Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.44 KB, 34 trang )

Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi ra nhập WTO - Tổ chức Thương mại Quốc tế, hội nhập vào thị
trường thế giới, nền kinh tế Việt Nam đã có những biến chuyển lớn. Bộ mặt
đầu tư đã có những thay đổi nhất định. Nhận thức được tầm quan trọng của
đầu tư trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và các chính sách của chính phủ
trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài và kích thích đầu tư
trong nước, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện chính sách kinh tế mở cửa, hội
nhập quốc tế, tiến hành hàng loạt các biện pháp cải cách,đổi mới nền kinh tế
quốc dân để đưa Việt Nam xây dựng nên kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Trong quá trình đổi mới đó,
Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn
chế phát sinh.
Vấn đề đặt ra là để thúc đẩy hoạt động đầu tư trong điều kiện tiềm lực
về cơ sở hạ tầng,chính sách thu hút đầu tư còn nhiều hạn chế,cần phải xây
dựng một hệ thống các chính sách hỗ trợ đầu tư đồng bộ thống nhất.Việc làm
thế nào để kích cầu đầu tư và sử dụng các khoản chi tiêu đầu tư sao cho hợp lý
là một vấn đề còn bộc lộ nhiều hạn chế chưa phù hợp đối với yêu cầu đầu tư
của Việt Nam.
Do vậy,việc nghiên cứu đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu
tư và giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam” có tính cấp thiết
cao,đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Đồng thời giúp cho các sinh viên làm sáng
tỏ thêm những vấn đề chưa hiểu rõ hoặc chưa nắm bắt hết về nội dung môn
học, từ đó có cái nhìn va suy nghĩ rõ hơn về tình hình đầu tư của nước ta hiện
nay. Cùng nhau đánh giá và tìm ra hướng đi mới cho hoạt động đầu tư ở nước
ta.
2. Phương pháp nghiên cứu


Tìm hiểu, đánh giá, phân tích và nghiên cứu thông qua sách báo, qua
mạng Internet va qua tham khảo ý kiến cua thầy cô, từ đó rút ra những kinh
nghiệm cho bản thân.
3. Kết cấu của đề tài
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 1


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

CHƯƠNG I: Cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu.
CHƯƠNG II: Thực trạng về các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư
và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam
CHƯƠNG III: Giải pháp nhằm tăng cường kích cầu đầu tư ở Việt Nam

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
CHI TIÊU ĐẦU TƯ VÀ GIẢI THÍCH
TÌNH HÌNH KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM
I. Một số khái niệm cơ bản
• Đầu tư
Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào một hoạt động nào
đó nhằm đem lại lợi ích cho chủ đầu tư trong tương lai.
• Các nguồn lực đầu tư
Nguồn lực đầu tư bao gồm:Vốn, đất đai, tài nguyên.
Cần chú ý :Vốn khác tiền ở chỗ:
- Vốn phải luôn được gắn với chủ sở hữu
- Vốn phải được tích tụ đủ một lượng nhất định thì mới đem đi đầu tư được
- Vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản
- Vốn được biểu hiện bằng tiền và phải vận động sinh lời

- Vốn có giá trị về mặt thời gian
• Chi tiêu đầu tư
Chi tiêu đầu tư là quá trình nhà đầu tư quyết định thời điểm thực hiện
đầu tư và kết hợp các nguồn lực với tỉ lệ như thế nào để quá trình thực hiện
đầu tư đạt được kết quả cao nhất.
II. Một số nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư
• Lợi nhuận kỳ vọng
Là phần lợi ích (khoản lợi nhuận) mà nhà đầu tư mong muốn có được
trong tương lai sau khi kết thúc quá trình thực hiện và vận hành đầu tư. Những
kết quả này có thể là sự tăng thêm các tài sản chính (tiền vốn), tài sản trí tuệ
(trình độ văn hoá, chuyên môn, quản lý, khoa học..),tài sản vật chất (nhà máy,
đường xá,bệnh viện,trường học) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc
với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 2


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

Theo lí thuyết của Keynes, lợi nhuận kì vọng là 1 trong 2 nhân tố cơ
bản ảnh hưởng đến quyết đầu tư của doanh nghiệp. Nếu lợi nhuận kì vọng lớn,
nhà đầu tư sẵn sàng bỏ vốn để kinh doanh. Lợi nhuận cao sẽ kích thích nhu
cầu đầu tư, ngược lại nếu lợi nhuận kì vọng thấp và nhỏ hơn tiền lãi thu được
khi gửi tiền vào các ngân hàng thì các nhà đầu tư sẽ không bỏ tiền vào sản
xuất kinh doanh mà thay vào đó, họ gửi tiền vào ngân hàng.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận kì vọng
Cung – cầu hàng hóa
Trong các giai đoạn của 1 dự án thì giai đoạn chuẩn bị đầu tư được xem
là khâu quan trọng nhất. Việc xác định cung cầu hàng hóa cho sản phẩm của

dự án có vai trò rất lớn ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư .
Mức độ rủi ro
Một trong những đặc điểm của đầu tư phát triển là thời kì đầu tư kéo dài,
nguồn vốn khá lớn, nghĩa là kèm theo với mức độ rủi ro cao. Từ đó nó ảnh
hưởng lớn đến yếu tố lợi nhuận kì vọng. Phạm vi ảnh hưởng của rủi ro là rất
rộng, ví dụ như những thay đổi không lường trước được của giá cả, công nghệ,
… Vấn đề là khả năng quản trị rủi ro của doanh nghiệp như thế nào, mức độ
phát triển của các dịch vụ hạn chế rủi ro (bảo hiểm, tín dung,..) và quan trọng
nhất là sự ổn định của môi trường đầu tư cả về kinh tế, xã hội và chính trị.
Các nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất
Với mỗi dự án, khi nhà đầu tư quyết định bỏ vốn đầu tư thì họ phải xác
định được các yêu tố đảm bảo cho quá trình thực hiện đầu tư cũng như vận
hành khai thác kết quả của dự án sau này, đó bao gồm các yếu tố đầu vào của
quá trình sản xuất. Cụ thể là:Các điều kiện về nguồn nhân lựcNguồn vốn cho
hoạt động đầu tư phát triển Về nguồn nguyên nhiên liệu đầu vàoVề trình độ
công nghệVề cơ sở hạ tầng
Thuế
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, vừa là công cụ tái
phân phối của cải xã hội vừa là công cụ điều tiết phân bổ vốn giữa các ngành,
vùng miền. Thuế ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp nên các
ưu đãi về thuế thường được sử dụng như 1 biện pháp khuyến khích đầu tư.
Vấn đề ở đây là phải xây dựng một chính sách thuế phù hợp. Bởi nếu
ưu đãi quá mức sẽ gây thất thu ngân sách và giảm đầu tư công cộng. Ngược
lại, một mức thuế cao sẽ giảm tính cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong
nước cũng như làm gia tăng tình trạng trốn thuế hay buôn lậu
Liên quan đến mối quan hệ giữa đầu tư và lợi nhuận thực tế ta có thể
xem xét đến lí thuyết quỹ đầu tư nội bộ, thể hiện qua phương trình
I = f (lợi nhuận thực tế)
Nhóm 4 KTĐT-5


Page 3


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

Do đó dự án nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn. Vì lợi nhuận
cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn và mức đầu tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn
có thể huy động cho đầu tư bao gồm: lợi nhuận giữ lại, tiền trích khấu hao, đi
vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu và bán cổ phiếu.
Lợi nhuận giữ lại và tiền trích khấu hao tài sản là nguồn vốn nội bộ của doanh
nghiệp, còn đi vay và phát hành trái phiếu, bán cổ phiếu là nguồn vốn huy
động từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả nơ, trường hợp nền kinh tế lâm vào
tình trạng suy thoái, doanh nghiệp có thể không trả được nợ và lâm vào phá
sản. Do đó việc đi vay khôn phải là hấp dẫn, trừ khi có ưu đãi. Cũng tương tự,
việc tăng vốn đầu tư bằng phát hành trái phiếu cũng không phải là biện pháp
hấp dẫn, còn bán cổ phiếu để tài trợ cho đầu tư chỉ được các doanh nghiệp áp
dụng khi hiệu quả của dựa án đầu tư là rõ ràng và thu nhập do dự án đem lại
trong tương lai sẽ lớn hơn chi phí đã bỏ ra.
Chính vì vậy, theo lí thuyết quỹ đầu tư nội bộ thì doanh nghiệp thường
chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và chính sự gia tăng
của lợi nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn.
• Lãi suất tiền vay
Vốn là một yếu tố quan trọng trong hoạt động đầu tư, do đó với tư cách là chi
phí sử dụng vốn (hay giá của vốn) thì lãi suất ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu
tài chính của dự án. Các nhà đầu tư thường vay tiền để đầu tư và lãi suất phản
ánh giá của khoản tiền vay mượn đó. Nếu giá vay tiền cao hơn tỉ suất lợi
nhuận bình quân thì nhà đầu tư sẽ cắt giảm quy mô đầu tư và ngược lại.
Cần phân biệt các loại lãi suất: lãi suất cơ bản (do ngân hàng nhà nước
quy định,các tổ chức tài chính không được cho vay với lãi suất lớn hơn 150%
so với lãi suất cơ bản); lãi suất cho vay sản xuất, cho vay tiêu dùng, cho vay

