Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Chính sách tiền lương trong phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.86 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong mọi nền sản xuất, yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng nhất. Hiện
nay, khi xu hướng của sự phát triển là ngày càng sử dụng ít các yếu tố sức lao
động của con người và thay vào đó là các yếu tố máy móc thì vai trò của con
người càng quan trọng. Vì máy móc càng hiện đại càng đòi hỏi người vận hành
phải có trình độ cao. Tuy nhiên, với đa số nền kinh tế thì sức lao động vẫn là yếu
tố chủ yếu trong quá trình sản xuất đặc biệt là các nền kinh tế vẫn còn đang phát
triển với trình độ thấp kém. Vì thế phải đặc biệt quan tâm tới việc tái sản xuất và
tái sản xuất mở rộng sức lao động cho người lao động thông qua việc trả lương
cho họ dựa trên cơ sở sức lao động mà họ bỏ ra trong quá trình sản xuất. Nói rộng
ra đối với tất cả các loại lao động, nếu việc trả lương phù hợp thì nó sẽ có tác dụng
kích thích đối với họ, tạo ra sự hứng thú để phát huy hiệu quả nhất tính chủ động,
sáng tạo, chăm chỉ và có tâm huyết với nghề. Nhờ đó mà nền sản xuất được phát
triển tốt. Mặc dù vậy, không phải lúc nào tiền lương trả cho người lao động cũng
xứng đáng với những gì họ đã bỏ ra. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người
lao động, pháp luật lao động đã ra đời trong đó có chính sách tiền lương. Chính
sách tiền lương là một trong các chính sách kinh tế - xã hội quan trọng, trực tiếp
liên quan đến lợi ích của hàng triệu người, ảnh hưởng đến sự ổn định về kinh tế,
chính trị và xã hội của đất nước. Vì thế cần xây dựng được một chính sách tiền
lương phù hợp, có căn cứ khoa học.
Nhận thấy tầm quan trọng của chính sách tiền lương đối với sự phát triển kinh tế xã hội nên tôi đã chọn đề tài “Chính sách tiền lương trong phát triển kinh tế. Phân
tích chính sách tiền lương của Nhà nước Việt nam và tác động của nó đến phát
triển kinh tế”.
Mục đích nghiên cứu: Nhằm tìm ra những điểm còn hạn chế trong chính sách
tiền lương nói chung và chính sách tiền lương tối thiểu nói riêng, từ đó đưa ra
được những giải pháp phù hợp để chính sách tiền lương được hoàn thiện hơn nữa

1


Đối tượng nghiên cứu: Chính sách tiền lương của nhà nước, tác động của chính


sách tiền lương tới phát triển kinh tế
Phạm vi nghiên cứu: Là việc áp dụng chính sách tiền lương trong phạm vi cả
nước
Phương pháp nghiên cứu: Trong bài có sử dụng phương pháp phân tích, tổng
hợp và so sánh
Kết cấu đề án được chia làm 3 phần:
Phần 1: Sự cần thiết nghiên cứu chính sách tiền lương trong phát triển kinh tế
Phần 2: Phân tích chính sách tiền lương tối thiểu của Việt Nam và tác động của
nó tới phát triển kinh tế
Phần 3: Những giải pháp để hoàn thiện chính sách tiền lương và phát triển kinh tế

2


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ
Biểu 2.1: Mức độ tăng giá tiêu dung một số năm gần đây
Biểu 2.2: Sự biến động của mức lương tối thiểu chung (MLminc) qua các năm
Đồ thị 2.1: Quy định mức tiền lương tối thiểu

3


Phần 1: SỰ CẦN THIẾT NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Chính sách
Chính sách là phương thức hành động được một chủ thể xác định và thực hiện
nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại1
1.1.2. Tiền lương
Tiền lương là số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động trả cho người lao động

theo giá trị sức lao động mà họ hao phí trên cơ sở thỏa thuận 2
1.1.3. Mức lương tối thiểu
Mức lương tối thiểu là số lượng tiền tệ được nhà nước quy định để trả lương cho
lao động giản đơn nhất trong điều kiện bình thường của xã hội3
1.1.4. Chính sách tiền lương
Chính sách tiền lương là tập hợp các chủ trương và hành động của chính phủ
nhằm điều tiết thu nhập, điều tiết lao động giữa các vùng, các ngành, tạo ra sự ổn
định kinh tế - xã hội và định hướng quan trọng cho các cơ quan doanh nghiệp
trong lĩnh vực phân phối bằng cách đưa ra các văn bản pháp luật có liên quan đến
lĩnh vực tiền lương

1

Giáo trình “Chính sách kinh tế - xã hội” của khoa Khoa học Quản lý, NXB Khoa học và

Kỹ thuật, năm 2000, trang 20-23
2

Giáo trình “ Kinh tế nguồn nhân lực” của khoa KT&QLNNL, NXB ĐHKTQD, Hà Nội

2008, trang 304
3

Giáo trình “ Kinh tế nguồn nhân lực” của khoa KT&QLNNL, NXB ĐHKTQD, Hà Nội

2008, trang 341

1.1.5. Phát triển kinh tế

4



Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó bao
gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế
kinh tế, chất lượng cuộc sống 4
1.2. Giới thiệu chung về chính sách tiền lương
1.2.1. Các loại chính sách tiền lương chủ yếu
Xét theo phạm vi hoạt động, chính sách tiền lương có 2 loại chủ yếu: chính sách
tiền lương của nhà nước và chính sách tiền lương của các cơ quan, doanh nghiệp.
1.2.2. Yêu cầu của chính sách tiền lương
Chính sách tiền lương, cũng như các chính sách xã hội khác, cần đáp ứng các yêu
cầu sau đây:
- Chính sách tiền lương phải ổn định, liên tục và thống nhất. Việc ổn định, liên tục,
thống nhất sẽ giúp cho người xây dựng chính sách thống nhất trong mục đích,
phương hướng và có kế hoạch triển khai các chiến lược đảm bảo và nâng cao đời
sống của người lao động, đồng thời tạo ra sự yên tâm, tin tưởng vào chính sách
của nhà nước - Chính sách tiền lương phải hướng vào việc đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu của người lao động, xây dựng mối quan hệ đoàn kết bền vững giữa
-

