Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào lĩnh vực giáo dục THPT tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 64 trang )

Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết
quả nêu trên trong luận văn tốt nghiệp là thực, xuất phát từ tình hình thực tế
của đơn vị thực tập.
Tác giả luận văn

Chu Thị Minh Phương


Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu hướng toàn cầu hiện nay, vốn đầu tư là yêu tố quyết định đến
tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Sau năm 2008, Việt Nam thoát khỏi
nước có thu nhập thấp. Điều này đồng ngĩa với việc những khoản viện trợ
không hoàn lại càng ngày càng giảm. Khi đó, nguồn vốn đầu tư chủ yếu vào
nước ta chính là nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Nhu cầu đầu tư
trực tiếp nước ngoài ngày càng trở nên bức thiết trong điều kiện của xu thế
quốc tế hoá đời sống, kinh tế, cách mạng khoa học công nghệ và phân công
lao động quốc tế ngày càng tăng. Đối với các nước đang phát triển nhất là
Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nhân tố quan
trọng cho sự tăng trưởng kinh tế và là một trong những chỉ số cơ bản để
đánh giá khả năng phát triển. Việt Nam đang tiến hành công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá để đưa đất nước từ một nền kinh tế kém phát triển,
nghèo nàn, lạc hậu sớm trở thành một nước công nghiệp, có tốc độ tăng
trưởng cao và ổn định, cần phải có một khối lượng vốn rất lớn. Nhận thức
được điều này, cùng với việc hội nhập về kinh tế, việc thu hút vốn đầu tư
nước ngoài là hết sức cần thiết để đẩy nhanh hơn nữa tốc độ tăng trưởng
kinh tế, từng bước bắt nhịp với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới.
Trong chặng đường đầu khi tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế còn thấp, chưa
đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Nguồn vốn có thể từ trong
nước nhưng thực tế cho thấy tỉ lệ tiết kiệm này rất thấp chưa đủ tài trợ cho


đầu tư đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững. Do đó nguồn vốn đầu tư nước
ngoài đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là vô cùng cần thiết.
Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài càng có vai trò quan trọng hơn.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có ưu điểm hơn nhiều so với các
nguồn vốn nước ngoài khác và nó có tác động sâu rộng đến nền kinh tế đất


nước. Nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo động lực phát triển
kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới.
Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương
mại thế giới WTO,Việt Nam đã theo đuổi lập trường tích cực, chủ động và
đã cam kết thực hiện Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) đối
với tất cả 12 nghành dịch vụ, trong đó có giáo dục. Với cam kết này, giáo
dục THPT càng có nhiều cơ hội hơn để được tiếp cận với dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Với một thị trường giáo dục THPT tại Việt Nam đầy
tiềm năng, ngày càng có nhiều đối tác nước ngoài quan tâm tới việc đầu tư
vào lĩnh vực này. Khái niệm đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục THPT
còn khá mới mẻ với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, có thể dự báo
trong thời gian tới thị trường đầy tiềm năng này sẽ rất sôi động.
Với lý do trên, em chọn đề tài:” Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) vào lĩnh vực giáo dục THPT tại Việt Nam” là đề tài nghiên cứu
khoa học.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề xuất một số giải pháp tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực giáo
dục THPT tại Việt Nam trong điều kiện Việt Nam cam kết mở của thị
trường dịch vụ trong những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tình hình thu hút FDI vào lĩnh vực
giáo dục THPT tại Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực

giáo dục THPT tại Việt Nam từ năm 1993 đến nay.
Giác độ nghiên cứu: vĩ mô


4. Kết cấu đề tài:
Đề

tài

được

chia

làm

3

chương

như

sau:

Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) và vai trò của FDI với phát triển giáo dục THPT tại Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào
lĩnh vực giáo dục THPT tại Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực giáo dục
THPT tại Việt Nam.



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀ VAI TRÒ FDI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
LĨNH VỰC GIÁO DỤC THPT TẠI VIỆT NAM
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm FDI
1.1.1.1. Khái niệm FDI.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được nhìn nhận theo nhiều cách khác
nhau. Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: “
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước
(nước chủ đầu tư) có được tài sản ở một nước khách ( nước thu hút đầu tư)
cùng với quyền quản lý tài sản đó. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư
lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong
những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là “ công ty mẹ” và
các tài sản được gọi là “ công ty con” hay “ chi nhánh công ty”. Theo luật
FDI tại Việt Nam ban hành năm 1987 và được hoàn thiện bổ sung sau 4 lần
sửa đổi (1989, 1992, 1996, 2000): “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các
tổ chức và cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốc bằng tiền nước ngoài
hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh
doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hay xí
nghiệp 100% vốn nước ngoài”. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD) đưa ra khái niệm: “ Một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một doanh
nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân trong đó nhà
đầu tư sở hữu ít nhất 10% cố phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm
mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty”
Theo các chuyên gia về lĩnh vực Tài chính Quốc tế - Học Viện Tài
Chính định nghĩa như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức



