Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.38 KB, 44 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực tế môn học “Thực hành công tác xã hội với cá nhân”,
bên cạnh sự nỗi lực, cố gắng của bản thân, tôi nhận được sự giúp đỡ động viên
chia sẻ của gia đình, thầy cô, bạn bè và lãnh đạo Uỷ ban nhân dân xã Lũng Phìn.
Để hoàn thành đợt thực tế chuyên môn I này, trước hết tôi xin gửi tới ban
lãnh đạo xã Lũng Phìn đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt nhất đợt
thưc tế, đặc biệt là Kiểm huấn viên chị Giàng Thị Mỷ - Cán bộ Hội phụ nữ xã,
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình tiếp cận và làm việc
với thân chủ.
Đồng thời tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong khoa và các
thầy cô phụ trách bộ môn “Công tác xã hội với cá nhân” đã tạo điêu kiện tốt
nhất để tôi có thể hoàn thành đợt thực tế lần này một cách tốt nhất.
Ngoài ra, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới thân chủ là chị Vàng Thị Ly đã tin
tưởng và chia sẻ một cánh chân thật, cung cấp những thông tin hữu ích để tôi
hoàn thành tốt bài báo cáo.
Tuy nhiên do kinh nghiện thực tế còn hạn chế, chưa thể vận dụng một cách
tốt nhất, triệt để nhất các kĩ năng vào thực hành nên trong quá trình thực tế
không tránh khỏi những thiếu sót, do vậy rất mong nhận được ý kiến đóng góp
của các thầy cô và các bạn để tôi có thể làm tốt hơn các lần thực hành về sau.
Xin chân trành cảm ơn!
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CTXH
CTXHCN
KHKT
NVXH
TC
UBND
XĐGN

CÔNG TÁC XÃ HỘI


CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
KHOA HỌC KỸ THUẬT
NHÂN VIÊN XÃ HỘI
THÂN CHỦ
ỦY BAN NHÂN DÂN
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Bảng kế hoạch thực hành............................................................................
21
Bảng 2.2 Bảng kế hoạch trợ giúp thân chủ..............................................................
33
MỤC LỤC
Mục lục........................................................................................................................................................
1
PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................................................................
3


Lý do chọn vấn đề can thiệp..................................................................................................



Lịch sử vấn đề can thiệp.........................................................................................................



Mục tiêu và nhiện vụ can thiệp............................................................................................




Mục tiêu can thiệp.....................................................................................................................



Nhiện vụ can thiệp....................................................................................................................



Đối tượng và phạm vi can thiệp..........................................................................................



Đối tượng can thiệp.................................................................................................................



Phạm vi can thiệp......................................................................................................................



Phương pháp can thiệp..........................................................................................................



Phương pháp luận....................................................................................................................




Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn............................................................................



Phương pháp quan sát...........................................................................................................



Phương pháp vấn đàm...........................................................................................................




Phương pháp thực hành........................................................................................................



Bố cục báo cáo.........................................................................................................................



PHẦN NỘI DUNG.....................................................................................................................

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN............................................................................


Cơ sở lý luận..............................................................................................................................




Các khái niệm...........................................................................................................................



Phụ nữ nghèo đơn thân.......................................................................................................



Nghèo đói...................................................................................................................................



Công tác xã hội cá nhân.......................................................................................................



Lý thuyết ứng dụng trong can thiệp...............................................................................



Lý thuyết nhu cầu của Abraham Maslow.....................................................................



Lý thuyết phân tầng xã hội của Karl Marx...................................................................



Lý thuyết phân tầng xã hội của Marx Weber..............................................................




Cơ sở pháp lý............................................................................................................................



Vài nét về xã Lũng Phìn – huyện Đồng Văn – Hà Giang.........................................



Khái quát về xã Lũng Phìn..................................................................................................



Khó khăn thuận lợi của xã trong quá trình thực tế................................................

CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG CAN THIỆP..........................................................................................
2.1. Kế hoạnh thực hành....................................................................................................................
2.2. Khái quát về thân chủ................................................................................................................
2.3. Tiến trình CTXH với phụ nữ nghèo đơn thân tại xã Lũng Phìn – huyện
Đồng Văn – tỉnh Hà Giang............................................................................................................
2.4. Đánh giá khả năng vận dụng kiến thức đã học vào quá trình thực tế..................


2.4.1. Môn nhập môn công tác xã hội...........................................................................................
2.4.2. Môn công tác xã hội với cá nhân.......................................................................................
2.4.3. Tâm lí học xã hội và tâm lí học phát tâm lí học phát triển.....................................
2.4.4. An sinh xã hội.............................................................................................................................
2.4.5. Hành vi con người và môi trường xã hội.......................................................................
PHẦN KẾT LUẬN...................................................................................................................................

PHỤ LỤC...................................................................................................................................................

PHẦN MỞ ĐẦU



Lý do chọn vấn đề can thiệp

Nghèo đói là một trong những vấn đê lớn của thế giơi hiện nay. Nghèo
đói là một vấn đề mới xuất hiện mà là vấn đề đã xuất hiện từ khi có con
người,có giai cấp nhà nước. Do vậy khi xã hội càng phát triển vấn đề xóa đói
giảm nghèo ngày càng được chú trọng và làm đau đầu các nhà chức trách,
đòi hỏi phải được giải quyết để phát triển xã hội, phát triển đất nước. Nghèo
đói không chỉ tồn tại ở một hay một só quốc gia mà tồn tại ở hầu hết tất cả
các quốc gia, ngay cả các nước phát triển bậc nhất trên thế giới như Anh,
Mỹ, Trung Quốc hay Pháp .....
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, nhiều loại địa hình cấu thành và
đang trên đàng phát triển do vậy đói nghèo là không tránh khỏi. Do vậy
XĐGN là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hàng
đầu nhằn cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.
Mặc dù Đảng ta đã thực hiện nhiều biện pháp để XĐGN và đưa nhiều
chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN vào thực thi trong các giai đoạn


khác nhau nhưng tỉ lệ nghèo đói vẫn ở mức cao. Theo số liệu năm 2014 thì tỉ
lệ nghèo vẫn còn ở con số 5,8 – 6% và năm 2015 đang hướng tới tới giảm
xuống còn 5%. Tỉ lệ nghèo đói còn ở mức cao là do công tác xóa đói giảm
nghèo ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, trình độ dân trí thấp đặc biệt là ở
nông thôn, vùng sâu vùng xa….. XĐNG còn chưa bền vững.
Một trong những đối tượng dễ rơi vào hoàn cảnh nghèo đói đó phụ nữ,

