Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Giải quyết tình huống trong luật sở hữu trí tuệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.72 KB, 8 trang )

Giải quyết tình huống trong Luật sở hữu trí tuệ
Chương 1: Lời mở đầu
Ngày 11-1-2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế
giới WTO. Điều này mở ra cơ hội to lớn trong việc phát triển kinh tế đất nước nhưng chúng ta
phải đối mặt với nhiều thách thức đặc biệt là tuân thủ các cam kết quốc tế về bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ. Việc bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ trước hết là do nhu cầu của sự phát triển và giao lưu
quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá về kinh tế, thương mại diễn ra ngày
càng sôi động. Bảo hộ quốc tế quyền sở hữu trí tuệ là một hoạt động có tính tất yếu, khách quan,
không ngừng được phát triển, thể hiện trên hai hướng: mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo
hộ bằng các thiết chế quốc tế và không ngừng chi tiết hoá nội dung bảo hộ.
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, đặc biệt là sự phát triển của nền kinh tế thị
trường và thương mại quốc tế, các nhãn hiệu và tên thương mại (một tài sản kinh doanh có giá trị
đặc biệt) ngày càng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của chủ thể kinh
doanh. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh toàn cầu, vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ trở nên đặc biệt quan trọng và trở thành mối quan tâm hàng đầu trong quan hệ kinh tế quốc
tế. Từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, chống sản xuất, buôn bán hàng giả ngày càng được quan tâm
hơn. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, tình trạng xâm phạm sở hữu trí tuệ ở nước ta hiện nay vẫn
khá phổ biến và ngày càng phức tạp, đòi hỏi phải tiếp tục có những giải pháp mạnh mẽ và có hiệu
quả hơn.Doanh nghiệp phải làm gì để bảo vệ và phát triển thương hiệu Việt Nam khi Việt Nam là
thành viên chính thức của WTO đang là vấn đề gây ra nhiều tranh luận trong thời gian gần đây.
Trên cơ sở phân tích mặt lý luận về SHTT, nhóm 11 sẽ cố gắng giải quyết hợp lý các tình huống để
các bạn hiểu rõ hơn về Luật SHTT. Do thời gian có hạn, khả năng phân tích tổng hợp thông tin
còn hạn chế nên bài viết của nhóm sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong cô giáo và các
bạn thông cảm, đóng góp ý kiến cho bài thảo luận của nhóm 11 thêm hoàn chỉnh.
Chương 2: Giải quyết tình huống
Câu 1: Ông A là tác giả của tác phẩm kiến trúc “ Vườn nghệ thuật Việt Nam” tác phẩm được gửi
chọn tham dự triển lãm quốc tế tại Trung Quốc và đoạt huy chương vàng cùng tiền thưởng. Sau
khi trở về nước , tác phẩm trên đã được công ty B thi công tại khu vui chơi V với sự đồng ý của
ông A. Sau khi khu vui chơi đi vào hoạt động, công ty B cũng bỏ ra nhiều chi phí để quảng cáo