đầu tư quốc tế, đó là hình thức chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay
một phần đủ lớn vốn vào các dự án nhằm dành quyền điều hành và trực tiếp
điều hành đối tượng bỏ vốn".
Sự ra đời của đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết quả tất yếu của quá
trình quốc tế hóa và phân công lao động quốc tế. Trong những năm gần đây,
hình thức này chiếm vị trí rất quan trọng trong đầu tư quốc tế.
Như vậy qua những cách tiếp cận khác nhau có thể rút ra bản chất của đầu
tưc trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển một khối lượng nguồn vốn kinh
doanh dài hạn giữa các quốc gia nhằm thu lợi nhuận cao hơn. Đi kèm với
đầu tư vốn là đầu tư công nghệ và tri thức kinh doanh nên hình thức này thúc
đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước nhận đầu tư.
1.1.1.2. Đặc điểm FDI.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu được thực hiện bằng nguồn vốn tư
nhân, chủ đầu tư chịu trách nhiệm về quản lý kinh doanh, lỗ, lãi. Là hình
thức có tính khả thi và hiệu quả cao, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền
kinh tế
- Các chủ đầu tư phải đóng góp một số vốn tối thiểu, tùy theo quy định của
từng quốc gia để có quyền trực tiếp quản lý điều hành dự án đầu tư.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ có sự lưu chuyển vốn mà còn
thường đi kèm theo công nghệ, kiến thức kinh doanh và gắn với mạng lưới
phân phối rộng lớn trên phạm vi toàn cầu. Vì thế, đối với các nước nhận đầu
tư, nhất là các nước đang phát triển thì hình thức đầu tư này tỏ ra có nhiều
ưu thế hơn


- Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện thông qua việc xây
dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng phần doanh nghiệp với
nhau.
- Các chủ đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư phải tuân thủ theo quy định

pháp luật của nước nhận đầu tư.
- Sau khi hoàn thành nghĩa vụ với nước nhận đầu tư, chủ đầu tư có quyền
chuyển số lợi nhuận hợp pháp thu được về nước hoặc tiếp tục tái đầu tư. Tỷ
lệ góp vốn là cơ sở để phân chia quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên.
- Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phần lớn vì mục đích lợi nhuận nên
chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực, các vùng miền có điều kiện thuận lợi
mang lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tư.
1.1.3. Các hình thức FDI.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu được thực hiện dưới 3 hình thức sau:
* Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh: là một văn bản được ký kết giữa
một chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư nước chủ nhà để tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở quy định về trách
nhiệm và phân phối kết quả kinh doanh mà không thành lập pháp nhân mới.
Hình thức này có các đặc trưng:
- Các bên cùng nhau hợp tác kinh doanh trên cơ sở phân định trách nhiệm,
quyền lợi và nghĩa vụ rõ ràng.
- Thời hạn hợp đồng do hai bên thỏa thuận, phù hợp với tính chất hoạt động
kinh doanh và sự cần thiết hoàn thành mục tiêu của hợp đồng
- Vấn đề vốn kinh doanh không nhất thiết phải đề cập trong văn bản hợp
đồng


* Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh: là một văn bản được ký kết giữa
một chủ đầu tư nước ngoài và một chủ đầu tư nước chủ nhà để tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở quy định về trách
nhiệm và phân phối kết quả kinh doanh mà không thành lập pháp nhân mới.
Hình thức này có các đặc trưng:
- Các bên cùng nhau hợp tác kinh doanh trên cơ sở phân định trách nhiệm,
quyền lợi và nghĩa vụ rõ ràng.
- Thời hạn hợp đồng do hai bên thỏa thuận, phù hợp với tính chất hoạt động

kinh doanh và sự cần thiết hoàn thành mục tiêu của hợp đồng
- Vấn đề vốn kinh doanh không nhất thiết phải đề cập trong văn bản hợp
đồng
* Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Là một thực thể kinh doanh quốc tế,
có tư cách pháp nhân, trong đó nhà đầu tư nước ngoài góp 100% vốn pháp
định, tự chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp.


Hình thức này có các đặc trưng:
- Doanh nghiệp 100% vốn FDI là pháp nhân của nước nhận đầu tư nhưng
toàn bộ doanh nghiệp lại thuộc sở hữu của người nước ngoài. Hoạt động sản
xuất kinh doanh theo hệ thống pháp luật của nước nhận đầu tư và điều lệ
doanh nghiệp. Hình thức pháp lý của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài do
nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn trong khuôn khổ pháp luật. Quyền quản lý
doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn chịu trách nhiệm.
- Mô hình tổ chức của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là do nhà đầu tư
nước ngoài lựa chọn. Nhà đầu tư nước ngoài chịu trách nhiệm về kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Phần kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính với nước sở tại là thuộc sở hữu hợp
pháp của nhà đầu tư nước ngoài.
- Nhà đầu tư nước ngoài tự quyết định các vấn đề trong doanh nghiệp và các
vấn đề liên quan để kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất trong khuôn khổ pháp
luật cho phép.
- Vốn pháp định của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ít nhất phải bằng
30% vốn đầu tư. Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự
dán đầu tư vào địa bàn khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án có quy
mô lơn, lỷ lệ này có thể thấp nhưng không dưới 20% vốn đầu tư và phải
được cơ quan này cấp giấy phép đầu tư chấp nhận
* Hình thức doanh nghiệp liên doanh (DNLD): là một tổ chức kinh doanh

quốc tế của các bên tham gia có quốc tịch khác nhau trên cơ sở cùng góp
vốn, cùng kinh doanh nhằm thực hiện các cam kết trong hợp đồng liên
doanh và Điều lệ DNLD, phù hợp với khuôn khổ luật pháp nước nhận đầu
tư.
Hình thức này có các đặc trưng:
- Về pháp lý: DNLD là một pháp nhân của nước nhận đầu tư, hoạt động theo
luật pháp của nước nhận đầu tư. Hình thức của DNLD là do các bên tự thỏa
thuận phù hợp với các quy định của luật pháp nước nhận đầu tư, như công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty trách nhiệm vô hạn, các hiệp hội góp vốn...
Quyền lợi, nghĩa vụ của các bên và quyền quản lý DNLD phụ thuộc vào tỷ
lệ góp vốn và được ghi trong hợp đồng liên doanh và Điều lệ của DNLD.
- Về tổ chức: Hội đồng quản trị của doanh ngghiệp là mô hình chung cho
mọi DNLD không phụ thuộc vào quy mô, lĩnh vực nghành nghề. Đây là cơ
quan lãnh đạo cao nhất của DNLD.


