ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ HẢI NHƢ
PHÁP LUẬT VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG HÀNH NGHỀ LUẬT SƢ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật
Mã số
: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ TRỌNG HÁCH
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Lê Thị Hải Nhƣ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG HÀNH NGHỀ LUẬT SƢ .......................... 7
1.1. Những khái niệm có liên quan đến luận văn ......................................... 7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của Luật sư và nghề luật sư .............................. 7
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm pháp luật vi phạm hành chính trong hành
nghề luật sư ........................................................................................... 11
1.2. Nội dung của pháp luật vi phạm hành chính trong hành nghề luật
sƣ ở Việt Nam ...................................................................................... 18
1.2.1. Hành vi vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư tại Việt Nam..... 18
1.2.2. Hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư tại
Việt Nam ............................................................................................... 20
1.2.3. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
tại Việt Nam .......................................................................................... 23
1.2.4. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư tại
Việt Nam ............................................................................................... 27
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG HÀNH NGHỀ LUẬT SƢ Ở VIỆT NAM .......... 37
2.1. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về vi phạm hành
chính trong hành nghề luật sƣ ........................................................... 37
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về vi phạm hành chính trong
hành nghề luật sƣ ở Việt Nam hiện nay ............................................ 40
2.2.1. Tổ chức quản lý, theo dõi và kiểm tra, giám sát vi phạm hành
chính trong hành nghề luật sư ............................................................... 40
2.2.2. Các hành vi vi phạm và hình thức xử lý hành chính trong hành
nghề luật sư ........................................................................................... 43
2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về vi phạm hành chính
trong hành nghề luật sƣ ...................................................................... 58
2.3.1. Ưu điểm ................................................................................................. 58
2.3.2. Hạn chế.................................................................................................. 63
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế ..................................................................... 71
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG HÀNH NGHỀ
LUẬT SƢ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................................... 82
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về vi phạm hành chính trong
hành nghề luật sƣ ở Việt Nam hiện nay ............................................ 82
3.1.1. Xây dựng pháp luâ ̣t về vi ph ạm hành chính trong hành nghề luật
sư toàn diê ̣n, thố ng nhấ t, đồ ng bô ̣, phù hợp với thời kỳ hội nhập ........ 82
3.1.2. Xây dựng pháp luâ ̣t v ề vi phạm hành chính phù hơ ̣p với c ải cách
hành chính, cải cách tư pháp ................................................................. 85
3.1.3. Đảm bảo dân chủ , minh ba ̣ch , cạnh tranh trong hoạt động nghề
nghiê ̣p của luật sư ................................................................................. 85
3.2. Giải pháp hoàn thi ện pháp luật v ề vi phạm hành chính trong
hành nghề luật sƣ ................................................................................ 88
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về vi phạm hành chính............ 88
3.2.2. Thể chế hóa các nguyên tắ c trong hoa ̣t đô ̣ng nghề nghiê ̣p của lu ật
sư ........................................................................................................... 95
3.2.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động thực hiện pháp luật về vi phạm hành
chính trong hành nghề luật sư ............................................................... 96
KẾT LUẬN .................................................................................................. 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 103
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LĐLS
: Liên đoàn luật sư Việt Nam
LLS
: Luật luật sư
LXLVPHC : Luật xử lý vi phạm hành chính
UBND
: Ủy ban nhân dân
VPLS
: Văn phòng luật sư
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều
kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện
việc tư vấn pháp luật, đại diện theo ủy quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước tòa án và thực hiện các dịch vụ
pháp lý khác. Sứ mệnh xã hội của luật sư là góp phần bảo vệ công lý, công
bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, từ khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ra đời cùng các
văn bản pháp luật liên quan khác luôn chứa các quy định về lĩnh vực luật sư,
từ những quy định nhỏ lẻ cho đến việc hình thành một mục riêng biệt cho
thấy cách nhìn nhận vị trí và vai trò của hành nghề luật sư ngày càng được
Đảng và Nhà nước quan tâm.
Có thể nói, luật sư với tư cách là người có kiến thức sâu, rộng về pháp
luật có chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tham
gia tích cực trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, cần phải khẳng định
mình hơn nữa trong công cuộc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh ở Việt Nam.
Bên cạnh những đóng góp tích cực, trong hành nghề luật sư còn có mặt
hạn chế và nhiều lỗ hổng cần được khắc phục. Thực tế thời gian qua cho thấy,
không ít những luật sư vi phạm các quy định pháp luật và quy tắc đạo đức
nghề nghiệp, làm phát sinh nhiều vụ việc khiến dư luận ngày càng mất lòng
tin vào nền tư pháp nước nhà. Những hành vi sai phạm này không những làm
thay đổi cái nhìn về giới luật sư từ phía người dân, mà còn làm phát sinh các
tiêu cực trong chính các cơ quan nhà nước, làm ảnh hưởng đến công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền, bảo vệ quyền con người và hội nhập quốc tế của
nước ta hiện nay.