các tầng lớp nhân dân lao động.
Chính sách tiền lương cần được thường xuyên xem xét, thay đổi khi các điều kiện
kinh tế xã hội thay đổi. Một chính sách tiền lương muốn phát huy được vai trò
tích cực của nó thì phải phù hợp với yêu cầu đặt ra trong từng thời kỳ. Một chính
sách dù có tích cực đến đâu cũng chỉ phù hợp trong một giai đoạn lịch sử nhất

định, không có chính sách vĩnh cửu.
1.2.3. Nội dung của chính sách tiền lương
Chính sách tiền lương của nhà nước được thể hiện thông qua các nội dung chủ yếu
-


sau:
Xác định mức lương tối thiểu và quan hệ giữa mức lương tối thiểu, tiền lương
trung bình và tiền lương tối đa, quan hệ tiền lương giữa các khu vực, các nghành,
các đối tượng hưởng lương. Trong đó, xác định mức lương tối thiểu có ý nghĩa

1.2.4.

đặc biệt quan trọng
Xây dựng hệ thống thang bảng lương
Xây dựng cơ chế quản lý tiền lương
Xây dựng các chế độ phụ cấp lương và các chế độ khác liên quan
Sự cần thiết phải hoàn thiện chính sách tiền lương

5


Việc hoàn thiện chính sách tiền lương có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nền
kinh tế - xã hội của một quốc gia
1.2.4.1. Đối với kinh tế
- Chính sách tiền lương hợp lý sẽ thu hút đầu tư, trong đó có đầu tư nước ngoài.
Trong những năm gần đây, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có đóng góp
đáng kể trong GDP của nước ta, điều đó tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển
-

tốt, đồng thời cũng giảm được 1 tỷ lệ lớn lao động thất nghiệp
Chính sách tiền lương hợp lý sẽ tạo điều kiện cho các nhân có động lực làm việc,
giúp cho doanh nghiệp có thể giữ chân người lao động giỏi, nhờ đó năng suất lao

động tăng lên

1.2.4.2. Đối với xã hội
- Chính sách tiền lương hợp lý giúp cho đời sống của người lao động được ổn định
và đảm bảo, nhờ đó có thể giảm tỷ lệ bỏ việc, giảm tỷ lệ thất nghiệp dẫn đến giảm
-

các tệ nạn xã hội
Chính sách tiền lương hợp lý sẽ giúp cho đời sống của người lao động được cải
thiện, nâng cao phúc lợi xã hội, nâng cao trình độ dân trí, sức khỏe người đan

được cải thiện
1.3. Một số vấn đề về phát triển kinh tế
1.3.1. Giá trị cơ bản của sự phát triển
- Duy trì sự sống: khả năng đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người. Phát
triền kinh tế là một điều kiện cần thiết để cải thiện chất lượng cuộc sống. Khi nền
kinh tế phát triển, những nhu cầu cơ bản của con người có khả năng được đáp
-

ứng tốt hơn
Tự trọng: là một con người. Sự thịnh vượng của một quốc gia đã trở thành thước
đo giá trị gần như khắp toàn cầu. Khi nền kinh tế của một quốc gia phát triển, họ

-

sẽ nhận được sự tôn trọng và giá trị cao.
Tự do thoát khỏi lệ thuộc : có khả năng lựa chọn. Tự do gắn liền với sự lựa chọn

trên diện rộng đối với mọi xã hội và thành viên của xã hội
1.3.2. Mục tiêu của sự phát triển
- Tăng khả năng sẵn có và mở rộng việc phân phối các loại hàng hóa thiết yếu cho
cuộc sống như lương thực, nhà ở, y tế và bảo vệ cho tất cả các thành viên của xã

hội

6


-

Tăng mức sống, tức là ngoài mục tiêu tăng thu nhập, còn phải tạo công ăn, việc
làm, cải thiện công tác giáo dục và chú trọng nhiều hơn đến giá trị văn hóa và

-

nhân văn
Mở rộng diện lựa chọn về kinh tế và xã hội cho các cá nhân và các quốc gia bằng
cách giúp họ thoát khỏi sự giàng buộc và lệ thuộc không chỉ đối với những người
khác và những quốc gia khác và còn cả đối với ma lực của sự nghèo đói và ngu
dốt

Phần 2: PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU CỦA VIỆT NAM VÀ
TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ
2.1.

Các loại mức lương tối thiểu
Hiện nay, bên cạnh khái niệm mức lương tối thiểu chung còn có mức lương tối
thiểu ngành, khu vực và doanh nghiệp.
Đặc trưng của mức lương tối thiểu
Thông qua định nghĩa về mức lương tối thiểu và như chúng ta đã biết, mức lương

2.2.


tối thiểu là cơ sở để xây dựng các mức tiền lương khác. Do vậy, nó có những đặc
trưng cơ bản sau:
- Do nhà nước quy định
- Là mức trả công thấp nhất mà không một người sử dụng lao động nào được phép
2.3.
2.4.
2.4.1.

