Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư. Giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.97 KB, 68 trang )

ĐỀ TÀI: Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư. Giải thích tình
hình kích cầu đầu tư ở nước ta.
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHI TIÊU ĐẦU TƯ VÀ KÍCH CẦU
ĐẦU TƯ
I.Một số khái niệm cơ bản
1.Khái niệm về đầu tư
2.Phân loại đầu tư
3. Chi tiêu đầu tư
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư
1. Lợi nhuận kì vọng
2. Lãi suất tiền vay
3. Sản lượng quốc gia
4. Chu kì kinh doanh
5. Đầu tư nhà nước
6. Môi trường đầu tư
7. Lợi nhuận thực tế
8. Các nhân tố vĩ mô khác
III. Kích cầu đầu tư
1. Khái niệm
2. Ý nghĩa của kích cầu đầu tư
3. Các biện pháp kích cầu đầu tư
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀ TÌNH HÌNH KÍCH CẦU ĐẦU
TƯ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 ĐẾN NAY
I.Thực trạng đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến nay
1.Đầu tư trong nước
a. Đầu tư nhà nước
b. Đầu tư dân doanh trong nước
2.Đầu tư từ nước ngoài
a. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
b. Viện trợ phát triển chính thức ODA


c. Nguồn kiều hối của kiều bào ở nước ngoài
II.Tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam
1.Chính sách lãi suất
2.Chính sách thuế
3.Đầu tư nhà nước
4.Chính sách tỷ giá
5.Bình ổn giá, kiềm chế lạm phát
6. Xúc tiến thương mại
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CHI ĐẦU TƯ VÀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở NƯỚC TA
I.Nhóm giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
1. Huy động và sử dụng nguồn vốn nhà nước
2. Huy động và sử dụng nguồn vốn FDI
3. Huy động và sử dụng nguồn vốn ODA
II. Nhóm giải pháp cải thiện môi trường đầu tư
1.Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách
2.Nhóm giải pháp về qui hoạch
3.Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng
4.Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực
5.Nhóm giải pháp về khoa học công nghệ
6.Nhóm giải pháp về giải phóng mặt bằng
7.Nhóm giải pháp về phân cấp, cải cách hành chính
8.Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư
9.Nhóm giải pháp ổn định hóa môi trường vĩ mô
III.Nhóm giải pháp nhằm tăng hiểu quả các gói kích cầu
1.Về phía Cơ quan quản lý Nhà nước
2.Về phía các đối tượng được thụ hưởng lợi ích từ gói kích cầu
LỜI MỞ ĐẦU

Đầu tư là hoạt động không thể thiếu được trong nền kinh tế của các quốc

gia, dù là quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển. Đầu tư góp phần
tạo nên tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Có thể nói đầu tư đã trở thành
mối quan tâm hàng đầu của chính phủ các nước nói chung và của chính phủ
Việt Nam nói riêng.
Hoạt động đầu tư là hoạt động mang tính chất lâu dài được thể hiện ở
thời gian thực hiện đầu tư, thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi số vốn
đã bỏ ra đối với các cở sở vật chất kĩ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh. Do
đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố
không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế. Mọi kết quả và hiệu quả
của quá trình thực hiện đầu tư cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố không ổn
định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian. Bởi vậy, để đảm bảo
cho mọi công cuộc đầu tư được tiến hành thuận lợi, đạt được mục tiêu mong
muốn, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao thì phải xác định được các nhân
tố ảnh hưởng đến đầu tư, nghiên cứu các tác động của chúng, từ đó đưa ra
được các giải pháp hạn chế tác động tiêu cực và gia tăng tác động tích cực.
Đây là vấn đề cần phải được quan tâm đúng mức.
Chúng tôi thực hiện đề tài này cũng nhằm làm rõ về các yếu tố ảnh hưởng
đến chi đầu tư, từ đó giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam và các
giải pháp đưa ra nhằm hoàn thiện những thiếu sót về đầu tư. Bài làm có thể
còn nhiều thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được y kiến đóng góp từ thầy
cô và các bạn. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn thầy Từ Quang Phương đã
chỉ bảo và giúp đỡ chúng tôi hoàn thành đề tài này.
Chương I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHI TIÊU ĐẦU TƯ VÀ KÍCH
CẦU ĐẦU TƯ
I.Một số khái niệm cơ bản:
1. Khái niệm về đầu tư:
Đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nhằm thu được những kết quả và mục tiêu nhất đinh trong tương lai.
Mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được những kết quả cao hơn so
với những hi sinh về các nguồn lực đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành

đầu tư.
Các nguồn lực phải bỏ ra có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên sức lao
động và trí tuệ. Những kết quả thu được có thể là sự gia tăng tài sản tài
chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực có khả năng làm
việc với năng suất lao động cao cho nền kinh tế và toàn bộ xã hội.
2. Phân loại đầu tư:
Nếu đứng trên góc độ quan hệ quản lý của chủ đầu tư thì đầu tư được
chia làm 2 loại: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
- Đầu tư gián tiếp là hoạt động đầu tư mà người bỏ vốn không trực
tiếp tham gia quản lí, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả
đầu tư chẳng hạn như các nhà đầu tư tham gia mua bán cổ phiếu và trái
phiếu trên thị trường chứng khoán thứ cấp.
- Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người bỏ vốn trực tiếp tham
gia quản lý điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư.
Đầu tư trực tiếp bao gồm đầu tư thương mại, đầu tư tài chính và đầu tư
phát triển.
Đầu tư tài chinh và đầu tư thương mại hay còn gọi là đầu tư dịch
chuyển. đây là hình thức đầu tư trong đó việc bỏ vốn là nhằm dịch chuyển
quyền sở hữu giá trị của tài sản. Trong đầu tư dịch chuyển không có sự
gia tăng của taì sản. Chỉ có sự gia tăng về tài sản tài chính của người đầu
tư. Loại đầu tư này gián tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế thông qua sự
đóng góp tài chính tích lũy của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư phát
triển, cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư phát triển và tạo thúc đẩy quá
trình lưu thông phân phối sản phẩm do quá trình đầu tư phát triển tạo ra.
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là hoạt động chi
dùng vốn nhằm duy trì và tạo ra những năng lực sản xuất mới, những tiềm
lực mới của nền kinh tế, tạo them công ăn việc làm và vì mục tiêu phát
triển. Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư đóng vai trò quan trọng với sự
tăng trưởng và phát triển của mỗi quốc gia. Đầu tư phát triển là tiền đề, cơ
sở cho các hoạt động đầu tư khác. Các hoạt động đầu tư khác không thể

tồn tại và vận động nếu thiếu đầu tư phát triển.
3. Chi tiêu đầu tư:
Xét ở tầm vĩ mô,chi tiêu đầu tư là sự dịch chuyển vốn từ các khoản tiết
kiệm của hộ gia đình và chính phủ sang khu vực kinh doanh nhằm làm
tăng lượng sản phẩm đầu ra và góp phần vào tăng trưởng kinh tế. Chi tiêu
đầu tư bao gồm quyết định trì hoãn tiêu dùng, tìm kiếm và tích lũy vốn để
tăng tiềm năng sản xuất cho nền kinh tế.
Trên góc độ vi mô, chi tiêu đầu tư là quá trình nhà đầu tư quyết định
thời điểm thực hiện đầu tư và kết hợp các nguồn lực với tỷ lệ như thế nào
để quá trình thực hiện đầu tư đạt được kết quả cao nhất.
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư:
1. Lợi nhuận kì vọng:
1.1. Lý thuyết của Keynes:
Theo Keynes thì lợi nhuận kì vọng là 1 trong 2 yếu tố cơ bản quyết
định đến đầu tư.
Lợi nhuận kì vọng là khoản lợi nhuận nhà đầu tư mong muốn sẽ thu
được trong tương lai khi ra quyết định đầu tư.
Nếu lợi nhuận kì vọng lớn hơn lãi suất cho vay thì nhà đầu tư sẵn sàng
bỏ vốn để kinh doanh. Nếu lợi nhuận kì vọng thấp và nhỏ hơn tiền lãi thu
đượcthì nhà đầu tư sẽ không bỏ vốn sản xuất kinh doanh mà gửi tiền vào
ngân hàng.
Có hai chỉ tiêu định lượng để xác định lợi nhuận của một dự án đó là tỷ
suất lợi nhuận vốn đầu tư và hệ số hoàn vốn nội bộ của dự án. Tỷ suất lợi
nhuận phản ánh mức lợi nhuận thu được tính trên một đơn vị đầu tư. Hệ
số hoàn vốn nội bộ là lãi suất dự án có thể đạt được để đảm bảo cho tổng
các khoản thu của dự án cân bằng với các khoản chi ở thời gian mặt bằng
hiện tại.
Các nhà đầu tư không căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận thông thường mà
căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận biên để quyết định đầu tư. Tỷ suất lợi nhuận
biên thường giảm dần.

