Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Giải quyết tranh chấp giữa nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài theo cơ chế của ICSID

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 98 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

LNG THANH BèNH

GIảI QUYếT TRANH CHấP
GIữA NHà NƯớC VớI NHà ĐầU TƯ NƯớC NGOàI
THEO CƠ CHế CủA ICSID

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

LNG THANH BèNH

GIảI QUYếT TRANH CHấP
GIữA NHà NƯớC VớI NHà ĐầU TƯ NƯớC NGOàI
THEO CƠ CHế CủA ICSID
Chuyờn ngnh: Lut Quc t
Mó s: 60 38 01 08

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS. NGUYN B DIN

H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

LƢƠNG THANH BÌNH


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP VÀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA NHÀ NƢỚC VỚI
NHÀ ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI ...................................................... 6
1.1.

Nhận thức chung về đầu tƣ nƣớc ngoài và tranh chấp trong
hoạt động đầu tƣ giữa nhà nƣớc với nhà đầu tƣ nƣớc ngoài ......... 6


1.1.1.

Khái quát về đầu tư nước ngoài ......................................................... 6

1.1.2.

Tranh chấp trong hoạt động đầu tư giữa nhà nước với nhà đầu
tư nước ngoài ................................................................................... 12

1.2.

Khái quát về giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tƣ
giữa nhà nƣớc với nhà đầu tƣ nƣớc ngoài................................... 18

1.2.1.

Khái niệm giải quyết tranh chấp ...................................................... 18

1.2.2.

Vai trò của giải quyết tranh chấp giữa nhà nước với nhà đầu
tư nước ngoài ................................................................................... 19

1.2.3.

Các yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết tranh chấp giữa nhà
nước với nhà đầu tư nước ngoài ...................................................... 20

1.2.4.


Các phương thức giải quyết tranh chấp ........................................... 22

1.2.5.

Cơ sở pháp lý giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước
ngoài và nhà nước tiếp nhận đầu tư ................................................. 30


Chƣơng 2: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẦU TƢ THEO CƠ
CHẾ CỦA ICSID HIỆN NAY ...................................................... 35
2.1.

Thủ tục giải quyết tranh chấp đầu tƣ tại ICSID ........................ 35

2.1.1.

Các yếu tố để vụ tranh chấp được trung tâm ICSID thụ lý ............. 35

2.1.2.

Thủ tục giải quyết tranh chấp trong đầu tư nước ngoài bằng
hòa giải tại ICSID ............................................................................ 37

2.1.3.

Thủ tục giải quyết tranh chấp trong đầu tư nước ngoài bằng
Trọng tài tại ICSID ......................................................................... 39

2.2.


Tình hình đầu tƣ nƣớc ngoài và thực trạng giải quyết
tranh chấp giữa Nhà nƣớc với nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tại
Việt Nam ......................................................................................... 44

2.2.1.

Tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong những năm
vừa qua ............................................................................................. 44

2.2.2.

Thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu
tư nước ngoài với Nhà nước Việt Nam từ trước đến nay ................ 46

2.3.

Thực tiễn giải quyết tranh chấp tại ICSID của một số quốc
gia trên thế giới .............................................................................. 52

2.3.1.

Thực tiễn giải quyết tranh chấp của Hoa Kỳ ................................... 52

2.3.2.

Thực tiễn giải quyết tranh chấp của Pê-ru ....................................... 58

2.3.3.

Thực tiễn giải quyết tranh chấp của Thái Lan ................................. 65


Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT TRONG VẤN ĐỀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP GIỮA NHÀ NƢỚC VỚI
NHÀ ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI .................................................... 70
3.1.

Một số kiến nghị và đề xuất đối với Việt Nam ............................ 70

3.1.1.

Quyết định gia nhập công ước Washington 1965 ........................... 70

3.1.2.

Những vấn đề mà Việt Nam cần chuẩn bị khi gia nhập công
ước Washington 1965 ...................................................................... 75


3.2.

Kiến nghị và đề xuất đối với cơ chế giải quyết tranh chấp
của ICSID ....................................................................................... 82

3.2.1.

Đảm bảo một cơ chế giải quyết tranh chấp thực sự công bằng ....... 82

3.2.2.

Vấn đề chi phí và tính minh bạch của vụ kiện tại ICSID ................ 84


KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Tên viết tắt

Tên đầy đủ

Dịch nghĩa

AFTA

Asean Free Trade Area

Khu vực mậu dịch tự do Asean

ALE

Aguaytia Energy LLC

Công ty TNHH Năng lượng Aguaytia

ASEAN

Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

BOOT


Build Own Operate Transfer

Hợp đồng xây dựng, sở hữu, hoạt
Động và chuyển giao

BIT

Bilateral investment treaty

Hiệp định đầu tư song phương

BRA

Boston Redevelopment Authority Cơ quan tái phát triển Boston

CAFTA-DR Dominican
Republic-Central Hiệp định thương mại tự do giữa
America-United States Free Trade Cộng hòa Dominica, Trung Mỹ
Agreement
và Hoa Kỳ
CELE

Comité Especial Líneas Eléctricas Ủy ban phụ trách dự án nâng cấp
- Special Committee for Electricity lưới điện

DDT

Double taxation treaty


Hiệp định tránh đánh thuế hai lần

ECJ

European Court of Justice

Tòa án công lý châu Âu

EIA

Economic integration agreement

Hiệp định hội nhập kinh tế

FDI

Foreign direct investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

ICSID

International Centre for Settlement of Trung tâm giải quyết tranh chấp
Investment Disputes
đầu tư quốc tế