đặc biệt là phụ nữ ở vùng nông thôn vùng sâu vùng xa vùng đặc biệt khó
khăn. Phụ nữ nghèo là những đối tượng dễ tổn thương và chịu nhiều thiệt
thòi trong cuộc sống, phụ nữ nghèo ở nông thôn cũng là nhóm xã hội có học
vấn thấp, nhận thức còn hạn chế, gặp nhiều trở ngại trong đời sống vật chất
và tinh thần. Ở vùng nông thôn phụ nữ nghèo chủ yếu là lao động chân tay, ít
có cơ hội tiếp cận với khoa học kĩ thuật; trong gia đình phụ nữ là người
thiếu quyền quyết định, do vậy những người phụ nữ làm chủ sẽ thiếu lập
trường và sự kiên quyết. Phụ nữ nghèo không chỉ thiếu thốn về mặt vật chất
mà còn thiếu thốn về mặt tinh thần. Sự nghèo đói đã khiến họ không có đủ
điều kiện để chăn sóc bản thân, gia đình; không thể thăm gia vào các họa
động chính trị xã hội. Đó là những lí do khiến xã hội quan tâm và tìm cách
khắc phụ.
Với tôi là một sinh viên ngành CTXH sự quan tâm tìm hiểu với vấn đề
này là cần thiết. Tôi là người con của đất nghèo vùng sâu vùng xa nên tôi
cũng phần nào thấu hiểu được cuộc sống của người dân nơi đây. Xã Lũng
Phìn của huyện Đồng Văn – tỉnh Hà Giang cũng thuộc một xã nghèo có nhiều
khó khan; do vậy cuộc sống của người dân nơi đây luôn gặp nhiều chắc trở,
đặc biệt là phụ nữ, những hộ do phụ nữ làm chủ. Chính quyền địa phương đã
thực hiện nhiều chính sách XĐGN tích cực nhưng tỉ lệ hộ thoát nghèo còn ở
mức rất thấp. Qua sự tìm hiểu cũng như sự chia sẻ của cán bộ xã thì một
trong những hộ khó thoát nghèo nhất chính là những hộ do phụ nữ làm chủ;
do vậy vấn đề này đã gây sự chú ý đặc biệt đối với tôi. Với mong muốn có thể
tìm ra giải pháp để nâng cao đời sống cho phụ nữ nghéo ở xã Lũng Phìn nên
tôi quyết định chọn vấn đề “Công tác xã hội với phụ nữ nghèo đơn thân
tại xã Lũng Phìn – huyện Đồng Văn – tỉnh Hà Giang”.


Lịch sử vấn đề can thiệp
XĐGN là một trongn những vấn đề đang được toàn thế giới quan tâm từ



các tổ chức chính phủ đến các tổ chức phi chính phủ và các liên nghành khác
nhau…. Trên bình diện toàn cầu, Liên hợp quốc xác định XĐGN là một trong
những nhiện vụ trọng yếu trong các mục tiêu phát triển thiện niên kỉ. Trong
phạm vi quốc gia, Đảng và Nhà nước ta cũng xác định XĐGN là một trong
những hành động được ưu ái nhất. Đồng thời chủ đề nghèo đói cũng trở
thành một chủ đề nghiên cứu gây được nhiều sự chú ý trong xã hội.
Nói đến XĐGN Việt Nam đã có rất công trình nghiên cứu, luận văn….như:
Nghiên cứu “ Giảm nghèo trong nông thôn hiện nay” của tác giả Nguyễn
Văn Tiến nội dung của nghiên cứu chú trọng đến những cách thức, những mô
hình xóa đói giảm nghèo ở vùng nông thôn Việt Nam giai đoạn 2010-2015.
Nghiên cứu “ Đói nghèo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hằng, tác giả
đã nêu lên thực trạng đói nghèo ở Việt Nam, nguyên nhân và một số giải pháp
cụ thể cho xóa đói giảm nghèo.
Các công trình nghiên cứu vĩ mô đề cập khá chi tiết đến yếu tố phân tầng
xã hội ở Việt Nam như “ Báo cáo tình trạng nghèo đói và công bằng ở Việt Nam”
của tổ chức Oxfam năm 1999. Nghiên cứu này đề cập đến tình trạng đói nghèo ở
Việt Nam với số liệu thống kê cụ thể và sự phân hóa giàu nghèo ở các khu vực.
Luận văn chuyên ngành xã hội học của tác giả Đặng Đỗ Quyên với đề tài “
Đặc trưng kinh tế và xã hội của hộ nghèo tại tĩnh Bắc Cạn” năm 2006 với những
nội dung chủ yếu là phân tích các đặc trưng kinh tế và xã hội của hộ nghèo
nhằm nhận diện hộ nghèo theo chuẩn mới, chỉ ra mối liên hệ của các đặc trưng
kinh tế- xã hội với tình trạng và mức độ nghèo đói của họ đồng thời tìm hiểu
những kiến thức và nhu cầu cần được trợ giúp của hộ nghèo. Từ đó đưa ra
những dự báo về xu hướng biến đổi đặc trưng kinh tế và xã hội của hộ nghèo và
bước đầu đề xuất một số kiến nghị .
Nói về vấn đề nghèo đói ở phụ nữ có các công trình nghiên cứu như:
Một đề tài khác thuộc nhóm này là “Vai trò của phụ nữ nông thôn trong
phát triển kinh tế ở đồng bằng sông Hồng”do trung tâm nghiên cứu khoa học về
Phụ nữ và Gia đình cũng đã tiến hành năm 2006. Bên cạnh vai trò của phụ nữ

nông thôn trong phát triển kinh tế XĐGN nghiên cứu cũng đã đề cập đến vai trò
của các đoàn thể chính trị - xã hội như Hội LHPN, Hội nông dân,… trong phát
triển kinh tế - xã hội, nói chung và phong trào giảm nghèo nói riêng.
Luận văn thạc sỹ chuyên ngành xã hội học của tác giả Đặng Đỗ Quyên về
đề tài: “Đặc trưng kinh tế và xã hội của hộ nghèo tại tỉnh Bắc Cạn” năm 2006 với


những nội dung chủ yếu là: phân tích các đặc trưng kinh tế và xã hội cả hộ nghèo
nhằm nhận diện hộ nghèo theo chuẩn mới; chỉ ra mối liên hệ của các đặc trưng
kinh tế xã hội với tình trạng và mức độ nghèo đói của họ đồng thời tìm hiểu những
khó khăn và nhu cầu cần được trợ giúp của hộ nghèo. Từ đó, đưa ra những dự báo
về xu hướng biến đổi đặc trưng kinh tế - xã hội của hộ nghèo và bước đầu đề xuất
một số kiến nghị và giải pháp.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Hà Thị Thu Hòa vơi đề tài“ Hoạt động giảm
nghèo đối với phụ nữ nghèo tại ngoại thành Hà Nội ( Nghiên cứu tại thôn Cổ
Nhuế và Xuân Phương huyện từ Liêm thành phố Hà Nội)”. Nghiên cứu làm rõ
nguyên nhân dẫn đến hiện tượng nghèo đói của nhóm phụ nữ nghèo và các
chiến lược hiện đang được sử dụng với tư cách là tác nhân đầy tích cực để thoát
nghèo. Làm rõ xu hướng hành vi tìm cơ hội thoát nghèo của họ và khẳng đinh
vai trò của hội phụ nữ trong việc triển khai các chính sách xóa đói giảm nghèo.
Ngoài ra còn có rất nhiều công trình nguyên cứu khác nói về vấn đề đói
nghèo của nhân dân cũng như về vấn đề đói nghèo của phụ nữ ở khắp cả nước.
Tuy nhiên, ở quê hương tôi chưa có một công trình nào được các nhà nghiên
cứu thực hiện trong khi đó đây lại là một vùng vô cùng khó khăn, chính vì vậy
tôi đã quyết định chọn đề tài “ Công tác xã hội với phụ nữ nghèo đơn thân
tại xã Lũng Phìn – huyện Đồng Văn – tỉnh Hà Giang”.


Mục tiêu và nhiện vụ can thiệp




Mục tiêu can thiệp



Tiếp cận được với đối tượng cần làm việc.



Tìm hiểu thông tin về TC, tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình, tâm tư tình cảm
của TC.



Cùng TC tìm ra những vấn đề mà TC đang gặp phải để cùng TC lập kế
hoạch, tìm phương pháp giải quyết.



Hỗ trợ TC nâng cao khả năng đối mặt với các vấn đề xấu trong cuộc sống.



Cùng TC tìm ra năng lực tiềm ẩn của họ, phát huy điểm mạnh, hạn chế
mặt yếu.



Giúp TC đương đầu với những khó khăn mà họ đang gặp phải.





Hướng dẫn TC thực hiện những kế hoạch mà NVXH và TC vừa lập ra.