Tỷ suất lợi nhuận có quan hệ tỷ lệ thuận một chiều với đầu tư.
Một ngành có tỷ suất lợi nhuận cao thì người ta sẽ đầu tư vào nhiều. Vậy
tỷ suất lợi nhuận giúp đưa ra quyết định đầu tư vào đâu. Tuy nhiên nếu
đầu tư nhiều thì hiệu quả sẽ giảm. Lúc này ta xét đến tỷ suất lợi nhuận
biên. Tỷ suất lợi nhuận biên cho biết nên đầu tư bao nhiêu, lượng vốn như
thế nào.
Tỷ suất lợi nhuận= lợi nhuận / vốn đầu tư(%)
Tỷ suất lợi nhuận biên=Δlợi nhuận/ Δvốn đầu tư.(%)
Tỷ suất lợi nhuận biên của dự án giảm do các nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất: khi tăng chi tiêu đầu tư, nhu cầu vốn đầu tư tăng lên. Nhu cầu
vốn tăng làm lãi suất cho vay tăng( tức là giá cả của đồng vốn tăng lên)
làm cho chi phí sản xuất kinh doanh tăng. Nếu các yếu tố khác ko đổi thì
khi đó lợi nhuận giảm làm cho tỷ suất lợi nhuận biên giảm.
Thứ hai: xuất phát từ phương diện cung sản phẩm cho thị trường. Khi
gia tăng đầu tư và kết quả đầu tư đã đi vào hoạt động phát huy kết quả
trong thực tiễn thì cung sản phẩm sẽ tăng nghĩa là có nhiều sản phẩm
được cung ứng vào nền kinh tế. Cung tăng dẫn đến giá sản phẩm giảm.
chi phí sản xuất coi như ổn định, tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư giảm.
Khi quy mô vốn đầu tư tăng thì hiệu quả biên của vốn giảm dần nên các
nhà đầu tư chỉ tiếp tục đầu tư đến khi hiệu quả biên của vốn lớn hơn lãi
suất của vốn vay trên thị trường vốn. Khi nào hiệu quả biên của vốn thấp
hơn mức lãi suất vốn vay tức là lợi nhuận tăng thêm thấp hơn so với chi
phí tăng thêm thì các nhà đầu tư sẽ ngừng việc đưa thêm vốn vào mở rộng
sản xuất. điểm cân bằng đạt được khi hiệu quả biên của vốn đầu tư bằng
với lãi suất cho vay của ngân hàng.
Theo Keynes tỷ suất lợi nhuận là đại lượng khó xác định. Tuy nhiên
chính điều đó lại thúc đẩy các nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư. Lợi nhuận thu
được có thể rất cao, có thể thấp, thậm chí có thể âm nên kích thích các nhà
đầu tư bỏ vốn với kì vọng có thể thu được lợi nhuận cao. Bên cạnh đó họ
cũng phải đối mặt với những rủi ro có thể xảy ra. Đó là tính hai mặt của

đầu tư, chấp nhận rủi ro để thu được lợi nhuận kì vọng.
1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận kì vọng:
- Cung cầu hàng hóa:
Cầu là lượng hàng hóa mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng
mua tại các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian xác định. Cầu hàng
hóa phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đó là thu nhập, mức sống, thói quen tiêu
dùng và thị hiếu của người dân. Nếu cầu tiêu dùng trên thị trường tăng thì
lợi nhuận kì vọng của doanh nghiệp tăng và ngược lại.
Cung hàng hóa là lượng hàng hóa mà người sản xuất muốn bán và có
khả năng bán tại những mức giá khác nhau trong khoảng thời gian xác
định. Trước hết nó phụ thuộc vào khả năng sản xuất của xã hội tức là khat
năng kết hợp các yếu tố đầu vào, công nghệ sản xuất. bên cạnh đó là các
yếu tố khác như chính sách thuế, các kỳ vọng… Khi cung hàng hóa trên
thị trường tăng thì giá hàng hóa giảm xuống làm cho lợi nhuận của doanh
nghiệp giảm xuống, nếu cung hàng hóa trên thị trường thấp dẫn đến giá
hàng hóa tăng làm cho lợi nhuận kì vọng của doanh nghiệp tăng lên.
- Mức độ rủi ro:
Một trong những đặc điểm của đầu tư phát triển là lượng vốn lớn,
thời kì đầu tư kéo dài đồng nghĩa với độ rủi ro cao. Rủi ro là một đặc
điểm cơ bản của hoạt động đầu tư. Phạm vi ảnh hưởng của rủi ro rất rộng
chẳng hạn như những thay đổi không lường trước của giá cả, công nghệ.
Một hoạt động có mức độ rủi ro thấp thường có lợi nhuận kì vọng cao hơn
hoạt động đầu tư có mức độ rủi ro cao. Để giảm thiểu những tác động của
rủi ro thì cần có các biện pháp quản lý rủi ro như nhận diện chính xác rủi
ro, đánh giá mức độ rủi ro và xây dựng biện pháp phòng chống rủi ro.
- Các nguồn lực đầu tư vào quá trình sản xuất:
Khi quyết định đầu tư, các nhà đầu tư phải xác đinh được các yếu tố
đầu vào để đảm bảo cho quá trình thực hiện đầu tư cũng như vận hành kết
quả đầu tư. Việc sử dụng các yếu tố đầu vào nào, số lượng bao nhiêu và
chất lượng ra sao ảnh hưởng rất nhiều đến số lượng và chất lượng sản