trả thấp hơn
Là mức trả công được luật hóa
Mức lương tối thiểu không cố định mà ngày càng được nâng cao
Chức năng của mức lương tối thiểu
Chống đói nghèo và bóc lột quá sức
Đáp ứng các nhu cầu tối thiểu cho người lao động và một phần gia đình họ
Là lưới an toàn chung cho những người hưởng lương
Là cơ sở để tính mức đóng bảo hiểm xã hội
Mức lương tối thiểu chung qua các năm gần đây
Năm 2005
Ngày 15/09/05, Chính phủ (thủ tướng Phan Văn Khải) ký Nghị định
118/2005/NĐ-CP về việc điều chỉnh mức lương tối thiểu chung. Điều chỉnh áp
dụng từ ngày 01-10-2005 là 350.000 đồng/tháng.
Việc tăng mức lương tối thiểu sẽ giúp cán bộ công chức yên tâm công tác hơn.
Theo Bộ LĐ-TB-XH, phương án tăng mức lương tối thiểu lên 350.000 đồng/tháng
có ưu điểm là phù hợp mức tăng giá các mặt hàng tiêu dùng, bảo đảm tiền lương,

7


thu nhập thực tế và có cải thiện (do thay đổi quan hệ tiền lương từ ngày 1-102004).
Mức lương tối thiểu này áp dụng từ ngày 1-10-2005 đến ngày 30-9-2006 trong

khu vực nhà nước, doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và là căn cứ
để điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội.
2.4.2. Năm 2006
Ngày 11.9, Văn phòng Chính phủ đã công bố Nghị định 94/2006/NĐ-CP của
Chính phủ được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký trước đó 4 ngày (7.9) điều chỉnh
mức lương tối thiểu chung. Theo Nghị định này, kể từ ngày 1.10.2006, mức lương
tối thiểu chung hiện hành (được quy định tại Nghị định số 118/2005/NĐ-CP ngày
15.9.2005 của Chính phủ) từ 350.000 đồng/tháng lên 450.000 đồng/tháng.
2.4.3. Năm 2008
Chính phủ ban hành ba Nghị định 166, 167 và 168/2007/NĐ-CP, ngày 16/11/2007
về mức lương tối thiểu chung cho người lao động. Từ 1-1-2008, người lao động
thuộc khối cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội sẽ được hưởng mức lương tối thiểu là 540.000 đồng/tháng (tăng 20%
so với mức lương tối thiểu là 450.000 đồng).
2.4.4. Năm 2009
Ngày 6/4, Chính phủ đã ban hành Nghị định 33/2009/NĐ-CP quy định mức lương
tối thiểu chung thực hiện từ ngày 1/5/2009 là 650.000 đồng/ tháng.
2.4.5. Năm 2010
Ngày 25.3; Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Nghị định số 28/2010/NĐ-CP quy
định mức lương tối thiểu chung. Ngày 1.5.2010 tăng từ 650.000 lên 730.000
đ/tháng, tăng 80.000đ.
2.5. Tác động của chính sách tiền lương tối thiểu tới phát triển kinh tế
2.5.1. Tác động tích cực
- Đảm bảo mức sống tối cần thiết cho người lao động và gia đình họ. Thật vậy,
mức lương tối thiểu được quy định dựa trên việc tính toán các yếu tố để đảm bảo
-

mức sống tối cần thiết.
Đảm bảo sự hợp lý nhất định đối với mức tiền lương ở quy mô cả nước, vùng và
khu vực; thu hẹp khoảng cách mức lương tối thiểu giữa doanh nghiệp có vốn đầu


8


tư nước ngoài và trong nước. Khi tiến hành xây dựng chính sách tiền lương tối
thiểu, người xây dựng có tính toán đến điểu kiện kinh tế - xã hội , mức độ phát
triển của cả nước, vùng và khu vực để từ đó đưa ra tỷ lệ hợp lý về mức tiền lương
tối thiểu ở các phạm vi này. Đồng thời, do đặc thù của khu vực kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài và

khu vực kinh tế

trong nước nên

trên thực tế mức

lương được
lao động là

W3

Xuất phát từ

W2

đảm bảo được

W1

lao động trong nước,


Sl

G

khá chênh lệch.
thực tế này và để

dl

thiểu phần nào đã góp
-

chênh lệch này.
Góp phần giảm tỷ lệ
mọi nền kinh tế, dù ít

trả cho người

đời sống cho người
mức lương tối
phần giảm bớt sự

E1 E2 E3 E4 E5
Đồ thị 2.1: Quy định mức
tiền lương tối thiểu

thất nghiệp. Trong

hay nhiều luôn luôn

tồn tại hiện tượng thất nghiệp, ở mỗi thời kỳ, mối quốc gia thì tỷ lệ này là không
giống nhau. Ở một thời điểm nhất định, xác định một lượng cung và lượng cầu
lao động. Cung và cầu lao động tạo nên trạng thái cân bằng. Dưới đây chúng ta sẽ
đi phân tích tình huống liên quan đến chính sách tiền lương tối thiểu và tỷ lệ thất
nghiệp

Theo đồ thị ta thấy:

9




Nếu ta đặt mức lương tối thiểu ở w1(mức lương thấp hơn mức lương cân
bằng) người sử dụng lao động sẽ có lợi và người lao động sẽ bị thiệt, vì thế
sẽ có 1 số lượng lớn người lao động không chấp nhận đi làm ở mức lương



này. Như vậy sẽ có lượng lao động thất nghiệp tại W1 là đoạn E2E4
Nếu ta đặt mức lương tối thiểu ở W2( bằng với mức lương cân bằng thị
trường) thì số người có nhu cầu việc làm và số lượng công việc sẵn có là
bằng nhau=> không có hiện tượng thất nghiệp do không cân bằng cung cầu
mà chỉ có 1 tỷ lệ thất nghiệp nhỏ nhất, đó là thất nghiệp tự nhiên. Trên thực
tế, khó có thể xác định mức lương cân bằng thị trường để áp dụng cho mức
lương tối thiểu. Đồng thời, tùy điều kiện kinh tế xã hội mà có thể quy định
mức lương tối thiểu ở mức nào. Mặt khác, mức lương cân bằng thị trường
không cố định ở 1 mức độ nào mà luôn thay đổi, khác so với nguyên tắc ổn