- Về kinh tế: Luôn có sự gặp gỡ và phân chia lợi ích giữa các bên trong liên
doanh và cả các bên đứng ở phía sau các liên doanh. Đây là vấn đề hết sức
phức tạp.
- Về điều hành sản xuất kinh doanh: Quyết định sản xuất kinh doanh dựa
vào các quy định pháp lý của nước nhận đầu tư về việc vận dụng nguyên tắc
nhất trí hay quá bán.
- Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên
doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định.
- Đây là hình thức đầu tư mang lại nhiều lợi ích cho nhà đầu tư trong và
ngoài nước. Đối với nhà đầu tư trong nước: có điều kiện tiếp cận công nghệ
hiện đại, trình độ quản lý tốt. Đối với nhà đầu tư nước ngoài: không bỡ ngỡ
với môi trường pháp lý, đầu tư.
Bên cạnh 3 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài nói trên còn có các hình
thức khác như: hợp đồng xây dựng – vận hành – chuyển giao (BOT), hợp

đồng xây dựng – chuyển giao – vận hành (BTO), hợp đồng xây dựng –
chuyển giao (BT).
1.1.3.Quy trình thực hiện FDI.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện theo dự án đầu tư. Quy trình
thực hiện một dự án gồm các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị dự án
* Tìm kiếm cơ họi đầu tư
Đây là việc nghiên cứu các cơ hội đầu tư khác nhau và lựa chọn một cơ hội
đầu tư khả dĩ nhất.
Việc tìm kiếm cơ hội đầu tư thường gồm:
- Tìm hiểu thị trường.
- Lựa chọn địa điểm thực hiện dự án.
- Dự kiến các nhu cầu đầu vào cho sản xuất, kinh doanh.
- Dự kiến công nghệ áp dụng đối với các dự án FDI.
- Vốn đầu tư, hình thức thực hiện và dự kiến sơ bộ hiệu quả đầu tư.
- Tìm hiểu các ưu đãi của nước tiếp nhận đầu tư.
* Xây dựng, biên soạn hồ sơ dự án cơ hội và dự án tiền khả thi
Đây là việc cụ thể hóa ý tưởng đầu tư, từ dự án cơ hội, có tính chất như bản
đề cương sơ bộ, phác thảo lên những ý đồ, ý tưởng đầu tư chính để báo cáo
với người có thẩm quyền của nhà đầu tư để xin chủ trương đầu tư. Sauk hi
có chủ trương đầu tư tiến hành lập dự án tiền khả thi để làm cơ sở, căn cứ


chào hàng, tìm kiếm đối tác nước ngoài và hoàn thiện chúng thành hồ sơ
chính thức (Hồ sơ dự án khả thi).
*Tìm chọn đối tác
Khi dự án đầu tư cần có đối tác nước ngoài tham gia thì đôi tác thường là đã
có mức tiếp nhận đầu tư.
*Hoàn thiện hồ sơ dự án khả thi
Sauk hi hồ sơ dự án tiền khả thi đã được bổ sung hoàn chỉnh một cách tối ưu

nhất theo yêu cầu của người có thẩm quyền của nhà đầu tư, của các đối tác,
các chuyên gia tư vấn…, chúng được đệ trình cho người có thẩm quyền của
nhà đầu tư xem xét phê duyệt. Sự phê duyệt dự án tức là dự án đã được
chính thức chấp nhận đầu tư ở góc độ nhà đầu tư. Lúc này hồ sơ dự án được
gọi là dự án khả thi.
* Lập hồ sơ dự án FDI xin cấp phép đầu tư
* Thẩm định dự án FDI
Thẩm định dự án là công đoạn nghiên cứu, xem xét hồ sơ dự án khả thi để
sàng lọc lần cuối cùng trước khi cấp phép đầu tư cho dự án đi vào triển khai
thực hiện. Kết quả của bước thẩm định dự án FDI là ra quyết định cho phép
dự án FDI đi vào hoạt động trong nền kinh tế hay không?
Nếu chấp nhận thì dự án nhậ được môt giấp phép đầu tư. Ngược lại, nếu
không được chấp nhận, chủ dự án nhận được một giấy báo lý do vì sao dự án
bị bãi bỏ.
* Cấp giấy phép đầu tư:
Sau bước thẩm định, dự án đã được chấp thuận và cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền sẽ cấp giấy phép cho nhà đầu tư. Đây là cơ sở pháp lý cho việc
triển khai dự án đầu tư
Bước 2: Triển khai dự án FDI
Sauk hi nhà đầu tư nhận được giấy phép đầu tư sẽ tiến hành triển khai dự án.
Nội dung công việc của giai đoạn này có rất nhiều, vì đây thực chất là giai
đoạn thực hiện đầu tư. Khái quát lại có các công việc chính sau đây:
- Thực hiện các thủ tục cần thiết để hoàn thành doanh nghiệp mới (doanh
nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài), hoặc thành
lập Ban quản lý thực hiện hợp đồng đầu tư (đối với các hình thức đầu tư
BCC, BOT…).
- Chuẩn bị mặt bằng dự án: ký hợp đồng thuê đất, đền bù, san ủi, xây tường
rào…
- Đấu thầu xây dựng, đấu thầu cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu..
- Thực hiện xây dựng, mua sắm, lắp đặt…các hạng mục công trình của dự