đầu tư tài chính, lãi suất tái cấp vốn. Sự chênh lệch giữa các loại lãi suất góp
phần điều tiết sự phân bổ vốn trong nền kinh tế.
Lãi suất danh nghĩa phụ thuộc trước hết vào cung – cầu vốn vay trên thị
trường. Cung vốn chính là tổng tiết kiệm quốc dân, được xác định bằng tổng
thu nhập quốc dân trừ đi tiêu dùng. Lãi suất được điều chỉnh để tạo ra sự cân
bằng trên thị trường vốn. Ngoài ra lãi suất cũng chịu ảnh hưởng của sự điều
tiết của ngân hàng nhà nước thông qua chính sách tiền tệ như lãi suất cơ bản,
nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất chiết khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc.
Tuy nhiên lãi suất thấp hơn thì sẽ có nhiều dự án có IRR thấp được triển
khai, tức là các dự án ít hiệu quả, độ rủi ro cao. Khi đó nền kinh tế có thể tăng
trưởng nhanh do tổng đầu tư tăng nhưng kết cục có thể dẫn đến lạm phát cao,
chính phủ buộc phải thực thi các biện pháp kiểm soát tiền tệ, các dự án có hiệu
quả thấp sẽ bị lỗ nếu tiếp tục vay vốn, nhiều dự án sẽ bị phá sản, nền kinh tế
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 4


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

lại rơi vào suy thoái. Ngoài ra nếu lãi suất trong nước thấp hơn lãi suất thế giới
thì có thể vốn đầu tư trong nước sẽ chảy ra nước ngoài do đó không làm tăng
tổng đầu tư trong nước.
Do đó cần cân nhắc thận trọng khi điều tiết chính sách tiền tệ - lãi suất.
• Tốc độ phát triển của sản lượng quốc gia
GNP(Gross National Product) tức Tổng sản lượng quốc gia hay tổng
sản phẩm quốc gia là một chỉ tiêu kinh tế đánh giá sự phát triển kinh tế của
một đất nước.Nó được tính là tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm cuối
cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một khoản thời gian
nào đó, thông thường là một năm tài chính, không kể làm ra ở đâu(trong hay

ngoài nước)
Công thứ tính : GNP=C+I+G+(X-M)+NR
Trong đó: - C:chi phí tiêu dùng cá nhân
- I:Tổng đầu tư cá nhân quốc nội(tất cả các doanh nghiệp đầu tư
trên lãnh thổ một nước)
- G: Chi phí tiêu dùng của chính phủ
- X:Kim ngạch xuất khẩu các hàng hoá và dịch vụ
- M:Kim ngạch nhập khẩu của hàng hoá và dịch vụ
- NR: thu nhập ròng từ các hang hoá và dịch vụ đầu tư ở nước
ngoài(thu nhập ròng)
Đây là một chỉ tiêu vĩ mô ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều yếu tố khác.
Nhu cầu về sản lượng sản phẩm hay việc thay đổi sản lượng là nhân tố ảnh
hưởng đến việc tăng hay giảm qui mô vốn đầu tư. Ví dụ: Khi GDP tăng nhanh
sẽ làm tăng thu nhập của người dân, do đó vừa kích thích tiêu dùng lại vừa
làm tăng tiết kiệm. Khi tiêu dùng tăng thì tổng cầu cũng tăng; tiết kiệm tăng
thì cung vốn tăng làm giảm lãi suất, kích thích đầu tư. Hơn nữa, khi toàn bộ
nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo ra tâm lí hướng về đầu tư. Quá trình này sẽ tạo
ra hiệu ứng “số nhân”, tức là: một sự tăng thêm ban đầu trong sản lượng sẽ
làm đầu tư và sản lượng tiếp tục tăng thêm nhiều lần.
Tốc độ tăng sản lượng và tốc độ tăng vốn đầu tư không giống nhau, vấn
đề này được đề cập trong lý thuyết gia tốc vốn đầu tư .Theo lý thuyết này, để
sản xuất ra một đơn vị đầu ra cho trước cần phải có một lượng vốn đầu tư nhất
định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn theo
công thức: x = K/Y
(*)
Trong đó: K: vốn đầu tư tại thời kỳ nghiên cứu
Y: sản lượng tại thời kì nghiên cứu
x: hệ số gia tốc đầu tư
Nhóm 4 KTĐT-5


Page 5


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

Từ công thức thức trên ta suy ra: K = x * Y
Như vậy nếu x không đổi thì khi qui mô sản lượng sản xuất tăng dẫn
đến nhu cầu vốn đầu tư tăng theo và ngược lại. Theo công thức trên thì sản
lượng phải tăng liên tục mới làm cho đầu tư tăng cùng tốc độ hoặc không đổi
so với thời kì trước.
• Tổng đầu tư xã hội
Tổng đầu tư xã hội = Tổng đầu tư nhà nước + tổng đầu tư của doanh
nghiệp
- Tổng đầu tư nhà nước là tổng phần vốn đầu tư của chính phủ vào trong nền
kinh tế.Thông thường, các dự án đầu tư từ nguồn vốn của nhà nước không
nhằm mục đích thu lợi mà tác dụng trợ giúp, điều tiết, định hướng cho đầu tư
toàn xã hội. Thông qua ngân sách, chính phủ hay đầu tư vào nhưng ngành đòi
hỏi vốn đầu tư ban đầu rất lớn mà các doanh nghiệp không thê đáp ứng
được,và vào các ngành công cộng đầu tư phát triển mạng lưới giao thông, viễn
thông, cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp…
- Tổng đầu tư của doanh nghiệp là tổng phần vốn đầu tư của doanh nghiệp
vào các lĩnh vực kinh tế.Thông thường mục đích đầu tư của doanh nghiệp là
thu được phần lợi nhuận lớn hơn phần vốn bỏ ra ban đầu.
Như vậy, đầu tư nhà nước có vai trò quan trọng trong việc cải thiện môi
trường đầu tư, khuyến khích các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu tư vào
các vùng, ngành theo quy hoạch của chính phủ, hướng nền kinh tế phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
• Chu kỳ kinh tế
Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của
GDP thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh

(bùng nổ). Cũng có quan điểm coi pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh
doanh chỉ gồm hai pha chính là suy thoái và hưng thịnh (hay mở rộng) Đó là
những dao động của nền kinh tế xung quanh xu thế tăng trưởng dài hạn, bao
gồm cả những thời kì tăng trưởng nhanh xen kẽ với những thời kì suy thoái
của nền kinh tế. Ở mỗi thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanh sẽ phản ánh
các mức chi tiêu đầu tư khác nhau.
• Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản,
người ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị
âm suốt hai quý liên tiếp thì mới gọi là suy thoái.
• Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước
suy thoái. Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế.
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 6


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay


Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc
suy thoái, nền kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng
nổ). Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt
từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.

Khi nền kinh tế đang đi lên thì đầu tư tăng, vì sao?
Theo lý thuyết tính kinh tế của quy mô, trong những điều kiện nhất định
thì việc gia tăng quy mô sản lượng sản xuất ra có thể giúp cho chủ đầu tư tiết
kiệm chi phí sản xuất, gia tăng đầu tư.
Mặt khác, khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền
kinh tế mở rộng, nhu cầu đầu tư của toàn bộ nền kinh tế cũng như của các

doanh nghiệp tư nhân gia tăng. Ngược lại, khi chu kì kinh doanh ở vào thời kì
đi xuống, qui mô nền kinh tế thu hẹp, nhu cầu đầu tư của nền kinh tế và các
doanh nghiệp tư nhân thu hẹp lại.
Khi nền kinh tế đi xuống thì tổng đầu tư giảm, nhưng xét từng nhà đầu tư
lại chưa chắc đã giảm?
Thật vậy, không phải lúc nào sự tăng hay giảm chi tiêu của các doanh
nghiệp cũng thuận chiều với xu hướng lên xuống của chu kì kinh doanh của
toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì mặc dù nền kinh tế suy thoái nhưng các doanh
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 7