1
Với vị trí và vai trò của luật sư trong ngành Tư pháp và đời sống xã hội
như đã nói ở trên, nghiên cứu pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
hành nghề luật sư là công việc cần thiết để tìm được hướng khắc phục sai sót
và hoàn thiện chất lượng ngành tư pháp nói riêng và hệ thống pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nhận thức được vai trò quan trọng của luật sư trong xã hội và triển
vọng của nghề luật sư nên đã có nhiều tổ chức và cá nhân nghiên cứu về vấn
đề này. Có thể kể ra một số đề tài đã được nghiên cứu như:
- Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Đề tài cấp bộ “Cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức luật sư và hành
nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam”, do Nguyễn Văn Thảo làm Chủ
nhiệm đề tài;
Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý luận về luật sư và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Đồng thời nghiên cứu thực trạng về luật sư và tổ chức
hành nghề luật sư qua đó đánh giá các mặt đạt và chưa đạt để hoàn thiện hệ
thống các quy định pháp luật về luật sư trong giai đoạn hòa nhập, đổi mới để
tham gia đấu trường quốc tế của Việt Nam.
- Nguyễn Thắng Lợi, Phó Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp (2013), bài viết
“Nhiều điểm mới về xử phạt vi phạm hành chính góp phần tăng cường trật tự,
kỷ cương quản lý nhà nước trong các hoạt động tư pháp”, đăng trên website
Bộ Tư Pháp, ngày 26/09/2013 – Hà Nội;
Bài viết đi vào phân tích sơ bộ Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trong 05 lĩnh vực, gồm: bổ trợ tư, hành chính
tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã. Đồng thời làm rõ các điểm mới của Nghị định này so với các Nghị
định bị thay thế, cụ thể là Nghị định số 60/2009/NĐ-CP; Nghị định số
2
87/2001/NĐ-CP; Nghị định số 10/2009/NĐ-CP. Bài viết được nhìn theo góc
nhìn tổng quát, chủ yếu chỉ ra những điểm mới của Nghị định 110 chứ không
đi sâu phân tích từng lĩnh vực mà Nghị định này quy định, trong đó có hành
nghề luật sư.
- LS. Nguyễn Thành Vĩnh (2013), bài viết “Vai trò của luật sư trong tố
tụng hành chính”, đăng trên website Sinhvienluatkhoa ngày 19/12/2013;
- TS.Nguyễn Văn Tuân (2013), Sách pháp luật “Một số vấn đề về luật
sư và nghề luật sư”, Nhà xuất bản Tư pháp – Hà Nội;
Tuy nhiên các đề tài, chuyên đề và bài viết nêu trên mới chỉ cụ thể hóa
một khía cạnh hay một cách khái quát về hành nghề luật sư ở Việt Nam. Chưa
có đề tài nào đi sâu vào pháp luật về các hành vi và biện pháp xử lý vi phạm
hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam. Đề tài “Pháp luật về vi phạm
hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay” là một vấn đề mới
cần nghiên cứu để bổ sung vào hệ thống tài liệu về Pháp luật hành chính để có
những góc nhìn đa dạng và hoàn thiện toàn bộ hệ thống quy định pháp luật
của nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về vi phạm hành chính,
phân tích, đánh giá thực trạng về các hành vi, hoạt động xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hành nghề luật sư, cụ thể là những luật sư hành nghề với
tư cách cá nhân ở nước ta hiện nay. Từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện
cả về cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật.
- Nhiệm vụ: Từ mục đích chung nêu trên, trong nội dung luận văn cần
phải làm rõ một số vấn đề như sau:
Nghiên cứu nội hàm của khái niệm vi phạm hành chính trong hành
nghề luật sư, xem xét quá trình phát triển của chế định này trong hệ thống
3
pháp luật Việt Nam, tham khảo một số quy định của pháp luật quốc tế về xử
lý vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư.
Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
trong hành nghề luật sư và thực trạng thực thi các quy định này ở Việt Nam
hiện nay.
Đưa ra một số giải pháp hoàn thiện về pháp luật, đảm bảo nâng cao
hiệu quả thực thi các chế định về xử lý vi phạm hành chính trong hành nghề
Luật sư.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về vi phạm hành chính
trong hành nghề Luật sư ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể là các quy định pháp
luật hiện hành về hành vi vi phạm hành chính, hình thức và thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính đối với các cá nhân hành nghề luật sư tại Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về không gian: Quy định pháp luật về vi phạm hành chính của
người hành nghề Luật sư với tư cách cá nhân trong phạm vi cả nước.