ICC

International Chamber of Commerce Phòng thương mại quốc tế


ICJ

International Court of Justice

IIA

International investment agreement Hiệp định đầu tư quốc tế

LPA

Lafayette Place Associates

MIGA

Multilateral Investment Guarantee Công ước bảo đảm đầu tư đa biên
Agreement

NAFTA

North American Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ

Tòa án công lý quốc tế

Hội buôn hữu hạn Lafayette Place


PCA

Permanent Court of Arbitration


Tòa trọng tài thường trực

PCC

Peru Civil Code

Bộ luật dân sự Pê-ru

SCC

Stockholm Chamber of Commerce Phòng thương mại Stockholm

TPP

The Trans-Pacific Partnership

TRIMs

Trade-Related Investment Measures Các biện pháp đầu tư liên quan
đến thương mại

Hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình Dương

UNCITRAL United Nations Commission on Ủy ban Liên hiệp quốc về Luật
International Trade Law
thương mại quốc tế
UNCTAD

United Nations Conference on Diễn đàn Thương mại và phát

Trade and Development
triển của Liên hiệp quốc

USD

United States Dollar

VIAC

Vietnam International Arbitration Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt
Centre
Nam

WB

World Bank

Ngân hàng thế giới

WTO

World Trade Organization

Tổ chức thương mại thế giới

Đô la Mỹ


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam đang dần tiến những bước chân vững chắc hội nhập vào nền
kinh tế thế giới với mong muốn trở thành quốc gia có nền kinh tế phát triển
hàng đầu trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã tích cực thực hiện việc
cắt giảm thuế quan trong AFTA, ký hiệp định Việt Nam – Hoa Kỳ, cường
quốc có nền kinh tế đứng đầu thế giới, và đặc biệt là năm 2007, sau 11 năm
tích cực đàm phán, chúng ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Mở ra rất nhiều triển vọng cho nền kinh tế. Trong quá trình hội nhập đó, Việt
Nam sẽ là miền đất đầy hứa hẹn cho các nhà đầu tư nước ngoài hướng tới.
Trong xu thế hội nhập vô cùng năng động và sôi động đó, các hoạt
động thương mại, đầu tư phát triển vô cùng mạnh mẽ, các loại quan hệ này cả
trên bình diện quốc gia và quốc tế đều diễn ra rất đa dạng và phức tạp. Đặc
biệt trong những năm gần đây, hoạt động đầu tư nước ngoài đã có những
bước phát triển mạnh mẽ ở nước ta, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của
nền kinh tế. Nhất là sau khi hệ thống pháp luật trong hoạt động kinh doanh và
đầu tư đã có những thay đổi tích cực mang lại sự bình đẳng tương đối giữa
các loại hình đầu tư cũng như các loại chủ thể kinh doanh. Tuy nhiên, việc nở
rộ các hình thức đầu tư mà đặc biệt là đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, đồng
thời với sự không tương thích giữa các điều ước quốc tế (song phương và đa
phương), các tập quán quốc tế... với các quy định của hệ thống pháp luật
trong nước, cùng với sự thiếu hiểu biết, thiếu kinh nghiệm cũng như thiếu
trách nhiệm của một bộ phận không nhỏ cán bộ phụ trách và có liên quan đến
hoạt động đầu tư nước ngoài đã dẫn tới những sự việc đáng tiếc xảy ra là Nhà
nước Việt Nam bị nhà đầu tư nước ngoài khởi kiện tại một số định chế tài
phán quốc tế như Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế (ICSID)...

1


Trên thực tế, trong một số những tranh chấp trong thời gian vừa qua
giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước Việt Nam (cụ thể là Chính phủ Việt

Nam) đã cho thấy Việt Nam còn chưa có kinh nghiệm trong việc giải quyết
loại hình tranh chấp này. Chúng ta thường chần chừ và thụ động trong những
vụ kiện, chính vì vậy mà khả năng thắng kiện là rất thấp qua đó có nguy cơ
phải bồi thường những khoản tiền không hề nhỏ khi bị các nhà đầu tư nước
ngoài khởi kiện ra ICSID. Việc giải quyết các tranh chấp xảy ra trong lĩnh
vực đầu tư của các quốc gia trên thế giới không phải chỉ có biện pháp sử dụng
quyền lực của Nhà nước mà còn có nhiều cách thức hiệu quả khác như
thương lượng hoặc thông qua sự lựa chọn trung gian như hòa giải hoặc Trọng
tài. Đặc biệt, nổi bật trong các thủ tục giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài
nói trên là thủ tục Trọng tài của Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc
tế (ICSID). Trong thời gian vừa qua, khi bị khởi kiện bởi một số nhà đầu tư
nước ngoài, Việt Nam chúng ta cũng đã mất hàng chục năm cân nhắc và tranh
cãi trên các diễn đàn khoa học là có nên hay không nên tham gia vào Công
ước Washington 1965 và chịu sự ràng buộc của cơ chế giải quyết ICSID.
Trong khi đó, hầu hết các quốc gia khác trên thế giới đã tham gia Công ước
và nhiều quốc gia trong số đó đã có những giải pháp ứng phó tương đối thành
công đối với các vụ tranh chấp giữa Nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài khi
bị các nhà đầu tư nước ngoài kiện ra ICSID. Chính vì những lý do trên, việc
nghiên cứu đề tài: “Giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước với nhà đầu tư
nước ngoài theo cơ chế của ICSID” nhằm tìm hiểu kĩ lưỡng về phương thức
giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài cũng như làm
sáng tỏ những vấn đề mà chúng ta còn vướng mắc là một điều hết sức cần
thiết. Trên cơ sở phân tích kinh nghiệm giải quyết tranh chấp của một số quốc
gia trên thế giới đồng thời chỉ ra những hạn chế còn tồn tại, qua đó đề xuất
một số kiến nghị nhằm giải quyết hiệu quả hơn những vụ tranh chấp tương tự
như vậy đối với Việt Nam.

