Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Thực trạng thi hành pháp luật bảo hiểm y tế bắt buộc ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI THỊ PHƢƠNG DUNG

THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT
BẢO HIỂM Y TẾ BẮT BUỘC Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI THỊ PHƢƠNG DUNG

THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT
BẢO HIỂM Y TẾ BẮT BUỘC Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luâ ̣t Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM TRỌNG NGHĨA

HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Bùi Thị Phƣơng Dung

i


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT......................................................................... iv
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu .......................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 3
3. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................. 4
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài .................................................... 4
5. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................... 5
6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 6
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM Y TẾ VÀ SỰ
ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI BẢO HIỂM Y TẾ ............... 7
1.1. Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm y tế ................................................... 7

1.1.1. Nguồn gốc ra đời .............................................................................. 7
1.1.2. Khái niệm và Đặc điểm .................................................................... 9
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của bảo hiểm y tế .................................................. 12
1.2. Pháp luật về bảo hiểm y tế .................................................................... 13
1.2.1. Khái niệm và bản chất của pháp luật bảo hiểm y tế ....................... 13
1.2.2. Vai trò của pháp luật bảo hiểm y tế ................................................ 16
1.2.3. Nguyên tắc của pháp luật bảo hiểm y tế ......................................... 18
1.3. Một số vấn đề lý luận về Thi hành pháp luật Bảo hiểm y tế ................ 20
1.3.1. Khái niệm ........................................................................................ 20
1.3.2. Nguyên tắc ...................................................................................... 22
1.4. Pháp luật bảo hiểm y tế ở một số quốc gia trên thế giới....................... 22
1.5. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển pháp luật bảo hiểm y tế ở
Việt Nam ...................................................................................................... 24
1.5.1. Sơ lược về sự hình thành pháp luật bảo hiểm y tế ở Việt Nam ...... 24
1.5.2. Các giai đoạn phát triển của pháp luật bảo hiểm y tế ..................... 26
ii


Chương 2. THỰC TRẠNG THI HÀNH PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ
......................................................................................................................... 38
2.1. Thực trạng về đối tượng tham gia bảo hiểm y tế .................................. 38
2.2. Thực trạng về chế độ hưởng bảo hiểm y tế........................................... 48
2.3. Thực trạng về quỹ bảo hiểm y tế .......................................................... 59
2.4. Đánh giá thực trạng tình hình thi hành pháp luật bảo hiểm y tế tại Việt
Nam .............................................................................................................. 66
2.4.1. Đánh giá chung thực trạng thi hành pháp luật bảo hiểm y tế ......... 66
2.4.2. Đánh giá tình hình thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Bảo hiểm y tế .................................................................................... 68
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THI
HÀNH PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ Ở VIỆT NAM ........................... 79

3.1. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả công tác thi hành pháp luật bảo hiểm y
tế ở Việt Nam ............................................................................................... 79
3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thi hành
pháp luật bảo hiểm y tế ................................................................................ 82
3.2.1. Những giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi của pháp luật bảo
hiểm y tế .................................................................................................... 82
3.2.2. Những giải pháp tăng cường công tác thi hành pháp luật bảo hiểm y
tế ................................................................................................................ 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 97

iii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHYT

Bảo hiểm y tế

BHXH

Bảo hiểm xã hội

DN

Doanh nghiệp

EU


Liên minh Châu Âu

ILO

Tổ chức lao động quốc tế

UBDT

Ủy ban Dân tộc

UBND

Ủy ban nhân dân

UNICEF
WB
WHO

Quỹ Nhi đồng Liên hiệp Quốc
World Bank
Tổ chức Y tế thế giới

iv


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong cuộc sống này, không có gì quan trọng cho bạn bằng chính con
người bạn, một thân thể không bệnh tật, một tâm hồn không loạn đó là chân
hạnh phúc của con người. Có câu nói: “Người có sức khỏe có một trăm ước

muốn; người không có sức khỏe chỉ có 1 ước muốn duy nhất, đó là sức khỏe”.
Quả đúng như vậy, bệnh tật không trừ một ai bất kể bạn là người giàu hay
người nghèo, người có địa vị cao hay thấp. Nếu bạn may mắn được sở hữu
một sức khỏe tốt thì đồng nghĩa với việc bạn đang cận kề với thành công về
mọi lĩnh vực. Do đó, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của bản thân cũng như
cộng đồng trở thành một nhu cầu tất yếu trong xã hội và được thực hiện bằng
nhiều cơ chế pháp lý khác nhau, trong đó có bảo hiểm y tế.
Với mục đích bảo vệ và chăm sóc sức khỏe mỗi cá nhân trong cộng
đồng, pháp luật bảo hiểm y tế (BHYT) giữ vai trò quan trọng trong hệ thống
pháp luật an sinh xã hội của các quốc gia trên thế giới. Công dân có quyền
hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe trở thành một nguyên tắc hiến định trong hệ
thống pháp luật của tất cả các quốc gia trên thế giới. Tổ chức Y tế thế giới
(WHO) đã ra lời tuyên bố Alma-Ata: “Sức khoẻ cho mọi người”, được xem
là cương lĩnh hành động cho mỗi quốc gia trên thế giới với phương châm là
phải chăm lo bảo vệ sức khoẻ cho cộng đồng. Với những ưu điểm vốn có,
pháp luật BHYT là giải pháp được hầu hết các quốc gia lựa chọn để thực
hiện sứ mệnh chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cộng đồng hướng tới mục tiêu công
bằng và hiệu quả.
Ở Việt Nam, BHYT là một chính sách xã hội lớn của Nhà nước. Pháp
luật BHYT đã có những bước trưởng thành và phát triển trong thời gian hơn
20 năm kể từ năm 1992 khi Điều lệ BHYT đầu tiên của nước ta được ban
hành kèm theo Nghị định số 29/HĐBT ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ

1


trưởng (nay là Chính phủ). Đặc biệt là sự ra đời của Luật BHYT năm 2008 và
gần đây nhất, ngày 13/6/2014, tại kỳ họp thứ 7 khóa XII Quốc hội đã biểu
quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT (Luật
BHYT sửa đổi) với 82,73% đại biểu tán thành. Có thể nói, đây là dự thảo

Luật được hoàn thành với công sức, với sự tham gia của các Bộ, ngành, Bảo
hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam, các tổ chức quốc tế WHO, World Bank,
UNICEF, EU đặc biệt là các đồng chí Lãnh đạo Bộ Y tế, Ủy ban Các vấn đề
xã hội của Quốc Hội đã đầu tư nhiều thời gian, công sức để nghiên cứu, học
hỏi kinh nghiệm, tìm kiếm mô hình phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt
Nam. Đây cũng là dự thảo Luật được dư luận xã hội quan tâm vì có nhiều nội
dung liên quan trực tiếp đến cơ chế tài chính đối với chăm sóc sức khỏe và an
sinh xã hội. Theo đó, nhiều điểm trong dự thảo Luật BHYT đã được thay đổi
theo chiều hướng tạo thuận lợi và thu hút người dân tham gia BHYT. So với
Luật BHYT (năm 2008), Luật BHYT sửa đổi có một số điểm quan trọng có
tính đột phá mạnh mẽ để khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật BHYT
năm 2008, tạo cơ chế pháp lý bảo đảm quyền lợi của người tham gia BHYT
và tính bền vững của quỹ BHYTđể thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực không ngừng trong việc hoàn thiện
các quy định của pháp luật, pháp luật BHYT của Việt Nam vẫn còn quá nhiều
thách thức cho sự thành công của BHYT toàn dân với hệ thống tài chính bảo
hiểm bền vững. Do đó, những giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật và đảm
bảo tính khả thi để hoàn thành mục tiêu của BHYT toàn dân ở Việt Nam trở
nên cấp thiết. Đây là lý do cơ bản để tác giả lựa chọn đề tài “Thực trạng thi
hành pháp luật BHYT bắt buộc ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo hiểm y tế là một chính sách xã hội, là bộ phận quan trọng không
thể thiếu của pháp luật về an sinh xã hội. Bảo hiểm y tế ra đời từ rất sớm và
khẳng định được vị thế ở các nước có nền kinh tế phát triển. Do tính thiết yếu
của bảo hiểm y tế, các đề tài về bảo hiểm y tế cũng thu hút được nhiều sự
quan tâm nghiên cứu. Đã có những công trình nghiên cứu khoa học pháp lý ở

cấp độ các bài viết trên các báo, tạp chí chuyên ngành như: TS. Nguyễn Thị
Định (2013), “An sinh xã hội và xu hướng phát triển trên thế giới”, Tạp chí
Bảo hiểm xã hội, (17), tháng 10; Lê Hùng Sơn (2013), “Thực hiện BHYT
100% cho người cận nghèo ở Ninh Bình”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, (26),
tháng 10; TS. Phạm Đình Thành (2013), “An sinh xã hội ở Phần Lan”, Tạp
chí Bảo hiểm xã hội, (35), tháng 10; BS. Đặng Minh Thông (2015), “Giải
pháp đẩy nhanh tiến độ phát triển BHYT toàn dân”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội,
(25), tháng 06…
Tuy nhiên, đề tài về thực trạng thi hành pháp luật Bảo hiểm y tế chưa
được nghiên cứu nhiều, dưới góc độ nghiên cứu luận án tiến sỹ mới chỉ có một
vài luận án viết về đề tài này như: TS. Nguyễn Thị Thanh Hương (2012), “ Cơ
sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật bảo hiểm y tế ở Việt Nam”, Luận
án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, hiện nay cũng chưa có công trình khoa học nào của nước
ngoài nghiên cứu về đề tài thực trạng thi hành pháp luật bảo hiểm y tế bắt
buộc ở Việt Nam.
Nhìn chung, trong thời gian qua có rất nhiều nghiên cứu xoay quanh
chủ đề về Bảo hiểm y tế, tuy nhiên các đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về bảo
hiểm y tế nói chung, chưa có đề tài ở cấp độ Thạc sỹ đi sâu về vấn đề thực
trạng thi hành pháp luật bảo hiểm y tế bắt buộc ở Việt Nam. Vì vậy, đề tài

3


“Thực trạng thi hành pháp luật bảo hiểm y tế bắt buộc ở Việt Nam” là cần
thiết và có ý nghĩa thiết thực cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của Luận văn là nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật
BHYT ở Việt Nam, tạo lập những tri thức lý luận cũng như những luận cứ
khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật BHYT ở Việt Nam. Để thực hiện mục

tiêu này, tác giả Luận văn đặt ra những nhiệm vụ chính sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về pháp luật
BHYT đặt nền móng nhận thức vững vàng về BHYT nói chung và pháp luật
BHYT nói riêng góp phần xây dựng hệ thống tư duy lý luận đầy đủ, vững
chắc về pháp luật BHYT.
Thứ hai: Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định về pháp luật
BHYT ở Việt Nam, tìm hiểu thực tiễn thi hành pháp luật BHYT. Trên cơ sở
đó tìm ra những hạn chế cần phải hoàn thiện, đặc biệt là việc chỉ ra nguyên
nhân của những hạn chế đó.
Thứ ba: Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật
BHYT cho phù hợp với thực tiễn hiện nay góp phần thực hiện tốt công tác
bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Hiện nay đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đề tài pháp
luật BHYT. Tuy nhiên, Luận văn được viết trong thời điểm Luật BHYT sửa
đổi, vừa mới được Quốc hội thông qua nên có những đóng góp mới như sau:
- Luận văn nghiên cứu về những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật
BHYT, trên cơ sở đó có sự so sánh điểm mới của Luật BHYT sửa đổi và Luật
BHYT năm 2008. Đồng thời, luận văn nghiên cứu, tham khảo pháp luật