Phạm vi về thời gian: Thông qua lịch sử hình thành các quy định pháp
luật đầu tiên về xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam từ năm 1995 cho đến
các lần sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản pháp luật để rút ra những điểm
kế thừa và điểm mới từ các văn bản pháp luật đang có hiệu lực hiện hành
trong hành nghề Luật sư.
Phạm vi về đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về
vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư đối với đối tượng là cá nhân luật
sư.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
4
Phương pháp luận của Luận văn được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể mà luận văn sử dụng bao gồm:
phương pháp tổng hợp, thông kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc;
phương pháp điển hình hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ
thống hóa các quy phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và
phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật.
Cụ thể, phương pháp tổng hợp, thông kê, tập hợp các thông tin, số liệu
và vụ việc được sử dụng nhằm thu thập cơ sở lý thuyết, thành tựu lý thuyết đã
đạt được, chủ trương và chính sách và số liệu thống kê liên quan đến nội dung
của luận văn. Phương pháp điển hình hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội
nhằm xác định các đối tượng điều chỉnh của pháp luật về vi phạm hành chính
trong hành nghề luật sư ở Việt Nam, đồng thời là đối tượng hướng đến của
luận văn. Phương pháp hệ thống hóa các quy phạm pháp luật; phương pháp so
sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật nhằm tổng hợp,
sắp xếp, phân loại chính xác các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến
đề tài, đi sâu nghiên cứu việc thực hiện pháp luật trên thực tiễn đời sống để
đưa ra đánh giá và hướng hoàn thiện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn hệ thống hóa cơ sở lý luận pháp luật vi
phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt Nam; đưa ra các phân tích,
đánh giá đối với thực trạng thực hiện pháp luật về vi phạm hành chính trong
hành nghề luật sư; từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất hệ thống giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật vi phạm hành chính trong hành nghề
luật sư ở Việt Nam hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là tài liệu
tham khảo cho những người đang học tập và nghiên cứu về chuyên ngành luật
5
học, đặc biệt là nghiên cứu về các hành vi, thủ tục, thẩm quyền và cách thức
xử phạt vi phạm hành chính trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật vi phạm hành chính
trong hành nghề luật sư;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về vi phạm hành chính trong hành
nghề luật sư ở Việt Nam;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về vi phạm
hành chính trong hành nghề luật sư.
6
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VI
PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG HÀNH NGHỀ LUẬT SƢ
1.1. Những khái niệm có liên quan đến pháp luật về vi phạm hành chính
trong hành nghề luật sƣ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của luật sƣ và nghề luật sƣ
Theo quy định của pháp luật về luật sư của nhiều nước thì luật sư là
người được một cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề
luật sư hoặc công nhận tư cách luật sư. Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp
Chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc công nhận tư cách luật sư đa số là cơ quan
Tư pháp (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp), Tòa án Tối cao, Tòa án tiểu bang, Tòa án
Liên bang.
Đa số các nước trên thế giới không có sự phân biệt về luật sư tranh tụng
và luật sư tư vấn. Trong khi đó, nước Anh và Úc thì vẫn còn đang phân chia
luật sư thành hai loại là luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn. Luật sư ở
Singapore, Pháp và Hoa Kỳ có mối liên hệ chặt chẽ với cơ quan Toà án, tồn
tại song song hoặc trực thuộc các toà án.
Luật sư ở Singapore thuộc Toà án tối cao Singapore; các luật sư Pháp
thành lập mỗi đoàn luật sư bên cạnh mỗi toà án thẩm quyền rộng. Luật sư ở
Hoa Kỳ, ở Úc được công nhận và cho phép hành nghề theo lãnh thổ từng
bang, trong phạm vi thẩm quyền tài phán của tòa án từng bang hoặc liên bang.
Một luật sư có thể được phép hành nghề tại nhiều bang và phải tuân theo quy
chế của từng bang đặt ra. Luật sư hành nghề tại tòa án tiểu bang cũng có thể
xin công nhận và được phép hành nghề tại các Tòa án tối cao của liên bang.
Luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của
cá nhân luật sư. Nói cách khác, phẩm chất và năng lực cá nhân của luật sư là
yếu tố quyết định trong nghề luật sư. Người muốn hành nghề luật phải được
7
công nhận là luật sư. Pháp luật các nước trên thế giới thường không đưa ra
khái niệm luật sư mà chỉ quy định về tiêu chuẩn để trở thành luật sư. Tùy theo
quy định mỗi nước khác nhau về tiêu chuẩn luật sư và điều kiện hành nghề
luật sư mà xác định cơ quan hay tổ chức có thẩm quyền công nhận một người
là luật sư, cũng như thời điểm nào một người được công nhận là luật sư và
giấy tờ gì chứng minh một người là luật sư ở mỗi nước là khác nhau.
Tuy nhiên, nhìn chung, tiêu chuẩn phổ biến để được công nhận luật sư
là: Là công dân ở nước sở tại; Có bằng cử nhân luật; Có phẩm chất đạo đức
tốt. Ngoài các tiêu chuẩn trên, muốn trở thành luật sư phải qua đào tạo nghề,
tập sự hành nghề luật sư hoặc chỉ cần đỗ kỳ thi quốc gia để được công nhận
luật sư, điều đó còn phụ thuộc vào quy định pháp luật mỗi nước. Thẩm quyền
công nhận có thể là Tòa án tối cao hay Bộ Tư pháp hoặc chỉ cần đăng ký gia
nhập một Đoàn luật sư thì trở thành luật sư.
Như vậy, ta có thể rút ra khái niệm luật sư như sau: Luật sư được hiểu
là một chức danh bổ trợ tư pháp, có tư cách pháp lý độc lập, có đủ tiêu chuẩn
và điều kiện hành nghề luật chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật, cung
cấp dịch vụ pháp lý bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện
ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của khách hàng trước Tòa án, các cơ quan nhà nước và các chủ thể
khác theo quy định của pháp luật.
Nghề luật là một khái niệm mang tính tương đối, được sử dụng để chỉ
nghề nghiệp của những người có kiến thức pháp luật nhất định, đang thực
hiện các công việc liên quan đến các mặt khác nhau của đời sống pháp lý tại
tòa án, viện kiểm sát, văn phòng luật sư, cơ quan công an, cơ quan thi hành
án, cơ quan công chứng và một số bộ phận trong các cơ quan hành chính nhà
nước, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước v.v... Do đó, nếu
dùng cụm từ “nghề luật” thì theo cách biểu hiện của ngôn ngữ Việt là quá
8
rộng, cụm từ này ý chỉ không phải chỉ là việc bào chữa, biện hộ trước Tòa án
và làm tư vấn pháp luật (cung cấp dịch vụ pháp lý) của luật sư mà bao hàm
toàn bộ hoạt động của ngành Tư pháp, của cả các chức danh tư pháp được
Nhà nước trao quyền và cá nhân hoạt động tự do không phải là công chức,
cán bộ Nhà nước.
Ở Việt Nam lâu nay trên các bài báo và tạp chí chúng ta thường thấy
người viết vẫn hay sử dụng các cụm từ “nghề luật sư”, “hành nghề luật sư”.
Thực ra như vậy không hoàn toàn chính xác về mặt ngôn ngữ. Bởi vì “luật
sư” là một danh từ chỉ người, chứ không phải dùng để chỉ một nghề. Vì vậy
trong tiếng Anh người ta dùng “Lawyer” (luật sư) và “Practice law” (hành
nghề luật). Tuy nhiên, theo chúng tôi việc sử dụng các cụm từ “nghề luật sư”
và “hành nghề luật sư” là phù hợp với thực tiễn của nước ta, có thể chấp nhận
được.
Khi bàn tới khái niệm nghề luật sư, về phương diện lý luận, cần đặt nó
trong bối cảnh so với các nghề nghiệp khác của xã hội, các giá trị, chuẩn mực
nghề nghiệp và vị trí, vai trò của nó trong sự phát triển của xã hội. Nghề Luật
sư là một nghề xuất hiện từ xa xưa và đang ngày càng phát triển, trở thành
nghề có phương thức hành nghề tự do, được các văn bản pháp luật của Nhà
nước quy định. Lịch sử nghề Luật sư ở mỗi nước gắn liền với chế độ chính trị
ở nước đó và phục vụ quyền lợi của giai cấp thống trị nước đó.
Cụm từ “hành nghề luật sư” phải hiểu là việc luật sư tham gia hoạt
động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu
cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo
quy định của pháp luật.