3.2. Nhiện vụ can thiệp
- Thực hiện đúng quy điều đạo đức trong nghề CTXH, làm việc đúng nguyên
tắc.
- Chấp hành tốt quy định của nhà trường của khoa chủ quản đối với sinh
viên, chấp hành tốt quy định tại cơ sở thực tế.
- Tiếp cận thân chủ tạo mối quan hệ thân thiện với TC và cán bộ cơ sở.
- Tích cực quan tâm giúp đỡ TC; lôi kéo TC vào quá trình tìm hiểu vấn đề và
giải quyết vấn đề của TC.
- Hoàn thành báo cáo và nộp đúng thời hạn.
4. Đối tượng và phạm vi can thiệp
4.1. Đối tượng can thiệp
- Đối tượng: Tiến trình CTXHCN lập kế hoạch hộ trợ một phụ nữ nghèo đơn
than ở xã Lũng Phìn – huyện Đồng Văn – tỉnh Hà Giang.
- Khách thể: Chị Vàng Thị L – một phụ nữ nghèo đơn than ở xóm Tống – xã
Lũng Phìn - huyện Đồng Văn - tinh Hà Giang.
4.2. Phạm vi can thiệp
- Không gian: Được tiến hành tại xóm Tống – xã Lũng Phìn - huyện Đồng
Văn - tinh Hà Giang.
- Thời gian: Ngày 25/6 – 24/7/2015.
5. Phương pháp can thiệp
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở lý luận cho
nghiên cứu đặc biệt nhìn nhận sự nghèo khổ của thân chủ như một sự tác động
đa chiều mang tính chủ quan và khách quan. Từ đó, giúp thân chủ nhận thức

được vấn đề của mình gắn với hoàn cảnh cụ thể và cách thức để giải quyết vấn
đề trên cơ sở huy động một cách có kế hoạch và các nguồn lực của cá nhân và


cộng đồng. Đặc biệt, trong bối cảnh thực tế hoạt động giảm nghèo cho phụ nữ
tại xã Lũng Phìn cần phải được xem xét nghiên cứu và thực hiện trong bối cảnh
nền kinh tế thị trường hiện nay đang có nhiều biến chuyển hết sức phức tạp và
những sự biến động đó đã tác động ở những mức độ khác nhau đến hoạt động
này.
5.2. Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn
Nghiên cứu có sử dụng những thông tin từ những nguồn tài liệu có sẵn
dựa trên nguồn số liệu của cuộc khảo sát xác định hộ nghèo theo chuẩn mới
(Danh sách hộ nghèo năm 2014, danh sách các khẩu được hưởng chính sách hỗ
trợ trực tiếp… lập ngày 3/12/2014 của UBND xã Lũng Phìn), các báo cáo kinh
tế chính trị của xã năm 2014…để làm tư liệu trong quá trình thực tế
5.3. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát được sử dụng nhằm mục đích thu thập những
thông tin thực nghiệm cho nghiên cứu. Thông qua quan sát, NVXH có thể thấy
được những khó khăn trong cuộc sống của phụ nữ nghèo để có những định
hướng chính xác hơn trong việc hỗ trợ họ. Cụ thể, tôi đã tiến hành quan sát một
số khía cạnh sau:
• Quan sát hoàn cảnh gia đình: cơ sở vật chất như nhà ở, các vật dụng
trong nhà, chuồng trại…
• Quan sát thái độ của thân chủ thông qua giao tiếp.
• Quan sát hành vi của thân chủ thông qua chăm sóc con cái và qua những
công việc mà thân chủ thực hiện.
5.4. Phương pháp vấn đàm
Trong quá trình thực tế tôi đã sử dụng phương pháp vấn đàm nhằm
mục đích tìm hiểu sâu hơn về vấn đề, nhu cầu của thân chủ, thăm dò, phát hiện
tìm hiểu những chính sách và biện pháp mà chính quyền đã triển khai trong hỗ

trợ phụ nữ nghèo tại địa phương.
Trong quá trình thực tế tôi đã tiến hành 3 lần vấn đàm với thân chủ.
Mục đích của các cuộc vấn đàm nhằm thu thập những thông tin về
những thực trạng, nguyên nhân nghèo hiện tại, nhận thức của họ về cách thức
vươn lên thoát nghèo, những khó khăn của họ trong quá trình giảm nghèo,
những nguyện vọng và mong muốn của họ… những thông tin này sẽ là căn cứ
để xác định vấn đề của thân chủ và tìm hướng khắc phục.
5.5. Phương pháp thực hành: phương pháp CTXH cá nhân
Tiến trình công tác xã hội cá nhân.
Tiến trình CTXH Cá nhân là một chuỗi hoạt động tương tác giữa NVXH với


thân chủ để giải quyết vấn đề. Trong quá trình này, thông qua mối quan hệ
tương giao giữa NVXH với thân chủ, NVXH dùng chính các quan điểm, giá trị,
kiến thức chuyên môn và kĩ năng của mình để giúp thân chủ hiểu rõ vấn đề của
mình đồng thời khích lệ họ biểu đạt tâm tư, nhu cầu, phát huy tiềm năng, tham
gia tích cực vào quá trình giải quyết vấn đề, cải thiện điều kiện sống của mình.
Tiến trình CTXHCN là quá trình bao gồm các bước của các hoạt động do
NVXH và đối tượng thực hiện để giải quyết vấn đề. Đây là những bước chuyển
tiếp theo thứ tự logic, nhưng trong quá trình giúp đỡ có những bước kéo dài
suốt quá trình như thu thập dữ liệu, thẩm định và lượng giá. Tiến trình CTXHCN
gồm 7 bước như sau:
Bước 1: Tiếp cận đối tượng
Bước 2: Xác định vấn đề
Bước 3: Thu thập thông tin
Bước 4: Chẩn đoán
Bước 5: Lập kế hoạch trợ giúp
Bước 6: Trị iệu
Bước 7: Lượng giá và kết thúc
Tuy nhiên theo yêu cầu của bộ môn nên sinh viên chỉ dừng lại ở bước 4 là

lập kế hoạch trợ giúp và hướng dẫn thân chủ thực hiện kế hoạch mà NVXH cùng
thân chủ lập ra.
6. Bố cục bài báo cáo
Nộng dung bài báo cáo ngoài lời nói đầu, mục lục và phụ lục ra gồm ba phần
chích như sau:


Phần mở đầu



Phần nội dung chính:



Chương I: cơ sở lý luận thực tiễn



Chương II: hoạt đông can thiệp



Phần kết luận


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC TIỄN



Cơ sở lý luận



Các khái niệm



Phụ nữ nghèo đơn thân

Phụ nữ nghèo đơn thân là những người có điều kiện kinh tế khó khăn,
nuôi con một mình, không có chồng do mất hoặc ly hôn…. Họ chủ yếu là những
người lao động chân tay, có trình độ tay nghề thấp. Họ là những người ít có cơ
hội tiếp xúc với khoa học kĩ thuật, ngoài ra phụ nữ đơn thân còn là những
người gặp khó khăn trong cuộc sống gia đình nhất là khi phải tự quyết trọng
công việc. Về mặt xã hội, họ là những người dễ bị tổn thương, chịu nhiều thiệt
thòi, ít có cơ hội tham gia các hoạt động chính trị xã hội.
Chính vì vậy phự nữ nghèo đơn thân là những người gặp nhiều khó khăn
trong xã hội cả về vật chất lẫn tinh thần; họ là những người ít hoặc không được
tiếp xúc với các dịch vụ kinh tế - xã hội. Do vậy đậy là một đối tượng đang cần
đến sự giúp sức của xã hội.