4


BHYT của một số nước trên thế giới làm cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống
lý luận về pháp luật BHYT ở Việt Nam.
- Luận văn tổng hợp, thống kê những số liệu mới nhất về tình hình thi
hành pháp luật BHYT ở Việt Nam trong thời gian qua nhằm đánh giá những
khó khăn trong việc thi hành pháp luật BHYT ở Việt Nam làm cơ sở để đưa
ra những giải pháp nâng cao tính khả thi cũng như hoàn thiện hơn hệ thống
pháp luật BHYT ở Việt Nam.

5. Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật BHYT. Trong khuôn
khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận về pháp luật BHYT và thực trạng thi hành pháp luật BHYT tạo cơ sở cho
việc hoàn thiện pháp luật BHYT.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận với pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu pháp luật về BHYT trong mối quan
hệ với các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử. Trong quá trình nghiên
cứu, luận văn còn dựa trên cơ sở các quan điểm, định hướng của Đảng, Nhà
nước về chính sách xã hội, bảo vệ và phát triển con người, quan điểm lấy con
người làm trung tâm và mục tiêu của sự phát triển nhằm phân tích, đánh giá
những vấn đề thuộc phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận văn.
Trong những trường hợp cụ thể, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu phù hợp như sau: i) phương pháp phân tích, so sánh được sử dụng
ở Chương 1 nhằm làm rõ bản chất, mục đích, vai trò của pháp luật BHYT
trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân; ii) phương pháp thống
kê, tổng hợp được sử dụng trong Chương 2 để thấy rõ những thành tựu và hạn
chế trong quá trình thực thi pháp luật BHYT; iii) phương pháp của triết học

5


Mác – Lênin được sử dụng ở tất cả các chương để rút ra các kết luận khoa học
của luận văn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các công
trình khoa học liên quan đến luận án đã được công bố, luận văn gồm 3
chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về BHYT và sự điều chỉnh của pháp

luật đối với BHYT
Chương 2: Thực trạng thi hành pháp luật BHYT ở Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật BHYT ở Việt Nam.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM Y TẾ
VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI BẢO HIỂM Y TẾ
1.1. Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm y tế
1.1.1. Nguồn gốc ra đời
Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại.
Tuy nhiên, bảo hiểm thực sự xuất hiện từ khi nào thì người ta vẫn chưa có
được câu trả lời chính xác. Ý tưởng về bảo hiểm được coi là đã xuất hiện từ
khá lâu, khi mà người xưa đã nhận ra lợi ích của việc xây dựng một kho thóc
lúa dự trữ chung phòng khi mất mùa, chiến tranh… Như vậy, ngay từ xa xưa,
con người đã có ý thức về những bất trắc có thể xảy đến với mình và tìm cách
phòng tránh chúng.
Ý tưởng về sự rủi ro (risk) được hình thành một cách rõ nét vào
khoảng thế kỷ XV, khi châu Âu mở những cuộc thám hiểm, khai phá tới các
miền đất ở Châu Á, Châu Mỹ. Nhu cầu giao thương giữa các châu lục trở nên
mạnh mẽ, ngành hàng hải ngày càng phát triển. Những đội tàu buôn lớn ra đi
và trở về với sự giàu có từ nguồn hàng dồi dào, hấp dẫn từ những miền đất
mới. Tuy nhiên, đồng hành với đó cũng là những trường hợp rủi ro không
quay về được do nhiều nguyên nhân như: giông bão, lạc đường, cướp biển…
Những nhà đầu tư cho những chuyến đi mạo hiểm như vậy đã cảm thấy sự
cần thiết phải cùng nhau chia sẻ rủi ro để tránh tình trạng một số người bị mất
trắng khoản đầu tư của mình do một hiện tượng ngẫu nhiên khiến tàu của họ
bị thiệt hại hoặc mất tích. Để thực hiện điều này, người ta có hai lựa chọn:

thành lập liên doanh để cùng “lời ăn, lỗ chịu” hoặc tham gia bảo hiểm. Ở
trường hợp thứ hai, một số cá nhân hay công ty sẽ nhận được phí bảo hiểm
(premium) bằng tiền mặt, đổi lại là lời cam kết sẽ trả một khoản bồi thường
(indemnity) cho chủ tàu trong trường hợp tàu bị mất tích. Những người bảo