Nghề luật sư có đặc thù riêng của nó, đây là một nghề mang tính trí tuệ
rất cao, đòi hỏi kiến thức luật, vốn sống, suy nghĩ độc lập, bản lĩnh, sự nhanh
nhạy để tìm hiểu vụ việc, bảo vệ quyền lợi thân chủ và đấu trí với các đối
9
tượng liên quan đến vụ việc. Bởi vậy, người hành nghề luật sư, nhờ các kỹ
năng nghề nghiệp và kiến thức pháp luật đã được đào tạo và công nhận bởi
Bộ Tư pháp, họ là người am hiểu pháp luật và có khả năng “lách” luật, qua
mắt các cơ quan nhà nước có trách nhiệm quản lý để kiếm lợi bất chính.
Chính bởi đặc điểm này mà công tác xử lý vi phạm hành chính trong hành
nghề luật sư đặc biệt khó khăn trên thực tiễn, đây là vấn đề mà Nhà nước cần
xem xét, tìm hiểu và khắc phục để bảo đảm luật sư thực hiện đúng chức năng,
nhiệm vụ của mình là đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần vào việc quản lý
nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Tóm lại, hành nghề luật sư là một nghề mà trong đó luật sư – một chức
danh bổ trợ tư pháp – có quyền tự do trong phương thức hành nghề của mình,
cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng theo quy định của pháp luật và quy
tắc đạo đức nghề nghiệp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách
hàng, góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Các luật sư được hành nghề tự do, tự do lựa chọn hình thức hành nghề
là hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư - được thực hiện bằng việc
thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư; làm việc theo
hợp đồng cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân.
Các luật sư hành nghề theo quy định của pháp luật. Hiện nay, có hai hình thức
hành nghề Luật sư được pháp luật Việt Nam công nhận và nêu rõ trong các
văn bản pháp luật là: luật sư hành nghề theo tư cách cá nhân và luật sư làm
việc trong các tổ chức hành nghề Luật sư. Tổ chức hành nghề Luật sư hiện
nay gồm hai hình thức là Văn phòng luật sư và Công ty luật
Luật sư hành nghề theo tư cách cá nhân còn được gọi là luật sư nội bộ,
hình thức này được hiểu là một hoặc một nhóm luật sư làm việc theo hợp
10
đồng lao động cho các tổ chức, doanh nghiệp mà không làm việc cho các
Công ty Luật hoặc Văn phòng Luật sư. Phạm vi hành nghề của luật sư nội bộ
là giải quyết các vấn đề pháp lý theo nhu cầu của chính tổ chức, doanh nghiệp
nơi mình làm việc. Đặc biệt, do chủ yếu hoạt động trong các Doanh nghiệp
nên luật sư nội bộ chủ yếu tập trung trong lĩnh vực pháp luật doanh nghiệp,
thương mại và các văn bản pháp luật chuyên ngành có liên quan khác.
Luật sư hành nghề trong một tổ chức hành nghề luật sư (Công ty Luật,
hoặc Văn phòng luật sư) thường chịu trách nhiệm thực hiện dịch vụ pháp lý
cho khách hàng theo sự phân công của tổ chức hành nghề.
Có thể thấy rõ nếu so sánh hai hình thức hoạt động hành nghề trong
lĩnh vực luật sư này thì luật sư hành nghề theo tư cách cá nhân ngoài có mối
quan hệ giữa luật sư với khách hàng như luật sư hành nghề trong một tổ chức
hành nghề Luật sư, thì họ còn tồn tại một mối quan hệ nữa là Người lao động
với Người sử dụng lao động. Cũng vì vậy mà luật sư hành nghề trong một
Văn phòng Luật sư hay Công ty Luật có tính độc lập về các tư vấn pháp lý
của mình hơn so với luật sư hành nghề theo tư cách cá nhân do còn bị rành
buộc bởi các quy định về nghĩa vụ của người lao động.
Dù có những điểm khác nhau nhưng mục đích chung của các luật sư dù
hoạt động dưới hình thức nào cũng đều là đưa ra lời khuyên về mặt pháp lý và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm pháp luật vi phạm hành chính trong hành
nghề luật sƣ
Pháp luật là hệ thống những qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, được đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội pháp triển
phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.
11
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm “vi phạm hành chính” lần đầu
tiên được định nghĩa một cách chính thức tại Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành
chính ngày 30/11/1989, Điều 1 của Pháp lệnh này quy định “vi phạm hành
chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo
quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Định nghĩa này sau đó đã được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn thi
hành pháp luật và đưa vào các giáo trình giảng dạy về pháp luật. Theo Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và sau đó là Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2002 thì khái niệm vi phạm hành chính không được
định nghĩa riêng biệt nữa mà được đưa “lồng” vào trong khái niệm “xử lý vi
phạm hành chính”, nếu trích dẫn từ định nghĩa về “xử lý vi phạm hành chính”
được quy định tại khoản 2 Điều 1 LXLVPHC năm 2002 thì vi phạm hành
chính được hiểu là “hành vi cố ý hoặc vô ý của cá nhân, tổ chức, vi phạm các
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và
theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Đến nay,
định nghĩa này được quy định tại Khoản 1 Điều 2 LXLVPHC 2012 như sau:
“vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và
theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.