phẩm đầu ra và ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Các yếu tố
đầu vào cụ thể là:
Các điều kiện về nguồn nhân lực: số lượng và chất lượng lao động. Khi
xem xét nguồn nhân lực thì ta phải chú ý đến khả năng dự báo tăng dân
số, tiền lương, trình độ học vấn và văn hóa của người lao động.
Nguồn vốn cho hoạt động đầu tư phát triển: khả năng huy động vốn trên
thị trường tài chính và tỷ lệ phân bổ vốn cho hoạt động đầu tư.
Về nguồn nguyên nhiên liệu đầu vào: phụ thuộc vào chính sách bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên, các chính sách đền bù giải phóng mặt bằng, mối
liên hệ giữa các ngành kinh tế…
Về trình độ công nghệ: phụ thuộc vào các quy định về chuyển giao công
nghệ, khả năng nghiên cứu và tiếp thu của đội ngũ khoa học trong nước.
Về cơ sở hạ tầng: phần lớn được đầu tư từ ngân sách nhà nước nên phụ
thuộc vào quy hoạch vùng và nguồn ngân sách.
- Thuế:
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, vừa là công cụ tái
phân phối cùa cải xã hội vừa là công cụ điều tiết phân bổ vốn giữa các
ngành , vùng miền. Thuế tác động đến cung cầu trên thị trường. Thuế thu
nhập cá nhân làm giảm thu nhập của người dân làm giảm cầu tiêu dùng,
thuế còn tác động đến giá các yếu tố đầu vào làm tăng chi phí sản xuất và
ảnh hưởng đến cung hàng hóa. Mà cung cầu hàng hóa lại ảnh hưởng trực
tiếp đến lợi nhuận kì vọng của doanh nghiệp. Mặt khác, thuế thu nhập
doanh nghiệp còn trực tiếp ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Vấn đề ở đây là xây dựng một chính sách thuế phù hợp. Nếu ưu đãi quá
mức sẽ gây thất thu ngân sách và giảm đầu tư công cộng. Còn nếu thuế
quá cao sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của các mặt hàng sản xuất trong
nước và gây ra hiện tượng trốn thuế, buôn lậu.
2.Lãi suất tiền vay:
2.1. Khái niệm:
Lãi suất được hiểu theo nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng, giá cả

của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê hoặc cho thuê các dịch vụ về vốn
dưới hình thức tiền tệ hoặc dưới dạng thức các tài sản khác nhau. Khi đến
hạn, người đi vay trả cho người cho vay một khoản tiền dôi ra ngoài số
tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn gọi
là lãi suất.
Lãi suất là cơ sở để các cá nhân cũng như doanh nghiệp đưa ra quyết
định kinh tế của mình xem đầu tư vốn của mình vào danh mục đầu tư này
hay danh mục đầu tư khác.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trương hiện nay, chính sách lãi suất
còn được sử dụng như một công cụ góp phần điều tiết kinh tế vĩ mô.
Thông qua việc thay đổi mức lãi suất và cơ cấu lãi suất trong từng thời kí
nhất định, chính phủ có thể tác động đến quy mô và tỷ trọng các loại vốn
đầu tư, do vậy tác động đến quá trình điều chỉnh cơ cấu;tốc độ tăng
trưởng, sản lượng, tỷ lệ thất nghiệp và tình hình lạm phát của đất nước.
Mặt khác, lãi suất còn góp phần điều tiết các luồng vốn đi ra và đi vào của
một nước. Nếu mức lãi suất trong nước thấp hơn mức lãi suất trên thị
trường vốn quốc tế trong bối cảnh mở cửa thị trường vốn thì dòng vốn
đầu tư sẽ chảy ra nước ngoài, đầu tư trong nước giảm. Ngược lại nếu lãi
suất trong nước cao hơn thì sẽ có dòng vốn từ nước ngoài chảy vào làm
tăng đầu tư trong nước.
2.2. Phân biệt lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa:
Để hiểu rõ tác động của lãi suất đến đầu tư ta cần phân biệt hai loại lãi
suất: lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa.
Lãi suất mà các ngân hàng trả cho người gửi tiền gọi là lãi suất danh
nghĩa. Lãi suất danh nghĩa trước hết phụ thuộc vào cung cầu vốn vay trên
thị trường. Lãi suất được điều chỉnh để tạo ra sự cân bằng trên thị trường
vốn. Ngoài ra lãi suất cũng chịu ảnh hưởng của sự điều tiết ngân hàng nhà
nước thông qua chính sách tiền tệ như lãi suất cơ bản, nghiệp vụ thị
trường mở, tỉ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu.
Lãi suất thực tế là lãi suất danh nghĩa sau khi đã loại trừ yếu tố lạm phát.

Lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa liên hệ với nhau qua công thức:
r = (1+i)/(1+π) – 1
trong đó r: lãi suất thực
i: lãi suất danh nghĩa
π: tỷ lệ lạm phát.
Thông thường nhiều trường hợp khi tỷ lệ lạm phát nhỏ hơn 10% thì lãi
suất thực và lãi suất danh nghĩa liên hệ với nhau qua công thức đơn giản:
r = i- π
Mối liên hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa cho ta thấy một
xu hướng thực tế, lạm phát càng cao lãi suất thực càng nhỏ.
Trong phân tích tài chính của một dự án đầu tư lãi suất được sử dụng là
lãi suất thực tế. Lãi suất thực tế là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết
định đầu tư của doanh nghiệp và hộ gia đình.
2.3. Mối quan hệ giữa lãi suất, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư:
a. Quan hệ giữa lãi suất và quy mô vốn đầu tư:
Chủ đầu tư sẽ quyết định đầu tư khi hệ số hoàn vốn nội bộ IRR của
dự án lớn hơn lãi suất thực tế, vì vậy lãi suất càng cao càng có ít dự án
đầu tư hơn, nhu cầu đầu tư giảm.
Tuy nhiên nếu lãi suất càng thấp thì sẽ có nhiều dự án IRR thấp được
triền khai tức là những dự án ít hiệu quả, độ rủi ro cao. Khi đó nền kinh tế
có thể tăng trưởng nhanh do tổng đầu tư tăng nhưng có thể dẫn đến lạm
phát cao, chính phủ buộc phải thực hiện các biện pháp kiểm soát tiền tệ.
Những dự án có hiệu quả thấp sẽ bị lỗ và tiếp tục vay vốn, nhiều dự án bị
phá sản, nền kinh tế bị suy thoái. Ngoài ra nếu lãi suất trong nước thấp
hơn lãi suất thế giới thì có thể dòng vốn trong nước sẽ chảy ra nước ngoài
làm cho đầu tư trong nước giảm.
Mặt khác theo công thức: I=a-b×r
Trong đó: a: đầu tư tự định , b: độ nhạy của đầu tư
r: lãi suất.



Đầu tư và lãi suất tỷ lệ nghịch với nhau. Lãi suất càng tăng thì chi phí
vốn vay của doanh nghiệp tăng dẫn đến lợi nhuận thực của doanh nghiệp
giảm. Theo lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư thì đầu tư tỷ lệ thuận với lợi
nhuận thực của doanh nghiệp. do đó khi lợi nhuận thực giảm thìđầu tư
giảm. Trên thực tế vẫn có nhiều doanh nghiệp vẫn quyết định tăng quy
mô vốn đầu tư khi lãi suất ở mức cao. Đó là những doanh nghiệp nhận
thấy nếu mở rộng quy mô sản xuất sẽ thu được lợi nhuận cao, hoặc những
doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng ít vốn đầu vaònên tác động của lãi suất
đến quyết định đầu tư là không lớn nên vẫn quyết định đầu tư. Bên cạnh
đó có những doanh nghiệp khi lãi suất thấp vẫn không tăng quy mô vốn
đầu tư vì nhận thấy việc mở rộng đầu tư không mang lại nhiều lợi nhuận
và có độ rủi ro cao. Vậy bất kỳ sự tăng giảm nào của lãi suất cũng luôn
gây bất lợi cho nền kinh tế. việc giữ cho lãi suất ổn định là yêu cầu bức
thiết để tăng cơ cấu đầu tư, ổn định nền kinh tế.
-Khi quy mô vốn thay đổi:
Khi quy mô vốn tăng đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất nhưng
nếu lượng tăng không đủ lớn để tác động đến cầu vốn thì lãi suất không
đổi. Nếu quy mô vốn tăng đủ lớn để tác động làm đường cầu vốn vay dịch
chuyển sang phải, trong khi cung vốn vay không đổi thì lãi suất tăng.
Trong trường hợp quy mô sản xuất lớn, hiệu quả trong sản xuất cao dẫn
đến lợi nhuận tăng lên, khi đó phần tích lũy cho tái đầu tư tăng lên, giảm
áp lực vay vốn với các ngân hàng,lãi suất sẽ được điều chỉnh giảm xuống.
D
i
I
O
i
0
i

1
I
0
I
1
Hình 1: Lãi suất tiền vay là biến nội sinh của hàm cầu đầu tư
Khi quy mô vốn giảm, cầu vốn giảm làm cho lãi suất cũng giảm
xuống.
Vậy lãi suất và quy mô vốn đầu tư tác động đến nhau thông qua quan hệ
cung cầu về vốn vay. Trong đó, lãi suất tác động đến cung cầu qũy cho
vay, còn quy mô vốn phụ thuộc vào cầu quỹ cho vay. Lãi suất tăng tác
động làm giảm quy mô vốn, lãi suất giảm thì quy mô vốn đầu tư lại tăng
lên.
b, Mối quan hệ giữa quy mô vốn và tỷ suất lợi nhuận.
Như đã nêu ở phần lợi nhuận kỳ vọng thì tỷ suất lợi nhuận tăng sẽ
làm tăng quy mô vốn đầu tư. Tỷ suất lợi nhuận giảm làm quy mô đầu tư
không tăng nữa hoặc có thể bị thu hẹp.
Theo chiều ngược lại, tác động của quy mô vốn đầu tư đến tỷ suất lợi
nhuận là khi quy mô vốn đầu tư tăng lên thì tỷ suất lợi nhuận cũng giảm
dần
c, Mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ suất lợi nhuận:
- Tỷ suất ảnh hưởng đến lãi suất:
Tỷ suất lợi nhuận giảm làm cho quy mô vốn đầu tư giảm kéo theo nhu
cầu về vốn vay giảm trong khi cung cầu về quỹ cho vay không thay đổi.
Từ đó lãi suất giảm để kích thích đầu tư tăng để làm cân bằng cung cầu
quỹ cho vay.
Tỷ suất lợi nhuận tăng làm quy mô vốn đầu tư tăng làm cầu về quỹ cho
vay tăng trong khi cung cầu của quỹ cho vay không tăng kịp vì vậy để
tăng cung quỹ cho vay đáp ứng sự tăng lên của cầu về vốn vay thì lãi suất
phải tăng.