2



2. Tình hình nghiên cứu
Trên thực tế đã có khá nhiều công trình, bài báo cả trong nước lẫn
ngoài nước về tranh chấp đầu tư nước ngoài, giải quyết tranh chấp trong hoạt
động đầu tư nước ngoài, cơ chế giải quyết tranh chấp trong hoạt động đầu tư
nước ngoài tại ICSID như:
- Investor – state disputes: prevention and alternatives to arbitration II,
UNCTAD Series on International Investment Policies for Development,
United Nations, New York, and Geneva, 2010.
- Investor – state disputes settlement and impaction on investment
rulemaking, United Nations, New York and Geneva, 2007
- Hoàng Thế Liên, Giới thiệu chung về các cơ chế giải quyết tranh
chấp ngoại thương và đầu tư nước ngoài chủ yếu ở Việt Nam, trích từ cuốn
Giải quyết tranh chấp kinh tế có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, NXB Chính
trị Quốc gia, 2000, tr.405 – 417.
- Lê Thị Thủy Hương, Về cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua con
đường trọng tài trong Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, Tạp chí khoa học
pháp lý, số 6/2002.
- TS. Lê Nết, ICSID còn gay hơn cả kiện bán phá giá, Thời Báo Kinh
tế Sài Gòn, ngày 8/9/2006.
- Luật sư Hoàng Nguyễn Hạ Quyên, Thận trọng khi tham gia giải quyết
tranh chấp tại cơ quan trọng tài ICSID, trang thông tin điện tử Pháp luật Việt
Nam, ngày 29/5/2012.
Các công trình, bài báo nói trên đã phần nào giới thiệu về Trung tâm
giải quyết tranh chấp trong đầu tư nước ngoài ICSID, đồng thời đã phân tích
một hoặc một số đặc điểm trong cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư nước
ngoài của ICSID. Những công trình, bài báo này đã nhấn mạnh những ưu
điểm nổi bật của cơ chế giải quyết tranh chấp này như tính khách quan, trung

3



lập, minh bạch, đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư, tạo niềm tin cho các nhà
đầu tư của các nước phát triển khi đầu tư tại các nước đang phát triển.
Trong số các công trình cũng như những bài báo nói trên, một số vấn
đề của cơ chế giải quyết tranh chấp này cũng đã được bàn đến. Sự trì trệ,
chậm trễ của các cơ quan nhà nước tại các quốc gia tiếp nhận đầu tư, đặc biệt
là các quốc gia đang phát triển là một lực cản đáng kể cho việc giải quyết
tranh chấp. Hơn nữa, vấn đề thực thi các phán quyết Trọng tài của ICSID gặp
nhiều khó khăn..
Các tài liệu trên, bước đầu đã khẳng định về mặt lý luận cần thiết phải
có một cơ chế hiệu quả để giải quyết các tranh chấp giữa nhà đầu tư nước
ngoài với Nhà nước Việt Nam với tư cách là nhà nước tiếp nhận đầu tư.
Một số bài viết đã giới thiệu sơ lược về cơ chế giải quyết tranh chấp
đầu tư nước ngoài tại ICSID hoặc đi sâu vào một trong các vấn đề trong
cơ chế đó như quy tắc trọng tài, quy tắc hòa giải của ICSID. Tuy vậy,
chưa có bài viết hay công trình nghiên cứu nào phân tích một cách toàn
diện về mặt lý luận và thực tiễn cơ chế giải quyết tranh chấp trong đầu tư
nước ngoài tại ICSID để đưa ra bài học kinh nghiệm và những giải pháp
kiến nghị cho Việt Nam
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề chung về giải
quyết tranh chấp trong đầu tư nước ngoài, về cơ chế giải quyết của Trung tâm
giải quyết tranh chấp trong đầu tư quốc tế ICSID, những vụ việc thực tiễn đã
và đang được giải quyết tại Trung tâm, kinh nghiệm áp dụng những quy định
của ICSID của một số quốc gia trên thế giới. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra
những khuyến nghị đối với Việt Nam liên quan đến giải quyết tranh chấp giữa
Nhà nước Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là liên quan tới việc
giải quyết tranh chấp tại ICSID

4



4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa
nhà nước tiếp nhận đầu tư với nhà đầu tư nước ngoài tại ICSID.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là cơ chế giải quyết tranh chấp của
Công ước ICSID và những quy định có liên quan đến Công ước về giải quyết
tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước tiếp nhận đầu tư. Về mặt thời gian,
phạm vi nghiên cứu của đề tài kể từ năm 1965 khi Công ước ra đời cho đến
những năm đầu thế kỷ 21 trên cơ sở nghiên cứu những xu hướng tranh chấp
trong đầu tư nước ngoài và những khuyến nghị cho Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng
bao gồm: phương pháp thống kê, phân tích – tổng hợp, luận giải, đối chiếu so
sánh các luận điểm trên nhiều khía cạnh khác nhau kết hợp với quá trình
nghiên cứu thực tiễn về đề tài.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầ u và kế t lu ận, nội dung dự kiến của luận văn bao gồm ba
phần lớn với những ý tưởng triển khai tập trung vào:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về tranh chấp và giải quyết tranh chấp
giữa nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài.
Chương 2. Giải quyết tranh chấp đầu tư theo cơ chế của ICSID hiện nay.
Chương 3. Một số kiến nghị và đề xuất trong vấn đề giải quyết tranh
chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP VÀ GIẢI QUYẾT