Về ngôn ngữ thể hiện, có thể thấy có đôi chút khác nhau giữa định
nghĩa về vi phạm hành chính được quy định trong các Pháp lệnh về xử
phạt/xử lý vi phạm hành chính 1989, 1995, 2002 và 2012; tuy nhiên về bản
chất hành vi vi phạm hành chính thì các định nghĩa trong các văn bản pháp
luật này, về cơ bản, không có gì khác nhau.
12
Theo đó, định nghĩa “vi phạm hành chính” có 04 dấu hiệu cơ bản sau
đây:
Thứ nhất, vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, vi phạm các quy
định của pháp luật về quản lý nhà nước; tác hại (tính nguy hiểm) do hành vi
gây ra ở mức độ thấp, chưa hoặc không cấu thành tội phạm hình sự và hành vi
đó được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
Đây chính là dấu hiệu “pháp định” của vi phạm.
Thứ hai, hành vi đó phải là một hành vi khách quan đã được thực hiện
(hành động hoặc không hành động), phải là một việc thực, chứ không phải chỉ
tồn tại trong ý thức hoặc mới chỉ là dự định, đây có thể coi là dấu hiệu “vật
chất” của vi phạm.
Thứ ba, hành vi đó do một cá nhân hoặc pháp nhân (tổ chức) thực hiện,
đây là dấu hiệu xác định“chủ thể” của vi phạm.
Thứ tư, hành vi đó là một hành vi có lỗi, tức là người vi phạm nhận
thức được vi phạm của mình, hình thức lỗi có thể là cố ý, nếu người vi phạm
nhận thức được tính chất trái pháp luật trong hành vi của mình, thấy trước hậu
quả của vi phạm và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc ý thức được hậu quả
và để mặc cho hậu quả xảy ra; hình thức lỗi là vô ý trong trường hợp người vi
phạm thấy trước được hậu quả của hành vi nhưng chủ quan cho rằng mình có
thể ngăn chặn được hậu quả hoặc không thấy trước hậu quả sẽ xảy ra dù phải
thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả của vi phạm. Đây có thể coi là
dấu hiệu “tinh thần” của vi phạm.
Hành vi vi phạm hành chính là hành vi vi phạm các quy định của pháp
luật về quản lý nhà nước do cá nhân, tổ chức thực hiện và vi phạm này không
phải là tội phạm, tức là chưa đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, trong đó yếu
13
tố có tính chất quyết định là mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi
phạm hành chính.
Cho đến hiện nay, nhiều người vẫn hiểu sai về bản chất của hai cụm từ
“Xử lý vi phạm hành chính” và “Xử phạt vi phạm hành chính”, để làm rõ hai
khái niệm này, luận văn xin đưa ra một số phân tích để làm rõ như sau:
Trước tiên, cần hiểu bản chất của hoạt động “xử lý vi phạm hành
chính” là việc áp dụng một số loại biện pháp cưỡng chế hành chính do pháp
luật quy định. Cưỡng chế hành chính được xác định là biện pháp cưỡng chế
nhà nước do cơ quan hoặc người có thẩm quyền quyết định áp dụng theo thủ
tục hành chính đối với cá nhân có hành vi vi phạm hành chính hoặc đối với
một số cá nhân nhất định với mục đích ngăn chặn, phòng ngừa hoặc thực hiện
công vụ vì lí do an ninh, quốc phòng và vì lợi ích quốc gia.
Xử phạt vi phạm hành chính là việc áp dụng xử phạt đối với cá nhân, tổ
chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý
nhà nước mà không phải tội phạm theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt
hành chính. Theo đó, Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm
quyền xử phạt áp dụng các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục đối với cá
nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính.
Xử phạt vi phạm hành chính bao gồm các chế tài hành chính thông
thường, áp dụng đối với chủ thể là cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành
chính, bao gồm hình thức xử phạt chính (cảnh cáo, phạt tiền, trục xuất), hình
thức phạt bổ sung (tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, tịch
thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, trục xuất khi không áp dụng là
hình phạt chính) và các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính gây
ra nhằm lập lại trật tự quản lý bị xâm hại.
14
Các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính là những tư tưởng chỉ đạo,
định hướng toàn bộ quá trình xử phạt vi phạm hành chính mà các cấp có thẩm
quyền xử phạt phải tuân thủ nhằm bảo đảm cho công tác xử phạt vi phạm
hành chính được tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật.