Lãi suất ảnh hưởng tới tỷ suất lợi nhuận:
Trong ngắn hạn: tỷ suất lợi nhuận là nói đến lợi nhuận ròng sau khi
đã khấu trừ chi phí trong đó chi phí thanh toán lãi suất cho ngân hàng
cũng chiếm một phần không nhỏ. Do đó khi lãi suất tăng thì lợi nhuận
giảm dẫn đến tỷ suất lợi nhuận giảm.
Trong dài hạn lợi nhuận giảm làm cho doanh nghiệp phải thu hẹp đầu
tư làm cho cung sản phẩm trên thị trường giảm trong khi cầu về hàng hóa
trên thị trường không thay đổi làm cho giá hàng hóa tăng lên. Lợi nhuận
tăng dẫn đến tỷ suất lợi nhuận cũng tăng. Nếu hoạt động đầu tư có nhiều
rủi ro hoặc vì một lý do nào đấy doanh nghiệp không mở rộng đầu tư thì
tỷ suất lợi nhuận không thay đổi.
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất:
- Cung cầu qũy cho vay:
Lãi suất là giá cả cho vay vì vậy bất kỳ một sự thay đổi nào của cung
hoặc cầu hoặc cả cung và cầu quỹ cho vay không cùng một tỷ lệ cũng
làm thay đổi lãi suất vốn vay, tuy mức biến động ít nhiều phụ thuộc vào
quy định của chính phủ và ngân hàng trung ương song đa số các nước có
nền kinh tế thị trường đều căn cứ vào nguyên lý này để xác định lãi suất.
Từ điều này cho thấy chúng ta có thể tác động vào cung cầu trên thị
trường vốn để thay lãi suất trong nền kinh tế cho phù hợp với từng thời
kỳ: chẳng hạn như thay đổi cơ cấu đầu tư, tập trung vốn đầu tư cho các dự
án trọng điểm. Mặt khác muốn duy trì sự ổn định của lãi suất thì sự ổn
định của thị trường vốn phải được đảm bảo vững chắc.
-Lạm phát kỳ vọng:
Khi lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi
suất có xu hướng tăng. Điều này có thể được giải thích bằng hai hướng
tiếp cận. Thứ nhất xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất
danh nghĩa cho thấy để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng
đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng. thứ hai công chúng
dự đoán lạm phát tăng sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ

hàng hóa hoặc những dạng thức tài sản phi tài chính khác như vàn ngoại
tệ mạnh hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài nếu cố thế. Tất cả điều này đều
làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất của các nhà băng
cũng như trên thị trường. điều này cho thấy tầm quan trọng của việc khắc
phục tâm lý lạm phát đối với việc ổn định lãi suất, sự ổn định và tăng
trưởng của nền kinh tế.
- Bội chi ngân sách nhà nước:
Bội chi ngân sách nhà nước trực tiếp làm cho cầu của quỹ cho vay
tăng làm tăng lãi suất. Sau nữa bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lý
công chúng về gia tăng mức lạm phát và do vậy sẽ gây áp lực tăng lãi
suất. trên một giác độ khác, thông thường khi bội chi ngân sách tăng
chính phủ thường gia tăng việc phát hành trái phiếu. Cung trái phiếu trên
thị trường tăng làm cho giá trái phiếu trên thị trường có xu hướng giảm
xuống, lãi suất thị trương vì vậy mà tăng lên. Hơn nữa tài sản có của các
ngân hàng thương mại gia tăng ở khoản mục trái phiếu chính phủ, dự trữ
vượt quá giảm, lãi suất ngân hàng cũng sẽ tăng.
- Các chính sách của chính phủ:
Chính phủ có thể thông qua chính sách lãi suất để điều chỉnh cơ cấu
kinh tế của một vùng miền địa phương nào đó. Có thế dùng chính sách lãi
suất ưu đãi để hỗ trợ các vùng miền địa phương phát triển ngành nghề
kinh tế mà chính phủ mong muốn.
Những thay đồi trong chính sách thuế của chính phủ cũng ảnh hưởng
tới lãi suất. Thuế thu nhập cá nhân và thuế lợi tức công ty ảnh hưởng đến
lãi suất như ảnh hưởng của thuế đến giá cả hàng hóa. Nếu các hình thức
thuế này tăng lên cũng có nghĩa là điều tiết đi một phần thu nhập của cá
nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia kinh
doanh chứng khoán. Thông thường ai cũng quan tâm đến thu nhập thực
tế, lợi nhuận sau thuế hơn là thu nhập danh nghĩa. Do vậy để duy trì một
mức lãi suất nhất định thì phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những thay
đồi về thuế.