cho khu vườn trở thành một điểm tham quan hấp dẫn của du khách thành phố Hồ Chí Minh. Ông
A yêu cầu công ty B phải trả thù lao quyền tác giả cho ông là 15% doanh số bán vé. Công ty B từ
chối, vì cho rằng hai bên chưa có thỏa thuận về tiền thù lao. Anh ( chị) giải quyết vướng mắc trên
như thế nào?
Trả lời:
1. Ông A được pháp luật bảo hộ quyền tác giả:
1.1 Có thể chứng minh được một cách dễ dàng ông A là tác giả của tác phẩm kiến trúc Vườn nghệ
thuật Việt Nam bởi ông đã đạt giải thưởng lớn với tác phẩm này.
1.2 Tác phẩm Vườn nghệ thuật Việt Nam thuộc loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả:
Tác phẩm này thuộc diện tác phẩm kiến trúc và đã được thể hiện dưới dạng vật chất nên ông A
được bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm này (theo khoản 1 Điều 6 luật sở hữu trí tuệ và tiết i
khoản 1 Điều 14 luật sở hữu trí tuệ được sửa đổi bổ sung bởi luật số 36/2009/QH12 – Luật SHTT)
1.3 Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Theo tiết b khoản 1 Điều 27 Luật SHTT thì tác phẩm kiến trúc của ông A có thời hạn bảo hộ là
suốt cuộc đời ông A và 50 năm tiếp theo năm ông A mất. Như vậy quyền tài sản của ông A đối với
tác phẩm này vẫn trong thời gian được bảo hộ.
2. Ông A có quyền được hưởng thù lao quyền tác giả từ công ty B:
2.1 Theo khoản 3 điều 20 luật SHTT thì khi công ty B khai thác, sử dụng tác phẩm Vườn nghệ
thuật Việt Nam của ông A, quảng cáo, thu lợi nhuận, phải xin phép và trả thù lao quyền tác giả
cho chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm đó.
Mặt khác, việc công ty B sử dụng, khai thác tác phẩm Vườn nghệ thuật Việt Nam không nằm
trong các trường hợp “sử dụng sản phẩm đã được công bố không phải xin phép, không phải trả
tiền nhuận bút, thù lao” (quy định tại Điều 25 luật SHTT) mà nhằm mục đích thương mại nên
công ty B phải trả thù lao quyền tác giả cho ông A.
Công ty B nêu lý do chưa có thỏa thuận nào về tiền thù lao vì thế mà không trả thù lao cho ông A
thì công ty B đã xâm phạm quyền tác giả và buộc phải trả một khoản thù lao cho tác giả của tác
phẩm kiến trúc đó.



2.2 Khoản thù lao mà tác giả được nhận theo luật SHTT quy định là tùy thuộc thỏa thuận giữa hai
bên tác giả và công ty B chứ không nhất thiết là 15% doanh số vé.
Ông A đưa ra yêu cầu ông cho là phù hợp với mức thù lao ông xứng đáng nhận được là 15% doanh
số vé. Công ty B buộc phải xem xét đề nghị đó và thỏa thuận với ông A mức thù lao công ty chấp
nhận được, hai bên phải ra được kết quả làm hài lòng nhất chứ công ty B không có quyền từ chối
trả thù lao.
Nếu hai bên không thể thỏa thuận sẽ phải nhờ tới sự can thiệp của cơ quan chức năng ấn định
mức thù lao.
Câu 2: Đài truyền hình Việt Nam (VTV) là chủ sở hữu tại Việt Nam của những nhãn hiệu dịch vụ
“ Đường lên đỉnh Olympia” ( nhóm 41- dịch vụ giải trí). Bộ giáo dục và Đào tạo tổ chức cuộc thi
Olympic Mac-LeNin. VTV yêu cầu Bộ giáo dục và Đào tạo phảo đổi tên cuộc thi để tránh nhầm
lẫn với nhãn hiệu “Olympia” của mình. Bộ GD&ĐT cho rằng tên gọi hai cuộc thi là khác nhau, vả
lại Omlympic là tên gọi phổ biến nên không thể được bảo hộ dưới dạng NHHH. Anh ( chị) đồng ý
với ý kiến của ai?
Trả lời:
Trong tình huống trên nhóm đồng ý với ý kiến của Bộ GD- ĐT
1. Hai tên gọi hai cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia” và “ Olympic Mac- Lenin” là
khác nhau và không dễ gây nhầm lẫn.
Olympia là tên một thành phố của Hi Lạp ngày nay, Olympia trước đây là nơi diễn ra thế vận hội
Olympic cổ đại. Tên gọi Olympic là tên phiên âm tiếng việt của Olympiad (có từ cách đây gần
3000 năm) bắt nguồn từ cuộc tranh tài thể thao giữa các quốc gia toàn thế giới và dần dần phổ
biến và mở rộng sang các cuộc thi về các môn khoa học ngoài thể thao mang tầm quốc tế (có sự
tham gia của rất nhiều quốc gia trên thế giới) như: IMO (Olympic toán học quốc tế), IPhO
(Olympic vật lý quốc tế), IChO (Olympic hóa học quốc tế),…. Việc sử dụng từ Olympic trong tên
cuộc thi của Bộ GD& ĐT nhẳm thể hiện tinh thần của thi đấu và cũng nhằm để công bố là đây là 1
cuộc thi về kiến thức triết học Mac- Lenin. Còn chương trình truyền hình “ Đường lên đỉnh
Olympia” thể hiện sự vinh quang khi vượt qua bao khó khăn để chiến thắng của người chơi, mượn
ý nghĩa của đỉnh Olympia trong thần thoai Hy lạp trước để chỉ nơi đạt đến vinh quang. => tính
chất hai cuộc thi là khác nhau và tên gọi cũng khác biệt.
2. Olympic là tên gọi phổ biến