định của nguyên tắc tiền lương
Nếu đặt mức lương tối thiểu ở W3 (mức lương cao hơn mức cân bằng thị
trường) thì số nhu cầu về việc làm từ phía người lao động sẽ cao hơn so với
số lượng công việc sẵn có mà người sử dụng lao động mong muốn thuê do
vậy sẽ có có lượng lao động thất nghiệp. Khi đó, lượng thất nghiệp là đoạn
E1E5.
Từ những phân tích trên, ta thấy, nếu mức lương tối thiểu được quy định ở

-

mức độ hợp lý sẽ có thể góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Bảo vệ lợi ích người lao động ở mức độ nhất định. Khi quy định mức lương tối
thiểu, điều đó có nghĩa không có bất cứ người sử dụng lao động nào được phép

trả lương thấp hơn mức lương đã được quy định.
2.5.2. Mặt trái của chính sách tiền lương tối thiểu
2.5.2.1. Khi mức lương tối thiểu tăng lên
- Quỹ lương giành cho việc trả lương người lao động tăng lên. Điều này kéo theo
hệ lụy khác đó là các doanh nghiệp sẽ giảm lợi nhuận của mình, từ đó giảm khả
năng đầu tư mở rộng sản xuất, thay đổi công nghệ trong sản xuất dẫn đến việc
-

giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường
Tăng chi ngân sách nhà nước. Bộ máy quản lý nhà nước của nước ta khá đồ sộ,
đồng thời, trong cơ cấu kinh tế của nước ta hiện nay, thành phần kinh tế nhà nước

10



vẫn còn chiến tỷ trọng không nhỏ vì thế mà số lượng công nhân viên chức hoạt
động và hưởng lương trong ngân sách nhà nước là khá lớn. Mức lương tối thiểu
là mức lương làm cơ sở cho việc trả lương, vì thế, khi mức lương tối thiểu tăng
-

lên, ngân sách nhà nước cũng sẽ phải chi tăng lên.
Tăng giá cả ngoài thị trường, gây ra lạm phát
Biểu 2.1 :Mức độ tăng giá tiêu dùng 1 số năm gần đây
Đơn vị tính: %
Năm
Tổng,
trong đó
Lương
thực
Thực
phẩm

2003
3,0

2004
9,5

2005
8,4

2006
6,6

2007

12,63

2008
19,89

2,9

14,3

7,8

14,1

15,40

43,25

2,9

17,1

12,0

5,5

21,16

26,53

Qua bảng ta thấy mức độ tăng giá tiêu dùng cao qua các năm, từ năm 2003

đến nay tạo ra lạm phát lớn. Đặc biệt là những năm gần đây. Vì thế, mức tăng
lương tối thiểu trên vẫn chưa đáp ứng được mức tăng của lạm phát chứ chưa
nói đến duy trì và nâng cao mức sống của người lao động do tăng lương.
2.5.2.2. Khi mức tiền lương tối thiểu còn quá thấp
- Xảy ra các vụ đình công. Theo số liệu của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam,
mặc dù nền kinh tế đang có nhiều khởi sắc và hồi phục nhanh nhưng từ đầu năm
đến nay, cả nước đã xảy ra 64 vụ đình công. Riêng trong tháng 2-2010 đã xảy ra
26 vụ. Điều này cho thấy, quan hệ lao động trong các doanh nghiệp đang có dấu
-

hiệu xấu đi, chủ yếu là quan hệ tiền lương, tiền công giữa doanh nghiệp và NLĐ.
Mục tiêu của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Do vậy, theo lẽ thông
thường, khi trả lương cho người lao động càng thấp thì lợi nhuận còn lại của
doanh nghiệp càng cao. Khi mức lương tối thiểu được quy định ở mức thấp, các
doanh nghiệp sẽ dựa vào đó mà trả mức lương hết sức rẻ mạt đối với những lao

-

động chưa qua đào tạo.
Cuộc sống người lao động gặp khó khăn khi tiền lương không theo kịp sự thay
đổi của thị trường. Bản thân mức lương tối thiểu là mức lương chỉ đủ để đáp ứng
nhu cầu tối cần thiết đối với người lao động và gia đình họ. Trong trường hợp
mức giá cả thị trường biến đổi nhanh thì mức lương đó không còn có khả năng

11


đáp ứng những nhu cầu tối cần thiết nữa. Vì thế mà cuộc sống của người lao động
-


trở nên hết sức khó khăn
Khi đồng lương không tương xứng với sức lao động, Việt Nam đã phải đối mặt
với nhiều vấn đề về lao động và việc làm cũng như tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an
ninh trật tự, an toàn tại nơi làm việc, làm mất đi động lực đầu tư vào phát triển

-

nguồn nhân lực và phát triển kỹ năng.
Vẫn tồn tại một thực tế rằng, có những người lao động phải hưởng mức lương
dưới mức lương tối thiểu được quy định. Sở dĩ có thực tế đó là vì chưa có chế tài

-

đủ mạnh để buộc các doanh nghiệp thực hiện quy định về tiền lương tối thiểu.
Đối với các lao động giản đơn, lương sẽ là nguồn thu nhập chủ yếu của họ. Khi
mức lương tối thiểu được chi trả ở mức thấp dẫn đến thu nhập của họ thấp, điểu
này dẫn đến:
+ Sức khỏe và dinh dưỡng kém, vì thế mà năng lực lao động kém hoặc bị giảm
sút, hậu quả cuối cùng là năng suất lao động thấp. Điều này gây bất lợi cho nền
kinh tế của 1 quốc gia nói chung và của doanh nghiệp nói riêng
+ Mức sống thấp (bao gồm: nghèo tuyệt đối - không đủ hàng thiết yếu cho
cuộc sống, sức khỏe kém, giáo dục và các dịch vụ xã hội khác kém) dẫn đến
khả năng kém và động cơ yếu vì thế mà tự trọng thấp (cá tính, phẩm giá, tôn
trọng, danh dự được thừa nhận) -> không làm chủ được vận mệnh -> tự do

