cứu trƣớc đã chia thông tin không đồng nhất của quan điểm về thuyết hợp
đồng (contracting-theory) thành những thuyết về quản lý hình thức kinh doanh lặp lại để
làm thỏa mãn các mối quan hệ khách hàng (repeat-business) (Hodgman 1963; Kaneand
Malkiel 1965), phân phối giám sát (Diamond 1984), và bảo hiểm tiền gửi (Merton and
Bodie1994; Kane 1995). Kết quả đƣợc đƣợc tạo ra từ thông tin không đồng nhất của quan
điểm về thuyết hợp đồng (contracting-theory) của ngân hàng và chính sách ngân hàng.
Nguyên tắc hƣớng dẫn của lý thuyết hợp đồng đại diện quan trọng là những ngân hàng và
những nhà làm luật bị lôi kéo đến những thỏa thuận mà mang đến cho tất cả các bên đối
tác 1 động lực để sử dụng những thông tin và nguồn khan hiến một cách hiệu quả (Jensen
và Meckling, 1975). Một sự ứng dụng quan trọng của lý thuyết là để giải thích làm sao
mà qua thời gian và không gian các đặc điểm của những bản dự thảo hợp đồng đầu tiên
đƣợc sử dụng bởi những ngân hàng và những tổ chức tài chính thích nghi với những sự
biến đổi trong minh bạch thông tin, quản lý, kỹ thuật tài chính và quy định. Sự thâm nhập
18

của những quan điểm vào những học thuyết ngân hàng giúp ta giải thích tại sao và nhƣ
thế nào những quy định kiềm chế cấu trúc (dựa vào rủi ro) vốn trở nên thay thế những sự
cần thiết thanh khoản nhƣ là những công cụ chính sách trung tâm dành cho việc quản lý

rủi ro ngân hàng.
Lý thuyết ngân hàng truyền thống đã nhìn thấy một ngân hàng đơn giản nhƣ là định chế
tài chính trung gian (Gurley và Shaw 1960). Lý thuyết hợp đồng phác họa những hoạt
động của ngân hàng một cách tổng quát hơn. Một ngân hàng trở nên hòa nhập với bộ máy
tài chính gồm thông tin không định hình và bộ máy thỏa thuận. Trong những bộ phận văn
phòng phía sau (back offices), những đại lý ngân hàng thu thập thông tin, nhận dạng
thông tin, lƣu giữ thông tin, xử lý thông tin, quản lý thông tin và truyền dẫn thông tin cho
những ngƣời chủ và khách hàng của họ thông qua mạng lƣới nội bộ và bên ngoài. Những
văn phòng trung gian (middle offices) sử dụng những phòng chứa thông tin để soạn thảo
và định giá hàng loạt những dự thảo hợp đồng đầu tiên. Những dự thảo ghi nhận sự thật
là ngân hàng và khách hàng đồng ý dựa trên những điều khoản rõ ràng của thỏa thuận tài
chính, những quyền lợi và nhiệm vụ bắt buộc của các bên đối tác. Cuối cùng, bộ phận
văn phòng đối ngoại ( front-office) sẽ thỏa thuận, trao đổi hợp đồng và dịch vụ với khách
hàng.
Lý thuyết về tài chính doanh nghiệp (corporate-finance theory) nhấn mạnh rằng mỗi hợp
đồng đều thành lập mối quan hệ đại diện ngƣời đứng đầu giữa các bên đối tác. Chi phí
đại diện là những chi phí đƣợc nâng cao khi những yếu đố hợp đồng không đƣợc chia sẻ
một cách khách quan hoàn toàn. Chi phí đại diện gồm 3 nhân tố:
 Những chi phí mà đại diện gánh chịu để đƣa ý định của nó vào sự thể hiện trách
nhiệm của nó dƣới hợp đồng.
 Những chi phí mà ngƣời đúng đầu gánh chịu để giám sát và thúc đấy sự hoàn
thành của hợp đồng
 Những cơ hội dƣ thừa cho sự không hoàn thành mà không đƣợc kiểm soát bởi hợp
đồng.
19

Nhận định trung tâm của lý thuyết đại diện là những bên đối tác có một động lực để giảm
thiểu chi phí đại diện. Những chi phí này đƣợc giảm thiểu khi những chi phí biên của sự
giao kèo, giám sát, kiểm soát sự thi hành đƣợc đặt ngang hàng với lợi nhuận biên của
những cơ hội không đƣợc thực hiện dôi ra mà những sự kiểm soát kiềm chế lại.

Trong những hoạt động của ngân hàng, những mối quan hệ của chi phí đại diện và kết
quả của chi phí đại diện bị chồng chất lên nhau dày đặc. Khi một ngân hàng đang hoạt
động đơn giản nhƣ một định chế tài chính trung gian, nó đồng ý hoạt động nhƣ một đại lý
trong những hoạt đồng tiền gửi và hoạt động nhƣ 1 ngƣời đại diện dùng những đồng tiền
mà nó mƣợn để trả cho những khoản vay. Khi mà một ngân hàng bảo đảm cho nhóm
những khoản nợ mà nó đang tiếp tục phục vụ, nó gia nhập vào một hợp đồng ba bên. Nó
trở thành đại diện cho cả ngƣời đầu tƣ trong nhóm và cho những ngƣời mƣợn tiền. Tƣơng
tự, khi một ngân hàng nâng cao sự tín nhiệm của một ngƣời phát hành trái phiếu, nó gánh
chịu sự đại diện bắt buộc với ngƣời năm giữ trái phiếu (bondholder) và trở thành ngƣời
đại diện cho ngƣời phát hành.
Nguồn vốn đƣợc tạo từ những cổ đông đƣợc trút vào một hệ thống mang nghĩa vụ trung
gian của ngân hàng vì lý do hệ thống đó rộng lớn hơn là chỉ để đƣợc che chở bởi bảo
hiểm tiền gửi chính phủ. Nhƣng sự bảo đảm tiềm ẩn theo phỏng đoán của chính phủ
mang đến sự sung sƣớng không trực tiếp của phần lớn những nghĩa vụ hợp đồng của
những ngân hàng đƣợc bảo hiểm. Giá trị của những tổ chức đƣợc bảo hiểm theo phỏng
đoán của tăng lên với sự quan trọng của nó trong vùng và nền kinh tế quốc gia và với sự
ảnh hƣởng chính trị. Đó là vì sao những chính phủ có những động lực mạnh mẽ để làm
chậm lại những luật lệ hoặc đóng của những ngân hàng quan trọng. Những nỗ lực hiệu
quả trong một ngân hàng nhằm để làm sai lệch những hoạt động kỷ luật cho phép những
bên đối tác của ngân hàng trông chờ việc có thời gian để loại bỏ những chi phí thấp trong
những vị trí không đƣợc bảo hiểm trong một ngân hàng có vấn đề.

×