Tên gọi Olympic đã có từ cách đây rất lâu (gần 3000 năm), được biết đến rộng rãi nên biểu tượng
cũng như tên gọi Olympic thuộc về tất cả mọi người và được sử dụng rộng rãi, thương xuyên. Hiện
nay, mọi cuộc thi có tính mở rộng, người ta có thể sử dụng từ Olympic kèm tên lĩnh vực thi làm
tên gọi cuộc thi.
2.1 Theo tiết b khoản 2 điều 74 luật SHTT, tên Olympic do quá thông dụng nên được coi là nhãn
hiệu không có khả năng phân biệt
2.2 Theo khoản 2 điều 72 luât SHTT, tên Olymic không được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu hàng
hóa bởi không có khả năng phân biệt.
2.3 Mặt khác, theo khoản 2 điều 73 luật SHTT, những dấu hiệu không được bảo hộ với danh
nghĩa nhãn hiệu là “dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên viết tắt, tên đầy
đủ của tổ chức quốc tế nếu không được tổ chức đó cho phép. Từ Olympic trùng với tên Ủy ban
quốc tế về thể thao nên sẽ không được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu.
=> Tên gọi cuộc thi “Olympic Mac- Lê nin” sẽ không được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu hàng hóa
mà bất kỳ cá nhân tổ chức nào cũng có thể sử dụng từ Olympic, hơn nữa tên gọi hai cuộc thi là
khác nhau như trên đã giải thích nên việc VTV yêu cầu bộ GD&ĐT đổi tên cuộc thi để tránh nhầm
lẫn với nhãn hiệu Olympia của mình là không hợp lý và không được pháp luật chấp nhận.
Câu 3: Kỹ sư Thành đã nghĩ ra một loại đầu bút bi đặc biệt khiến bi trơn hơn và ra mực đều hơn.
Anh đã đăng ký bảo hộ phát minh của mình. Điểm mấu chốt của phát minh này là tạo một
khoảng trống giữa viên bi và đầu bút bi. Anh Mạnh cho rằng việc thông khí hai đầu của một chất
lỏng ( mực) khiến chất lỏng chảy đều hơn là chuyện trong nghề ai cũng biết. Hơn nữa, anh Thành
đã thông báo về phát minh của mình trước khi đăng ký bảo hộ. Vì vậy phát minh của anh Thành
không còn tính mới đối với thế giới nữa và không còn khả năng được bảo hộ. Anh Mạnh có lý
không? Tại sao?
Trả lời:
1. Về tình huống
Theo nhóm, phát hiện của anh Thành là một giải pháp kỹ thuật, không nên gọi là phát minh như
trong tình huống, bởi phát minh là từ chỉ việc tìm ra những sự vật, hiện tượng, quy luật có sẵn
trong tự nhiên nhưng trước đó con người chưa biết tới. Còn giải pháp kỹ thuật là sản phẩm sáng

tạo của con người, không hề có sẵn trong tự nhiên. Vì vậy mà loại đầu bút bi đặc biệt này- một
thành quả lao động sáng tạo trí tuệ được coi là một giải pháp kỹ thuật. Chúng ta đi xem xét xem