Việc xử phạt vi phạm hành chính; áp dụng các hình thức xử phạt vi
phạm hành chính, các biện khắc phục hậu quả; các biện pháp ngăn chặn vi
phạm hành chính và các biện pháp bảo đảm việc xử phạt vi phạm hành chính
phải tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc, trình tự, thủ tục và thẩm quyền quy
định trong việc xử lý vi phạm hành chính.
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính thể hiện sự răn đe, trừng
phạt của pháp luật đối với những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm các quy
tắc quản lý nhà nước thông qua việc buộc người vi phạm phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi về vật chất hoặc tinh thần, mang tính giáo dục đối với
cá nhân, tổ chức bị xử phạt, góp phần nâng cao ý thức của công dân trong
việc chấp hành pháp luật và các quy tắc quản lý nhà nước.
Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính được quy định cụ thể tại Điều
3 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Cụ thể như sau:
Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và
phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải
được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật;
Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công
khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của
pháp luật;
Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ,
hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng;
15
Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do
pháp luật quy định.
Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần.
Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi
người vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó.
Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm
hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm;
Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm
hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua
người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính;
Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với
tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Các biện pháp xử lý hành chính khác là những biện pháp hành chính có
tính đặc thù và tính cưỡng chế cao hơn các hình thức xử phạt hành chính
thông thường, chỉ áp dụng đối với chủ thể vi phạm là cá nhân, căn cứ vào
nhân thân và quá trình vi phạm pháp luật của đối tượng; bao gồm giáo dục tại
xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa
vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.
Nhìn chung, xử lý vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính, áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính khác có thể hiểu chung là việc áp dụng
các biện pháp, chế tài mang tính cưỡng chế hành chính của Nhà nước đối với
chủ thể có hành vi vi phạm hành chính.
Qua phân tích các khái niệm nêu trên, có thể rút ra khái niệm pháp luật
về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư như sau: Pháp luật về vi phạm
hành chính trong hành nghề luật sư là tổng thể các quy phạm pháp luật điều
16
chỉnh các mối quan hệ giữa chủ thể quản lý nhà nước về hành nghề luật sư và
đối tượng hành nghề luật sư, khi các đối tượng đó vi phạm các quy tắc quản
lý nhà nước về hành nghề luật sư đến mức phải xử phạt hành chính theo quy
định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính.
Cũng như bất cứ hoạt động nghề nghiệp nào khác, nền tảng hoạt động
của nghề luật sư phải dựa trên pháp luật và các quy chế trách nhiệm nghề
nghiệp. Các quy định về hành vi bị coi là vi phạm hành chính trong hành nghề
luật sư luôn gắn liền với vai trò và sứ mạng của luật sư như đã nêu ở trên. Sự
cộng hưởng qua lại giữa pháp luật và quy tắc trách nhiệm nghề nghiệp trong
hoạt động của luật sư là một trong những minh chứng cho mối quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức nói chung đồng thời là đặc điểm của pháp luật về vi
phạm hành chính trong hành nghề luật sư nói riêng.
Công tác quản lý vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư là công
tác liên ngành, việc quản lý cần sự phối hợp giữa các tổ chức xã hội – nghề
nghiệp và các cơ quan nhà nước có nhiệm vụ quản lý lĩnh vực bổ trợ tư pháp
nói chung và luật sư nói riêng, ngoài ra còn có các cơ quan nhà nước quản lý
về xử phạt vi phạm hành chính trên địa bàn các tỉnh và cả nước. Các quy định
về hành vi vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư là sự kết hợp giữa các
quy tắc đạo đức trong hành nghề luật sư và các hành vi mà pháp luật nghiêm
cấm. Các Đoàn luật sư, LĐLSVN hàng năm đều có báo cáo gửi các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về hành nghề luật sư nói chung, trong đó có các số
liệu và vụ việc về vi phạm hành chính của luật sư, từ đó các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quản lý, kiểm tra, thanh tra và giám sát hoạt động của luật sư
trên cả nước nhằm tìm ra khó khăn trong thực tiễn áp dụng và hạn chế trong
quy định pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt
Nam, từ đó tìm ra giải pháp và hướng hoàn thiện hợp lý, kịp thời để điều
chỉnh.