-

giới hạn ( do sự phụ thuộc, do sự lựa chọn)
Việc quy định tiền lương tối thiểu thấp khiến cho các doanh nghiệp trả lương cho
lao động thấp. Điều này khiến cho cả hai bên đều thiệt:

Người sử dụng lao động thiệt, vì xuất khẩu sản phẩm sang các quốc gia khởi
kiện giảm, sản xuất thu hẹp. Ngay cả khách hàng của các doanh nghiệp cũng
chịu thiệt, vì nếu doanh nghiệp nâng giá một chút để bù vào khoản tăng lương
thì khách hàng vẫn mua được hàng giá rẻ hơn so với khi mặt hàng đó bị đánh

-

thuế chống bán phá giá.
Hạn chế tái sản xuất sức lao động trên cả hai phương diện: thể lực và trí lực. Đây
là nguy cơ đe dọa đến sự phát triển nguồn nhân lực cả trong hiện tại lẫn trong
tương lai.

12


-

Kỷ luật lao động lỏng lẻo: người lao động thiếu trách nhiệm, không tận tâm,
không gắn bó với công việc. Đây là một trong những nguyên nhân đưa đến hiệu

-

quả và năng suất lao động thấp và có chiều hướng đi xuống.
Tạo nên sự chênh lệch, sự bất bình đẳng về thu nhập, mức sống giữa những người
có cùng trình độ, cùng năng lực làm việc, nhưng làm việc ở những thành phần
kinh tế khác nhau. Do vậy, để hạn chế dần sự bất bình đẳng đó và rút ngắn
khoảng chênh lệch về thu nhập so với từng lớp có thu nhập cao trong xã hội, một
số công chức khi có điều kiện sẽ tìm cách vòi vĩnh, nhũng nhiễu dân cư và tham
ô, ăn hối lộ. Điều này đưa đến chỗ làm suy yếu bộ máy Nhà nước và giảm niềm


-

tin của dân chúng, của các nhà đầu tư vào chính quyền.
Không phản ánh đúng sự đánh giá của xã hội đối với người lao động vì vậy trong
nhiều trường hợp đã triệt tiêu động lực sáng tạo; không kích thích người lao động
tích cực tìm kiếm những giải pháp để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả
công việc. Điều này dẫn đến nguy cơ đánh mất năng lực cạnh tranh của nền kinh

-

tế trong quá trình hội nhập.
Tạo nên sự di chuyển luồn lao động từ nơi này sang nơi khác với mức độ khó
kiểm soát, vì vậy phá vỡ định hướng, kế hoạch phân bố lực lượng lao động theo
yêu cầu phát triển của các ngành và vùng lãnh thổ; gây nên sự mất cân đối về lực

-

lượng lao động giữa các ngành và các vùng.
Do lương không đủ sống nên nhiều người phải tạo ra, tìm thêm những nguồn thu
nhập ngoài lương. Vì vậy rất khó xác định đúng thu nhập thực tế của mỗi người.
Điều này đưa đến sự phát sinh tiêu cực trên ba phương diện: thứ nhất, gây thất
thu thuế thu nhập cá nhân; thứ hai, khó truy tìm những nguồn thu nhập bất chính;
thứ ba, không đánh giá đúng sức cầu lao động hiện tại trong xã hội và khó dự
đoán mức cầu tương lai khi hoạch định chiến lược thị trường, chính sách thu nhập
và chính sách kinh tế.
- Hạn chế sự hình thành và phát triển thị trường sức lao động – một trong những

2.6.

thị trường cơ bản của nền kinh tế vận động theo cơ chế kinh tế thị trường.

Tình hình tiền lương tối thiểu hiện nay ở Việt Nam
Để có một cái nhìn tổng quát về tình hình tiền lương tối thiểu hiện nay của nước
ta, dưới đây là bảng tiền lương tối thiểu của nước ta theo các năm

13


Biểu 2.2: Sự biến động của mức lương tối thiểu chung (MLminc) qua các năm
Đơn vị tính : 1000đ
Năm

MLminc

4/93

1/97

1/00

1/01

1/03

10/05

10/06

1/08

5/09


5/10

120

144

180

210

290

350

450

540

650

730

Qua bảng số liệu ta thấy:
Thời kỳ 1993-2009, tốc độ tăng bình quân năm là 27,9%, thậm chí tăng hơn
cả mức tăng bình quân năm của GDP. Việc tăng nhanh đó là do xuất phát điểm
của mức lương tối thiểu thời gian qua là quá thấp, cần phải tăng nhanh. Hơn nữa,
từ năm 1993 đến nay, kinh tế nước ta tăng trưởng mạnh, tạo điều kiện để cải thiện
và nâng cao đời sống của người lao động, nên mức lương tối thiểu có điều kiện
tăng nhanh.