Nghèo đói

Xung quanh khái niệm nghèo đói vẫn còn nhiều luồng ý kiến khác nhau nói
về khá niệm này. Trong mỗi quốc gia, mỗi vùng đều có những khái niệm khác
nhau nhưng ở các khái niện đó có một số chỉ tiêu gần going nhau nói về nghèo
đó và dó là những chỉ tiêu chính để xác định.
Để giúp các nước chống lại sự đói nghèo, từ ngày 15 đến ngày

17/9/1993 tại Băng Cốc (Thái Lan) đã diễn ra hội nghị giảm nghèo đói ở khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức, các nhà nghiên cứu và chuyên
gia hoạch định chính sách đã đưa ra khái niệm, định nghĩa đói nghèo như sau:
“Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản của con người mà nhưng nhu cầu này đã được xã hội
thừa nhận tùy trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa
phương”.
Đây được cho là khái niệm chung nhất và được nhiều quốc gia sử dụng
nhất.
Khái niệm liên quan:
Xóa đói giảm nghèo là tổng thể các biện pháp chính sách của nhà nước và
xã hội hoặc của chính những đối tượng thuộc diện nghèo đói nhằn tạo điều kiện


để họ có thể tăng thu nhập, thoát khỏi tình trạng thu nhập không đáp ứng được
nhu cầu tối thiểu trên cơ sở chuẩn nghèo được quy định theo từng địa phương,
từng khu vực của quốc gia.


Công tác xã hội cá nhân

CTXHCN là phương pháp can thiệp đầu tiên của CTXH, bắt đầu hình
thành vào cuối những năm 1800. Nó là một cách thức, quá trình nghiệp vụ mà
NVXH sử dụng các kỹ năng, kiến thức chuyên môn để giúp đối tượng phát huy
tiềm năng, tham gia tích cực vào quá trình giải quyết vấn đề, cải thiện điều kiện
sống của mình.
CTXHCN là phương pháp giúp đỡ từng cá nhân con người thông qua mối
quan hệ với NVXH. CTXHCN được các NVXH chuyên nghiệp sử dụng trong các
cơ sở xã hội hoặc trong các tổ chức CTXH để giúp những người có vấn đề về
thực hiện các chức năng xã hội. Công cụ chủ yếu trong CTXHCN là mối tương

giao giữa NVXH và cá nhân để giúp họ hiểu rõ vấn đề của chính mình. Đồng thời
khích lệ họ biểu đạt tâm tư, nhu cầu để qua đó NVXH hiểu được vấn đề của đối
tượng và tiến hành các hoạt động giúp đỡ.
Nói cách khác, CTXHCN nhằm phục hồi, củng cố và phát triển sự thực thi
bình thường của các chức năng xã hội của cá nhân và gia đình trong bối cảnh
xã hội mà vấn đề của họ đang diễn ra và bị tác động. Trong phương pháp này
đối tượng tác động là bản thân người được giúp đỡ còn công cụ tác động là mối
quan hệ giữa NVXH và đối tượng.
Lý thuyết ứng dụng trong can thiệp
Lý thuyết nhu cầu của Abraham Maslow
Abraham Maslow (1908 - 1970) là nhà tâm lý học người Mỹ. Ông được thế
giới biết đến như là người tiên phong cho trường phái tâm lý học nhân văn
(Humanistic psychology) - một trường phái nhấn mạnh những giá trị, sự tự do,
sáng tạo, khuynh hướng tự chủ, những kinh nghiệm của con người - bởi hệ
thống lý thuyết về “thang bậc nhu cầu” (Hierarchy of Needs) của con người.
Ông cho rằng, con người cần được đáp ứng những nhu cầu cơ bản để tồn
tại và phát triển đó là nhu cầu thể chất, nhu cầu an toàn, nhu cầu tình cảm xã
hội, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu được hoàn thiện. Các nhu cầu này được
sắp xếp theo thứ tự thang bậc từ nhu cầu cơ bản nhất, có vị trí nền tảng nhất
đến nhu cầu cao hơn. Vì vậy, lý thuyết nhu cầu còn được gọi là bậc thang nhu
cầu. Trong cách tiếp cận của ông con người thường có xu hướng thỏa mãn




trước tiên những nhu cầu quan trọng nhất ở vị trí bậc thang đầu tiên rồi sau đó
mới hướng tới thỏa mãn những nhu cầu cao hơn.
Có thể mô hình hóa bậc thang nhu cầu của A. Maslow như sau:
Nhu cầu thể chất sinh lý:
Đó là nhu cầu về thức ăn, nước uống, không khí, tình dục… Ông cho rằng

đây là những nhu cầu cơ bản nhất để con người có thể tồn tại và duy trì sự sống
của bản thân vì vậy nó là một nhu cầu cần được đáp ứng trước tiên.
Nhu cầu về an toàn:
Con người cần có một môi trường sống an toàn, đảm bảo về an ninh để tính
mạng của họ được đảm bảo. Họ có nhu cầu tránh sự nguy hiểm, đe dọa từ môi
trường không ổn định và đầy nỗi sợ hãi.
Nhu cầu tình cảm xã hội:
Đây là nhu cầu thuộc về nhóm xã hội của con người, là sự mong muốn nhận
được sự quan tâm của các thành viên trong nhóm xã hội. Con người cần có gia
đình, cần tới trường để học tập và vui chơi trong nhóm bạn bè cùng lớp, cần
được tham gia vào nhiều nhóm trong xã hội. Trong các nhóm xã hội thì gia đình
là nhóm xã hội đặc thù, cơ bản nhất của con người.
Nhu cầu được tôn trọng
Khi con người bắt đầu thỏa mãn nhu cầu được chấp nhận là thành viên
trong xã hội thì họ có xu thế tự trọng và muốn được người khác tôn trọng, họ
cần được bình đẳng, được lắng nghe và không bị coi thường, dù họ là ai, trẻ em
hay người tàn tật, người giàu hay người nghèo.
Nhu cầu hoàn thiện
Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách phân cấp của ông. Đó là
nhu cầu được đến trường, được nghiên cứu, lao động sáng tạo…để phát triển
một cách toàn diện.
Dựa trên thang nhu cầu của Maslow, NVCTXH áp dụng vào đề tài nhằm xác
định, đánh giá những nhu cầu thực tế của thân chủ, để xem họ đang ở bậc thang
nhu cầu nào từ đó có biện pháp can thiệp phù hợp, kịp thời, mang lại hiệu quả
cao.
• Lý thuyết phân tầng xã hội của Karl Marx (1818- 1883)
Karl Marx là nhà triết học và kinh tế học Đức, nhà lý luận của phong
trào công nhân thế giới, nhà sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa
cộng sản khoa học.
Theo tập thể các tác giả cuốn Nhập môn xã hội học (Tony Bilton và