án.
- Tuyển dụng, đào tạo nhân công.
- Vận hành, chạy thử…


- Nghiệm thu công trình.
Bước 3: Khai thác dự án FDI
Giai đoạn này được tính từ khi dự án được bàn giao để đưa vào sản xuất
kinh doanh chính thức cho đến khi thanh lý dự án. Đây chính là giai đoạn
các doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động dưới sự quản lý, điều hành của bộ
máy quản trị doanh nghiệp.
Việc quản trị giai đoạn này gọi là quản trị doanh nghiệp có vốn FDI, các vấn
đề thực hiện quản trị trong các doanh nghiệp có vốn FDI bao gồm:
- Tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp có vốn FDI.
- Hoạch định chương trình kinh doanh của doanh nghiệp có vốn FDI.
- Quản trị sản xuất trong doanh nghiệp có vốn FDI.
- Quản trị nhân lực trong doanh nghiệp có vốn FDI.
- Quản trị tài chính trong doanh nghiệp có vốn FDI.
- Quản trị kết quả kinh doanh của doanh nghiệp có vốn FDI.
- Quản trị tranh chấp và thanh lý tài sản trong doanh nghiệp có vốn FDI.
Bước 4: Kết thúc hoạt động dự án FDI
Để kết thúc hoạt động của dự án FDI cần phải
- Thông báo chấm dứt hoạt động của dự án trên các báo cáo Trung
ương và địa phương.
- Tiến hành xử lý tài sản của dự án, của doanh nghiệp theo quy định
pháp lý của nước sở tại.
- Ban hành quản lý phải báo cáo kết quả thanh lý của Hội đồng quản trị
thông qua và gửi cơ quan cấp giấy phép đầu tư xin chuẩn y.
- Trong quá trình thanh lý, nếu xét thấy doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản thì việc xử lý tài sản của doanh nghiệp FDI và các bên

tham gia hợp doanh được tiến hành thủ tục theo luật về phá sản doanh
nghiệp.
Tóm lại, dự án FDI được chia thành 3 bước lớn:
Bước 1: Soạn thảo dự án.
Bước 2: Thẩm định dự án và cấp giấy phép đâu tư.
Bước 3: Triển khai thực hiện dự án.
1.1.4. Vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Đầu tư nước ngoài là một hình thức đầu tư quốc tế phổ biết hiện nay. FDI
được xem là một động lực chính để phát triển bền vững nền kinh tế thế giới.
Nó không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho các nhà đầu tư mà còn có vai trò
quan trọng đối với nước nhận đầu tư và nước đầu tư.
1.1.4.1. Vai trò tích cực


* Đối với nước đầu tư
- Có thể đảm bảo hiệu quả của vốn FDI cao do chủ đầu tư nước ngoài trực
tiếp quản lý và điều hành dự án nên họ thường có trách nhiệm cao, thường
đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ.
- Chủ đầu tư nước ngoài mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nguyên liệu,
cả công nghệ và thiết bị trong khu vực và trên thế giới.
- Có thể nâng cao hiệu quả kinh tế của vốn FDI, tăng năng suất và thu nhập
quốc dân do giảm giá thành sản phẩm nhờ khai thác được nguồn lao động
giá rẻ hoặc gần nguồn nguyên liệu hoặc gần thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Ngoài ra thông qua FDI chủ đầu tư nước ngoài xây dựng được các doanh
nghiệp của mình nằm trong lòng các nướ thi hành chính sách bảo hộ, từ đó
tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch và phi mậu dịch của nước sở tại.
- FDI còn giúp các nước đầu tư bành trướng sức mạnh kinh tế, chính trị.
* Đối với nước tiếp nhận đầu tư :
Với các nước đang phát triền:
- FDI thúc đẩby tăng trưởng kinh tế, là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho

các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển là những nước có nguồn
vốn trong nước còn nhỏ bé nhưng nhu cầu về vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng
và phát triển kinh tế là rất lớn do đó FDI thực sự rất cần thiết.
- Chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI là một kênh chính đối với các
nước đang phát triển, có tác dụng đột phá để nâng cao, đổi mới công nghệ.
Đi đôi với việc chuyển giao công nghệ là đào tạo nhân lực vận hành quản lý,
góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ lao động.
- FDI đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhỏ bé của các nước đang
phát triển, làm giảm áp lực bội chi ngân sách nhà nước. FDI tác động tích
cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán
cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế.
- FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghệ hóa hiện
đại hóa, nâng cao năng lực sản xuất và giúp nền kinh tế trong nước hội nhập
một cách sâu rộng với nền kinh tế thế giới.
- FDI cũng có những đóng góp tích cực về mặt xã hội. Tạo việc làm, tăng
năng suất lao động, góp phần đào tạo và cải thiện nguồn nhân lực, tiếp thu
kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tác phong làm việc công nghiệp.


1.1.4.2. Tác động tiêu cực:
* Đối với nước đầu tư :
Bên cạnh những tác động tích cực, FDI còn có những tác động tiêu cực với
nước đi đầu tư, cụ thể như sau:
- Đầu tư ra nước ngoài có nguy cơ bị nhiều rủi ro hơn trong nước, do đó các
doanh nghiệp này thường áp dụng các biện pháp khác nhau để phòng ngừa,
hạn chế rủi ro.
- Các quốc gia chủ nhà có xu hướng bị suy thoái, tụt hậu do các doanh
nghiệp lao mạnh ra nước ngoài đầu tư để tìm lợi khi chính phủ các nước đi
đầu tư đưa ra các chính sách không phù hợp, không khuyến khích được các
doanh nghiệp thực hiện đầu tư ở trong nước.