giải pháp này có được coi là một sáng chế không và có được bảo hộ dưới dạng sáng chế hay
không?
2. Sáng tạo về đầu bút bi đặc biệt của anh Thành NẰM NGOÀI các đối tượng không
được bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế
Theo điều 59 luật SHTT về đối tượng không dược bảo hộ với danh nghĩa sáng chế.
3.Giải pháp của anh Thành không đảm bảo có trình độ sáng tạo, không được bảo hộ
dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế
3.1 Anh Mạnh có lý khi cho rằng việc thông khí hai đầu của một chất lỏng khiến chất lỏng chảy
đều hơn là chuyện trong nghề ai cũng biết. Theo quy định của điều 61 luật SHTT có thể thấy do
phát hiện của anh Thành dựa trên giải pháp kỹ thuật có sẵn trước đó mà cải tiến đi làm ưu việt
hơn, hiệu quả hơn chứ chưa phải là một bước tiến sáng tạo vượt trội hơn hẳn so với trình độ kỹ
thuật hiện tại và người trình độ trung bình trong nghề ai cũng có thể dễ dàng biết được nên giải
pháp kỹ thuật của anh Thành về đầu bút bi đặc biệt không được coi là có trình độ sáng tạo.
3.2 Điều này liên quan đến điều kiện bảo hộ đối với sáng chế (điều 58 luật SHTT). Trong đó,
sáng chế phải đảm bảo có trình độ sáng tạo, có tính mới và khả năng áp dụng công nghiệp mới
được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế.
=> Giải pháp kỹ thuật về đầu bút bi đặc biệt của anh Thành không được bảo hộ dưới hình thức cấp
bằng độc quyền sáng chế do không đảm bảo có trình độ sáng tạo.
4. Xem xét tính mới của giải pháp của anh Thành
Theo như lời anh Mạnh thì anh Thành đã thông báo về đầu bút bi đặc biệt này trước khi nộp đơn
xin bảo hộ sáng chế
4.1 Trường hợp anh Thành thông báo cho một số người bạn có hạn được biết và họ có nghĩa vụ
giữ bí mật
Theo khoản 2 điều 60 luật SHTT, giải pháp kỹ thuật này của anh Thành được coi là chưa bị bộc lộ
công khai và vẫn đảm bảo tính mới. Thêm vào đó, đầu bút bi đó có khả năng áp dụng công nghiệp
(điều 62 luật SHTT) nên theo khoản 2 điều 58 luật SHTT thì giải pháp kỹ thuật này được bảo hộ

dưới hình thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích


4.2 Trường hợp anh Thành công bố về giải pháp của mình dưới dạng báo cáo khoa học hoặc
trưng bày tại cuộc triển lãm quốc gia của Việt Nam hoặc tại triển lãm quốc tế chính thức hoặc
được thừa nhận là chính thức đồng thời đơn đăng ký bảo hộ được nộp trong thời hạn 6 tháng kể
từ ngày công bố
Theo tiết b, c khoản 3 điều 60 luật SHTT thì trong trường hợp này đàu bút bi đặc biệt ,mà anh
Thành sáng tạo ra vẫn đảm bảo tính mới đồng thời đảm bảo có khả năng áp dụng công nghiệp
(điều 62 luật SHTT) nên được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích
(khoản 2 điều 58 luật SHTT)
4.3 Việc anh Thành thông báo về đầu bút bi đặc biệt của mình nằm ngoài 2 trường hợp nêu trên
Giải pháp kỹ thuật đó không đảm bảo tính mới nên sẽ không được bảo hộ sáng chế.
5. Trường hợp anh Thành đã gửi đơn xin cấp bằng bảo hộ sáng chế cho giải pháp của
mình tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp.
Sau khi cơ quan có thẩm quyền thẩm định và đánh giá thấy giải pháp đó không đủ điều kiện bảo
hộ dưới hình thức sáng chế nhưng vẫn đủ điều kiện được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc
quyền giải pháp hữu ích (khoản 2 điều 58 luật SHTT), thì cơ quan có thẩm quyền sẽ trả lại đơn
yêu cầu cấp bằng sáng chế và kèm theo là bản hướng dẫn đăng kí cấp bằng độc quyền giải pháp
hữu ích cho anh Thành.
Câu 4: Xưa nay người ta vẫn dùng phương pháp trộn bê tông ướt giữa xi măng, sỏi và cát. Độ
đông cứng của bê tông được tăng cường bởi chất phụ gia X theo tỷ lệ k%. Một hôm do đãng trí
anh Bình pha quá nhiều phụ gia X, đồng thời lại cho sỏi vào trước khi cho phụ gia và phát hiện ra
rằng do sỏi tạo sẵn các kẽ hở trong hợp chất bê tông trước khi trộn, đồng thời tỷ lệ phụ gia thích
hợp hơn, nên bê tông đông cứng nhanh hơn hẳn, rất thích hợp cho công trình hầm hay trụ cầu.
Anh Bình xin đăng ký bảo hộ phát minh sáng chế, song mọi người can rằng việc tạo kẽ hở làm
hỗn hợp bê tông mau đông là chuyện hiển nhiên, trong nghề xây dựng ai cũng biết, vì thế anh sẽ
không đủ tiêu chuẩn để được bảo hộ. Họ có đúng không?
Trả lời:
1.Việc tạo kẽ hở làm hỗn hợp bê tông mau đông của anh Bình KHÔNG thuộc đối