cộng sự) - một cuốn sách giáo khoa tốt nhất, tổng hợp nhất và có giá trị nổi bật,
thì “Marx đã cung cấp cho xã hội học và chính trị học hiện đại một trong những
tiếp cận lý thuyết phân tầng bao quát mạnh mẽ nhất. Cũng lúc đó, cách giải
thích về xã hội của ông là một cách giải thích bị tranh luận gay gắt nhất trong
mọi học thuyết xã hội, bởi vì nó không chỉ là lý thuyết xã hội học, mà cũng là
một triết lý về con người và mộ cương lĩnh cho sự thay đổi cách mạng trong xã
hội…Các nhà xã hội học khác nhau đã chấp nhận những quan điểm khác nhau
đó, những người khác thì ở lưng chừng, nhưng điều chắc chắn là bất cứ lý
thuyết phân tầng nào đều vay mượn của Marx cách lý giải về giai cấp…. Với
Marx mối quan hệ giai cấp là chìa khóa mọi mặt của xã hội”[43,56].
Marx cho rằng, sản xuất của cải vật chất là hoạt động trước tiên của
con người và nó phải đến trước mọi hoạt động khác. Chừng nào mà xã hội có
thể sản xuất nhiều hơn nhu cầu tối thiểu để sinh sống thì giai cấp mới có thể
xuất hiện. Bất cứ xã hội có giai cấp nào đều xây dựng trên mối quan hệ giữa
những người bóc lột - kẻ bị bóc lột.
Lịch sử xã hội “văn minh” theo Marx là lịch sử của những hình thức
khác nhau về sự bóc lột và thống trị giai cấp. Theo ông: “Mọi xã hội đều bao
hàm sự bóc lột giai cấp trên cơ sở những quan hệ sản xuất, chính cái này mà
Marx gọi là phương thức sản xuất. Chìa khóa để tìm hiểu một xã hội nhất định
là khám phá ra trong đó phương thức sản xuất nào chiếm ưu thế. Tiếp đó
chúng ta biết được mô hình cơ bản của những mối quan hệ xã hội và chính trị
và có thể đánh ra xung đột và những tiềm năng thay đổi nào đã được gắn bó
với xã hội” [43,57].
Thật ra, Marx không đưa ra một chỉ dẫn riêng về các nhân tố dẫn đến
phân tầng xã hội, nhưng qua tác phẩm tiêu biểu của ông - từ Bản thảo kinh tếtriết học 1844 đến Tuyên ngôn Cộng sản, từ Phê phán khoa học chính trị kinh tế
đến bộ Tư bản đồ sộ, ta có thể thấy trong quan niệm của Marx, sự phân chia cốt
yếu giữa các giai cấp trong một xã hội nhất định đều bắt nguồn từ quyền sở
hữu tài sản đối với các phương tiện sản xuất.

Trong xã hội phong kiến, lãnh chúa có quyền thu lấy toàn bộ tài sản
thặng dư do nông dân sản xuất ra trên mảnh đất thuộc quyền sở hữu của lãnh
chúa. Trong xã hội tư bản, nhà tư bản có quyền chỉ huy lao động và chiếm hữu
phần thặng dư do công nhân tạo ra. Theo Marx, nhà tư sản có quyền đó “Không


phải nhờ những phẩm chất cá nhân hay những phẩm chất con người của hắn,
mà chỉ có được với tư cách là người sở hữu tư bản [14, 89].
Như vậy, nêu bật nhân tố hàng đầu của phân tầng xã hội là quyền sở
hữu tài sản Marx (và cả F. Engel) còn lưu ý đến yếu tố phân công lao động xã hội
mà bản thân nhân tố này lại có mối quan hệ tác động qua lại với lực lượng sản
xuất xã hội và do đó với quyền sở hữu tài sản.
Điều đó giải thích tại sao trong khi phân tích hai giai cấp chủ yếu trong
xã hội là tư sản vô sản vào thời đại của mình, ông không hề bỏ qua các giai tầng
xã hội khác như: giai cấp nông dân, giai cấp địa chủ, những người sản xuất nhỏ,
tầng lớp tăng lữ, tầng lớp tri thức xuất thân từ các giai cấp khác nhau; tầng lớp
công nhân “quý tộc”, tầng lớp vô sản “lưu manh” trong bản thân giai cấp công
nhân…[43, 108].
Lý thuyết phân tầng xã hội của Marx Weber (1864- 1992)
Marx Weber là kinh tế học, nhà sử học đặc biệt ông còn được tôn vinh
là một nhà xã hội học bách khoa toàn thư.
Marx Weber cũng là một người Đức nhưng thuộc thế hệ hậu sinh của
Marx, ông đã đưa ra lý thuyết phân tầng của mình, trong đó vừa có điểm “vay
mượn” của Marx vừa có những điểm phát triển thêm.
Ý kiến của Weber khác với Marx theo nhiều cách. Ông bác bỏ mục đích
và chính sách của các nhà xã hội chủ nghĩa Đức vì coi chủ nghĩa cộng sản là một
Utopia không thể đạt tới. Bao quát hơn, ông bác bỏ ý kiến cho rằng các nhà xã
hội học có thể khái quát hóa các cấu trúc xã hội bằng cách sử dụng sự phân tích
các phương thức sản xuất. Với Weber, mỗi xã hội về mặt lịch sử, đều độc nhất và
phức tạp.

Mặc dù không tán thành mục tiêu chính trị của Marx, hơn nữa ông còn
phê phán, bác bỏ quan niệm của Marx cho rằng những quan hệ kinh tế luôn
luôn là yếu tố giải thích cấu trúc xã hội và động lực đầu tiên của sự thay đổi xã
hội. Ông tin rằng những tư tưởng tôn giáo có một ảnh hưởng độc về mặt lịch sử
và rằng lĩnh vực chính trị thường là lực lượng kiểm soát cốt yếu trong những
thay đổi xã hội song khi bàn đến cơ cấu xã hội dưới chủ nghĩa tư bản, Weber
cũng phải thừa nhận rằng chính những quan hệ kinh tế đã tạo nên cơ sở của sự
bất bình đẳng, tức là tạo tiền đề và điều kiện cho sự phân chia xã hội thành các
giai cấp khác nhau. Chỉ có điều “Weber nhấn mạnh tầm quan trọng của thị
trường như là cơ sở kinh tế cho giai cấp hơn là tài sản. Với ông nguyên nhân



đầu tiên của bất bình đẳng trong chủ nghĩa tư bản là khả năng thị trường - đấy
là những kỹ năng mà người làm thuê mang ra thị trường lao động. Những khác
biệt trong phần thưởng giữa các nghề nghiệp kết quả từ kỹ năng hiếm hoi mà
nhóm nghề nghiệp cần giữ. Nếu kỹ năng được quá cầu thì tiền thưởng sẽ cao”
[43, 65]. Và người có điều kiện để thuê những kỹ năng ấy không ai khác ngoài
những người nắm giữ, sở hữu tài sản trong tay.
Weber còn đưa ra khái niệm “cơ may đời sống”, thuật ngữ này dùng để
chỉ tất cả các phần thưởng và lợi thế nào do khả năng thị trường đem đến.
Những cơ may đời sống bao gồm thu nhập, bảo hiểm, phụ cấp,… Bởi vậy, chúng
ta có thể phân biệt những nhóm có khả năng thị trường tương tự và những
nhóm này có thể gọi là giai cấp.
Như vậy, chúng ta có thể thấy chúng ta có thể thấy rằng Weber đồng ý
với Marx là những nét kinh tế cốt yếu của chủ nghĩa tư bản là quyền sở hữu các
phương tiện sản xuất và những thị trường cho hàng hóa và lao động. Sự khác
biệt cốt yếu là Marx nhấn mạnh yếu tố kinh tế còn Weber nhấn mạnh yếu tố phi
kinh tế.
Nếu có những điểm mới trong lý thuyết phân tầng của Weber thì những