* Đối với nước tiếp nhận đầu tư
- Các lĩnh vực và địa bàn đầu tư phụ thuộc vào sự lựa chọn của các nhà đầu
tư, mà nhiều khi nó không theo ý muốn của nước tiếp nhận đầu tư. Điều đó
cũng đồng nghĩa với việc chủ động trong bố trí cơ cấu đầu tư bị hạn chế.
- Nếu không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, có thể đầu tư tràn
lan kém hiệu quả, tài nguyên bị khai thác bừa bãi và sẽ gây ra ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng.
- Có thể nhận chuyển giao từ các nước đi đầu tư các công nghệ không phù
hợp với nền kinh tế trong nước, gây ô nhiễm môi trường.
- Giảm số lượng doanh nghiệp trong nước, ảnh hưởng tới cán cân thanh toán
của nước nhận đầu tư.
- Nếu chính sách, pháp luật cạnh tranh không đầy đủ còn đễ dẫn tới tình
trạng doanh nghiệp nước ngoài chèn ép doanh nghiệp trong nước.
Ngoài ra FDI còn có thể đem lại những tác động tiêu cực khác như bị thua
thiệt do vấn đề giá chuyển nhượng nội bộ từ các công ty quốc tế (công ty
xuyên quốc gia, đa quốc gia), hoặc hiệu quả của hợp tác đầu tư kém do trình
độ của đối tác nước tiếp nhận thấp.


1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
* Môi trường chính trị - xã hội
Có thể nói sự ổn định chính trị - xã hội là nhân tố vô cùng quan trọng,
ảnh hưởng đến việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài . Các nhà
đầu tư khi quyết định đem vốn ra đầu tư nước ngoài, họ luôn luôn đặt vấn đề
ổn định chính trị - xã hội của nước nhận đầu tư lên hàng đầu, bởi vì nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thường là dòng vốn đầu tư lớn và dài hạn, nó
hoạt động trong một môi trường xa lạ vì vậy các chủ đầu tư rất sợ rủi ro đối
với đồng vốn của mình, họ luôn đặt sự an toàn vốn lên hàng đầu. Nếu tình
hình chính trị - xã hội của một quốc gia bất ổn sẽ làm cho nhà đầu tư lo ngại

do cam kết của Chính quyền nước sở tại đối với hoạt động đầu tư nước
ngoài có thể không được Chính quyền thực hiện, ví dụ các cam kết không
quốc hữu hóa tài sản của người nước ngoài hoặc do sự thay đổi cơ cấu lãnh
đạo của nước tiếp nhận đầu tư mà đường lối phát triển không nhất quán gây
khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc xây dựng kế hoạch đầu tư của mình.
Bên cạnh đó, nếu có sự bất ổn định chính trị - xã hội, có sự thay đổi của
Chính quyền thì các khuyến khích đối với các nhà đầu tư có thể cũng sẽ
không được duy trì, điều này cũng sẽ gây cản trở cho các nhà đầu tư khi thực
hiện hoạt động sản xuất kinh doanh ở địa phương và rủi ro đối với đồng vốn
của họ là hoàn toàn lớn.
* Môi trường kinh tế vĩ mô
Đây là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư và là
điều đặc biệt quan trọng đối với việc huy động và sử dụng vốn nước ngoài.
Để thu hút được FDI, nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư phải là nơi an
toàn cho sự vận động của vốn đầu tư, là nơi có khả năng sinh lời cao hơn các
các nơi khác. Hơn nữa môi trường kinh tế vĩ mô có ổn định thì mới có điều
kiện sử dụng tốt vốn FDI.
* Hệ thống hành chính, luật pháp:


Hệ thống bộ máy hành chính nhà nước bao gồm từ UBND tỉnh cho tới
các cấp chính quyền phường, xã và hệ thống các cơ quan giúp việc. Hệ
thống bộ máy hành chính Nhà nước rất rộng lớn, quản lý toàn bộ các lĩnh
vực của đời sống xã hội với một đội ngũ cán bộ, công chức đông đảo. Đây là
lực lượng thừa hành và chấp hành ý chí của Nhà nước. Nếu hệ thống bộ máy
hành chính Nhà nước thực hiện tốt vai trò quản lý xã hội của mình, đưa ra
các cơ chế, chính sách đúng đắn thúc đẩy sự phát triển kinh tế; đội ngũ cán
bộ, công chức làm việc nhiệt tình, kỷ luật, có trách nhiệm sẽ trực tiếp tạo ra
được môi trường đầu tư tốt. Ngược lại, nếu đó là bộ máy hành pháp kém
hiệu quả, chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ, tham nhũng và quan liêu

xảy ra khắp nơi trong tổ chức thì môi trường đầu tư trở nên xấu và hạn chế
rất lớn trong thu hút đầu tư. Bên cạnh đó là hệ thống các cơ chế, chính sách
khuyến khích, phát triển và bảo vệ các loại hình doanh nghiệp. Đó là việc
phát triển mạnh mẽ các tập đoàn kinh tế, các công ty đa quốc gia cũng như
hỗ trợ tích cực cho loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc thành lập,
chuyển đổi hoạt động sản xuất kinh doanh, trong việc tiếp cận vốn, đất đai,
kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm. Đó là việc hỗ trợ doanh nghiệp trong đào tạo
cán bộ và đào tạo nghề cho người lao động; hỗ trợ doanh nghiệp trong khâu
xúc tiến thương mại, đầu tư xây dựng thương hiệu; thực hiện chính sách tôn
vinh những doanh nhân có tài, thành đạt, có tâm huyết, trách nhiệm với đất
nước, tạo nhiều việc làm, có đóng góp nhiều cho Nhà nước.
* Hệ thống cơ sở hạ tầng
Hệ thống cơ sở hạ tầng về giao thông, thông tin liên lạc, bưu chính,
năng lượng là các yếu tố hết sức quan trọng phục vụ hoạt động nhà đầu tư
trong suốt quá trình đầu tư. Tại địa bàn đầu tư có điều kiện giao thông thuận
lợi sẽ phục vụ tốt nhu cầu đi lại của nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc vận chuyển hàng hóa, máy móc thiết bị ra vào nhà máy, sinh hoạt của
công nhân và phục vụ dân sinh. Tuy nhiên, hệ thống giao thông thuận lợi
chưa phải là tất cả, trong quá trình đầu tư nhà đầu tư có nhu cầu rất lớn về
thông tin liên lạc, bưu chính phục vụ mục tiêu điều hành và quản lý dự án
đầu tư đồng thời cũng có nhu cầu rất lớn về điện, nước, chất đốt phục vụ sự
vận hành của nhà máy, của các máy móc thiết bị, các sinh hoạt của nhà điều
hành và công nhân làm việc. Hệ thống cơ sở hạ tầng thuận lợi sẽ là ưu tiên
hàng đầu của nhà đầu tư trong lựa chọn vùng và lãnh thổ đầu tư.
* Trình độ lao động của nước tiếp nhận đầu tư :