tượng không được bảo hộ dưới danh nghĩa sáng chế
Theo điều 59 luật SHTT về đối tượng không dược bảo hộ với danh nghĩa sáng chế.
2. Giải pháp của anh Bình có khả năng áp dụng công nghiệp


Theo điều 62 luật SHTT về khả năng áp dụng công nghiệp của sáng chế.
3. Giải pháp tạo kẽ hở làm hỗn hợp bê tông mau đông của anh Bình không đáp ứng
điều kiện có trình độ sáng tạo nên không đủ tiêu chuẩn được bảo hộ độc quyền sáng
chế
3.1. Theo điều 61 luật SHTT quy định thì sáng chế có trình độ sáng tạo phải không thể được tạo ra
một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng. Việc tạo kẽ
hở làm hỗn hợp bê tông mau đông chuyện hiển nhiên, trong nghề xây dựng ai cũng biết cho nên
giải pháp đó của anh Bình được cho là không đảm bảo trình độ sáng tạo.
3.2. Những người đóng góp ý kiến cho anh Bình có lý khi nói rằng anh sẽ không đủ tiêu chuẩn để
được bảo hộ sáng chế bởi giải pháp của anh không đảm bảo có trình độ sáng tạo (theo khoản 1
điều 58 luật SHTT).
4.

Xét tính mới của giải pháp anh Bình đưa ra.

Trường hợp giải pháp kỹ thuật này chưa được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng
văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn đăng
ký bảo hộ hoặc trước ngày ưu tiên trong trường hợp đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên.
Giải pháp của anh Bình được coi là có tính mới (khoản 1 điều 60 luật SHTT). Mặc dù anh không
được cấp bằng độc quyền sáng chế nhưng được cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích. (khoản 2
điều 58 luật SHTT).
4.1. Trường hợp có một số người có hạn đã biết và có nghĩa vụ giữ bí mật về giải pháp này. Theo
khoản 1, 2 điều 60 luật SHTT thì việc tạo kẽ hở làm hỗn hợp bê tông mau đông vẫn được coi là có
tính mới. Tương tự như ý trên, anh Bình sẽ được cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích
4.2. Trường hợp giải pháp anh Bình có được đã được công bố trước ngày nộp đơn đăng ký bảo hộ.

– Nếu đơn đăng ký được nộp trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày công bố và việc công bố thuộc các
hình thức nêu trong tiết a, b, c khoản 3 điều 60 luật SHTT thì giải pháp anh Bình đưa ra vẫn đảm
bảo có tính mới và tương tự vẫn được cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích.
– Ngoài các trường hợp nêu trên, giải pháp tạo kẽ hở làm bê tông mau khổ của anh Bình sẽ không
đảm bảo tính mới và không được bảo hộ độc quyền cả cho sáng chế lẫn giải pháp hữu ích.
Chương 3: Kết luận
Nhìn chung, hầu hết các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về tiêu chuẩn bảo hộ các đối
tượng SHTT đều phù hợp với quy định của Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến thương mại


của quyền SHTT (TRIPS). Như vậy, khung pháp lý về SHTT của Việt Nam đã tương đồng với các
quốc gia thành viên WTO, tuy nhiên, tính hiệu quả trong thực thi thì còn gặp nhiều hạn chế. Từ
những tình huống nêu trên, có thể thấy ngay là loại hình bảo hộ nào cũng sẽ có những bất cập đặc
thù. Vấn đề là chúng ta phải nắm vững và vận dụng linh hoạt những quy định để được đảm bảo
vững chắc, ổn định quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cần chú trọng đến vấn đề bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ trước khi quá muộn.



×