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

nghiệp vẫn đầu tư phát triển sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ khi sản phẩm
cũ đã mất chỗ đứng trên thị trường hoặc đã kết thúc một chu kì sống, hoặc
cũng có một số doanh nghiệp đầu tư vào các thị trường ngoài nước trong khi
nền kinh tế của quốc gia đang trên đà đi xuống.
• Môi trường đầu tư
Có thể nói môi trường đầu tư như một chất xúc tác ban đầu cho quyết
định bỏ vốn của nhà đầu tư, sự cải thiện môi trường đầu tư có ảnh hưởng vô
cùng quan trọng và tác động tích cực đến nền kinh tế, làm tăng nguồn vốn đầu
tư và tăng chi tiêu đầu tư toàn xã hội.
Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố, tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp đến hiệu quả đầu tư. Có thể nói đến hai khái niệm:
- Môi trường cứng: bao gồm các yếu tố liên quan đến cơ sở hạ tầng kĩ
thuật phục vụ cho sự phát triển kinh tế, ví dụ như hệ thống thông tin liên
lạc, cơ sở hạ tầng giao thông,…
- Môi trường mềm: bao gồm hệ thống thủ tục hành chính, dịch vụ pháp lý

liên quan đến hoạt động đầu tư, hệ thống tài chính – ngân hàng…
Cơ sở hạ tầng ở đây mang tính tiên phong, định hướng, xúc tác cho các
hoạt động đầu tư, nó mở đường cho các hoạt động kinh tế xã hội phát triển. Vì
vậy cần chú ý đến công tác đầu tư chuẩn bị hệ thống cơ sở hạ tầng để thu hút
các nhà đầu tư, tạo cho họ sự tin cậy để bỏ vốn đầu tư.
Một môi trường đầu tư ổn định cả về kinh tế, xã hội và chính trị sẽ thúc
đẩy các nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư phát triển. Trong đó, việc đưa ra các
chính sách nhằm tăng lòng tin cho các nhà đầu tư cần được chính phủ quan
tâm. Chính sách và hành vi của chính phủ có ảnh hưởng mạnh thông qua tác
động của nó đến chi phí, rủi ro và các rào cản cạnh tranh.
• Thuế thu nhập doanh nghiệp
Đây là loại thuế đánh vào lợi nhuận của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ
phải chia sẻ với chính phủ một phần lợi nhuận của mình, nhưng với họ đầu tư
vẫn hợp lí, vẫn tiếp tục tăng đầu tư khi giá thuê tư bản ( lãi suất thực tế của
vay vốn tư bản đầu tư) cao hơn chi phí tư bản và sẽ cắt giảm đầu tư khi giá
thuê thấp hơn chi phí tư bản.
Tuy loại thuế đánh vào lợi nhuận theo cách này không làm thay đổi
động cơ đầu tư nhưng lại cản trở đầu tư vì các doanh nghiệp phải trích khấu
hao dựa trên chi phí lịch sử, tức là phần trích khấu hao được tính trên cơ sở giá
mua tư bản ban đầu. Trong thời kì lạm phát, chi phí thay thế lớn hơn chi phí
lịch sử nên thuế thu nhập doanh nghiệp có xu hướng đánh giá quá cao lợi
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 8


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

nhuận, thậm chí vẫn đánh thuế ngay cả khi lợi nhuận của doanh nghiệp bằng
không, từ đó làm cho việc chi tiêu vào đầu tư trở nên ít hấp dẫn hơn, cản trở

hoạt động đầu tư.
Bên cạnh đó thì việc miễn thuế đầu tư lại là một quy định trong luật thuế nhằm
mục tiêu khuyến khích đầu tư. Phần miễn thuế đầu tư sẽ làm giảm mức thuế
mà doanh nghiệp phải nộp khi chi tiêu cho đầu tư, họ sẽ dành khoản tiền đó để
mua hàng đầu tư mới, nói cách khác sẽ làm giảm chi phí đầu tư thực tế của
mỗi đơn vị tư bản. Như vậy miễn thuế đầu tư làm giảm chi phí đầu tư và tăng
chi tiêu đầu tư.
Thuế thu nhập ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nên
chính phủ cần đưa ra chính sách thuế hợp lý nhằm khuyến khích và nâng cao
hiệu quả của chi tiêu đầu tư nhưng vẫn phải đảm bảo nguồn thu cho ngân sách
nhà nước.

III. Kích cầu đầu tư (khái niệm, vai trò, vị trí...)
1. Khái niệm
Kích cầu đầu tư là việc chính phủ đưa ra những biện pháp, đường lối, chủ
trương, chính sách nhằm làm tăng cầu đầu tư trong nước. các công cụ pháp lý
được sử dụng một cách có hệ thống và đồng bộ nhằm thu hút ngày càng nhiều
vốn đầu tư để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội theo
từng lĩnh vực, ngành nghề cho phù hợp trong một giai đoạn hay thời kì nhất
định.
2.Ý nghĩa của kích cầu đầu tư
Kích cầu đầu tư có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia,
nhất là một nước đang phát triển như Việt Nam. Ở các nước đang phát triển
hiện nay tồn tại "cái vòng luẩn quẩn" với đặc điểm là : thu nhập thấp – tích lũy
thấp – trình độ công nghệ lạc hậu – năng suất thấp, và cần các biện pháp kích
cầu đầu tư để phá vỡ nó, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Có những biện pháp kích cầu đầu tư cụ thể và thích hợp sẽ làm tăng
lượng vốn đầu tư toàn xã hội, tăng nhu cầu đầu tư xây dựng và cải thiện mức
sống của người dân. Đầu tư tăng sẽ làm tăng tổng cung, kích cầu tiêu dùng.
Đầu tư vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của

nền kinh tế. Vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả sẽ có tác động đến tăng trưởng
kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu theo ngành, vùng lãnh thổ và theo thành
phần kinh tế. Đầu tư nước ngoài còn thu hút khoa học công nghệ hiện đại, làm
thay đổi bộ mặt của toàn bộ nền kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội. Như vậy
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 9


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

kích cầu đầu tư có tác dụng rất quan trọng ở mỗi quốc gia, và mang tính tất
yếu trong chiến lươc phát triển kinh tế xã hội dài hạn.
Tuy nhiên trong thực tế Chính phủ cũng gặp nhiều khó khăn để đưa ra
những quyết định đúng đắn. Bởi lẽ không thể đoán trước được tình hình kinh
tế sẽ biến đổi theo chiều hướng nào. Hơn nữa một chính sách nhằm kích cầu
không thích hợp sẽ để lại hậu quả xấu rất lớn cho nền kinh tế
3. Các biện pháp kích cầu đầu tư
Để có các biện pháp thu hút vốn đầu tư hiệu quả cần nhận thức sâu sắc
và đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư đã trình bày ở phần trên, từ
đó đề ra các mục tiêu, quy hoạch phát triển kinh té xã hội và các biện pháp cụ
thể.
Theo quan điểm của Keynes, để kích cầu đầu tư chính phủ có thể tác
động vào nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu đầu tư là lãi suất và các
nhân tố ảnh hưởng gián tiếp song không kém phần quan trọng là thuế, chi phí
sản xuất, môi trường đầu tư...
- Đối với yếu tố lãi suất, ngân hàng trung ương có thể thông qua các chính
sách giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu...
nhằm giảm lãi suất tiết kiệm và lãi suất tiền vay.
- Các biện pháp thu hút đầu tư dân doanh trong nước

- Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước
- Các biện pháp phát triển thị trường tài chính tạo ra nhiều kênh huy động
vốn, chú trọng công tác thẩm định và quản lí, sử dụng vốn nhằm đảm bảo hiệu
quả của các dự án đầu tư.
- Kích thích tiêu dùng, khuyến khích các hoạt động xuất khẩu
- Ổn định môi trường đầu tư cả về kinh tế, xã hội và chính trị. Về kinh tế, cần
chú ý đến vấn đề lạm phát và chế độ tỷ giá. Các chính sách nhằm hỗ trợ các
nhà đầu tư, các doanh nghiệp để họ yên tâm bỏ vốn đầu tư.
- Với chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp, nhà nước có thể tác động đến
yếu tố này theo hai hướng. Đó là giảm thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm làm
tăng lợi nhuận thực tế, từ đó gia tăng quỹ nội bộ và tăng nguồn đầu tư của
doanh nghiệp hoặc là miễn, giảm thuế đối với các khoản lợi nhuận dùng để tái
đầu tư của doanh nghiệp.
Mỗi tác động đều có tính hai mặt, có thể là tích cực đối với yếu tố này
nhưng lại là tiêu cực với yếu tố kia, và đôi khi bản thân các yếu tố cũng có tác
động qua lại lẫn nhau. Vì vậy cần cân nhắc thận trọng khi đưa ra các quyết
định can thiệp. Mục tiêu cuối cùng của kích cầu đầu tư là tăng trưởng kinh tế
nhưng phải đảm bảo cả về mặt văn hóa, xã hội.
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 10


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM
I.