điểm đó được thể hiện chủ yếu trong tiểu luận “Giai cấp, địa vị và đảng”. Ở tác
phẩm này, Weber cho rằng sự bất bình đẳng trong xã hội có thể không dựa trên
cơ sở những mối quan hệ kinh tế, nhưng lại dựa trên uy tín hay quyền lực chính
trực được huy động thông qua một đảng. Ngoài ra, theo Weber, trong điều kiện
của nền kinh tế thị trường, giai cấp lao động có thể phân chia thành từng tầng
lớp: có kỹ năng, bán kỹ năng và không có kỹ năng, mà các kỹ năng này thực chất
là trình độ học vấn và tay nghề - lại đưa đến sự khác biệt về cơ may đời sống thể
hiện ở mức thu nhập, phụ cấp, tiền thưởng…
Tuy nhiên, khi đánh giá học thuyết của Weber thì có một số vấn đề
trong sự giải thích của ông: không thể có tiêu chuẩn để phân chia lực lượng –
lao động thành giai cấp và phân tầng. Nói một cách khác, sự phân tích của
Weber về khả năng thị trường sẽ đặt mỗi cá nhân vào một giai cấp riêng rẽ. Một
cách quan trọng hơn, những tiếp cận của Weber có xu hướng tập trung vào
công việc, coi nhẹ của cải như một yếu tố cốt yếu trong cấu trúc giai cấp.
Từ các lý thuyết phân tầng của Marx và Weber, xã hội học hiện đại đã
rút ra ba nhân tố cơ bản dẫn đến sự phân chia xã hội thành các giai cấp và tầng
lớp là: Sở hữu tài sản; trí tuệ; quyền lực.
Như vậy, cả Marx và Weber đều coi xã hội phương Tây là xã hội tư bản
và cả hai đều thống nhất là những nét phân biệt cốt yếu của điều đó là sự sở hữu


tư nhân về các tài sản sản xuất và một thị trường lao động. Chính vì lẽ đó mà tập
thể tác giả cuốn nhập môn xã hội học đã đưa ra kết luận rằng những tư tưởng
của Marx và Weber có thể phối hợp một phần để tạo nên mô hình ba giai cấp
chính trong xã hội tư bản hiện đại. Tầng lớp trên ít ỏi gồm những ai nắm được tư
liệu sản xuất. Giai cấp này trùng với giai cấp tư sản của Marx. Tuy nhiên, những
người không sở hữu các tài sản sản xuất không thể được mô tả tất thảy như là vô
sản. Người nghèo theo lý thuyết phân tầng không chỉ bị rơi xuống tầng đáy của
thang bậc phân tầng xã hội mà gần như ở ngoài lề của hệ thống thứ bậc đó. Lớp
nghèo bị coi là giai cấp dưới trong hệ thống phân tầng, có địa vị xã hội thấp kém,

không có quyền lực, uy tín, không sở hữu của cải và ở bên lề thị trường lao động.
Trong phạm vi nghiên cứu này sẽ vận dụng lý thuyết phân tầng của K.
Marx và M.Weber về quyền sở hữu tài sản, phân công lao động, khả năng thị
trường lao động, cơ may đời sống, uy tín xã hội… để phân tích và thấy rõ những
đặc trưng của người nghèo từ đó đưa ra các giải pháp tích cực để xây dụng mô
hình giảm nghèo hiệu quả, nhanh chóng rút ngắn ranh giới của sự giàu - nghèo
trong xã hội, hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội bởi mỗi người trong xã hội
đều có những vai trò, những vị thế nhất định.
• Cở sở pháp lý
Ngay từ khi nước ta mới dành được độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã dành sự quan tâm sâu sắc đến việc chăm lo đời sống cho những người lao
động nghèo khổ. Người coi đói nghèo là một thứ “giặc” và đặt nó lên hàng đầu.
Người kêu gọi Chính phủ và toàn dân chống lại giặc đói với lý do: “Chúng ta
dành được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì độc lập cũng không
làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc
đủ…”. Tư tưởng của Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về XĐGN nhất là trong thời kỳ mới.
Qua các kì Đại hội Đảng và nhà nước đều có nhưng phương hướng để giải quyết
và khắc phụ như : Nghị quyết về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền
vững đối với 61 huyện nghèo năm 2008; Nghị quyết về Chương trình hỗ trợ
giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo thời kì 2011 – 2020…
Trong xã hội ngày nay nhóm xã hội phải chịu cảnh nghèo đói cũng như
thiệt thòi nhiều nhất là trẻ em và phụ nữ, trong đói phụ nữ không chỉ dễ rơi vào
nhóm yếu thế mà còn chịu nhiều thiệt thòi. Để đảm bảo quyền lợi của người phụ
nữ Đảng và Nhà nước đã ban hành các luật như: Luât hôn nhân gia đình, Luật
bình đẳng giới, Luật lao động, Luật bảo hiểm xã hội…..
Từ khi đất nước mới giành độc lập Hồ Chủ tịch đã chú trong đến quyền con


người, đòi hỏi mọi người phải có quyền ngang nhau, do vậy nước ta đã lập

ra Hiếm pháp và pháp luật để đảm bảo cho quyền con người. Trong đó có
quyền của phụ nữ như Hiếm pháp năm 1946; Hiến pháp năm 1959 Điều 24
quy định: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với
nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia
đình’’…. Còn về chính sách hỗ trợ Nghị định 67/CP năm 2007,của thủ tướng
chính phủ “về chính sách trợ giúp các đói tượng bảo trợ xã hội “trong đó có đối
tượng là người phụ nữ nghèo đơn thân, trợ cấp cho con dưới 18 tuổi
140.000đ/người/tháng”.

Đây là một trong những quyền lợi của người phụ nữ nhưng có nhiều
người còn chưa được biết đến nên rất cần đến sự quan tâm của người có trach
nhiện và NVXH cũng là một trong những người có thể mang tới để phổ biến cho
họ.


Vài nét về xã Lũng Phìn



Khái quát về xã Lũng Phìn

Năm 1961, Lũng Phìn được chia thành bốn xã đó là : Lũng Phìn(mới), Hố
Quáng Phìn, Sủng Trái, Sảng Tủng. Xã Lũng Phìn hiện nay có diện tích khoảng
17,62 km² trong đó đá chiến phần đa số do vậy mà mật độ dân cư ở đây tương
đối thấp hơn 150 người/ km².
Về vị địa lí, xã Lũng Phìn là xã nằm ở phía nam huyện Đồng Văn với gianh
giới được xác định như sau: phía Bắc giáp với Hố Quáng Phìn; phía Nam giáp
với xã Mậu Long của huyện Yên Minh; phía Đông giáp với xã Sủng Máng và
Lũng Chinh của huyện Mèo Vạc; phía Tây giáp với xã Sủng Trái.
Địa hình của xã chủ yếu là đồi núi đá, chỉ có ít đất xen kẽ các khe núi tạo

thành các thung lũng nhỏ để có thể trồng ngô. Điều kiện giao thông đi lại khó
khăn. Đời sống kinh tế của người dân ở đây gặp rất nhiều khó khăn do địa hình
chia cắt, đất đai kém dinh dưỡng, không phù hợp cho phát triển dịch vụ kinh tế
giao thông.
Xã lũng phìn chỉ có dân tộc Mông và Dao là hai dân tộc bản địa trong đó
dân tộc Mông chiến đa số. Còn các dân tộc khác như Hoa, tày, kinh là những dân
tộc di cư từ nơi khác đến với số lượng ít hơn.
Về cơ sở hạ tầng: xã có 11 xóm, 3 trường học (1 trường mầ non, 1 tiểu học
cơ sở, 1 trung học cơ sở), 1 trạm xá.
Về chính trị: đây là một xã ổn định về chính trị, không xảy ra các vụ lừa
gạt, trộn cướp. Vì vậy nhân dân yên tâm làm ăn sinh sống.


Trong những năm gần đây xã đã có nhiều chích sách quan tâm và cải thiện
đời sống các hộ nghèo ở đây nhưng kết qua chưa được như mong muốn Xã cần
có những chính sách phát triển bền vững hơn nữa trong việc XĐGN tại địa
phương.


Khó khăn thuận lợi của xã



Đối với thân chủ:

Khó khăn: Khí hậu hai mùa mưa và khô rõ rệt nên khó khăn trong việc
trồng trọt, chỉ được một vụ ngô do vậy không đủ ăn quanh năm mà thân chủ
phải đi làm thuê nơi khác. Giao thông đi lại khó khăn nên việc đi lại để mua
bán cũng gặp nhiều trắc trở. Cán bộ địa phương chưa thực sự quan tâm đến
việc giúp đỡ thân chủ.

Thuận lơi: chính trị ổn định nên chị có thể yên tâm đi lại để làm tìn kiếm
thu nhập.