7


hiểm (the insurers) đã tạo ra một quỹ chung mà họ cam kết sử dụng để thanh
toán cho người được bảo hiểm (the insured) khi rủi ro xảy ra.
Các hoạt động mang tính chất bảo hiểm phát triển dần theo sự phát
triển của xã hội loài người. Trong các rủi ro, rủi ro về sức khỏe luôn thường
trực và đe dọa cuộc sống của con người. Tự vệ trước những nguy cơ này, con
người từ xa xưa đã tìm đến sự chia sẻ, đùm bọc lẫn nhau những lúc ốm đau.
Các hoạt động tương trợ có tính truyền thống và mang nặng yếu tố tình cảm
dần được hình thành, đặt nền móng cho chế độ BHYT.
BHYT xuất hiện đầu tiên dưới hình thức bảo hiểm ốm đau và thương
tật cho công nhân của các chủ doanh nghiệp. Tại Tây Âu, vào thời kỳ Trung
cổ, một số các hiệp hội đã tự nguyện hỗ trợ các thành viên của mình trong
thời gian có nhu cầu y tế. Do tính chất hạn chế về chăm sóc y tế nên hầu hết
các hỗ trợ tại thời điểm đó là hình thức hỗ trợ thu nhập. Tuy nhiên, đến giữa
thế kỷ XIX, các nước Tây Âu đã hình thành rất nhiều hiệp hội cung cấp
BHYT, trong đó có áp dụng quy tắc liên kết trên cơ sở của nghề nghiệp,
những người khác nhau về nơi làm việc, nơi cư trú, hoặc thậm chí cả dân tộc.
Ví dụ, năm 1885 Thụy Điển đã có hàng chục các quỹ ốm đau với sự tham gia
của khoảng 10% dân số. Năm 1876, Đức đã có 5.239 quỹ ốm đau được chính
thức công nhận, khu vực được bảo hiểm là 869.204 người (chiếm khoảng 5%
dân số). Thế kỷ XIX đánh dấu quá trình công nghiệp hóa đã biến đổi xã hội
châu Âu, dẫn đến sự tăng trưởng của tổ chức người lao động. Điều này đã
khiến cho giới cầm quyền phải thay đổi các chính sách cho người lao động

chẳng hạn như tuần làm việc ngắn hơn, bảo hiểm thất nghiệp, lương hưu và
bảo hiểm về sức khỏe được thực hiện. Điển hình là năm 1850 tại Đức dưới
thời Thủ tướng Bismarck (1815-1898) đã ban hành chính sách BHYT bắt
buộc. Có thể nói đây là hình thức BHYT đầu tiên trên thế giới và nó được
hình thành trong mô hình bảo hiểm xã hội (BHXH) [45].

8


Như vậy, BHYT ra đời xuất phát từ nhu cầu tự nhiên, tất yếu của con
người trong việc tìm kiếm một sự bảo đảm, một điều kiện sống an toàn chống
lại những rủi ro, những tổn thất do ốm đau, bệnh tật mang lại để tồn tại và
phát triển.
1.1.2. Khái niệm và Đặc điểm
Khái niệm về BHYT ở mỗi một quốc gia đều có sự khác biệt do sự
khác nhau về điều kiện kinh tế, xã hội, truyền thống lịch sử.
Theo quan niệm của WHO, BHYT là tên gọi của loại hình BHYT không
kinh doanh, không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm mục đích an sinh xã hội
trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ. Theo thông lệ quốc tế tôn chỉ mục đích của
loại hình bảo hiểm này là đem lại sự chăm sóc y tế, với tư cách là một trong
những nội dung chính của an sinh xã hội theo Công ước số 102 - Công ước về
quy phạm tối thiểu an sinh xã hội của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).
Các nước công nghiệp phát triển định nghĩa BHYT là một tổ chức cộng
đồng đoàn kết tương trợ lẫn nhau, có nhiệm vụ giữ gìn sức khỏe, khôi phục lại
sức khỏe hoặc cải thiện tình trạng sức khỏe của người tham gia BHYT [42].
Theo tài liệu “BHYT xã hội” do WHO ấn hành tháng 5/2003 thì BHYT bắt
buộc thuộc phạm trù BHYT xã hội. Đây là một cơ chế tạo nguồn và quản lý
chăm sóc sức khỏe thông qua chia sẻ rủi ro về sức khỏe giữa các thành viên của
quỹ đồng thời huy động nguồn đóng góp từ doanh nghiệp, hộ gia đình, Chính
phủ. Cơ chế BHYT là một bộ phận của an sinh xã hội chứ không chỉ đơn giản

là một phương pháp huy động vốn mới cho y tế. Đây là giải pháp mang lại sự
ổn định tài chính trong thanh toán các dịch vụ khám chữa bệnh đồng thời tăng
khả năng tiếp cận của người dân đối với các dịch vụ y tế thiết yếu.
Còn theo tác giả Chawla và Berman, BHYT là một nhóm người đóng
góp vào một quỹ chung, thông thường do một bên thứ ba nắm giữ. Nguồn quỹ

9


này sau đó sẽ được dùng để thanh toán cho toàn bộ hoặc một phần các chi phí
nằm trong phạm vi gói quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Bên thứ ba có
thể là bảo hiểm xã hội nhà nước, các cơ quan bảo hiểm công khác hoặc do
quỹ tư nhân đảm nhiệm. Cách tiếp cận này chủ yếu xuất phát từ mô hình tài
chính theo đóng góp, chưa thể hiện được vai trò của nhà nước đối với hoạt
động BHYT. Tác giả Lữ Ngọc Tịnh, một học giả người Trung Quốc cho rằng
BHYT là một chế độ trong đó Nhà nước, doanh nghiệp cung cấp sự đảm bảo
một cách bình đẳng về vật chất và phí khám, dịch vụ chữa bệnh cần thiết cho
người lao động (công dân) bị ốm đau, bệnh tật, thương tật, già yếu, sinh đẻ,
thất nghiệp phải đến bệnh viện để chẩn đoán, kiểm tra và chữa trị [42].
Nhìn chung, dù được tổ chức thực hiện dưới mô hình nào, thì quan
niệm về BHYT đều thống nhất ở một vấn đề cơ bản đó là mục đích của
BHYT nhằm chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho người dân không vì mục tiêu lợi
nhuận. Như vậy, trên thế giới quan niệm về tôn chỉ, mục đích của BHYT khá
đồng nhất giữa các quốc gia. Sự khác nhau chủ yếu chỉ ở mô hình tổ chức
thực hiện, phạm vi và mức độ bảo vệ do điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử
truyền thống của từng quốc gia quyết định. Các quan niệm về BHYT đều
thống nhất ở mục đích, tôn chỉ là loại hình bảo hiểm về sức khỏe vì mục đích
chăm sóc sức khỏe, không kinh doanh lợi nhuận.
Về cơ bản, quan niệm về BHYT ở Việt Nam không nằm ngoài những
tôn chỉ mục đích và các nguyên lý cơ bản của BHYT theo quan niệm của