TRANH CHẤP GIỮA NHÀ NƢỚC VỚI NHÀ ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI
1.1. Nhận thức chung về đầu tƣ nƣớc ngoài và tranh chấp trong
hoạt động đầu tƣ giữa nhà nƣớc với nhà đầu tƣ nƣớc ngoài
1.1.1. Khái quát về đầu tư nước ngoài
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư nước ngoài
Trước khi tìm hiểu thế nào là “đầu tư nước ngoài” thì chúng ta cần phải
làm rõ được khái niệm “đầu tư”. Theo cách hiểu thông thường thì đầu tư
chính là việc “bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào công việc gì, trên cơ sở tính
toán hiệu quả kinh tế, xã hội” [13, tr. 301]. Dưới góc độ kinh tế học thì người
ta hiểu đầu tư như là một hoạt động đưa vào sử dụng những cái đã có để đạt
được những kết quả lớn hơn những cái đã có. Những ích lợi thu được từ đầu
tư có thể là sự lớn mạnh, tăng thêm về tài sản vật chất, trí tuệ hay nguồn nhân
lực cho xã hội. Dưới góc độ pháp lý, đầu tư được hiểu là việc nhà đầu tư bỏ
vốn dưới hình thức nào đó nhằm mục đích sinh lời. “Lời” ở đây có thể hiểu là
lợi nhuận cũng có thể là những lợi ích kinh tế xã hội khác. Ở Việt Nam, Luật
khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) ngày 20/05/1998, Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam (1996, 2000) đều không đưa ra một định nghĩa về đầu tư
nói chung mà chỉ đề cập đến khái niệm “đầu tư trong nước” và “đầu tư trực
tiếp nước ngoài”. Cho đến năm 2005, khi Luật Đầu tư ra đời điều chỉnh chung
hoạt động đầu tư mới đưa ra một định nghĩa về đầu tư: “Đầu tư là việc nhà
đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài
sản tiến hành các hoạt động đầu tư” [9]. Tuy nhiên, định nghĩa về đầu tư tại
Luật Đầu tư năm 2005 vẫn chưa thực sự rõ ràng. Chính vì vậy, trong Luật
Đầu tư năm 2014 đã sửa lại một chút khái niệm về đầu tư, đó là đưa ra khái

6


niệm “đầu tư kinh doanh”, và tại khoản 5, điều 3, Luật Đầu tư năm 2014 thì
“đầu tư kinh doanh” được hiểu như sau: “Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu

tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập
tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh
tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư” [10]. Có lẽ
khi xây dựng định nghĩa này các nhà làm luật có dụng ý làm rõ hơn khái niệm
về đầu tư trong Luật Đầu tư 2014, có khuynh hướng giống với các hiệp định
đầu tư (thường có xu hướng đưa ra định nghĩa về đầu tư bắt đầu ở một phạm vi
rộng sau đó liệt kê một loạt những danh mục không đầy đủ các ví dụ về đầu tư.
Như tại điều 1, chương 4 Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ chẳng
hạn: “Đầu tư” là mọi hình thức đầu tư trên lãnh thổ của một Bên do các công
dân hoặc công ty của Bên kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp, bao
gồm các hình thức: Một công ty hoặc một doanh nghiệp; cổ phần, cổ phiếu và
các hình thức góp vốn khác, trái phiếu, giấy ghi nợ và các quyền lợi đối với
khoản nợ dưới các hình thức khác trong một công ty; các quyền theo hợp đồng,
như quyền theo các hợp đồng chìa khóa trao tay, hợp đồng xây dựng hoặc hợp
đồng quản lý, các hợp đồng sản xuất hoặc hợp đồng phân chia doanh thu, tô
nhượng hoặc các hợp đồng tương tự khác; tài sản hữu hình, gồm có bất động
sản và tài sản vô hình, gồm có các quyền như giao dịch thuê, thế chấp, cầm cố
và quyền lưu giữ tài sản; quyền sở hữu trí tuệ, gồm quyền tác giả và các quyền
có liên quan, nhãn hiệu hàng hóa, sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, tín
hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hóa, thông tin bí mật (bí mật
thương mại), kiểu dáng công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng; và các
quyền theo quy định của pháp luật như các giấy phép và sự cho phép.
Mặc dù, những định nghĩa kể trên về đầu tư có thể được đưa ra ở khía
cạnh rộng, hẹp khác nhau, nhưng chúng vẫn có những đặc trưng cơ bản của
đầu tư như sau:

7


Thứ nhất, lợi ích chính là mục đích mà nhà đầu tư hướng tới. Tuy nhiên

tùy từng trường hợp và tùy chủ thể đầu tư mà các lợi ích đó không hoàn toàn
giống nhau. Đối với nhà nước, lợi ích ở đây được hiểu là cung cấp các sản
phẩm, dịch vụ công, bảo đảm tài nguyên môi trường và duy trì phát triển bền
vững, tạo việc làm cho người lao động...Trong khi đó, lợi ích đối với doanh
nghiệp chính là tạo lợi nhuận, thu hồi được vốn và có lãi.
Thứ hai, vốn đầu tư có thể tồn tại dưới nhiều dạng, có thể là những tài
sản hữu hình như đất đai, nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu...và
tài sản vô hình như bí quyết kinh doanh, bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa...
hay cả các quyền về tài sản khác.
Thứ ba, đã đầu tư là mạo hiểm bởi hoạt động đầu tư thường gồm nhiều
giai đoạn và diễn ra trong khoảng thời gian dài. Mặc dù mục đích của đầu tư
là đem lại lợi ích nhưng có thể kết quả của hoạt động đầu tư mang lại thì hoàn
toàn trái bởi nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Đặc biệt,
ở thời điểm hiện tại, hoạt động đầu tư không chỉ còn nằm trong phạm vi một
quốc gia mà nó đã và có xu hướng vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Bởi vậy, mức độ rủi ro lại càng cao.
Tựu chung lại, có thể hiểu “đầu tư” là việc nhà đầu tư bỏ các nguồn lực
như vốn, tài sản... theo các hình thức khác nhau phù hợp với các quy định của
pháp luật để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập các tổ
chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của các tổ chức
kinh tế; hoặc tiến hành các hoạt động đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc
thực hiện các dự án đầu tư nhằm mục đích sinh lời.
Đầu tư có thể được phân chia thành các loại hình khác nhau khi dựa
trên những tiêu chí khác nhau như: Nếu căn cứ theo khu vực kinh tế tiếp nhận
vốn đầu tư, thì đầu tư có thể được chia thành đầu tư vào khu vực tư nhân và
đầu tư vào khu vực nhà nước; nếu căn cứ theo mục đích đầu tư có thể chia