Đối với sinh viên thực tế:

Khó khăn: giao thông đi lại khó khăn, cán bộ địa phương chưa thực sự
quan tâm đến đời sống của nhân dân, thận chí số hộ do phụ nữ làm chủ còn có
sự sai sót. Trình độ chuyên môn của cán bộ ở đây còn thấp…
Thuận lợi: cán bộ ở đây nhiệt tình giúp đỡ, tạo thuận lợi tối đa cho tôi
trong việc tiếp xúc thân chủ cũng như tìm hiển các chính sách ở đây…
CHƯƠNG II: HOẠT ĐỘNG CAN THIỆP
2.1 Kế hoạt thực hành
Bảng 2.1 bảng kế hoạch thực hành
Thời gian

Buổi 1

Nội dung cụ thể và mục tiêu công
Địa điểm
việc
Nội dung:
• Giới thiệu bản thân mình với
thân chủ(tên, tuổi, trường
học, nghành học), mục đích Tại nhà thân
chủ
đến đây.
• Làm quen và trò chuyện cùng
gia đình thân chủ cũng như


Ghi chú

Đi vào thôn
và xin sự chỉ
dẫn của cán
bộ thôn


Buổi 2

Buổi 3

cán bộ thôn.
• Nói chuyện với thân chủ, tìm
hiểu một số thông tin cá
nhân về thân chủ và gia đình
thân chủ.
Mục tiêu:
Tạo lập mối quan hệ thân thiện với
thân chủ.
Nội dung:
Nói chuyện với thân chủ và tìm hiểu
về hoàn cảnh gia đình, xác định vấn
đề của thân chủ
Mục tiêu:
Thông qua nói chuyện và quan sát
gia cảnh để tìm ra vấn đề của thân
chủ.
Nội dung:
• Tiến hành giúp thân chủ

nhận ra vấn đề của bản thân.
• Cùng thân chủ lập ra kế
hoạch giúp đỡ thân chủ.
• Giới thiệu với thân chủ một
số chính sách ưu đãi đối với
người nghèo.
• Hướng dẫn thân chủ cách
thực hiện bảng kế hoạch lập
ra.
Mục tiêu:
Giúp thân chủ có sự tự tin vào khả
năng của bản thân. Giúp thân chủ
tự tìm đến các nguồn lực có thể
giúp đỡ bản thân.

Tại nhà thân
chủ

Tại nhà thân
chủ

2.2. Khái quát về thân chủ
Chị L 40 tuổi sống ở thôn Túng Chúng Phìn – huyện Đồng Văn – Hà Giang.


Chị L xây dựng gia đình cùng anh Giàng Sính Thà và sau nhiều năm chị có hai
cậu con trai là Giàng Mí Lía sinh năm 2002 và Giàng Mí Chứ sinh năm 2002.
Cuộc sống của gia đình rất nghèo khổ, hai vợ chồng chị phải lăn lộn kiến sống và
nuôi hai con nhỏ thế nhưng gia đình vẫn hạnh phúc. Đến năm 2011, anh Giàng
Sính Thà đi làm ăn xa và không may mắn đã bị mất (thông tin từ những người

đi cùng). Chị phải một mình nuôi hai con nhỏ, nhà đã khó khăn nay lại càng
thêm khó khăn. Nhà chị chỉ trồng hơn 3kg ngô, do vậy không đủ để chị và các
con trang trải cuộc sống vì vậy chị phải đi làm thuê kiến tiền để giúp cho cuộc
sống gia đình đỡ thiếu thốn hơn. Sống cuộc sống thiếu thốn, không đủ tiền lo
cho hai con được như những gia đình khác chị rất tủi thân và mặc cảm.
Gia đình nghèo, thiếu thốn về vật chất nên chị không đủ điều kiện tham
gia các hoạt động xã hội và chị mong muốn có một công việc ổn định để có thể lo
cho hai con tốt hơn và cải thiện được cuộc sống hiện tại.
2.3. Tiến trình CTXH với phụ nữ nghèo đơn thân tại xã Lũng Phìn –
huyện Đồng Văn – tỉnh Hà Giang
2.3.1. Bước 1: Tiếp cận thân chủ
Đây là bước rất quan trọng trong quá trình làm việc với thân chủ, mục
đích của bước này là tạo lập mối quan hệ thân thiện với thân chủ, tạo sự tin
tưởng với NVXH. Do phụ nữ nghèo luôn có tâm lí tự mặc cảm, sống khép kím và
NVXH là người trẻ tuổi do vậy việc tiếp cận và tạo sự tin tưởng của thân chủ
vào NVXH không hề đơn giản, NVXH phải khéo léo thể hiện sự đồng cảm và chân
thành mới tạo được sự tin tưởng từ thân chủ.
Một số thông tin về thân chủ:
Họ và tên: V.T.L

40 tuổi

Nghề nghiệp: làm nương
Thu nhập: 260/tháng
Chồng: Giàng Sính Thà (đã mất)
Con trai cả: Giàng Mí Lía 13 tuổi
Con trai thứ: giàng Mí Chứ 11 tuổi
Lần đầu tiên tiếp xúc chị L rất ngại, không muốn chia sẻ với NVXH nhưng
qua trình bày về nguyên tắc, mục đích đối với một NVXH với thân chủ và với



những kiến thức có được, sự thấu cảm về cuộc sống ở đây NVXH đã tạo cho chị
L sự tin tưởng vào NVXH và hứa sẽ giữ bí mật những thông tin của chị.
Sau đó chị đã dần tin tưởng vào NVXH, bằng chứng là chị đã cởi mở chia
sẻ hơn về hoàn cảnh cuộc sống của mình, cung cấp những thông tin bổ ích cho
quá trình làm việc về sau.
Bằng kĩ năng quan sát và lắng nghe chia sẻ NVXH thấy chị là một người
hiền lành, yêu thương con nhưng do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn nên chị
rất tự ti, mặc cảm khi gặp người lạ. Nhưng với với tâm lòng chân thành muốn
chia sẻ và giúp đỡ chị đã có sự thay đổi thái độ, sẵn sàng chia sẻ về cuộc sống
của mình.
2.3.2. Bước 2: Xác định vấn đề
Qua quá trình tiếp xúc với thân chủ và bằng những thông tin thu thập
được, những kĩ năng của ngành CTXH như: quan sát, lắng nghe, vấn đàm và
một số thông tin từ chi hội phụ nữ trong thôi NVXH đã xác định được các vấn đề
chị L đang gặp phải như sau:


Vấn đề 1: Thân chủ gặp khó khăn về kinh tế.



Vấn đề 2: Thân chủ luôn mặc cảm, tự ti về bản thân.



Vấn đề 3: Thân chủ không được đảm bảo về mặt tinh thần.

Đây là những vấn đề mà thân chủ gặp phải, cũng là nguyên nhân dẫn đến
sự nghèo đói cho thân chủ cũng như bao người phụ nữ khác trên địa bàn xã

Lũng Phìn. Để có thể xác định được nguyên nhân dẫn đến nhưng vấn đề của
thân chủ NVXH cần phải tìm hiểu thêm thông tin liên quan để làm rõ hơn.
2.3.3. Bước 3: Thu thập thông tin
Để làm rõ được nguyên nhân dẫn đến các vấn đề của thân chủ cần phải
có được những thông tin chính xác nhất ví đây là cơ sở để đưa ra phương pháp
giả quyết tốt nhất các vấn đề. Qua các lần trao đổi, nói chuyện cùng thân chủ
NVXH hội đã phần nào nhận thấy sự tin tưởng của thân chủ vào mình, thân chủ
không còn ngại khi chia sẻ về hoàn cảnh của mình nữa mà cởi mở hơn, sẵn sàng
trả lời những câu hỏi mà NVXH đưa ra, sẵn sàng nhận sự giúp đỡ của NVXH
trong một số công việc nhà. Điều này tạo sự thuận lợi cho việc khai thác thông


tin từ chính thân chủ.
Để thu thập được nhiều thông thing có ích cho quá trình làm việc NVXH
sử dụng nhiều kĩ năng như: lắng nghe, quan sát, vấn đàm, phỏng vấn sâu, phân
tích tài liệu….. Qua trọng nhất là trong khi khai thác thông tin từ thân chủ
NVXH phải tạo được không khí thoải mái, thân thiên và dễ nói chuyện. NVXH
thu thập thông tin từ những nguồn như: chính thân chủ, hội phụ nữ xã, chi hội
phụ nữ thôn, từ anh em nhà ngoại (do đây là những người có sự quan tâm nhất
đến gia đình chi L).
Đây là nhưng thông tin tu thập được:


Vấn đề 1: Thân chủ gặp nhiều khó khăn về kinh tế.