17
1.2. Nội dung của pháp luật vi phạm hành chính trong hành nghề luật sƣ
ở Việt Nam
1.2.1. Hành vi vi phạm hành chính trong hành nghề luật sƣ tại Việt Nam
Theo Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp,
hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
của Chính phủ thì có 24 hành vi được gọi là hành vi vi phạm trong hành nghề
luật sư tại Việt Nam; bổ sung thêm 12 loại hành vi so với Nghị định 60/2009
quy định về lĩnh vực này trước đó. Cụ thể các hành vi như sau:
Không thông báo cho khách hàng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm
nghề nghiệp của mình trong việc thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng;
Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không thực hiện việc đăng ký hành
nghề với cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp chuyển Đoàn luật sư.
Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân cung cấp dịch vụ pháp lý cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác ngoài cơ quan, tổ chức mình đã ký hợp đồng lao
động, trừ trường hợp được cơ quan nhà nước yêu cầu hoặc tham gia tố tụng
trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và thực hiện
trợ giúp pháp lý theo sự phân công của Đoàn luật sư mà luật sư là thành viên;
Thành lập hoặc tham gia thành lập từ hai tổ chức hành nghề luật sư trở lên.
Sửa chữa, tẩy xóa, làm sai lệch nội dung chứng chỉ hành nghề luật sư,
giấy đăng ký hành nghề luật sư, giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam,
giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng, giấy chứng nhận người bào chữa;
Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không đăng ký hành nghề tại cơ quan
có thẩm quyền, trừ trường hợp luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không
thực hiện việc đăng ký hành nghề với cơ quan có thẩm quyền trong trường
hợp chuyển Đoàn luật sư; Luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam khi
18
giấy phép hành nghề đã hết hạn; Cho người khác sử dụng chứng chỉ hành
nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư hoặc giấy phép hành nghề luật
sư tại Việt Nam để hành nghề luật sư.
Luật sư hành nghề khi chưa được cấp giấy đăng ký hành nghề luật sư;
chưa được cấp giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam; Luật sư nước ngoài
hoạt động không đúng hình thức, phạm vi hành nghề của luật sư nước ngoài
tại Việt Nam; Sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề
luật sư hoặc sử dụng giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam của người
khác để hành nghề luật sư; Sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng
ký hành nghề luật sư, giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam, giấy chứng
nhận về việc tham gia tố tụng, giấy chứng nhận người bào chữa giả.
Làm giả chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư,
giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam, giấy chứng nhận về việc tham gia
tố tụng, giấy chứng nhận người bào chữa; Mạo danh luật sư để hành nghề luật
sư dưới bất kỳ hình thức nào; Cố ý trì hoãn, kéo dài thời gian hoặc gây khó
khăn, cản trở hoạt động của cơ quan nhà nước; Sách nhiễu, lừa dối khách
hàng; nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích vật chất khác ngoài khoản
thù lao và chi phí đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý; Hành nghề
luật sư khi không có chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc chưa gia nhập Đoàn
luật sư; Luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam trong trường hợp không
đủ điều kiện hành nghề.
Thực hiện dịch vụ pháp lý mà không ký hợp đồng bằng văn bản hoặc
ký hợp đồng thiếu một trong các nội dung quy định tại Khoản 2 Điều 26 của
Luật luật sư; Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập
nhau trong cùng một vụ, việc; Cố ý cung cấp tài liệu, vật chứng giả, sai sự
thật; Xúi giục khách hàng khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại,
19
tố cáo trái pháp luật; Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết
trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản
hoặc pháp luật có quy định khác; Móc nối, quan hệ với người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng, cán bộ, công chức khác để làm trái quy định của
pháp luật.
Như vậy, có thể thấy các hành vi vi phạm hành chính trong hành nghề
luật sư ở Việt Nam chủ yếu được chia thành 02 loại, gồm: thứ nhất là loại
hành vi vi phạm liên quan đến chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký
hành nghề luật sư, giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam, giấy chứng nhận
về việc tham gia tố tụng, giấy chứng nhận người bào chữa; thứ hai là loại
hành vi liên quan đến những nghĩa vụ cơ bản của luật sư trong hành nghề
những nghĩa vụ cơ bản đồng thời là một nội dung quan trọng của quy tắc đạo
đức nghề nghiệp luật sư, hay những hành vi xâm phạm đến bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân.
1.2.2. Hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư tại
Việt Nam
Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội khóa XIII thông qua
ngày 20/06/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2013, quy định các Hình
thức xử phạt hành chính gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Tước quyền sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc Đình chỉ hoạt động có thời hạn;
Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm
hành chính; Trục xuất.
Hình thức xử phạt Cảnh cáo và Phạt tiền chỉ được quy định và áp dụng
là hình thức xử phạt chính. Những hình thức xử phạt còn lại có thể được quy
định là hình thức xử phạt bổ sung hoặc hình thức xử phạt chính. Đối với mỗi
20