8



thành đầu tư phi lợi nhuận và đầu tư có lợi nhuận; nếu căn cứ vào tính chất
quản lý hay theo quyền kiểm soát đối với hoạt động đầu tư có thể chia thành
đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp; căn cứ vào lĩnh vực đầu tư thì đầu tư có
thể phân chia thành nhiều loại như đầu tư vào sản xuất, đầu tư vào thương
mại, dịch vụ; còn nếu như căn cứ vào nguồn gốc vốn đầu tư thì đầu tư có thể
được chia thành đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Như vậy, nếu căn cứ theo cách phân loại như trên thì đầu tư nước ngoài
chính là một hình thức của hoạt động đầu tư. Trong Luật đầu tư năm 2014
không đưa ra một định nghĩa rõ ràng thế nào là đầu tư nước ngoài nhưng
trong Luật đầu tư 2005 các nhà làm luật đã xây dựng một định nghĩa về đầu
tư nước ngoài tại điều 3 khoản 12 như sau: “đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu
tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác
để tiến hành hoạt động đầu tư”, trong đó “nhà đầu tư nước ngoài” theo khoản
4, điều 3 Luật Đầu tư năm 2014 được hiểu là những cá nhân có quốc tịch
nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện các hoạt
động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Vậy, có thể hiểu một cách chung nhất về đầu tư nước ngoài đó chính là
hoạt động chuyển vốn, tài sản hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào khác từ nước
này sang nước khác để tiến hành hoạt động đầu tư nhằm mục đích lợi nhuận.
1.1.1.2. Đặc điểm của đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài là một hình thức của hoạt động đầu tư. Chính vì
vậy, đầu tư nước ngoài mang đầy đủ những đặc điểm của đầu tư nói chung.
Tuy nhiên, nó cũng có những đặc thù riêng của mình.
Thứ nhất, đó chính là hoạt động di chuyển vốn từ quốc gia này sang
quốc gia khác để thực hiện các dự án đầu tư nhằm đưa lại lợi ích cho các bên
tham gia. Về bản chất kinh tế thì đầu tư nước ngoài chính là hoạt động xuất
nhập vốn. Tuy nhiên, nó khác với hoạt động xuất khẩu hàng hóa thông thường

9



bởi đối với hàng hóa đã được xuất khẩu thì quyền sở hữu được chuyển
nhượng từ người bán chuyển sang cho người mua. Còn hoạt động đầu tư nước
ngoài thì quyền sở hữu về vốn, tài sản đầu tư vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà
đầu tư ban đầu.
Thứ hai, đầu tư nước ngoài là một tất yếu khách quan do sự khác nhau
về nhu cầu và khả năng tích lũy vốn của các quốc gia, do việc tìm nơi kinh
doanh có lợi của các doanh nghiệp, do việc gặp gỡ lợi ích giữa các bên, do
việc tránh các hàng rào thuế quan và phi thuế quan cũng như do các nguyên
nhân chính trị và kinh tế xã hội khác.
Thứ ba, đầu tư nước ngoài đưa đến những tác động tích cực khác nhau
đối với bên đi đầu tư và bên nhận đầu tư, đồng thời có thể đưa lại cả những
tác động tiêu cực. Điều đó chủ yếu phụ thuộc vào những yếu tố chủ quan và
khách quan khác nhau như chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài và trình
độ tổ chức, quản lý cán bộ...
Thứ tư, đầu tư nước ngoài có tính rủi ro cao, có thể cao hơn đầu tư
trong nước. Bởi các yếu tố đầu tư di chuyển ra khỏi biên giới, các quốc gia có
sự khác nhau về quy mô, cơ cấu kinh tế, về chính sách cũng mang đến những
tác động khác nhau.
1.1.1.3. Các nguồn luật điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài
Theo xu hướng phát triển của xã hội hiện đại thì hoạt động đầu tư nói
chung và hoạt động đầu tư nước ngoài nói riêng cũng ngày càng phát triển và
qua đó mức độ phức tạp cũng không ngừng gia tăng. Bởi vậy, hành lang pháp
lý điều chỉnh hoạt động này là vấn đề quan trọng và có tính quyết định hàng
đầu. Trong thực tiễn hoạt động đầu tư nước ngoài cũng như hoạt động giải
quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài các nguồn luật cơ bản được áp dụng đó là
các Điều ước quốc tế về đầu tư, luật quốc gia và các tập quán quốc tế. Trong
đó, Điều ước quốc tế điều chỉnh về đầu tư chủ yếu bao gồm các Hiệp định đầu