Theo những gì thân chủ nói trước lúc chồng chị đi làm ăn không thấy về
thì gia đình cũng không khá hơn nhưng do có chồng lo cùng nên chị đõ vất
vả hơn, bây giờ chị một mình gánh vác mọi thứ khiến chị vừa làm cha vừa
làm mẹ nên đã già trước tuổi rất nhiều. Vì một mình phải lo mọi thứ nên gia
đình đã nghèo còn nghèo thêm: “Em thấy đấy, ngoài cái nhà và mẹ con chị ra

thì còn gì đáng giá nữa đâu. Nương ngoài chỉ trồng hơn 3kg giống ngô thôi
thì không nghèo sao được, còn trong nhà thì đồ đạc là mấy cái bàn cái ghế
này thôi” ( Vấn đàm 1). Ngoài chuồng còn có một con bò, khi được hỏi đến
chị nói tiếp: “Con bò đó đâu phải vốn nhà chị đâu? Đấy là con bò nhà nước
cấp về quay vòng làm giống cho dân, nhà chị may mắn được nuôi trước em
ạ” ( Vấn đàm 1).
Thông qua lời kể của chị ta có thể thây được gia đình chị khó khăn đến
mức đồ đạc trong nhà không có lấy một thứ mua về mà là đồ tự làm. Còn tệ
hơn là đất trồng nhà chị chỉ hơn 3kg giống ngô. Vậy với một người nông dân
mà chỉ với số đất như vậy thì khó mà làm khá lên nếu không tìm được một
công việc ổn định.


Vấn đề 2: Thân chủ luôn mặc cảm, tự ti về bản thân.

Nguyên nhân của việc thân chủ luôn mang trong mình sự tự ti, mặc cảm
là xuất phát từ nghèo đói, chồng mất và những định kiến xã hội bên ngoài.
Qua nói chuyện với chị NVXH thấy chị rất ít nói chuyện với người lạ do mặc
cảm về bản thân, thiếu tự tin; nhiều khi có việc lớn mà thân phụ nữ không
thể làm chị cũng không dám nhờ hàng xóm mà chị phải gọi anh trai( anh


ruột) bên nhà ngoại sang giúp.


Vấn đề 3: Thân chủ không được đảm bảo về mặt tinh thần.

Do nghèo và phải chăm sóc hai con nhỏ nên chị hầu như phải đi làm cả
ngày thậm chí quanh năm không nghỉ. Trong gia đình chị là lao động chính
nên khi hết mùa nương ngô chị lại đi làm thêm hoặc trồng rau đi bán: “Công

việc của chị còn tùy theo mùa nữa, mùa nương ngô thì lên nương còn hết
mùa nương ngô thì đi làm thuê hoặc trồng rau bán phụ giúp cho gia đình
thôi, chẳng biết làm gì cả”.
Qua các lần tiếp xúc cũng như quan sát tận mắt thì thân chủ có một cuộc
sống rất vất vả, dù làm nhiều nhưng thu về không được như mong muốn. Do
vậy, đời sống tinh thần của thân chủ bị hạn chế đi nhiều so với những người
phụ nữ khác, không có sự quan tâm của một người chồng khiến chị sống
trong cô đơn và chịu nhiều lời ra tiếng vào của những người xung quanh.
Sau khi có được nhưng thông tin này NVXH và chủ tịnh Hội phụ nữ xã đã lên
kế hoạch giúp đỡ thân chủ để thân chủ không chịu những áp lực từ bên
ngoài vào.
Từ một nguồn thông tin khác đó là chị Giàng Thị Mỷ, Chủ tịch Hội phụ nữ
xã cho biết: Gia đình chị L là một gia đình rất là hoàn cảnh, chị lại là người
làm chủ nên mọi cong việc trong nhà đều do chị quyết định và làm tất cả,
Hội phụ nữ cũng đã đề xuất dự giúp đỡ của các đoàn thể và chị đã nhận
được một con bò để nuôi lấy giống ban đầu và chúng tôi đang có gắng để chị
có thể nhận được sự giúp đỡ nhiều hơn từ các nguồn khác nhau(cuộc nói
chuyện đầu tiên với Chủ tịch Hội phụ nữ tại xã Lũng Phìn ngày 25/602015).
Từ các nguồn thông tin thu thập được thì ta cũng có thể nhận thấy tuy
vấn đề của thân chủ chưa tới mức độ trầm trọng nhưng cũng cần có sự hỗ
trợ, tác động kịp thời để chị có thể phát triển kinh tế gia đình một cách bền
vững và lâu dài. Nếu không có sự hỗ trợ kịp thới thì có thể dẫn đến nhiều
hậu quả xấu mà vấn đề đầu tiên nghĩ tới đó có thể là hai con trai của thân
chủ có thể sẽ không được đi học sau này vì kinh phí không đảm bảo.
Như vậy dù cũng có nhận được sự giúp đỡ nhưng bên trong những sự
giúp đỡ đó còn có những lỗ hỏng không tích cực nên cuộc sống của chị vẫn
chưa có dấu hiệu khá hơn nên NVXH cùng với Hội nữ xã phải tìm ra một


phương pháp mới giúp chị L thoát nghèo một cách bền vững, đủ điều kiện

tham gia các phong trào của hội phụ nữ xa…
2.2.4. Bước 4 : Chẩn đoán
Đây là bước không kém phần quan trọng bởi thông qua những thông tin
thu thập được NVXH sẽ đánh giá nguyên nhân hậu quả của vấn đề, xác định
vấn đề ưu tiên để từ đó cùng với thân chủ xây dựng một kế hoạch giúp đỡ hiệu
quả nhất.
Thông qua những thông tin tu thập được NVXH đã xác định các vấn đề có
thứ tự ưu tiên như sau:


Vấn đề 1: Thân chủ gặp khó khăn về kinh tế.



Vấn đề 2: Thân chủ luôn mặc cảm, tự ti về bản thân.



Vấn đề 3: Thân chủ không được đảm bảo về mặt tinh thần.

Sau khi cùng thân chủ xác định được vấn đề ưu tiên NVXH cùng thân chủ xác
định lại nguyên nhân dẫn đến các vấn đề trên như sau:


Thân chủ không có công việc ổn định, đất đai để trồng trọt ít.



Không có vốn để tăng gia sản xuất.




Trình độ học vấn thấp, không có điều kiện tiếp xúc với khoa học kĩ thuật.



Mặc cảm, sợ ngừi khác có những định kiến về cuộc sống nghèo của mình.

Sau khi chẩn đoán, xác định xong vấn đề ưu tiên, nguyên nhân dẫn đến vấn
đề, NVXH đã hướn dẫn và cùng gia đình vẽ sơ đồ phả hệ, trong khi vẽ sơ đồ phả
hệ gia đình rất hào hứng tham gia, đặc biệt là con trai cả của chị L.
Sơ đồ phả hệ:


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×