Thực trạng về đầu tư Việt Nam

Đầu tư ở trong nước
Đầu tư trong nước là việc sử dụng vốn để sản xuất, kinh doanh tại Việt
Nam của tổ chức, cá nhân ( bao gồm người Việt Nam, là người nước ngoài
thường trú ở Việt Nam). Hiện nay, đầu tư trong nước đang ngày càng phát
triển. Việc xuất hiện sàn giao dịch chứng khoán Hostc tại thành phố Hồ Chí
Minh vào năm 2001 là bước ngoặt cho thị trường đầu tư trong nước. Có thể
nói thị trường chứng khoán kênh huy động vốn rất quan trọng cho các doanh
nghiệp trong nước đã được niêm yết.
Nhà đầu tư trong nước sẽ là nòng cốt của thị trường chứng khoán. Ngoài
việc đầu tư trên thị trường chứng khoán,nhà đầu tư trong nước còn đa dạng
hoá các hình thức đầu tư của mình như đầu tư vào vàng,ngoại tệ,bất động
sản…tạo điều kiện kích thích sự tăng trưởng kinh tế trong nước.
Đầu tư của nước ngoài vào nước ta
Theo báo lao Động Cuối tuần số 04 Ngày 27/01/2008 Bộ Kế hoạch và
Đầu tư tổ chức hội nghị tổng kết 20 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Trong 20 năm vốn đăng ký đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đạt 98 tỉ USD với
khoảng 9.500 dự án, vốn đầu tư được thực hiện đạt hơn 43 tỉ USD.
Khu vực đầu tư nước ngoài đã đóng góp hơn 17% GDP, 16% tổng đầu tư
xã hội, đã tạo ra hàng trăm ngàn việc làm. Đầu tư nước ngoài đã có đóng góp
to lớn vào sự phát triển ngoạn mục của Việt Nam trong 20 năm qua.
Đầu tư nói chung tiếp tục tăng
Năm 2010, mặc dù tình hình kinh tế thế giới và trong nước có những diễn
biến phức tạp: thị trường chứng khoán toàn cầu chao đảo; giá vàng, giá dầu
biến động mạnh…kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trên
nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng thể hiện thành tựu đạt
được nền kinh tế vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế và thách thức. Việc đánh giá,
nhìn nhận lại kinh tế Việt Nam năm 2010 để rút ra những bài học, chỉ rõ
những thách thức và giải pháp cho năm 2011 có ý nghĩa quan trọng đối với
các nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam.
Kinh tế phục hồi là một nguyên nhân quan trọng trong việc thúc đẩy đầu

tư phát triển. Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010 đã đạt được những kết
quả tích cực. Ước tính tổng đầu tư toàn xã hội năm 2010 đạt 800 nghìn tỷ
đồng, tăng 12,9% so với năm 2009 và bằng 41% GDP. Trong đó, nguồn vốn
đầu tư của tư nhân và của dân cư dẫn đầu bằng 31,2% vốn đầu tư toàn xã hội,
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 11


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

nguồn vốn đầu tư nhà nước (gồm đầu tư từ ngân sách nhà nước, nguồn trái
phiếu Chính phủ, nguồn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước và nguồn đầu
tư của các doanh nghiệp nhà nước) bằng 22,5%, tăng 4,7% so với năm 2009.
Những kết quả này cho thấy các nguồn lực trong nước được huy động
tích cực hơn. Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tính đến hết tháng 11,
cả nước thu hút được 833 dự án mới với tổng số vốn đăng ký đạt 13,3 tỷ USD,
bằng 60% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó vốn thực hiện ước đạt 10 tỷ
USD, tăng 9,9%. Mặc dù vốn FDI đăng ký có thấp hơn nhiều so với năm 2009
nhưng tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký lại cao hơn nhiều. Đây có thể được
coi là điểm sáng trong thu hút FDI năm 2010. Điều này cũng cho thấy sự cam
kết lâu dài các nhà đầu tư nước ngoài ở thị trường Việt Nam.
Tốc độ tăng vốn đầu tư cao và nhanh một mặt thể hiện quan hệ tích lũy –
tiêu dùng đã có sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, nhưng mặt khác lại
cho thấy những hạn chế trong hiệu quả đầu tư. Nếu như năm 1997, chúng ta
đạt được tốc độ tăng trưởng 8,2% với vốn đầu tư chỉ chiếm 28,7% GDP thì
cũng với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ như vậy năm 2007 (8,5%) chúng ta phải
đầu tư tới 43,1% GDP. Đến năm 2010, trong khi tổng mức đầu tư toàn xã hội
lên tới 41% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại chỉ đạt 6,7%. Chỉ số ICOR đã tăng
tới mức quá cao, trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Hệ số ICOR của doanh

nghiệp và đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân chỉ có 3-4, trong khi đó ICOR của
khu vực kinh tế nhà nước và từ đầu tư của nhà nước tới 9-10 . Bên cạnh đó
còn xảy ra tình trạng chậm trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu tư từ ngân sách
nhà nước và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở
tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu tư. Những đặc điểm này là
đáng báo động về cả trước mắt cũng như lâu dài.
II.

Thực trạng về kích cầu đầu tư ở Việt Nam
Để đạt được những thành tựu đáng kể như trên, phải kể đến chính sách
của chính phủ trong việc kích cầu đầu tư những năm qua. 2009-2010, Chính
phủ đã thực hiện 2 gói kích cầu lớn:
A. Gói kích cầu thứ nhất:
Đứng trước nguy cơ khủng hoảng kinh tế, trong năm 2009, chính phủ
Việt Nam đã tung ra gói kích cầu thứ nhất trị giá 160 tỷ đồng, tương đương 9
tỷ USD. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện biện pháp kích cầu thông qua chính
sách hỗ trợ lãi suất 4% đối với các doanh nghiệp, các chương trình miễn, giảm
và giãn thuế, bảo lãnh cho các doanh nghiệp (DN) vay vốn tại các Ngân hàng
thương mại,… Cụ thể như sau:

Nhóm 4 KTĐT-5

Page 12


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

Gói hỗ trợ lãi suất 4% thuộc về nhóm biện pháp kích thích chi đầu tư
đối với doanh nghiệp. Vốn tín dụng khoảng 17.000 tỷ đồng. Có 3 loại hình hỗ
trợ lãi suất vốn vay chính: cho vay ngắn hạn, cho vay trung & dài hạn, và cho

vay phục vụ nông nghiệp & làm nhà ở. Đối tượng cho vay phải không nằm
trong danh sách 13 ngành, lĩnh vực. Tạm thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản
ứng trước khoảng 3.400 tỷ đồng. Ứng trước ngân sách nhà nước để thực hiện
một số dự án cấp bách khoảng 37.200 tỷ đồng. Chuyển nguồn vốn đầu tư kế
hoạch năm 2008 sang năm 2009 khoảng 30.200 tỷ đồng. Phát hành thêm trái
phiếu Chính phủ khoảng 20.000 tỷ đồng. Thực hiện chính sách giảm thuế
khoảng 28.000 tỷ đồng. Tăng thêm dư nợ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp
khoảng 17.000 tỷ đồng. Các khoản chi kích cầu khác nhằm ngăn chặn suy
giảm kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội khoảng 7.200 tỷ đồng.
Chương trình giảm, giãn thuế bao gồm: giảm, gia hạn nộp thuế thu nhập
và giảm thuế giá trị gia tăng đối với một số hàng hóa, dịch vụ.
1. Tình hình thực hiện gói kích cầu thứ nhất
Theo Ngân hàng nhà nước, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đến
24/12/2009 là 412.179,83 tỷ đồng. Chi tiết về tình hình dư nợ cho vay hỗ trợ
lãi suất phân chia theo đối tượng như sau:
Dư nợ theo nhóm tổ chức tín dụng: Nhóm Ngân hàng thương mại
(NHTM) nhà nước và Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương là 274.883,94 tỷ
đồng; nhóm ngân hàng thương mại cổ phần là 108.085,31 tỷ đồng; nhóm ngân
hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn
nước ngoài là 20.747,34 tỷ đồng; công ty tài chính là 8.463,24 tỷ đồng, giảm
99,62 tỷ đồng (tương đương giảm 1,16%).
Dư nợ phân theo đối tượng khách hàng vay vốn: DN nhà nước
59.379,70 tỷ đồng; DN ngoài nhà nước (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài …)
287.971,90 tỷ đồng; hộ sản xuất là 64.828,23 tỷ đồng.
Theo báo cáo cuối năm 2009 của Bộ Tài chính, ước cả năm, tổng số
thuế miễn, giản, giảm khoảng 20 tỷ đồng. Đồng thời, đã tiếp tục rà soát để bãi
bỏ khoảng 140 tỷ đồng các khoản phí và lệ phí khác. Trong năm 2009, chính
phủ đã tăng vốn đầu tư công để kích cầu nền kinh tế. Cụ thể, ứng trước 31.393
tỷ đồng vốn ngân sách cho các bộ, cơ quan Trung ương, các địa phương, ước

cả năm 2009 giải ngân được khoảng 80-85% vốn ứng trước.
2. Đánh giá gói kích cầu thứ nhất
Hiệu quả tích cực của gói kích cầu thứ nhất
Có thể nói, gói kích cầu trước hết có hiệu ứng tâm lý tích cực, làm tăng
tức thời lòng tin của các doanh nghiệp, các ngân hàng và các nhà đầu tư trong
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 13