Thực hiện Đề án cải cách tiền lương, liên tục từ năm 2000 đến nay Chính
phủ đã 6 lần tăng lương tối thiểu từ 210 ngàn đồng /tháng lên 730 ngàn
đồng/tháng. Theo Tổng cục Thống kê, dựa trên tốc độ tăng lương so với tỷ lệ tăng
trưởng GDP và tốc độ trượt giá từ năm 2000 đến nay, mức tăng lương là 1,94 lần
trong khi đồng tiền mất giá tới 2 lần
Tiền lương tối thiểu hiện nay ở Việt Nam còn khá nhiều bất cập, điều đó
được thể hiện thông qua các hạn chế sau:
-

Lương tối thiểu còn chưa theo kịp thực tế:
Trong khi nhiều doanh nghiệp đã trả mức lương từ trên 1,6 triệu đồng/tháng để
giữ chân người lao động thì mức lương cao nhất trong phương án lương tối
thiểu của năm 2011 vẫn chỉ dừng lại ở 1,5 triệu đồng, mức lương này hoàn
toàn không bắt kịp tình hình thực tế.
Hiện tại trong các khu công nghiệp, mức lương trung bình đã trên 2 triệu
đồng/tháng, và đa phần các chủ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
đều không đồng tình với mức lương tối thiểu thấp như Bộ LĐTB&XH đề xuất.
Lý do, theo các doanh nghiệp là hiện nay các công ty mẹ không chấp nhận trả

14


lương cho công nhân ở Việt Nam cao khi mà lương tối thiểu được quy định
quá thấp. Điều này gây trở ngại cho họ trong việc tuyển dụng lao động vì mức
lương không thể cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Mức tiền lương tối thiểu của Nhà nước (năm 2008) chỉ đáp ứng được khoảng
60-65% nhu cầu cuộc sống của người lao động. Năm 2010, mức lương tối
thiểu của VN thấp hơn các nước trên thế giới khoảng 40%. Lương tối thiểu của
công chức chỉ có 27 đồng 3 hào (năm 1960) nhưng còn giá trị hơn lương tối
thiểu 730 ngàn đồng của năm 2010. Bởi: 27 đồng khi ấy có thể mua được 2 chỉ

vàng, trong khi 730 ngàn đồng hiện nay không mua nổi 1/3 chỉ.
-

Tiền lương tối thiểu còn ở mức cận nghèo. Khi ban hành mức lương tối thiểu, cơ
quan chức năng mới chỉ tính đến nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của NLĐ như ăn,
mặc để họ không rơi xuống đói, nghèo. Vì thế, nếu trả lương cho NLĐ bằng hoặc
nhỉnh hơn lương tối thiểu một chút cũng chỉ đủ để NLĐ duy trì sinh hoạt ở mức
cận nghèo.
Theo kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, mức
lương tối thiểu theo quy định của Nhà nước hiện nay mới chỉ đáp ứng khoảng
60-65% nhu cầu cuộc sống và thấp hơn mức lương trả trên thị trường khoảng
20%. Mức lương này không thể bảo đảm cho NLĐ bù đắp sức lao động giản
đơn, nói gì đến tích lũy để tái sản xuất sức lao động. Tiền lương tối thiểu chủ
yếu được xác định dựa trên ngân sách nhà nước. Điều này không phù hợp với
thực tế vì ngân sách nhà nước ta luôn duy trì ở mức thấp và ở tình trạng bội chi
ngân sách, điều này khiến cho cuộc sống người lao động gặp rất nhiều khó

-

khăn.
Lương tối thiểu chưa đáp ứng được nhu cầu tối thiểu. Người LĐ không thể sống
được với mức thu nhập đói nghèo ấy đã không gia nhập vào thị trường lao động
chính thức mà làm việc trong khu vực không có hợp đồng lao động. Rõ ràng, đây
là lực cản lớn cho phát triển kinh tế mà chúng ta đang phải đối mặt. Một con số
cụ thể được đưa ra, năm 2009 có tới hơn 100.000 chỗ làm việc còn trống cần LĐ,

15


trong đó 80% là LĐ phổ thông. Tuy nhiên, các trung tâm giới thiệu việc làm chỉ

đáp ứng được 20% nhu cầu trên. Cũng bởi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài bám vào LTT để trả công cho người LĐ nên cơ quan quản lý nhà nước mới
nghĩ ra chuyện quy định LTT của các doanh nghiệp này cao hơn doanh nghiệp
-

trong nước.
Tiền lương tối thiểu ở các doanh nghiệp chưa tương xứng với công sức của người
lao động. Tại Hội nghị tham vấn về phương án phân vùng và điều chỉnh mức
lương tối thiểu năm 2011 do Bộ LĐ-TB-XH tổ chức ngày 16/9 tại TP.HCM,
nhiều ý kiến tỏ ra băn khoăn với chính sách tiền lương tối thiểu như hiện nay.
Theo các đại biểu, mức lương tối thiểu rất thấp, chỉ đáp ứng một số nhu cầu căn
bản cho người lao động (NLĐ). Doanh nghiệp (DN) dựa trên mức lương này để

-

chi trả cho NLĐ là không tương xứng với sức lao động mà công nhân đã bỏ ra.
Tiền lương tối thiểu đang bị áp dụng 1cách méo mó. Hiện nay, mức lương tối
thiểu mà Chính phủ phân theo bốn vùng là mức sàn để doanh nghiệp chi trả tiền
công cho lao động phổ thông, giản đơn, chưa qua đào tạo; còn đối với những lao
động chất xám, tiền lương là sự thỏa thuận giữa họ với chủ doanh nghiệp. Tuy
nhiên tiền lương tối thiểu đang bị áp dụng một cách méo mó, các doanh nghiệp
vẫn lấy đó để thực hiện chi trả cho người lao động ở tất cả các lĩnh vực và ở mọi
trình độ ngành nghề, kể cả lao động có chuyên môn.
Thực tế mức lương tối thiểu rất thấp, nếu người lao động sống với mức thu nhập
đó thì họ chỉ có thể bảo đảm được một số nhu cầu thiết yếu, thiếu tích lũy do đó
không kích thích được sức tiêu dùng trong nước cũng như việc quay vòng nguồn