10



tư quốc tế (IIA) và các hiệp định hội nhập kinh tế song phương, khu vực và đa
phương (EIAs). Trong đó nguồn cơ bản điều chỉnh hoạt động đầu tư nước
ngoài chính là các IIAs. Cụ thể suốt từ đầu thập kỷ 90 cho đến nay, hệ thống
các IIAs đã mở rộng với tốc độ nhanh chóng bởi sự gia tăng đáng kể các Hiệp
định đầu tư song phương - BIT (Bilateral Investment Treaties) và các Hiệp
định tránh đánh thuế hai lần – DTT (Double Taxation Treaties). Bên cạnh đó,
hoạt động đầu tư nước ngoài cũng có thể được điều chỉnh bởi các EIAs với
mục tiêu khuyến khích và phát triển quan hệ đầu tư. Ví dụ như trong chương
XI của NAFTA - Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ quy định về giải quyết
tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà nước tiếp nhận đầu tư. Ngoài ra
không thể không kể đến Công ước bảo đảm đầu tư đa biên (MIGA –
Multilateral Investment Guarantee Agreement); Hiệp định đa phương về đầu
tư (MAI); Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
(TRIMS – Trade – Related Investment Measure); Công ước Washington 1965
về giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế. Luật quốc tế là nguồn luật vô cùng
quan trọng để điều chỉnh quan hệ đầu tư nước ngoài thì bên cạnh đó, luật
quốc gia cũng đóng vai trò quan trọng không kém. Ví dụ như ở Việt Nam,
trong hoạt động đầu tư nước ngoài, trước đây chúng ta có Luật đầu tư nước
ngoài năm 1987, 1996, 2000, sau đó là Luật đầu tư năm 2005 và hiện nay là
Luật đầu tư 2014. Đặc biệt đối với những tranh chấp liên quan đến đầu tư
nước ngoài thì hệ thống pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư thường được lựa
chọn, bởi lẽ các quốc gia tiếp nhận đầu tư khó có thể chấp nhận việc sử dụng
luật của quốc gia khác để giải quyết tranh chấp. Thông thường thì luật của
nước mà nhà đầu tư là công dân hay luật của một quốc gia thứ ba không phải
là lựa chọn để giải quyết tranh chấp. Bên cạnh đó, trên thực tế tập quán quốc
tế cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong giải quyết tranh chấp liên
quan đến đầu tư nước ngoài. Thậm chí trong một số trường hợp, Hội đồng


11


trọng tài có thể áp dụng tập quán quốc tế ngay cả khi các bên có thỏa thuận về
luật áp dụng giống như trong vụ Maffezini v. The Kingdom of Spain [31].
Các tập quán quốc tế được áp dụng trong giải quyết tranh chấp nhằm bổ sung
thiếu sót trong quy định của pháp luật quốc gia.
1.1.2. Tranh chấp trong hoạt động đầu tư giữa nhà nước với nhà đầu
tư nước ngoài
1.1.2.1. Khái niệm
Trong hoạt động thường ngày của con người nói chung và cụ thể trong
hoạt động đầu tư hay kinh doanh nói riêng không thể tránh khỏi những bất
đồng hay mâu thuẫn mà chúng ta vẫn thường gọi là những “Tranh chấp”.
Tranh chấp là một khái niệm mang tính pháp lý mà từ trước đến nay có khá
nhiều cách hiểu và cách định nghĩa khác nhau. Theo từ điển pháp lý Black’s
Law Dictionary, thì tranh chấp được hiểu là sự bất đồng hay mâu thuẫn về
quyền lợi hay các yêu cầu, đòi hỏi giữa hai chủ thể. Bên cạnh đó, trong một
số trường hợp để xác định sự tồn tại của tranh chấp trong các vụ tố tụng, tòa
án cũng đưa ra những định nghĩa về tranh chấp. Ví dụ trong một vụ việc do
Tòa thường trực về công lý quốc tế (ICJ) giải quyết, Tòa đã đưa ra một định
nghĩa rộng về tranh chấp, đó là sự bất đồng trên cơ sở luật pháp hay thực tế,
sự mâu thuẫn về quan điểm pháp lý hoặc về quyền lợi giữa hai chủ thể [21].
Từ những định nghĩa trên về tranh chấp, chúng ta có thể hiểu một cách chung
nhất tranh chấp chính là sự bất đồng, mâu thuẫn trên cơ sở luật pháp hay thực
tế về quyền lợi hay nghĩa vụ giữa các chủ thể. Những bất đồng hay mâu thuẫn
này có thể phát sinh trong nhiều loại quan hệ pháp luật như dân sự, lao động,
kinh doanh, đầu tư...giữa các chủ thể khác nhau. Trong quan hệ về đầu tư,
tranh chấp có thể phát sinh giữa các nhà đầu tư với nhau hoặc giữa nhà đầu tư
với các cơ quan nhà nước. Trong phạm vi của đề tài luận văn, người viết chỉ
xem xét đến vấn đề tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà nước.