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

nước và quốc tế vào trách nhiệm của nhà nước trong việc hỗ trợ các DN đang
gặp khó khăn, cũng như tin vào triển vọng thị trường và môi trường đầu tư
Việt Nam. Gói kích cầu đã trực tiếp hỗ trợ DN tiếp cận được các nguồn vốn
ngân hàng với chi phí rẻ hơn, từ đó giảm bớt chi phí kinh doanh, góp phần
giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng canh tranh và tiêu thụ hàng hóa và
dịch vụ trên thị trường. Nhiều DN nhận được sự hỗ trợ kịp thời của gói kích
cầu đã có thêm cơ hội giữ vững và mở rộng sản xuất, từ đó góp phần giảm bớt
áp lực thất nghiệp và đảm bảo ổn định xã hội.
Theo Báo cáo của Ngân hàng thế giới tại Hội nghị nhóm tư vấn các nhà
tài trợ cho Việt Nam (tháng 12/2009), khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm
cho nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong năm 2009, đặc biệt vào
quý I năm 2009. Trong quý này, GDP chỉ tăng 3,1% so với cùng kỳ năm
2008. Tuy nhiên, những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế thể hiện rõ trong
quý II, phần nào phản ánh những nỗ lực hỗ trợ hoạt động kinh tế của Chính
phủ. Gói kích thích kinh tế khá lớn được đưa ra vào đầu năm 2009 bao gồm
nhiều biện pháp khác nhau, từ chương trình hỗ trợ lãi suất, miễn và giãn thuế,
và đầu tư vốn bổ sung. Kết quả là GDP tăng 4,5% trong quý II và 5,8% trong
quý III, nâng tốc độ tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm 2009 lên 4,6% so với

cùng kỳ năm 2008.
Những dấu hiệu tích cực đó tiếp tục được duy trì. Theo Báo cáo Cập
nhật tình hình kinh tế Việt Nam của Tổng cục Thống kê, Việt nam đã vượt
qua cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu tốt hơn nhiều nước khác. Cụ thể: GDP
tăng 5,3% trong năm 2009 trong đó quý IV đã đạt mức 6,9%. Lạm phát đã
giảm từ 19,9% năm 2008 xuống còn 6,5% năm 2009. Quý I/2010 nền kinh tế
Việt Nam vẫn tiếp tục đà phục hồi của những quý cuối năm 2009 với tốc độ
tăng tổng sản phẩm trong nước đạt 5,83%, gấp gần 1,9 lần tốc độ tăng trong
quý I/2009. GDP quý II tăng 6,2-6,4%, tạo nên mức tăng trưởng kinh tế 6
tháng đạt khoảng 6,1% so với cùng kỳ năm trước. Công nghiệp được xem là
mảng tỏa sáng trong bức tranh kinh tế 6 tháng đầu năm nay. Các ngành công
nghiệp đã trỗi dậy mạnh mẽ với mức tăng trưởng giá trị sản xuất toàn ngành 6
tháng qua ở mức 13,8%.
Tóm lại, không thể phủ nhận rằng gói kích cầu thứ nhất đã có những tác
động tích cực đến nền kinh tế Việt Nam năm 2009, góp phần đưa Việt Nam
sớm thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế.
Tác động tiêu cực và các vấn đề của gói kích cầu thứ nhất
Bên cạnh những dấu hiệu khả quan, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn tiềm
ẩn nhiều nguy cơ. Xuất khẩu năm 2009 giảm, thâm hụt thương mại lên đến 12
tỷ USD, giá trị đồng Việt Nam suy giảm mạnh. Có thể thấy rằng trong thời
gian qua chính sách kích cầu của Chính phủ chưa thật sự tác động mạnh đến
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 14


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp (đặc biệt là các DN vừa
và nhỏ) bởi còn có một số hạn chế tiềm tàng đối với chính sách này. Sau đây

là 10 vấn đề của gói kích cầu thứ nhất:
- Định hướng chính sách kích cầu là không rõ ràng và không có sự phân
định giữa các khái niệm kích cầu hay kích cung, kích cầu hay giải cứu,… Tất
cả các gói chính sách đều được gộp vào dưới cái tên “kích cầu” trong khi tác
động thực tế của nó chưa chắc chắn đã nhằm làm tăng tổng cầu trong nền
kinh tế. Như chính sách hỗ trợ lãi suất sẽ là kích cầu nếu doanh nghiệp vay
vốn đó để đầu tư. Nhưng nếu DN đó vay vốn để đảo nợ thì sẽ không còn gọi
là kích cầu được nữa, mặc dù nó vẫn có thể có tác dụng tích cực nào đó.
- Gói kích cầu của Việt Nam là gói giải cứu tình huống. Khác với gói
kích cầu của Mỹ và Châu Âu, chính phủ không bơm tiền vào nền kinh tế
thông qua hệ thống NHTM. Trong trường hợp của Việt Nam, NHTM chỉ là
trung gian thay mặt nhà nước phân bổ vốn lại cho nền kinh tế thông qua gói
hỗ trợ lãi suất 4%. Và do đó, gói kích cầu không gắn trực tiếp với quyền lợi
của NHTM và dễ dẫn đến nhiều tiêu cực trong quá trình thực hiện do chính
phủ khó có khả năng kiểm soát được sự phân bổ vốn của NHTM.
- Gói kích cầu không đáp ứng hoàn toàn 3 yêu cầu: Kịp thời, đúng đối
tượng và vừa đủ (ngắn hạn). Các nhà kinh tế học như Lawrence Summers4
cho rằng để một gói kích cầu có hiệu quả thì phải đảm bảo ít nhất ba tiêu chí
trên. Đối với Việt Nam, một nền kinh tế có độ mở cao với tỷ trọng nhập khẩu
chiếm tới gần 90% GDP, cần có thêm tiêu chí thứ tư là ít rò rỉ ra hàng ngoại
nhập.Nếu xét trên tiêu chí kịp thời, mặc dù các gói kích cầu được chính phủ
đưa ra kịp thời nhưng tình hình triển khai còn chậm do vấn đề thủ tục hành
chính. Ví dụ, gói hỗ trợ lãi suất có chỉ thị từ tháng 02/2009 nhưng đến tháng
04/2009, khoản vay sớm nhất mới được giải ngân. Xét tiêu chí ngắn hạn, chỉ
một phần của gói kích cầu của Việt Nam đáp ứng được tiêu chí này. Việc
chậm triển khai gói kích cầu có thể làm giảm hiệu quả của gói kích cầu. Mặt
khác, việc duy trì gói kích cầu trong dài hạn có thể làm suy yếu khả năng
cạnh tranh của nền kinh tế. Việc đáp ứng nguyên tắc về đúng đối tượng là vấn
đề nghiêm trọng nhất. Vấn đề này nảy sinh chủ yếu từ gói hỗ trợ lãi suất. Nếu
khoản hỗ trợ lãi suất đến với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thâm dụng lao

động đang gặp nhiều khó khăn giúp họ duy trì việc làm thì mục tiêu chính
của gói kích cầu vẫn đạt được. Theo báo cáo của NHNN, có đến 3.923 món
vay vi phạm, tương đương 8.334 tỷ đồng. Vi phạm nhiều nhất là ở Ngân hàng
thương mại cổ phần với 5.916 tỷ đồng. Con số vi phạm thực tế có thể cao hơn
rất nhiều. Thực tế là nhiều các doanh nghiệp đảo nợ cũ vay với lãi suất cao để
chuyển sang vay mới với lãi suất vay thấp hơn nhiều. Nếu khoản vay giúp các
doanh nghiệp lớn thâm dụng vốn đảo nợ, cấu phần này của gói kích cầu lại có
tác dụng như gói giải cứu, chứ không còn là gói kích cầu nữa.
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 15


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

- Ai là người được lợi từ gói kích cầu? Đối với gói hỗ trợ lãi suất 4%,
đứng về phương diện mục tiêu của chính sách này, người được hưởng lợi các
doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để sản xuất – kinh doanh. Hay nói cách
khác, gói hỗ trợ lãi suất 4% góp phần kích cầu đầu tư của DN. NH cũng là
người được lợi từ gói hỗ trợ lãi suất 4%. Thực tế thì khoản hỗ trợ 17.000 tỉ
đồng được phân bổ làm ba phần, trong đó một phần đúng là các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh được nhận, một phần khác do chính các ngân hàng được
hưởng, và phần còn lại là mất mát vô ích (dead weight loss). Do được hưởng
lợi từ gói hỗ trợ lãi suất, năm 2009, mặc dù nền kinh tế Việt Nam còn gặp
nhiều khó khăn, nhưng các NHTM cổ phần niêm yết trên HASTC và HOSE
đều công bố mức lợi nhuận rất cao, lên đến vài nghìn tỷ đồng Việt Nam. Phần
mất mát vô ích có thể là những khoản chi phí không chính thức mà DN phải
bỏ ra như chi phí để hợp thức hóa chứng từ, chi phí không chính thức cho
nhân viên ngân hàng, …
Thuế GTGT là một loại thuế gián thu do người tiêu dùng chịu chứ không phải

là DN. Do đó, việc giảm 50% thuế giá trị gia tăng nhằm vào việc kích cầu tiêu
dùng. Tuy nhiên, kinh tế học vi mô đã chứng minh rằng khoản thuế GTGT
được chia sẻ giữa khách hàng và doanh nghiệp. Đôi khi, DN lại là người được
hưởng lợi từ việc giảm thuế GTGT chứ không phải là người tiên dùng. Do đó,
việc giảm thuế GTGT ít có tác dụng kích cầu tiêu dùng.
- Gói kích cầu có thể tạo ra cạnh tranh không lành mạnh, bất bình đẳng
giữa các DN do khả năng tiếp cận nguồn vốn được hỗ trợ lãi suất của các
Doanh nghiệp không đồng đều. Báo cáo của NHNN cho thấy, tính đến cuối
năm 2009, chỉ có khoảng trên 20% trong tổng số doanh nghiệp, tức khoảng
78.000 trong tổng số khoảng 390.000 doanh nghiệp tiếp cận được vốn hỗ trợ.
Theo kết quả khảo sát của Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Đà Nẵng
vào tháng 06/2009, có trên 51% các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trên
địa bàn được khảo sát là không nhận được hỗ trợ lãi suất. Theo kết quả khảo
sát gần 400 DN vào tháng 7/2010 của Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã
hội Đà Nẵng, có đến gần 30% DN được khảo sát cho rằng đã bị ảnh hưởng
tiêu cực từ các chính sách kích cầu của Chính phủ. Lý do là các doanh nghiệp
nhỏ và vừa, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ thường gặp nhiều khó khăn trong
việc tiếp cận thông tin và đáp ứng các yêu cầu về thủ tục để được nhận vốn.
- Gói hỗ trợ lãi suất 4% có thể dẫn đến sự suy giảm khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp Việt Nam do chi phí vốn không được tính đúng và đầy
đủ. Mặt khác, các hỗ trợ về thuế, một hình thức bảo hộ sản xuất trong nước
cũng là một nguyên nhân làm suy giảm khả năng cạnh tranh của DN trong
nước so với các DN nước ngoài.
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 16