Trình độ chung của lực lượng lao động của quốc gia tiếp nhận đầu tư quyết
định tới năng suất lao động, hiệu quả quản lý lao động và các kế hoạch đào
tạo lao động địa phương của nhà đầu tư. Nếu quốc gia hoặc vùng có lực

lượng lao động với trình độ thấp, lao động “thô” chiếm đại đa số, hệ thống
giáo dục-đào tạo và dạy nghề yếu kém, Nhà nước ít có các cơ chế, chính
sách và chương trình hỗ trợ đào tạo lao động thì sẽ là gánh nặng lớn cho nhà
đầu tư, làm tăng chi phí đào tạo và quản lý, giảm hiệu quả đầu tư và gây nản
lòng các nhà đầu tư. Nếu quốc gia hoặc vùng có lực lượng lao động có trình
độ, cơ cấu ngành nghề đào tạo hợp lý, hệ thống giáo dục – đào tạo hỗ trợ đắc
lực cho việc đào tạo đạt trình độ văn hóa và đào tạo nghề cho người lao động
sẽ tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho các nhà đầu tư bắt tay vào khởi sự hoạt
động sản xuất kinh doanh tại địa bàn đó.
* Xúc

tiến thương mại
Xúc tiến thương mại là một hoạt động rất quan trọng và cần thiết đối

với thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xúc tiến thương mại là cầu nối
giữa cung và cầu để người bán thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng
đồng thời giảm được chi phí và rủi ro. Từ đó, số lượng hàng hóa lưu thông
ngày càng nhiều hơn, mở rộng khả năng, thị trường kinh doanh hơn, là thị
trường tiềm năng đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, góp phần thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.2. Vai trò FDI với phát triển giáo dục THPT tại Việt Nam
1.2.1. Vai trò của giáo dục THPT đối với sự phát tiển giáo dục nói
chung tại Việt Nam.
Trong chiến lược phát triển giáo dục, phát triển nguồn nhân lực của
mỗi quốc gia, câu hỏi đầu tiên, và đột phá chú trọng đầu tiên bao giờ cũng
nói tới giáo dục phổ thông, vì giáo dục phổ thông là nền tảng cơ bản của hệ
thống giáo dục quốc dân và chính nó sẽ là cơ sở đem đến chất lượng cho cả
hệ thống giáo dục…



Tùy theo đặc điểm và hoàn cảnh, mỗi nước trên thế giới có những
quan điểm và mô hình giáo dục khác nhau, tuy nhiên về hệ thống giáo dục
của từng nước, chúng ta thấy có những điểm tương tự nhau là: giáo dục
mầm non( hay còn gọi là giáo dục tiền học đường), giáo dục phổ thông, giáo
dục dậy nghề và đại học.
Giáo dục THPT là 1 cấp bậc trong giáo dục phổ thông – giáo dục
THPTcó một vị trí hết sức quan trọng, nó là chiếc cầu nối cơ bản, nó là cấp
học mang tính nền tảng của cả hệ thống giáo dục của mỗi quốc gia. Chất
lượng của giáo dục THPT do vậy trước tiên ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng
giáo dục dậy nghề và đại học, sâu xa hơn, mở rộng hơn, chính nó là nguồn
gốc góp phần quan trọng quyết định chất lượng của nguồn lực lao động từng
nước. Giáo dục THPT với mục tiêu: “Học sinh được phát triển hài hòa về
thể chất và tinh thần, con người cá nhân và con người xã hội trên cơ sở duy
trì, tăng cường và định hình các phẩm chất và năng lực đã hình thành ở cấp
trung học cơ sở; có kiến thức, kỹ năng phổ thông cơ bản được định hướng
theo lĩnh vực nghề nghiệp phù hợp với năng khiếu và sở thích; phát triển
năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học lên hoặc bước
vào cuộc sống lao động với phẩm chất, năng lực của một công dân”.
1.2.2. Vai trò FDI với phát triển giáo dục THPT tại Việt Nam
Vốn FDI giúp nâng cao cơ sở vật chất, các dự án FDI vào Việt Nam
đa phần đều xây dựng trường học tiện nghi, trang thiết bị hiện đại. FDI là
một nguồn vốn lớn, đáp ứng nhu cầu phát triển hệ thống cơ sở vật chất. Có
thể thấy rõ ràng các ngôi trường có vốn đầu tư (FDI) cơ sở vật chất hoàn
chỉnh theo tiêu chuẩn quốc tế như khu học xá đẹp trong khuôn viên rộng,
phục vụ mọi nhu cầu học tập, thể thao, giải trí của học sinh, được thiết kế
đáp ứng những tiêu chuẩn cao của giáo dục quốc tế. Với vị trí đắc địa, thuận


tiện đưa đón học sinh, trường không bị ảnh hưởng bởi không khí ồn ào, ô
nhiễm của đô thị.