-

vốn cho sản xuất

Lương tối thiểu của Việt Nam thấp hơn các nước khác trong khu vực khoảng
40%. Trong khi đó nhiều doanh nghiệp không trả lương theo năng suất, hiệu quả,
chất lượng công việc, mà lấy mức lương tối thiểu làm gốc tham chiếu để trả
lương cho NLĐ phổ thông. Chế tài với người sử dụng lao động cũng chưa
nghiêm nên khi vi phạm luật, họ cũng không bị xử phạt. Lao động giá rẻ được coi
là một trong những lợi thế của Việt Nam để thu hút các nhà đầu tư. Nhưng ngược

16


lại, mức lương không thỏa đáng dẫn đến quan hệ lao động bất ổn, gây e ngại cho
các nhà đầu tư.
2.7. Kết luận về chính sách tiền lương nói chung và tiền lương tối thiểu nói riêng
- Dù đã qua bốn lần cải cách, nhưng đến nay chính sách tiền lương vẫn còn nhiều
bất cập. Ngoài vấn đề mức lương tối thiểu thấp và phân biệt giữa các loại hình
doanh nghiệp, còn có vấn đề tiền lương vẫn mang nặng tính bình quân, chưa thực
sự gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, chưa trở thành
-

nguồn thu nhập chính của người lao động
Vấn đề lương tối thiểu thấp và phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp.
Hiện nay, việc duy trì 3 mức lương tối thiểu giữa 3 loại hình doanh nghiệp đã thể
hiện sự phân biệt đối xử. Việc khống chế mức lương trong doanh nghiệp Nhà
nước, quy định về thang bảng lương cũng thể hiện sự bảo hộ của Nhà nước.

-

Hiện lương tối thiểu của Việt Nam có quá nhiều ràng buộc với hệ thống an sinh.
Nếu như ở các nước, lương tối thiểu gắn với yếu tố lạm phát, thường được điều
chỉnh kịp thời dựa trên những thay đổi về chỉ số giá sinh hoạt thì ở Việt Nam,

lương tối thiểu còn là cơ sở để điều chỉnh lương hưu, trợ cấp, bảo hiểm xã hội, trợ
cấp thôi việc. Đây chính là gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.

-

Tiền lương tối thiểu được quy định còn quá thấp dẫn đến tiền lương của người lao
động thấp chính điều này khiến cho tiền lương không có tác dụng kích thích
người lao động.

2.8.

Yêu cầu đối với tiền lương tối thiểu hiện nay ở Việt Nam để theo kịp và phù hợp
với xu thế hội nhập WTO
-

Thứ nhất là, tiền lương phải theo định hướng thị trường, nghĩa là tiền lương phải
đủ cho người lao động sống, phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu trên thị trường lao
động và phải dựa vào sự thỏa thuận, đối thoại qua thỏa ước lao động tập thể. Đó
là điều kiện không thể thiếu được.

-

Thứ hai là, không được vi phạm nguyên tắc phân biệt đối xử về tiền lương. Nghĩa
là các loại hình doanh nghiệp phải có quan hệ rất bình đẳng với nhau về trả

17


lương. Hiện nay, ở Việt Nam, mỗi loại hình doanh nghiệp có hình thức trả lương
khác nhau. Các doanh nghiệp Nhà nước đang có cơ chế trả lương riêng và đang bị

gò bó bởi hệ thống thang, bảng lương rất phức tạp.Trong khi đó, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân chỉ phải tuân thủ quy định về tiền
lương tối thiểu. Muốn trả cao hơn bao nhiêu là tùy thỏa thuận của người lao động
và chủ doanh nghiệp
Phần 3: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN
LƯƠNG, TĂNG CƯỜNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
3.1.

Giải pháp hoàn thiện chính sách tiền lương
-

Thường xuyên xem xét để có sự thay đổi tiền lương tối thiểu cho theo kịp với
thực tế. Đồng thời cũng cần thường xuyên nghiên cứu để dỡ bỏ những bất hợp

-

lý còn tồn tại trong chính sách tiền lương.
Quan tâm tới bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội để cuộc sống người lao động

-

được cải thiện và ổn định hơn.
Cần siết chặt công tác quản lý thị trường để đảm bảo về giá cả và chất lượng.
Từ đó, cuộc sống người dân sẽ bớt gặp khó khăn hơn với đồng lương ít ỏi mà

-

họ nhận được từ người chủ sử dụng lao động.
Cần thống nhất mức lương tối thiểu để đảm bảo công bằng. Chính sách tiền
lương tối thiểu hiện nay còn phân biệt đối xử giữa các thành phần doanh

nghiệp (quốc doanh - dân doanh - FDI), giữa khu vực hành chính công và khu
vực tư nhân. Một mặt, điều này tạo nên sự bất bình đẳng đối với người làm
công ăn lương khi xác định mức sàn tiền công trả cho người lao động. Mặt
khác, do mức lương tối thiểu áp dụng khác nhau, làm cho chi phí đầu vào giữa
các doanh nghiệp theo từng loại hình cũng khác nhau, tạo nên sự bất bình đẳng

-

trong kinh doanh.
Xem xét lại thang bảng lương và phụ cấp của chế độ tiền lương hiện nay không
chỉ với khu vực hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang mà cả khu vực sản
xuất kinh doanh

18


-

Tách dần tiền lương tối thiểu ra khỏi hệ thống chính sách xã hội. Hiện nay,
việc cải cách tiền lương đang gặp nhiều khó khăn vì thường gắn chặt với tăng
lương tối thiểu, song việc tăng lương tối thiểu lại bị hạn chế bởi tiền lương tối
thiểu còn gắn chặt với các chính sách xã hội. Mỗi lần tăng lương tối thiểu lại
phải tăng các khoản trợ cấp liên quan đến các đối tượng xã hội. Vậy, phải làm
thế nào để hai yếu tố- tiền lương tối thiểu và các trợ cấp xã hội, hay hai chính
sách- chính sách tiền lương và chính sách xã hội vốn đang dính chặt vào nhau
đó có thể tách ra tương đối độc lập với nhau để chúng có điều kiện cùng phát

-

triển.