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay


- Dòng vốn kích cầu có thể bị lái vào đầu cơ bong bóng chứng khoán
hoặc bất động sản, điều này có thể là một nguy cơ dễ xảy ra, cũng bởi do tình
trạng bất cân xứng về thông tin và cũng có thể là bởi chính hành vi trục lợi có
thể xảy ra ở ngay tại các tổ chức tài chính, do thiếu sự giám sát chặt chẽ.
Thực tế diễn biến thị trường chứng khoán trong năm 2009 và 7 tháng đầu
năm 2010 cũng phần nào thể hiện điều này. Thị trường chứng khoán Việt
Nam năm 2009 tăng trưởng khá ngoạn mục, với mức tăng bình quân cả năm
vào khoảng 40%. Từ đầu năm 2010 đến nay, mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã
có những dấu hiệu tăng trưởng khả quan, thị trường chứng khoán khá trầm
lắng. Những ngày đầu tháng 8, thị trường giảm khá sâu, còn khoảng 460
điểm. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do gói kích cầu thứ
nhất đã kết thúc, dòng tiền vào thị trường chứng khoán sụt giảm.
- Chính sách kích cầu không trực tiếp giúp giải quyết khó khăn lớn nhất
của doanh nghiệp hiện nay là thiếu nhu cầu thị trường. Do tác động của
khủng hoảng tài chính toàn cầu, kinh tế thế giới đang suy thoái, làm giảm
mạnh cầu về hàng xuất khẩu. Điều này khiến các công ty gia công, lắp ráp
hàng xuất khẩu phải giãn thợ, làm tăng số lượng thất nghiệp và thất nghiệp
tạm thời, kéo theo sự sụt giảm tiêu dùng nội địa. Sức mua giảm, khả năng tiêu
thụ trong nước đang suy giảm, hàng sản xuất ra tồn đọng.
- Số tiền cung ứng vào lưu thông lớn tạo ra tiềm ẩn rủi ro lạm phát cao.
Tổng giá trị các gói kích cầu của Chính phủ Việt Nam lên đến 160.000 tỷ
đồng, tương đương 9 tỷ USD (chiếm khoảng gần 10% GDP của Việt Nam
hiện nay). Với việc triển khai nhiều cơ chế hỗ trợ cùng với chính sách nới
lỏng tiền tệ dẫn đến khối lượng tiền cung ứng vào nền kinh tế tăng ở mức
cao, gây sức ép tăng lạm phát là rất lớn. Từ cuối năm 2009 và đầu năm 2010,
VND mất giá liên tục so với USD.
- Nền kinh tế Việt Nam có đặc thù phải dựa vào máy móc thiết bị và
nguyên vật liệu từ bên ngoài, do vậy sẽ không chịu nỗi sức ép từ việc gia tăng
đầu tư quá mức. Một khi cầu nội địa tăng lên đặc biệt là cầu đầu tư sẽ khiến
cho nhu cầu nhập khẩu tăng nhanh điều này sẽ làm thâm hụt thương mại

thêm trầm trọng. Năm 2009, thâm hụt thương mại của Việt Nam lên đến 12
tỷ USD, cao hơn nhiều so với kế hoạch là 10 tỷ USD. Khối lượng dự trữ
ngoại tệ khiêm tốn khiến cho Việt Nam không thể giữ ổn định tỷ giá hối đoái
khi sức ép giảm giá VNĐ tăng mạnh do nhu cầu nhập khẩu tăng vọt. VND bị
mất giá và giá USD tăng đáng kể trong giai đoạn vừa qua dẫn đến các khoản
nợ nước ngoài của chính phủ và doanh nghiệp tính ra VND đang ngày càng
phình to.

Nhóm 4 KTĐT-5

Page 17


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

3. Bài học kinh nghiệm từ gói kích cầu thứ nhất và các khuyến nghị
chính sách đối với Việt Nam
Từ 10 vấn đề của gói kích cầu thứ nhất, chúng ta có thể rút ra những bài
học kinh nghiệm và những khuyến nghị về chính sách đối với Việt Nam: Chỉ
nên đưa ra gói kích cầu khi thực sự cần thiết và duy trì trong ngắn hạn nhằm
tránh sự mất cân đối hàng tiền, vi phạm quy luật lưu thông tiền tệ, dẫn đến lạm
phát. Để đảm bảo gói kích cầu phát huy được tác dụng, chính phủ cần có sự
giám sát chặt chẽ sự phân bổ nguồn lực của gói kích cầu, tạo điều kiện cho
nguồn lực được phân bổ đúng đối tượng, tránh tạo ra sự cạnh tranh không lành
mạnh và bất bình đẵng giữa các chủ thể trong nền kinh tế, đặc biệt là DN.
Chính phủ phải chủ động trong việc đưa ra gói kích cầu với mục tiêu rõ ràng,
tránh trường hợp xử lý tình huống như gói kích cầu thứ nhất. Mặt khác, chính
phủ cần thiết kế gói kích cầu đúng mục tiêu, tránh trường hợp nhập nhằng
giữa kích cầu và kích cung. Cuối cùng, gói kích cầu chỉ mang tính chất hỗ trợ
tạm thời nên kinh tế khi có khủng hoảng. Khi nền kinh tế đã vượt qua được

giai đoạn khó khăn, chính phủ cần điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, tái
cấu trúc nền kinh tế theo hướng phát triển bền vững nhằm tránh sự bùng phát
của những tàn dư sau khủng hoảng.
4. Kết luận
Gói kích cầu thứ nhất đã mang lại một số hiệu quả nhất định như hỗ trợ
kịp thời các doanh nghiệp, giúp Việt Nam thoát khỏi nguy cơ suy thoái kinh
tế. Tuy nhiên, gói hỗ trợ này cũng bộc lộ một số vấn đề như định hướng chính
sách kích cầu là không rõ ràng và không có sự phân định giữa các khái niệm
kích cầu hay kích cung, kích cầu hay giải cứu; Gói kích cầu tạo ra mất mát vô
ích, cạnh tranh không lành mạnh, bất bình đẳng giữa các DN và có thể dẫn
đến sự suy giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, lạm
phát,… Từ việc nhận diện ra những hạn chế của gói kích cầu thứ nhất, bài viết
rút ra các bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện gói kích cầu cho Việt Nam
như cần có định hướng và sự chuẩn bị cần thiết đưa ra gói kích cầu, chỉ nên
duy trì kích cầu trong ngắn hạn, giám sát chặt chẽ vốn kích cầu.
B. Gói kích cầu số 2:
Trước yêu cầu của nền kinh tế Chính phủ đã quyết định triển khai gói
kích thích kinh tế thứ hai nhằm cung cấp bù 4% lãi suất vốn trung và dài hạn
với thời gian tối đa 24 tháng cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Mặc dù với gói kích cầu thứ nhất, doanh
nghiệp được vay với lãi suất ưu đãi 4% thời gian 12 tháng. Nguồn vốn cho
doanh nghiệp vay khoảng 600 tỷ đồng tuy nhiên số tiền này theo nhiều chuyên
gia, thời gian trước tiền vẫn chưa ra khỏi ngân hàng. Trong khi đó, nhu cầu
vay của doanh nghiệp là có thật nhưng thời gian quá ngắn không thể giải
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 18