ILO, WHO. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, trang 151, “BHYT là loại bảo
hiểm do nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp của cá nhân,
tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe, khám sức khỏe và chữa
bệnh cho nhân dân”. Khái niệm này cơ bản đã khẳng định được bản chất
BHYT ở Việt Nam, đó là loại hình BHYT xã hội do nhà nước tổ chức thực
hiện, theo mô hình tài chính đóng góp. Tuy nhiên, khái niệm này chưa lột tả

10


được tôn chỉ, mục đích của BHYT. Theo PGS, TS Đào Văn Dũng “BHYT là
một chính sách xã hội do nhà nước tổ chức thực hiện nhằm huy động nguồn
lực tài chính của nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và cộng
đồng để hình thành quỹ tài chính dùng chi trả chi phí khám chữa bệnh cho
người tham gia BHYT theo quy định của pháp luật”. Theo quan niệm này
BHYT có các đặc trưng sau: i) do nhà nước thực hiện; ii) có sự đóng góp của
người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của nhà nước; iii) quỹ
dùng để chi trả chi phí khám chữa bệnh [26]. Tuy nhiên, khái niệm này vẫn
chưa nêu bật được nguyên lý của BHYT đó là tính tương trợ cộng đồng, chia
sẻ rủi ro. Theo TS. Nguyễn Thị Thanh Hương “BHYT là một chính sách an
sinh xã hội của Nhà nước mang tính bắt buộc đối với mọi người trên cơ sở sự
đóng góp theo thu nhập của các thành viên, có sự hỗ trợ của ngân sách nhằm
mục đích khám chữa bệnh khi thành viên ốm đau, bệnh tật và không vì mục
tiêu lợi nhuận”. Theo quan niệm này, khái niệm BHYT sẽ bao quát và đảm
bảo 2 yếu tố kinh tế và xã hội. Tính xã hội được thể hiện ở vai trò nhà nước
trong việc bắt buộc các thành viên tham gia, ngân sách nhà nước đảm bảo
thực hiện dưới hình thức hỗ trợ kinh phí đóng BHYT cho những đối tượng
yếu thế và vì mục tiêu an sinh xã hội, nhà nước đảm bảo trong trường hợp
quỹ BHYT mất cân đối thu chi trên phạm vi toàn quốc. Yếu tố kinh tế thể
hiện ở sự tham gia đóng góp của các thành viên trên cơ sở thu nhập nhằm cân

đối thu chi quỹ BHYT [42]. Như vậy, các nhà nghiên cứu khoa học về BHYT
cũng có những cách tiếp cận khác nhau khi đưa ra các quan niệm về BHYT.
Nhưng tựu chung lại và thống nhất là khái niệm BHYT được luật hóa tại Điều
1 Luật BHYT sửa đổi như sau: “Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm bắt buộc
được áp dụng đối với các đối tượng theo quy định của Luật này để chăm sóc
sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện”.

11


Theo khái niệm này, BHYT có các đặc trưng sau: i) BHYT do nhà
nước tổ chức thực hiện mang tính bắt buộc đối với mọi người; ii) BHYT là
một bộ phận cấu thành của an sinh xã hội, có tôn chỉ mục đích vì an sinh xã
hội; iii) không nhằm mục đích lợi nhuận khi tham gia BHYT; iv) quỹ BHYT
được hình thành dựa trên sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao
động và cộng đồng dưới sự bảo trợ của nhà nước. Các đặc trưng này thể hiện
tính đầy đủ trong quan niệm về BHYT theo khuyến cáo của WHO và phù hợp
với điều kiện kinh tế, xã hội, lịch sử của Việt Nam.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của bảo hiểm y tế
BHYT có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, đời
sống của con người. Vai trò của BHYT được thể hiện ở những điểm sau:
- Về phương diện kinh tế:
BHYT góp phần quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế. Sức khỏe
là tài sản quý nhất của mỗi người. Khi bị ốm hay mắc bệnh, con người không
chỉ suy giảm sức khỏe, khả năng lao động mà còn ảnh hưởng đến tinh thần
của họ và người thân. Tuy nhiên không phải ai cũng có nguồn tài chính dư dả
để có thể sẵn sàng thanh toán các khoản chi phí y tế để chăm sóc sức khỏe.
Tham gia BHYT sẽ giúp họ thanh toán một phần hoặc toàn bộ chi phí y tế và
như vậy những khó khăn về tài chính khi bị ốm đau sẽ được giảm tải. Hơn
nữa, với thể chất và tinh thần khỏe mạnh, người lao động có thể đạt được kết

quả cao nhất trong công việc, năng suất lao động tăng, thu lợi về cho bản
thân, gia đình, cho tổ chức và cho nền kinh tế quốc dân.
- Về phương diện xã hội:
Người dân tham gia BHYT sẽ được chi trả chi phí khi khám chữa bệnh
tạo sự yên tâm về tâm lý cho người dân. Sức khỏe người dân được bảo vệ và
chăm sóc cũng sẽ tạo môi trường xã hội ổn định và vững chắc. Hơn nữa,