Hơn thế nữa, chương trình giáo dục nước ngoài, giúp học sinh được
tiếp cận nền tri thức thế giới tiên tiến, giúp học sinh có những định hướng
cho mình sau khi tốt nghiệp , cũng như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Chương trình giáo dục hiện đại, nội dung được tích hợp hoàn chỉnh để
qua đó, giáo viên hướng dẫn học sinh chủ động học tập hiệu quả. Chương
trình học tích hợp mang tính tuyển chọn những ưu điểm của hai chương
trình giáo dục: chương trình của Bộ Giáo dục và đào tạo Việt Nam và
chương trình được cấp phép theo tiêu chuẩn quốc tế. Chất lượng chương
trình giáo dục tại Wellspring Sài Gòn được bảo đảm qua việc ứng dụng có
hệ thống những phương pháp giảng dạy dựa trên nền tảng chuyên môn sư
phạm hiện đại đã được công nhận trên thế giới. Để giảng dạy giáo trình hiện
đại tiên tiến đạt hiệu quả cao, đội ngũ giáo viên của trường được tuyển chọn
và đào tạo theo chuẩn quốc tế. Ngoài ra, trường còn có lộ trình đào tạo phù
hợp với khả năng, định hướng cụ thể của từng học sinh. Đào tạo theo các mô
hình chú trọng phát triển năng lực xã hội và cảm xúc, bao gồm kiến thức, kỹ
năng, thái độ, hành vi mà học sinh cần có để thành công trong trường học và
sự nghiệp tương lai trong thế kỷ 21.
Thêm vào đó, tăng cường vốn FDI vào giáo dục THPT giúp học sinh
có thể học tập , nghiên cứu tại quê hương mình do đó có thể tiết kiệm chi
phí, đồng thời tiếp cận được với các sản phẩm có khả năng ứng dụng ngay
tại Việt Nam, đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế.
FDI vào giáo dục THPT tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo
động lực cho lĩnh vực giáo dục THPT trong nước phát triển. Việc thành lập
các trường THPT có vốn đầu tư FDI sẽ khiến cho các trường THPT trong


nước buộc phải cố gắng hoàn thiện công tác quản lý, cũng nhưchất lượng
giảng dạy để tăng tính cạnh trang trên thị trường.
1.3. Sự cần thiết thu hút vốn FDI cho lĩnh vực giáo dục THPT tại Việt
Nam.

Khái niệm đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục là một khái niệm
tương đối mới mẻ tại một số nước đang phát triển. Trước đây, giáo dục
thường được coi là hoạt động phúc lợi xã hội nhằm nâng cao tri thức cho
nguồn nhân lực đất nước. Tuy nhiên, cùng với sự đổi mới và phát triển đất
nước nói chung, trước nhất là sự vận hành nền kinh tế thị trường, cùng với
sự mở rộng hội nhập, gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ, sự
phát triển của một xã hội thực thi nền dân chủ mở rộng, thì đầu tư vào lĩnh
vực giáo dục nói chung, cũng như giáo dục THPT nói riêng, đã không còn là
vấn đề của Nhà nước nữa mà còn cần có sự góp sức của tất cả các thành
phần trong xã hội trong nước, cũng như nước ngoài.
Như đã phân tích ở trên, nhu cầu vốn cho giáo dục THPT khá lớn. nhưng
thực trạng cho thấy hệ thống giáo dục của ta nói chung và cấp học THPT nói
riêng đang hết sức lúng túng trong sự chuyển đổi để thích nghi với hoàn
cảnh lịch sử mới của dân tộc và thời đại. Nói riêng về giáo dục THPT, biểu
hiện rõ nét nhất của sự lúng túng là xác định mục tiêu đào tạo chưa rõ, từ đó
kéo theo sự lúng túng về xác định nội dung dạy học, sách giáo khoa, tổ chức
quản lý dạy và học…Sự lúng túng này đã gây ra nhiều tác hại , làm cho giáo
dục THPT luôn luôn trong tình trạng phát triển thiếu ổn định, cộng với
những tác động do đặc điểm kinh tế xã hội trong quá trình chuyển đổi tạo ra,
khiến cho hệ thống giáo dục THPT một thời gian dài phát triển trong sự chật
vật…Trường lớp thiếu, giáo viên thiếu và có một bộ phận không đáp ứng, sự


phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội thiếu gắn bó, dẫn đến giảm sút
chất lượng giáo dục ở một số mặt, trong đó nổi lên là bệnh hình thức, thành
tích , thiếu trung thực trong học tập, thi cử. Đạo đức của một bộ phận học
sinh chưa thật tốt…
Để giải quyết một loạt vấn đề còn vướng mắc trên, chúng ta cần kết hợp cả
nguồn nhân lực và vật lực. Có thể nói khoản chi 6000 tỷ đồng của Ngân sách
nhà nước năm 2014 cho lĩnh vực giáo dục nói chung cũng không phải là

nhỏ, tuy nhiên nếu chỉ huy đọng từ nguồn Ngân sách nhà nước thì khó có
thể giải quyết được hết các vấn đề còn vướng mắc.
Trong khi đó, nguồn vốn từ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực
ngày sẽ mang lại không chỉ vốn để có thể đầu tư xây dựng hệ thống trường
học với trang thiết bị hiện đại, sẽ không có tình trạng thiếu lớp học, tiếp giáo
viên. Bên cạnh đó, học sinh được tiếp nhận đào tạo với đội ngũ quản lý,
cũng như giáo viên chất lượng sẽ giải quyết các vấn đề về thiếu thốn cơ sở
vật chất, cũng như tăng sự quản lý, giám sát tạo sự gắn bó giữa gia đình, nhà
trường và xã hội để có được chất lượng đào tạo tốt nhất. Chính vì vậy, việc
thu hút vốn (FDI) vào lĩnh vực THPT là rất cần thiết.