12


Xuất phát từ cách hiểu nói trên về tranh chấp, chúng ta có thể khái
quát được tranh chấp trong hoạt đầu đầu tư giữa nhà nước với nhà đầu tư
nước ngoài chính là sự mâu thuẫn, bất đồng về quyền lợi hoặc nghĩa vụ
giữa các chủ thể là nhà đầu tư nước ngoài và nhà nước tiếp nhận đầu tư
trong quan hệ đầu tư.
1.1.2.2. Đặc điểm
Tranh chấp giữa nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài là một dạng
tranh chấp về đầu tư nên nó mang những đặc điểm của một tranh chấp đầu
tư. Bên cạnh đó, loại hình tranh chấp này còn mang một số nét đặc trưng
tiêu biểu sau:
- Thứ nhất, đặc điểm về chủ thể trong mối quan hệ tranh chấp.
Địa vị pháp lý của nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài là khác nhau.
Trong khi địa vị của nhà đầu tư nước ngoài trong quan hệ đầu tư do quốc tịch
của nhà đầu tư quyết định thì địa vị pháp lý của nhà nước khi tham gia vào
quan hệ này lại do tập quán ngoại giao quyết định, tức là nhà nước giữ địa vị
là chủ thể đặc biệt trong các quan hệ tư pháp quốc tế nói chung và trong quan
hệ đầu tư nước ngoài nói riêng, trong đó nhà nước có quyền miễn trừ tư pháp
và miễn trừ đối với tài sản của quốc gia. Theo đó một quốc gia sẽ không bị
đưa ra xét xử trước tòa án và nếu công dân hoặc pháp nhân nào đó khởi kiện
quốc gia ra tòa án thì tòa án sẽ có nghĩa vụ bác đơn kiện đó. Quyền miễn trừ
này còn bao gồm cả quyền của quốc gia không bị bắt buộc phải ra làm chứng
trước tòa án và quyền không bị bắt buộc phải thi hành phán quyết của tòa án.
Bởi vậy, khi tham gia vào quan hệ đầu tư nước ngoài, nhà nước sẽ luôn ở một
vị thế có lợi hơn so với nhà đầu tư nước ngoài vì nó không phải chịu sự tài
phán của bất kỳ thiết chế nào hay cả những biện pháp cưỡng chế khi vi phạm
thỏa thuận đầu tư bởi nó là một thực thể có chủ quyền. Đây hoàn toàn là một

sự bất bình đẳng mà phần thua thiệt chính thuộc về nhà đầu tư nước ngoài.

13


Mặc dù vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, khi mà hoạt động
thương mại quốc tế có sự phát triển như vũ bão thì một số quốc gia trên thế
giới đã áp dụng quyền miễn trừ tương đối cho nhà nước, theo đó việc miễn
trừ được áp dụng cho các giao dịch không mang tính thương mại [22]. Điều
này được thể hiện rõ ràng nhất ở việc những tranh chấp giữa nhà nước với nhà
đầu tư nước ngoài có thể được đưa ra giải quyết theo các cơ chế mang tính
quốc tế như giải quyết theo tố tụng trọng tài ICSID. Các quốc gia này cũng
công khai thừa nhận quyền khiếu nại của nhà đầu tư nước ngoài đối với
những quy định chính sách không phù hợp của nhà nước mà có thể gây ảnh
hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư nước ngoài thể hiện ở việc nhiều quốc
gia đã ký kết và tham gia Công ước ICSID theo đó nhà đầu tư được quyền
kiện trực tiếp nhà nước hay chính phủ nước tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên,
không nhiều quốc gia thừa nhận quyền này, chính vì vậy quyền miễn trừ tư
pháp tuyệt đối trong các giao dịch thương mại, đầu tư vẫn còn tồn tại và gây
cản trở cho quan hệ thương mại và đầu tư nước ngoài [12].
- Thứ hai, về phạm vi tranh chấp
Những tranh chấp giữa nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài là tương
đối đa dạng bởi những tranh chấp này có thể phát sinh từ sự vi phạm các điều
khoản trong các hiệp định đầu tư hoặc trong phạm vi nghĩa vụ hợp đồng hoặc
cả hai. Nhà nước có thể bị nhà đầu tư nước ngoài khởi kiện dựa trên hợp đồng
hoặc có thể dựa trên cả hiệp định đầu tư.
- Thứ ba, về cách thức cũng như phương thức giải quyết tranh chấp
Các phương thức phổ biến giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và nhà
đầu tư nước ngoài là thông qua thương lượng, hòa giải, tòa án hoặc trọng tài.
Trong đó những phương thức mang tính tài phán là tòa án và trọng tài thường

được ưu tiên hơn. Trong hợp đồng giữa cơ quan nhà nước của nước tiếp nhận
đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài có thể quy định phương thức nào sẽ được lựa

14


chọn áp dụng khi có tranh chấp xảy ra, hoặc phương thức giải quyết tranh
chấp cũng có thể được quy định ngay trong các hiệp định đầu tư. Trong
những trường hợp mà điều khoản giải quyết tranh chấp trong hợp đồng và
hiệp định đầu tư khác nhau thì phương thức giải quyết tranh chấp được chọn
sẽ phụ thuộc vào việc khiếu nại của các bên căn cứ vào hợp đồng hay hiệp
định đầu tư. Nếu việc khiếu kiện căn cứ vào hợp đồng thì các điều khoản giải
quyết tranh chấp trong hợp đồng sẽ được áp dụng còn nếu căn cứ vào các điều
khoản giải quyết tranh chấp trong hiệp định đầu tư thì những điều khoản này
sẽ được áp dụng.
1.1.2.3. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp
Trong những thập kỷ vừa qua, một số lượng rất lớn các hiệp định về
khuyến khích và bảo hộ đầu tư đã được ký kết giữa các nước phát triển và các
nước đang phát triển. Chủ yếu các hiệp định này đưa ra các biện pháp khuyến
khích đầu tư từ các nước đang phát triển, theo đó các biện pháp bảo đảm đầu
tư được áp dụng để nhà đầu tư yên tâm mang tiền đổ vào quốc gia đó. Có thể
thấy rằng, mục tiêu của các nước đang phát triển khi ký kết các hiệp định đầu
tư là nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế bằng các biện pháp và nỗ lực nhằm thu
hút và mời gọi đầu tư nước ngoài để từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của
cư dân quốc gia mình. Các biện pháp khuyến khích đầu tư thường được áp
dụng có thể kể đến như các chính sách giảm thuế, bảo hộ đầu tư, đảm bảo
hoạt động đầu tư lâu dài và ổn định, cam kết không trưng thu, quốc hữu
hóa...Tuy nhiên, khi số lượng đầu tư nước ngoài tăng cao, ưu đãi dành cho
nhà đầu tư nước ngoài nhiều thì một số quốc gia tiếp nhận đầu tư lo ngại rằng
các nhà đầu tư nước ngoài có thể là mối đe dọa đến chủ quyền quốc gia và lợi