12


BHYT ra đời không nhằm mục đích kinh doanh lợi nhuận mà dựa trên sự chia
sẻ rủi ro giữa con người với con người trong xã hội. Vì vậy, BHYT luôn là
mạng lưới bảo hiểm bao trùm rộng khắp nhất và có ý nghĩa quan trọng trong
hệ thống an sinh xã hội của quốc gia.
- Về phương diện pháp lý:
BHYT có ý nghĩa trên phương diện pháp lý bằng việc cụ thể hóa rõ nét
nhất quyền con người trong xã hội, là công cụ góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả, công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe. Quyền được chăm sóc
sức khỏe là một trong những quyền cơ bản của con người, không chỉ được ghi
nhận trong các công ước của các tổ chức quốc tế mà còn được ghi nhận trong
hiến pháp của nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để
mọi công dân được đảm bảo quyền lợi của mình. BHYT đã đảm bảo cho mọi
người, nhất là những đối tượng yếu thế trong xã hội đều được tiếp cận các
dịch vụ y tế. Với đặc điểm chia sẻ rủi ro, lấy số đông bù số ít, BHYT góp
phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, đảm bảo công bằng xã hội.
1.2. Pháp luật về bảo hiểm y tế
1.2.1. Khái niệm và bản chất của pháp luật bảo hiểm y tế
Xem xét sự ra đời và phát triển BHYT cho thấy, BHYT không chỉ là sự
tương trợ, giúp đỡ của mỗi cá nhân hay các tổ chức cộng đồng mà còn trách
nhiệm của nhà nước trước quyền được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của các

thành viên trong xã hội. Sự tham gia của nhà nước về BHYT ngoài việc thể
hiện trách nhiệm xã hội còn nhằm mục đích đảm bảo ổn định xã hội, củng cố
địa vị thống trị của mình. Bảo vệ sức khỏe người dân là mục tiêu hàng đầu
của bất kỳ quốc gia nào, không phân biệt điều kiện về kinh tế, chính trị. Mỗi
quốc gia đều coi BHYT là một trong những chính sách xã hội bắt buộc của
mình. Chính sách về BHYT chính là thái độ, quan điểm, biện pháp mà nhà

13


thống trị đưa ra để đảm bảo công bằng, bình đẳng trong bảo vệ và chăm sóc
sức khỏe nhân dân. Để mục tiêu này thành hiện thực và được thực hiện thống
nhất, các quốc gia đều ban hành luật để điều chỉnh BHYT. Thông qua các đạo
luật, BHYT được thực hiện một cách chính thống, mang tính bắt buộc và
được đảm bảo thi hành bằng cưỡng chế nhà nước. Pháp luật về BHYT là
phương thức quan trọng nhất để thực hiện BHYT với những quy định, giàng
buộc cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan.
Từ việc tiếp cận các quan niệm về BHYT được trình bày ở trên và lý
luận chung về lịch sử nhà nước và pháp luật có thể đưa ra khái niệm pháp luật
BHYT. Ở phạm vi rộng, pháp luật BHYT được hiểu là hệ thống các quy tắc
xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan
hệ kinh tế - xã hội phát sinh trong quá trình tham gia, thụ hưởng BHYT theo
nguyên tắc tương trợ cộng đồng, chia sẻ rủi ro dưới sự đảm bảo của Nhà nước
vì mục đích an sinh xã hội.
Từ khái niệm trên về pháp luật BHYT và các yếu tố kinh tế, xã hội
thuộc bản chất của BHYT, có thể nhận thấy bản chất của pháp luật BHYT
được thể hiện trên hai nét chính sau:
- Bản chất xã hội: Đây là đặc trưng nổi bật của pháp luật BHYT với vai
trò đảm bảo an sinh xã hội. Bản chất xã hội của BHYT được thể hiện đó là sự
bảo trợ của Nhà nước về chăm sóc y tế dành cho các thành viên của mình,

đảm bảo một trong những quyền thiêng liêng của con người được Tuyên ngôn
nhân quyền khẳng định, đó là quyền được chăm sóc y tế. Bảo vệ và chăm sóc
sức khoẻ không phải thuần tuý chỉ là trách nhiệm của mỗi cá nhân riêng lẻ,
mà là trách nhiệm chung của cả cộng đồng. Bởi lẽ, nguy cơ về bệnh tật có thể
đến với bất kể ai, không phân biệt quốc gia, dân tộc và hơn nữa không ai có
thể một mình đơn phương chống lại bệnh tật. Lẽ đương nhiên việc bảo vệ,

14


chăm sóc sức khoẻ trước tiên thuộc về mỗi cá nhân nhưng vẫn cần sự trợ giúp
mang tính xã hội, có tính tổ chức cao đó là sự trợ giúp mang tính Nhà nước. Ở
đó Nhà nước giữ vai trò quan trọng, là người tổ chức, quản lý và bảo trợ. Bản
chất xã hội của pháp luật BHYT còn được thể hiện ở sự liên kết, chia sẻ rủi ro
mang tính cộng đồng giữa các thành viên trong xã hội. Bên cạnh sự trợ giúp
mang tính Nhà nước, thì sự chia sẻ, liên kết của chính các thành viên trong xã
hội thông qua đóng góp dựa trên thu nhập là yếu tố rất quan trọng. Thiếu sự
liên kết này, việc thực hiện BHYT sẽ không thành công do không đảm bảo
được nguyên lý chia sẻ rủi ro. Thực tế cho thấy, bệnh tật và những rủi ro về
sức khoẻ không phải khi nào cũng xuất hiện cùng một lúc với tất cả mọi
người, chúng cũng không xuất hiện giống nhau ở mỗi người: có người ốm lúc
này, người ốm lúc khác; có người bệnh nặng, có người bệnh nhẹ; có người
hay ốm, người ít ốm và bệnh tật thường đến bất ngờ không báo trước. Nếu cứ
để ai có bệnh người đó tự chống đỡ sẽ gây khó khăn cho chính họ vì không đủ
tiền để trang trải. Do đó sự liên kết mang tính cộng đồng rộng rãi để chia sẻ
rủi ro bệnh tật là một đòi hỏi tất yếu. Một quỹ chung cho chăm sóc sức khoẻ
sẽ điều tiết để nhiều người chưa hoặc không ốm chăm sóc cho người ốm,
người ốm nhẹ giúp người ốm nặng.
Tính xã hội tương trợ cộng đồng nhân văn của pháp luật BHYT còn thể
hiện ở sự đoàn kết xã hội trong chăm sóc y tế. Chăm sóc y tế thông qua