Trên đây là những lý luận chung về vốn đầu tư trực tiếp nước ngòai (FDI) và
sự cần thiết của việc thu hút vốn (FDI) vào Việt Nam. Trên cơ sở lý luận đó,
em xin đề cập tới thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
vào lĩnh vực giáo dục THPT tại Việt Nam trong Chương 2: Thực trạng thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực giáo dục THPT tại
Việt Nam.


Chương 2: Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực giáo dục THPT
tại Việt Nam.
2.1. Khái quát về thực trạng giáo dục THPT tại Việt Nam trong thời
gian qua.
- Quy mô giáo dục THPT tại Việt Nam
Bảng 2.1.1: Giáo dục THPT (1999-2014)


Số trường học


Năm học

Công lập Public

Ngoài
công lập Non Public

Tổng số
trường
học

1999-2000

821

262

1083

2000-2001

905

346

2001-2002

995

2002-2003


Tỷ lệ
lớp phòng
học

Số học sinh
Công lập Public

Ngoài công
lập - Non
Public

1.43

1,303,181

672,654

1,975,835

65,189

1251

1.43

1,444,376

755,438


2,199,814

74,189

402

1397

1.42

1,550,410

783,845

2,334,255

81,684

1090

442

1532

1.39

1,656,942

801,504


2,458,446

89,357

2003-2004

1191

494

1685

1.38

1,783,710

832,497

2,616,207

98,714

2004-2005

1319

509

1828


1.27

1,957,512

844,589

2,802,101

106,586

2005-2006

1426

527

1953

1.28

2,070,611

906,261

2,976,872

118,327

2006-2007
2007-2008

2008-2009
2009-2010
2010-2011
2011-2012
2012-2013

1515
1,591
1,735
1,852
1,954
2,034
2,064

559
576
457
390
334
316
361

2074
2,167
2,192
2,242
2,288
2,350
2,425


1.21
1.17
1.12
1.20
1.16
1.11
0.99

2,170,122
2,238,141
2,324,672
2,430,774
2,503,429
2,503,406
2,430,993

941,158
831,882
627,217
455,316
331,596
251,804
244,327

3,111,280
3,070,023
2,951,889
2,886,090
2,835,025
2,784,864

2,735,590

125,460
134,246
143,647
142,432
146,789
151,279
150,915

2013-2014

2,094

412

2,502

1.10

2,360,675

237,072

2,687,187

150,552

Tổng số
học sinh


Tổng số
giáo viên


Qua bảng số liệu ta thấy, số lượng trường THPT tăng lên một cách rõ rệt từ
năn 2009 đến năm 2014 với số trường học tăng gấp gần 2.5 lần trong khoảng
thời gian hơn hai mươi năm. Bên cạnh đó, là sự tăng lên về số lượng học
sinh học THPT, và số lượng thầy cô giáo . Điều này cho thấy, sự quan tâm
từ phía Nhà nước tới toàn nghành giáo dục đào tạo nói chung cũng như giáo
dục THPT nói riêng. Cơ sở vật chất trang thiết bị sư phạm từng bước được
cải thiện.
Tuy nhiên, có thể thấy, tốc độ tăng của học sinh hiện nay lớn hơn nhiều với
tốc độ tăng của giáo viên. Trung bình số học sinh gấp 24 lần lượng giáo
viên. Sự tăng lên nhanh chóng về số lượng học sinh, trong khi đó tốc độ tăng
của số lượng giáo viên nhỏ hơn rất nhiều có thể dẫn tới những ảnh hưởng
nhất định tới chất lượng bài giảng. Thiếu giáo viên đồng nghĩa với việc sẽ có
nhiều học sinh hơn trong một lớp, điều này sẽ làm cho lượng kiến thức
truyền đạt cho học sinh trên lớp trong giờ chính khóa sẽ không thể sâu, và
chủ động được, dẫn đến lượng kiến thức được tích lũy của học sinh không
nhiều. Do đó xảy ra tình trạng học thêm và dạy thêm của học sinh và giáo
viên tràn lan, gây không ít khó khăn cho gia đình và xã hội trong việc quản
lý việc dạy và học của thầy và trò. Thêm vào đó, khi số lượng giáo viên nhỏ
hơn học sinh, thì sự quan tâm, giám sát học sinh, cũng như sự liên kết giữa
gia đình và nhà trường cũng giảm đi đáng kể, từ đó cũng sẽ làm giảm chất
lượng giáo dục đào tạo.


2. Hệ thống môn học, chuyên đề học tập và hoạt động trải nghiệm
sáng tạo

Bảng 2.1.2
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Lớp 10

Giáo dục

Lớp 11

Lớp 12

Ngữ văn (BB)
Ngoại ngữ 1 (BB)
(1) Ngôn ngữ

Ngoại ngữ 2 (TC1)

(2) Toán học

Toán (BB)

(3) Đạo đức –
Công dân

Công dân với Tổ quốc (BB)

(4)Thể chất

Thể dục (BB)-Thể thao (TC2)
Âm nhạc (TC3)
Âm nhạc

(TC2)-

(5)

Nghệ Mĩ thuật

thuật

(TC2)

Mĩ thuật (TC3)

(6) Khoa học Khoa


hội

và học

Xã Khoa học Xã hội (TC3)


×