- Những thay đổi về đời sống xã hội:
Sự thay đổi của lãi suất còn chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố về
đời sống xã hội. Đó là sự phát triển của thị trường tài chính với các công
cụ tài chính đa dạng phong phú, độ phát triển của các tổ chức tài chính
trung gian bên cạnh đó là sự cạnh tranh trong hoạt động cung cấp dịch vụ
của các tổ chức này, hiệu suất sử dụng vốn hay tỷ suất đầu tư cận biên
trong nền kinh tế trong các thời kỳ khác nhau do sự thay đổi công nghệ và
phát triển mạng tính chu kỳ của nền kinh tế cũng tác động đến sự thay đổi
lãi suất. thêm nữa là tình hình về kinh tế chính trị cũng như những biến
động về tài chính quốc tế… đều ít nhiều tác động đến sự thay đổi lãi suất
của các nước khác.
3.Sản lượng quốc gia:
3.1.Khái niệm:
Sản lượng quốc gia hay tổng sản phẩm trong nước là giá trị của tất cả
hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trên lãnh thổ quốc gia trong
một thời kỳ nhất định.
GDP được chia thành bốn thành tố bao gồm tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu
chính phủ mua hàng hóa dịch vụ và xuất khẩu ròng:
GDP= C+I+G+NX.
3.2. Giải thích tác động của sản lượng quốc gia đến chi tiêu đầu tư:
- Lý thuyết số nhân:
Nhu cầu về sản lượng sản phẩm hay sự thay đổi sản lượng là yếu tố
tác động đến việc tăng hay giảm quy mô đầu tư. Khi GDP tăng nhanh làm
thu nhập của người dân tăng kích thích tiêu dùng đồng thời làm tăng tiết
kiệm. Khi tiêu dùng tăng thì tổng cầu tăng, tiết kiệm tăng thì cung về vốn
vay tăng làm giảm lãi suất, kích thích đầu tư.
Hơn nữa khi GDP tăng sẽ tạo tâm lý lạc quan trong dân chúng. Người
dân lạc quan vào thu nhập trong tương lai nên tiếp tục tăng chi tiêu, các
doanh nghiệp tin tưởng vào triển vọng của nền kinh tế nên sẽ gia tăng đầu
tư, mở rộng sản xuất. Quá trình này sẽ tạo ra hiệu ứng số nhân tức là từ

một sư gia tăng của sản lượng sẽ dẫn đến sự tăng lên nhiều lần của đầu tư
và sản lượng. Công thức của số nhân đầu tư:
m = ∆Y/∆I
số nhân đầu tư biểu diễn mối quan hệ giữa mức gia tăng sản lượng và gia
tăng đầu tư.
-Nguyên tắc gia tốc đầu tư
Tốc độ tăng sản lượng và tốc độ tăng vốn không giống nhau, theo lý
thuyết này để sản xuất ra một lượng đầu ra cho trước cần có một lượng
vốn đầu tư nhất định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể
được biều diễn theo công thức: x= K/Y suy ra: K=x*Y.
Trong đó K: vốn đầu tư tại thời kỳ nghiên cứu.
Y: sản lượng tại thời kỳ nghiên cứu
x: hệ số gia tốc đầu tư.
Như vậy nếu x không đổi thì khi quy mô sản lượng sản xuất tăng dẫn
đến nhu cầu về vốn đầu tư tăng và ngược lại. Sản lượng phải tăng liên tục
thì đầu tư mới có thể tăng với cùng tốc độ hoặc không đổi so với thời kỳ
trước.
* Đặc điểm của lí thuyết gia tốc đầu tư:
- Phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư. Nếu x không đổi trong kì
kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá chính xác.
- Phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến đầu tứ. Khi kinh tế
tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng , cơ hội kinh doanh lớn, dẫn
đến tiết kiệm tăng cao và đầu tư tăng nhiều.
4.Chu kì kinh doanh:
4.1.Khái niệm chu kỳ kinh doanh:
Chu kỳ kinh doanh là sự biến động của GDP thực tế theo trình tự ba
pha: suy thoái, phục hồi và hưng thịnh. Nói cách khác đó là sự biến động
của nền kinh tế quanh xu thế tăng trưởng dài hạn bao gồm cả thời kỳ tăng
trưởng nhanh và thời kỳ suy thoái của nền kinh tế.
Suy thoái là pha mà GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, quy định

nếu tốc độ tăng trưởng mang giá trị âm hai quý liên tiếp thì gọi là suy
thoái.
Phục hổi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng với mức trước khi
xảy ra suy thoái. Điểm ngoặt giữa pha suy thoái và phục hồi là đáy của
chu kỳ kinh tế
Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và cao hơn trước khi xảy ra suy thoái thì
nền kinh tế đang ở giai đoạn hưng thịnh. Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt
đầu một pha suy thoái mới. Điểm ngoặt giữa pha hưng thịnh và suy thoái
là đỉnh của chu kỳ kinh tế.