BHYT không phân biệt mức đóng nhiều hay đóng ít, không phân biệt thành
phần xã hội, tôn giáo, giai cấp mà phụ thuộc vào mức độ rủi ro về bệnh tật.
Thực tế cho thấy những người nghèo, người có thu nhập thấp thường là người
hay đau ốm và cần nhiều kinh phí chữa bệnh. Hơn nữa, khi đau ốm lại làm
giảm hoặc mất thu nhập do nghỉ việc nên càng làm cho họ khó khăn hơn về
tài chính để tiếp cận các dịch vụ y tế. Pháp luật BHYT là một giải pháp thực
tế đưa họ tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Như vậy, bản chất xã hội của

15


pháp luật BHYT thể hiện ở sự trợ giúp mang tính Nhà nước và sự tương trợ
mang tính cộng đồng. Pháp luật BHYT thể hiện bản chất nhân đạo và trình độ
văn minh của xã hội phát triển với mục đích đảm bảo khả năng tiếp cận dịch
vụ y tế cho đa số dân chúng, thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khoẻ.
- Bản chất kinh tế: Mặc dù BHYT là một chính sách xã hội, hoạt động
vì mục tiêu trợ giúp xã hội, không vì lợi nhuận nhưng nó lại mang yếu tố kinh
tế, thuộc phạm trù kinh tế - y tế. Thực hiện BHYT có hiệu quả là giải một bài
toán về kinh tế y tế. Pháp luật BHYT có nhiệm vụ phân phối lại thu nhập. Có
thể thấy được điều này ngay chính trong bản chất xã hội ở sự tương trợ mang
tính cộng đồng của BHYT. Có hai góc độ thể hiện chính đó là sự phân phối
trực tiếp và sự phân phối gián tiếp. Phân phối trực tiếp thể hiện ở sự chuyển
phần thu nhập của người tạm thời khoẻ sang người đang ốm, của người bệnh
nhẹ sang người bệnh nặng, của người trẻ khoẻ sang người già yếu, thông qua
sự điều hành luân chuyển của chính phần thu nhập đóng trực tiếp cho quỹ
BHYT. Phân phối gián tiếp thể hiện ở sự hỗ trợ giữa người giàu và nghèo,
người thu nhập cao và thu nhập thấp[42].
1.2.2. Vai trò của pháp luật bảo hiểm y tế
Pháp luật BHYT có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội của mỗi
quốc gia. Sự phát triển của các yếu tố kinh tế, xã hội cùng với sự biến đổi khí

hậu, ô nhiễm môi trường đang đòi hỏi phải có sự liên kết, hợp tác mang tính
toàn cầu trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Pháp luật BHYT là một giải pháp
hữu hiệu thực hiện chế độ trợ cấp y tế, một trong các bộ phận cấu thành quan
trọng của an sinh xã hội. Về tổng quan, vai trò của pháp luật BHYT thể hiện ở
một số nội dung sau:
Một là: Pháp luật BHYT đảm bảo tính công bằng trong tiếp cận dịch vụ
chăm sóc y tế. Pháp luật BHYT là sự cụ thể hóa rõ nét nhất quyền cơ bản của

16


con người trong xã hội, đó là quyền được chăm sóc y tế và quyền được bình
đẳng trong chăm sóc y tế. Từ việc ghi nhận quyền hưởng BHYT trong các
văn bản pháp lý quốc tế, các quốc gia đều ghi nhận quyền hưởng BHYT là
một nguyên tắc hiến định. Thông qua pháp luật BHYT với các quy định về
nguyên tắc, phạm vi, mức hưởng, trách nhiệm pháp lý của các chủ thể thì
quyền hưởng BHYT mới được cụ thể hóa và được đảm bảo thực hiện.
Hai là: Pháp luật BHYT là công cụ chống lại nghèo đói, bệnh tật. Đói
nghèo và bệnh tật không chỉ là mối quan tâm của riêng ai, là vấn đề chung của
nhân loại. Nghèo đói thường đi liền với bệnh tật đó là quan hệ nhân quả. Bệnh
tật từ đói nghèo mà ra, bệnh tật làm cho đói nghèo. Bởi khi mắc bệnh, không
phải ai cũng có điều kiện kinh tế dư dả để chi trả cho các khoản chi phí y tế.
Để khám chữa bệnh, có người còn phải vay mượn mọi nơi vẫn không đủ để
trang trải các chi phí. Hơn nữa, khi có bệnh tật, kinh tế gia đình cũng bị sụt
giảm do giảm sức lao động. Pháp luật BHYT với bản chất nhân văn đã trở
thành công cụ hiệu quả chống lại đói nghèo và bệnh tật. Ở Việt Nam, khi
khoảng cách giàu nghèo còn khá xa và phần lớn dân số là nông dân với thu
nhập thấp và không ổn định, pháp luật BHYT là “cứu cánh” cho những gia
đình nghèo, người mắc các bệnh mãn tính, bệnh hiểm nghèo.
Ba là: Pháp luật BHYT có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phát