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay


quyết được vấn đề cấp bách của doanh nghiệp là quay vòng vốn sản xuất.
Theo TS. Nguyễn Minh Phong (Viện nghiên cứu Kinh tế Hà Nội) gói kích cầu
kinh tế hỗ trợ lãi suất lần thứ hai của Chính phủ được sẽ hỗ trợ mạnh cho gói
kích cầu lần thứ nhất. Như vậy, doanh nghiệp sẽ được vay vốn thấp trung và
dài hạn cho việc đầu tư trang thiết bị, máy móc... khiến sức mua của thị trường
tăng, giải quyết đầu ra cho doanh nghiệp, đồng thời tạo ra công ăn việc làm
cho người lao động. Thực tế, nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các doanh
nghiệp hiện nay là rất lớn. Theo Hiệp hội Ngân hàng, ngay trong lần triển khai
gói kích cầu đầu tiên, một số ngân hàng đã nhận được đơn xin vay vốn của các
dự án lớn trên 1.000 tỷ đồng, vì vậy việc đưa ra gói kích cầu thứ hai này được
kỳ vọng sẽ là tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cả doanh nghiệp và ngân hàng.
Gói kích cầu thứ hai không nhằm mục tiêu nhanh chóng giải quyết ổn
thỏa những vấn đề đang thách thức nền kinh tế Việt Nam, tuy nhiên nó được
kỳ vọng sẽ góp phần làm giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp sản suất
đang bị đình đốn, các dự án kinh doanh còn đang bị bỏ ngỏ và hơn hết là giải
quyết việc làm, đảm bảo đời sống cho người lao động. Các gói kích cầu mà
Chính phủ đưa ra đều đều có tác dụng kép. Thứ nhất là hỗ trợ doanh nghiệp
vay vốn với lãi suất thấp, giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, chí phí sản
xuất để nâng cao khả năng cạnh tranh. Thứ hai là giải quyết được bài toán lãi
suất cho các ngân hàng, doanh nghiệp được vay với lãi suất thấp, đồng thời
mức lãi suất huy động của ngân hàng vẫn đủ sức hấp dẫn để thu hút tiền nhàn
rỗi trong dân, bảo đảm đủ nguồn vốn cung cấp cho nền kinh tế cũng như an
toàn cho hệ thống ngân hàng. Tổng thư ký Hiệp hội NH Việt Nam Dương Thu
Hương cho rằng, gói kích cầu của Chính phủ giúp các ngân hàng không phải
giảm lãi suất bởi nếu giảm lãi suất, ngân hàng sẽ không huy động được vốn.
Chính phủ cũng nhất trí tiếp tục thực hiện các chính sách kích thích nền
kinh tế nhằm giữ vững đà phục hồi tăng trưởng trong năm 2010. Cụ thể: Đối
với chính sách hỗ trợ lãi suất các khoản vay vốn trung và dài hạn theo quyết
định 443 và 497 của Thủ tướng Chính phủ sẽ kéo dài thời gian ký kết và giải

ngân các hợp đồng vay vốn đến hết năm 2010 nhưng giảm thời hạn vay được
hỗ trợ lãi suất và giảm mức hỗ trợ từ 4% xuống 2%.
Đánh giá tình hình sử dụng thực hiện:
Gói kích cầu đã mang lại những hiệu quả đáng mừng đặc biệt là trong
lĩnh vực xây dựng. Tuy nhiên việc triển khai gói kích cầu hợp lý vẫn là vấn đề
đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách. Việc triển khai 2 gói kích cầu
phải nhanh và đồng bộ để tạo sự cộng hưởng mạnh. Các thủ tục vay vốn cần
đơn giản hơn, tránh rườm rà, rắc rối. Và điều quan trọng hơn nữa là nguồn vốn
hỗ trợ phải được rót đúng địa chỉ, đến những lĩnh vực kinh tế có tiềm năng và
lợi thế, tránh tình trạng vay vốn để đầu tư vào các lĩnh vực có nhiều yếu tố rủi
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 19


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

ro khác như vàng, chứng khoán, bất động sản... Theo thành viên Hội đồng tư
vấn chính sách tiền tệ quốc gia Trương Đình Tuyển, có hai vấn đề gây khó
khăn cho gói kích cầu của Chính phủ. Thứ nhất là phải lường trước được tác
động của suy thoái kinh tế toàn cầu khiến thị trường đầu tư và tiêu dùng bị co
hẹp tới mức nào. Thứ hai là những thủ tục cho các doanh nghiệp vay phải bình
thường, không phải vì có hỗ trợ lãi suất mà lại đẻ ra thêm thủ tục. Phải triển
khai nhanh gói kích cầu đầu tư bởi chỉ khi làm tốt gói kích cầu đầu tư thì mới
cộng hưởng hiệu ứng cho gói kích cầu hỗ trợ lãi suất.
Rõ ràng, việc đưa ra gói kích cầu hỗ trợ lãi suất kịp thời của Chính phủ
đang giúp khơi thông nguồn vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên vấn đề mà các
chuyên gia kinh tế lo ngại hiện nay là gói kích cầu của Chính phủ chỉ kéo dài
trong một thời gian nhất định, và khi kết thúc rất có thể các doanh nghiệp và
nền kinh tế sẽ sốc về lãi suất nếu không có những tính toán về lộ trình và biện

pháp giảm dần lãi suất. Đây là những khó khăn mà doanh nghiệp cũng như các
nhà hoạch định chính sách cần tính tới ngay từ bây giờ.
Kích cầu đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài
Song song với mục tiêu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam, những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp trong nước đã mở hướng
làm ăn ra bên ngoài lãnh thổ, với số lượng dự án cùng vốn đầu tư tăng dần
từng năm.
Bản thỏa thuận hợp tác giữa Petro Vietnam và Tập đoàn Cherifien
(OCP) của Morocco mới được ký. Theo đó, Tập đoàn Dầu khí (Petro
Vietnam) với đại diện là Công ty Cổ phần Phân đạm và Hóa chất Dầu khí
(PVFCCo) đã ký biên bản ghi nhớ về việc hợp tác đầu tư xây dựng nhà máy
sản xuất phân bón DAP và nhà máy sản xuất Amonia tại Morocco với vốn đầu
tư ban đầu khoảng 600 triệu USD, hàng năm sản xuất từ 660.000 - 1.000.000
tấn DAP, cung cấp cho thị trường Việt Nam và khu vực. Ngoài ra, hai bên sẽ
cùng nhau nghiên cứu khả năng liên doanh hợp tác xây dựng một nhà máy sản
xuất Amonia tại Việt Nam hoặc tại một quốc gia thứ ba khi có đủ nguồn khí tự
nhiên cung cấp cho dự án.
OCP (Office Cherifien des Photphates) là tập đoàn kinh tế lớn nhất
Morocco, thuộc sở hữu của Hoàng gia Marocco, với tổng tài sản khoảng 3,6 tỷ
USD. Hiện OCP là nhà sản xuất các sản phẩm phốt phát lớn thứ ba thế giới
sau Nga và Mỹ, đồng thời là nhà xuất khẩu phốt phát đứng đầu với sản lượng
khoảng 30 triệu tấn/năm, chiếm 33% thị phần sản phẩm phân bón DAP trên
thế giới. Theo dự kiến, dự án nhà máy sản xuất phân bón DAP tại Morocco sẽ
được hoàn thành và đi vào hoạt động từ năm 2011. Đây sẽ là dự án đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài lớn nhất của Việt Nam từ trước tới nay.
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 20



Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến thời
điểm hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam đã có mặt tại cả 5 châu lục. Nhưng
phần lớn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam tập trung tại khu vực
châu Á, trong đó đứng đầu là thị trường Lào với 123 dự án, chiếm gần 39% về
số dự án và hơn 50% về vốn đầu tư.
Tính đến hết tháng 7/2008, Việt Nam còn 317 dự án đầu tư ra nước
ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư là 2,5 tỷ USD, vốn thực hiện đạt
khoảng 1 tỷ USD; quy mô vốn bình quân đạt 7,8 triệu USD/dự án. Dự báo
trong giai đoạn 2008 - 2010, mỗi năm doanh nghiệp trong nước sẽ đầu tư
khoảng 500 triệu USD ra nước ngoài
Có thể nói, xu hướng hoạt động đầu tư ra nước ngoài đang khá sôi
động, ngày càng có thêm doanh nghiệp Việt Nam có khả năng tài chính và
quan tâm mở rộng địa bàn hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hơn nữa, đầu tư ra nước ngoài đã và đang chuyển từ những dự án quy
mô nhỏ, đầu tư vào các ngành nghề đơn giản sang các dự án có quy mô lớn
với các ngành nghề đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ cao, trong đó phải kể đến dự
án Thủy điện Xekaman 1 tại Lào của Công ty Cổ phần Điện Việt- Lào, tổng
vốn đầu tư 441,6 triệu USD; dự án Thủy điện Xekaman 3 tại Lào của Công ty
Cổ phần Điện Việt-Lào, tổng vốn đầu tư 273 triệu USD; hợp đồng thăm dò,
khai thác dầu khí tại Angiêri của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, tổng vốn đầu tư
243 triệu USD; dự án xây dựng nhà máy thủy điện Nậm Mô của Tổng công ty
Hợp tác kinh tế Việt - Lào, tổng vốn đầu tư 142 triệu USD; dự án Trung tâm
Thương mại Hà Nội - Matxcơva của Công ty Cổ phần Trung tâm Thương mại
Hà Nội -Matxcơva, tổng vốn đầu tư 120 triệu USD.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, kết quả đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất
khiêm tốn. Nếu so với vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đến nay là hơn
130 tỷ USD thì đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam vẫn còn nhỏ bé, chỉ bằng

2% tổng vốn đăng ký của các dự án FDI vào Việt Nam.