Bộ luật lao động cần sửa đổi có quy định chặt chẽ hơn về tiền lương và việc

-

thực thi pháp luật hiện hành.
Khi thực hiện cải cách tiền lương thì phải đảm bảo tốc độ tăng tiền lương
nhanh hơn tốc độ lạm phát, có như vậy thì cuộc sống của người lao động mới

-

được đảm bảo ở mức tối cần thiết
Cải cách tiền lương cần được tiến hành theo hướng giảm dần các yếu tố can
thiệp của Nhà nước và tăng cường sự tự chủ của các doanh nghiệp trong việc
trả lương. Điều này có nghĩa là công đoàn phải nâng cao vai trò hiệp thương và
bản thân người lao động phải tự nâng cao khả năng đàm phán của mình.

3.2.

Giải pháp phát triển kinh tế
-

Phục hồi kinh tế, chuyển dịch cơ cấu và nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Điều hành chính sách tài chính, tiền tệ linh hoạt, thận trọng để bảo đảm ổn định

-

kinh tế vĩ mô, kiểm soát nhập siêu và ngăn chặn lạm phát cao trở lại.
Đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, khoa học, công

-


nghệ.
Tạo chuyển biến trong công tác chăm sóc sức khỏe, phát triển văn hóa, nâng

-

cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân.
Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.
Tăng cường công tác bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với
biến đổi khí hậu.

19


-

Mở rộng quan hệ quốc tế, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập
kinh tế quốc tế, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự an toàn toàn

-

xã hội.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; đẩy mạnh cải cách hành chính,

-

phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương phù hợp với thực tiễn Việt Nam,
chống bao cấp, giảm bớt bình quân, thực hiện tốt hơn nguyên tắc phân phối
theo lao động và theo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng cơ quan,


-

đơn vị, doanh nghiệp
Từng bước tách rõ giữa hành chính với hoạt động sự nghiệp dịch vụ công,
nâng thêm mức lương trung bình và các mức lương thấp; khuyến khích công
chức phát triển chuyên môn, nghiệp vụ, kiểm soát thu nhập ngoài lương để tiền
lương trở thành thu nhập chính và cơ bản đủ sống cho cán bộ, công chức; hình
thành cơ chế sử dụng tất cả các nguồn lực tài chính trong từng cơ quan, đơn vị

-

và từng cấp ngân sách để trả lương.
Cải cách tiền lương và trợ cấp xã hội nhằm thực hiện tốt hơn công bằng xã hội,
tách rõ giữa chính sách tiền lương với chính sách bảo hiểm xã hội và trợ cấp
ưu đãi người có công, từng bước thực hiện nguyên tắc đóng và thưởng bảo
hiểm xã hội, từng bước đảm bảo đời sống của người có công bằng hoặc cao
hơn mức sống trung bình của xã hội.

KẾT LUẬN
Thông qua việc nghiên cứu về chính sách tiền lương ta thấy đây là một trong những
chính sách có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một đất
nước. Nếu xây dựng được một chính sách tiền lương hợp lý, có căn cứ khoa học rõ ràng
thì nó sẽ phát huy rất tốt vai trò của mình nhờ thế mà nền kinh tế - xã hội có điều kiện để
phát triển tốt. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ở Việt Nam chính sách tiền lương được xây

20


dựng chưa thực sự có căn cứ khoa học hợp lý, bản thân nó còn tồn tại nhiều hạn chế nên

trong quá trình áp dụng đã nảy sinh rất nhiều bất cập, điều này khiến cho cuộc sống của
người lao động gặp nhiều khó khăn vì đây là chính sách tác động trực tiếp tới người lao
động. Như đã biết,con người là trung tâm của mọi quá trình sản xuất nhưng sức lao động
của họ chưa được đánh giá đúng mức thông qua việc trả lương để từ đó họ có thể phát
huy hết năng lực của bản thân đối với công việc. Vì thế mà nền kinh tế - xã hội của chúng
ta chưa thể phát triển tốt, đúng tầm nội lực. Từ thực tế đó, đòi hỏi chúng ta phải tiến hành
đổi mới chính sách tiền lương sao cho phù hợp với tình hình phát triền kinh tế - xã hội
của đất nước trong thời gian sớm nhất có thể để chính sách tiền lương được thực sự phát
huy vai trò tích cực của nó đối với nền kinh tế - xã hội.

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các loại sách:
1. Michael P.Todaro, Kinh tế học cho thế giới thứ ba. “Chương 3, chương 6, chương
8”, NXB Giáo dục, 1998 (Tài liệu dịch)

21


2. PGS. TS Trần Xuân Cầu( chủ biên) & PGS. TS Mai Quốc Chánh. Kinh tế nguồn
nhân lực. “Chương 14, chương 15”, NXB Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội
năm 2008.
3. E. Wayne Naiger. Kinh tế học của các nước đang phát triển. “Chương 2, Chương
3, chương 4, chương 6, chương 15”, NXB Thống kê, 1998 (Tài liệu dịch)
Các trang web:
4. />5. />7.
8.
9.

suc-cua-nguoi-lao-dong/47/4870399.epi
/> /> /> />

can-ngheo-tiem-an-nhieu-nguy-co.htm
10. />11. />%E1%BB%83u_t%E1%BA%A1i_Vi%E1%BB%87t_Nam
12. />13. />14. />15. />cid=27078841#comment27078841

22


23



×