triển bền vững của xã hội, cộng đồng, gia đình và cá nhân. Sức khoẻ chính là
sức lao động, tài sản đặc biệt của một quốc gia. Bằng các nguyên lý của mình,
pháp luật BHYT đảm bảo sự công bằng trong chăm sóc y tế, cung cấp dịch vụ
y tế tới toàn bộ dân cư. Bằng các chế độ trợ cấp, pháp luật BHYT trang bị cho
từng cá nhân cơ chế để bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bản thân và ý thức về sức
khỏe của cộng đồng. Pháp luật BHYT góp phần quan trọng cùng với các chế
độ khác của an sinh xã hội giải quyết tận gốc rễ của đói nghèo, bất ổn và luôn

17


song hành cùng sự phát triển của mỗi cá nhân, là công cụ pháp lý quan trọng
đảm bảo cho sự phát triển xã hội theo hướng bền vững [41].
Bốn là: Pháp luật BHYT không chỉ có vai trò quan trọng trong phạm vi
quốc gia mà còn có ý nghĩa quốc tế. Trong xu thế hội nhập ngày nay, các tiêu
chí đánh giá độ văn minh, tiến bộ của một quốc gia không chỉ thuần túy ở sự
phát triển kinh tế mà còn phụ thuộc vào việc quốc gia đó đối xử với công dân
của mình như thế nào, mức độ, phạm vi bảo vệ quyền cơ bản của con người
đến đâu. Pháp luật BHYT góp phần cùng pháp luật về an sinh xã hội là sự
phản ánh rõ nét nhất thái độ của Nhà nước đối với công dân của mình, thậm
chí còn là lợi thế của quốc gia trên thị trường cạnh tranh.
1.2.3. Nguyên tắc của pháp luật bảo hiểm y tế
Nguyên tắc của pháp luật BHYT là những nguyên lý, tư tưởng chủ đạo
xuyên suốt và chi phối toàn bộ các quy định pháp luật BHYT. Nội dung các
nguyên tắc của pháp luật BHYT thể hiện quan điểm, đường lối của Đảng,
Nhà nước về quyền hưởng BHYT, được bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe
và tiến tới mục tiêu thực hiện BHYT cho toàn dân. Tuân thủ các nguyên tắc
của pháp luật BHYT trong việc xây dựng cũng như áp dụng các quy phạm
pháp luật BHYT sẻ đảm bảo cho việc thực thi hiệu quả pháp luật BHYT.
- Nguyên tắc thứ nhất: Mọi thành viên trong xã hội đều có quyền hưởng

BHYT
Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ sự ra đời và mục đích của an
sinh xã hội là vì con người với tư cách là thành viên của xã hội. An sinh xã
hội chỉ đạt được mục đích của mình khi bảo vệ được tất cả các thành viên
trong xã hội mà không có sự phân biệt theo tiêu chí nào. Công ước số 102 quy
phạm tối thiểu về an sinh xã hội ngày 28/6/1952 khẳng định vấn đề chăm sóc
y tế là một trong những nội dung quan trọng về quyền hưởng an sinh xã hội

18


của con người [14]. Trong phạm vi mỗi quốc gia, được chăm sóc, bảo vệ sức
khỏe là một trong những quyền cơ bản của công dân, được ghi nhận ở hầu hết
trong hiến pháp các nước. Ở nước ta, quyền được chăm sóc sức khỏe được
ghi nhận tại Điều 38, Hiến pháp 2013 như sau: “Mọi người có quyền được
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và
có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh”.
Như vậy, quyền được hưởng chế độ BHYT là một nguyên tắc hiến định.
Nguyên tắc tham gia bắt buộc không chỉ giới hạn ở một số đối tượng mà tiêu
chí cần hướng tới là mở rộng độ bao phủ tới toàn bộ dân chúng, thực hiện
BHYT bắt buộc toàn dân. Thực hiện chế độ đóng BHYT bắt buộc có chức
năng hỗ trợ cho loại hình trợ cấp áp dụng đồng đều cho tất cả mọi người. Còn
chế độ tự nguyện mang tính bổ trợ và bước đệm để mở rộng chế độ bắt buộc,
mở rộng diện bao phủ tới toàn thể dân chúng.
- Nguyên tắc thứ hai: Nhà nước thống nhất quản lý về BHYT
Lịch sử ra đời của BHYT đã chứng minh một cách rõ nét nhất vai trò
của nhà nước trong hoạt động BHYT, không thể tồn tại hoạt động BHYT theo
đúng nguyên lý của nó nếu thiếu đi vai trò quản lý của nhà nước. Không có sự
can thiệp của nhà nước hoạt động BHYT chỉ là những phương thức bảo vệ
truyền thống mang tính tự phát, chỉ bao quát được một nhóm đối tượng nhất

định trong xã hội và thường là những người có điều kiện kinh tế, các đối
tượng “yếu thế” cần được bảo vệ sẽ nằm ngoài phạm vi bao phủ của BHYT.
Sự can thiệp của nhà nước không chỉ xuất phát từ nhu cầu tất yếu đảm bảo sự
ổn định, chắc chắn, công bằng trên diện rộng mà còn xuất phát từ chức năng
xã hội của nhà nước. Cơ sở của nguyên tắc này nằm ngay trong chính chức
năng xã hội của nhà nước, với vai trò là người đại diện quản lý mọi mặt của
đời sống xã hội. Vai trò quản lý nhà nước đối với BHYT thể hiện ở việc nhà

19


×