ích công cộng của cư dân. Bởi vậy, nhiều nước tiếp nhận đầu tư đã thay đổi
hệ thống pháp lý dẫn đến ảnh hưởng nhất định đến quyền lợi của nhà đầu tư
khi mà các quyết định đầu tư được thực hiện vào thời điểm hệ thống pháp luật

15


chưa thay đổi theo hướng bất lợi cho nhà đầu tư. Vì lẽ đó, những tranh chấp,
mâu thuẫn hay bất đồng giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà nước hay các cơ
quan của nhà nước tiếp nhận đầu tư nổ ra.
Bên cạnh đó, khi quyết định đầu tư vào một quốc gia khác biệt văn hóa,
nền tảng xã hội và khác biệt về cả hệ thống pháp lý thì các nhà đầu tư nước
ngoài luôn tìm thấy những rủi ro tiềm tàng do những mong đợi về các khoản
đầu tư của mình không đạt được như kỳ vọng bởi khác với các hoạt động
thương mại đơn thuần và riêng lẻ khi bên bán chỉ bán hàng và bên mua mua
hàng với giao dịch mua đứt bán đoạn thì hoạt động đầu tư lại thường là những
hoạt động dài hạn và đòi hỏi những gắn kết lâu dài giữa nhà đầu tư nước
ngoài với nhà nước tiếp nhận đầu tư. Chính vì vậy mâu thuẫn hay tranh chấp
xảy ra cũng là điều dễ hiểu đặc biệt là khi các nhà nước tiếp nhận đầu tư tự
mình thay đổi chính sách, luật pháp hay do sức ép từ cộng đồng.
1.1.2.4. Phân loại các tranh chấp giữa nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài
Trong tiến trình toàn cầu hóa hiện nay, khi hoạt động đầu tư nước ngoài
ngày càng phát triển cả về quy mô, phạm vi và tính chất thì tranh chấp về đầu
tư nói chung và tranh chấp về đầu tư giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà nước
tiếp nhận đầu tư phát sinh ngày càng phổ biến. Đặc biệt, tranh chấp về đầu tư
giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà nước tiếp nhận đầu tư diễn ra vô cùng đa
dạng và phức tạp. Chúng ta có thể phân loại các tranh chấp giữa nhà đầu tư
nước ngoài với nhà nước tiếp nhận đầu tư dưới một số tiêu chí sau đây:
- Căn cứ theo chủ thể
Căn cứ theo chủ thể trong tranh chấp chúng ta có thể chia thành hai loại

là tranh chấp giữa nhà nước tiếp nhận đầu tư với nhà đầu tư là tổ chức và
tranh chấp giữa nhà nước tiếp nhận đầu tư với nhà đầu tư là cá nhân.
Thông thường chúng ta vẫn hiểu tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài
với nhà nước tiếp nhận đầu tư thì một bên tranh chấp là chính phủ của nước

16


tiếp nhận đầu tư và bên kia là nhà đầu tư nước ngoài. Trong đó chính phủ
nước nhận đầu tư trong tranh chấp chính là các cơ quan quản lý nhà nước. Đó
là các cơ quan được nhà nước trao quyền, chức năng và nhiệm vụ để thay mặt
chính phủ nước nhận đầu tư quản lý hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước
ngoài. Các cơ quan này được thành lập và phân cấp thống nhất từ các bộ, cục,
vụ ở trung ương xuống các tỉnh, thành, quận, huyện ở địa phương. Còn nhà
đầu tư nước ngoài có thể là cá nhân nước ngoài, có thể là tổ chức được thành
lập ở nước ngoài. Tuy nhiên, những đối tượng này có được gọi là nhà đầu tư
nước ngoài hay không thì là một câu chuyện khác. Luật pháp một số quốc gia
quy định rằng nhà đầu tư nước ngoài phải là những tổ chức, cá nhân nước
ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm mục đích
sinh lợi. Bên cạnh đó, để được tiến hành các hoạt động đầu tư tại nước tiếp
nhận đầu tư thì các nhà đầu tư nước ngoài cũng phải đáp ứng các điều kiện về
đầu tư nước ngoài do pháp luật nước sở tại quy định.
- Căn cứ theo nội dung tranh chấp:
Nếu như căn cứ theo nội dung tranh chấp chúng ta có thể chia ra được
khá nhiều loại tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà nước tiếp nhận
đầu tư bởi các tranh chấp này có nội dung đa dạng và rất phức tạp, thể hiện ở
chỗ nội dung tranh chấp có thể liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên
tranh chấp khi nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hình thức đầu tư gián tiếp (mua
cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu...) hoặc đầu tư trực tiếp (thành lập liên doanh, sáp
nhập, mua lại doanh nghiệp...). Ví dụ như tranh chấp giữa nhà đầu tư nước

ngoài với nhà nước tiếp nhận đầu tư về trình tự, thủ tục thuê đất, giao nhận và
sử dụng đất đối với những dự án đầu tư có yêu cầu sử dụng đất như vụ South
Fork kiện Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận; tranh chấp liên quan đến việc
thực hiện chính sách ưu đãi về thủ tục mua sắm đấu thầu, về thủ tục cấp phép
đầu tư... mà chính phủ nước sở tại dành cho các nhà đầu tư nước ngoài theo các

17


×