Nhóm 4 KTĐT-5

Page 21


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở VIỆT
NAM
I. Xu hướng phát kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới
Trước những xu thế mới, để phát triển kinh tế phải đáp ứng yêu cầu
tăng trưởng nhanh và bền vững, các nước đang phát triển đều phải nghiên cứu
để điều chỉnh chiến lược phát triển cho mình. Trong bối cảnh đó, giai đoạn tới
năm 2020, chúng ta cũng cần xem xét để có sự điều chỉnh chiến lược phù hợp,
đáp ứng các yêu cầu tăng tốc, hội nhập và phát triển bền vững.
Từ nay tới năm 2020, chúng ta chủ yếu tiến hành sự nghiệp CNH,
HĐH, phát huy lợi thế so sánh để đưa nước ta trở thành quốc gia công nghiệp.
Trước hết, cần điều hành chính sách kinh tế vĩ mô để thực hiện CNH, hướng
tới xuất khẩu với các biện pháp cụ thể như: Ưu đãi vốn và tín dụng cho các
doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, tăng cường đầu tư thiết bị, công nghệ
hiện đại, thực hiện chính sách thuế quan ưu đãi với nguyên vật liệu, thiết bị
nhập khẩu phục vụ sản xuất hàng hóa xuất khẩu; thành lập các khu công
nghiệp, khu chế xuất và các đặc khu kinh tế mở, thực hiện chính sách mở cửa
cho hàng hóa nước ngoài nhập khẩu để cùng cạnh tranh trên thị trường trong
nước…
Tóm lại, Sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế đang mang lại cho
đất nước ta thời cơ phát triển mới. Nhưng bên cạnh những thời cơ to lớn đó là

những thách thức không nhỏ đặt ra từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế nước nhà, đặc biệt khi
Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).Do
vậy,chúng ta cần phải nỗ lực cố gắng vượt qua những khó khăn thử thách
trong quá trình phát triển để có thể hoàn thành tốt mục tiêu phát triển kinh tế
trong giai đoạn tới để có thể sớm đưa nước ta trở thành 1 nước công nghiệp
hiện đại.
II. Các giải pháp về tăng cường kích cầu đầu tư
Tăng cường kích cầu đầu tư nước ngoài (ĐTNN) vào Việt Nam
Từ thực tiễn thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
20 năm qua, đến nay có thể nói trong điều kiện của thế giới và khu vực hiện
nay, ĐTNN thực sự trở thành hình thức hợp tác KTQT rất hiệu quả đối với các
nước đang phát triển. Đối với Việt Nam cũng vậy, việc thu h út đầu tư nước
ngoài đóng 1 vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế.Do đó cần
tăng cường kích cầu đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Dưới đây là 1 số biện
pháp có thể thực hiện được để tăng cường đầu tư nước ngoài vào Việt Nam:
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 22


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

3.1.1.Về môi trường pháp lí:
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và triển khai có hiệu quả
các đạo luật mới như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, sửa đổi Luật Thuế,
Luật Ngân hàng, Bảo hiểm, Sở hữu trí tuệ, Hải quan… Ban hành các văn bản
hướng dẫn còn thiếu, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và minh bạch của hệ
thống pháp lý về đầu tư - kinh doanh, nhất là các văn bản liên quan trực tiếp
đến hoạt động của các doanh nghiệp (về quyền sử dụng đất, về huy động vốn,

về lao động, về thuế, đặc biệt là cách tính thuế và thu thuế).
Rà soát, điều chỉnh các cam kết về mở cửa thị trường cho các nhà đầu
tư nước ngoài trong lĩnh vực thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ theo
đúng các cam kết của WTO. Công khai các văn bản pháp quy của các Bộ,
ngành có liên quan về điều kiện đầu tư hoặc hành nghề của các doanh nghiệp
nói chung để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các cam kết của Nhà nước ta.
Đồng thời, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành các văn bản về quản lý đầu tư
nước ngoài trên địa bàn theo hướng minh bạch, rõ ràng về đầu mối, thời gian,
đầu mục hồ sơ…
Tập trung thực hiện các công việc theo nội dung công văn số
2513/BKH-ĐTNN của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ký ngày 13/4/2007
về tăng cường quản lý hoạt động ĐTNN trong tình hình mới.
Ban hành Thông tư hướng dẫn một số nội dung chưa rõ ràng, cụ thể tại
Nghị Định số 108/2006/ NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư.
Tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó có việc
ban hành quy chế khuyến khích tư nhân, đầu tư nâng cấp các công trình giao
thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không để
xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Điều chỉnh quy hoạch các ngành cho phù hợp với các thỏa thuận và cam
kết quốc tế trong quá trình hội nhập. Đặc biệt chú trọng công tác dự báo nhằm
nâng cao chất lượng quy hoạch (quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm, địa
bàn...). Xoá bỏ quy định về việc yêu cầu các dự án đầu tư phải phù hợp với
quy hoạch sản phẩm.
Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ
trình cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng
nhận đầu tư.
Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để
kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành
các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông
qua trong năm 2006 có liên quan đến đầu tư, kinh doanh.


Nhóm 4 KTĐT-5

Page 23


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng
các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho
người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành.
Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập
đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi
nước thành viên EU, Hoa Kỳ.
Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái
với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ
trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
3.1.2.Về thủ tục hành chính
Tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế ‘liên thông-một cửa’ ở các cơ quan
cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư. Tăng cường năng lực quản lý
ĐTNN của các cơ quan chức năng và cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra
hoạt động đầu tư; giải quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, thuế, xuất nhập
khẩu, hải quan,... nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động ĐTNN, qua đó tăng thêm
sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam.
Thực hiện từng bước minh bạch hoá chính sách, thủ tục đầu tư; công
khai hoá các bước của quá trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư lên mạng.
Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặc biệt
trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án
ĐTNN, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác

kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư.
Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực
hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp
quản lý đầu tư nước ngoài.
Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp
phép, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư .
Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý đầu tư nước ngoài giữa Trung
ương và địa phương và giữa các Bộ, ngành liên quan.
3.1.3. Về quản lý nhà nước trong hoạt động ĐTNN :
Tập trung vào việc giảm khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện :
Phối hợp hỗ trợ, thúc đẩy nhanh việc giải ngân vốn đăng ký của các dự
án đã được cấp GCNĐT, đặc biệt chú trọng đến công tác thúc đẩy triển khai
các dự án quy mô vốn đầu tư lớn được cấp GCNĐT trong năm 2006 và năm
2007 bằng cách tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính, về giải phóng
mặt bằng .v.v. giúp cho các dự án này triển khai nhanh chóng.
Nhóm 4 KTĐT-5

Page 24


Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

Ban hành chế độ báo cáo thống kê áp dụng cho các doanh nghiệp có
vốn ĐTNN và bên hợp doanh nước ngoài thay thế Thông tư số 01/LB ngày
31/3/1997 để làm căn cứ cho các cơ quan quản lý ĐTNN địa phương và doanh
nghiệp thực hiện. Đặc biệt, chú trọng việc thống kê vốn thực hiện của cac
doanh nghiệp ĐTNN.
Xây dựng, củng cố hệ thống quản lý thông tin đầu tư nước ngoài, kết
nối các đầu mối quản lý đầu tư tại địa phương để đảm bảo tốt chính sách hậu
kiểm.

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà
soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án.
Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư
trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh
vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế.
Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo
điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư.
3.1.4. Về đào tạo nguồn nhân lực:
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua:
Tăng cường mạnh mẽ công tác đào tạo, nhất là đào tạo nghề với sự
tham gia của các tổ chức trong nước và nước ngoài nhằm đáp ứng tốt hơn nhu
cầu lao động kỹ thuật cao của nhà đầu tư.
Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác XTĐT nói
riêng và quản lý đầu tư nói chung. Vận động và phối hợp với các tổ chức quốc
tế hỗ trợ mở các lớp đào tạo về xúc tiến và quản lý ĐTNN.
3.1.5. Về xúc tiến đầu tư(XTĐT):
Đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư trên cơ sở đa dạng hoá các
phương thức xúc tiến đầu tư theo các hướng sau:
Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến
đầu tư nói riêng và quản lý đầu tư nói chung. Vận động và phối hợp với các tổ
chức quốc tế hỗ trợ mở các lớp đào tạo về xúc tiến và quản lý đầu tư nước
ngoài.
Thành lập các bộ phận xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm.
Ngoài ra, đề nghị UNIDO xem xét nối lại chương trình cử đại diện Việt Nam
tại Văn phòng xúc tiến đầu tư của UNDO (IPS) tại một số nước và khu vực
trọng điểm (Nhật Bản, Pháp, Hàn Quốc, áo, Italia, Hoa Kỳ);
Nâng cấp trang thông tin website giới thiệu về đầu tư nước ngoài.
Trang web cần được thiết kế khoa học bằng tiếng Anh, tiếng Hoa và tiếng
Nhật. Biên soạn lại các tài liệu giới thiệu về đầu tư nước ngoài như guidebook,

Nhóm 4 KTĐT-5

Page 25


×