4.2.Tác động của chu kỳ kinh doanh đến chi tiêu đầu tư:
Chu kỳ kinh doanh tác động gián tiếp đến quyết định đầu tư của doanh
nghiệp thông qua lợi nhuận kỳ vọng.
-Khi nền kinh tế đang đi lên thì đầu tư tăng. Theo lý thuyết tính kinh tế
của quy mô, trong những điều kiện nhất định thì việc gia tăng quy mô sản
lượng sản xuất có thể giúp chủ đầu tư tiết kiệm được chi phí sản xuất, họ
tin rằng lợi nhuận có thể tăng cao, gia tăng đầu tư.
Mặt khác khi chu kỳ kinh doanh đang đi lên thì quy mô của nền kinh tế
mở rộng làm nhu cầu đầu tư của toàn bộ nền kinh tế cũng như các doanh
nghiệp và cá nhân, tổ chức cũng tăng lên. Ngược lại khi chu kỳ kinh
doanh đi xuống thì quy mô nền kinh tế thu hẹp, các doanh nghiệp không
muốn chi tiêu đầu tư vì họ dự kiến cầu thị trường sụt giảm mạnh, sản
phẩm thiếu đầu ra, lợi nhuận kỳ vọng thấp, thậm chí có thể âm( thua lỗ)
Khi nền kinh tế đi xuống thì tồng đầu tư giảm nhưng xét từng nhà đầu tư
chưa chắc đã giảm. Không phải lúc nào sự tăng, giảm chi tiêu của các
doanh nghiệp cũng thuận chiều với xu hướng lên xuống của chu kỳ kinh
tế của toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì nên kinh tế suy thoái nhưng doanh
nghiệp vẫn đầu tư phát triển sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ vì sản
phẩm cũ đã mất chỗ đứng trên thị trường hoặc sản phẩm cũ đã kết thúc
một chu kỳ sống của nó. Hoặc cũng có một số doanh nghiệp đầu tư vào

các thị trường ngoài nước khi nền kinh tế trong nước đang trên đà đi
xuống.
5. Đầu tư nhà nước:
5.1. Khái niệm đầu tư nhà nước:
Trong đầu tư xã hội có đầu tư nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp hay
nói cách khác, đầu tư nhà nước là một bộ phân của đầu tư xã hội. Nó bao
gồm đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN), đầu tư từ nguồn vốn tín dụng
phát triển của nhà nước và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước.
5.2.Vai trò của đầu tư nhà nước đối với chi đầu tư:
Đầu tư nhà nước là một hoạt động cơ bản trong chi đầu tư, nguồn vốn từ
hoạt động này cũng có ý nghĩa quan trọng đối với đầu tư phát triển. Các
dự án đầu tư từ nguồn vốn của nhà nước thường không nhằm mục đích
thu lợi mà có tác dụng trợ giúp, điều tiết, định hướng cho đầu tư của toàn
xã hội. Cụ thể đó là cải thiện cơ sở hạ tầng cho đất nước, xây dựng và
phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, phát triển các vùng nguyên
liêu để tạo điều kiện phát triển kinh tế.
Đầu tư từ NSNN là nguồn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội của quốc gia. Nguồn lực này thường được sử dụng cho
các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các
dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà
nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông
thôn. Nguồn chi này có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động chi
đầu tư khác vì nó giúp cải thiện môi trường đầu tư và đồng thời là nguồn
chi không thể thiếu của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, nếu hoạt động chi
NSNN không hợp lý, sai mục đích, thất thoát sẽ gây ra thâm hụt ngân
sách nhà nước, ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực
trong việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Bên cạnh đó,
nguồn vốn này còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô.

Việc phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển
kinh tế – xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế, nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước chiếm tỉ
trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hôi. Đầu tư từ các doanh
nghiệp này góp phần rất lớn cho sự phát triển kinh tế từ việc kết hợp với
các doanh nghiệp tư nhân thực hiện các hoạt động đầu tư. Tuy nhiên trong
một số trường hợp đầu tư nhà nước lấn át đầu tư tư nhân như cạnh tranh
không công bằng, hạn chế sự phát triển của một số doanh nghiệp tư nhân.
Nhìn chung, nếu đầu tư nhà nước được thực hiện một cách hợp lý, đúng
hướng có thể góp phần làm tăng hiệu quả chi đầu tư, phát triển kinh tê –
xã hội.
6. Môi trường đầu tư:
Môi trường đầu tư như một chất xúc tác ban đầu cho quyết định của nhà
đầu tư. Sự cải thiện môi trường đầu tư có quyết định vô cùng quan trọng
đối với chi đầu tư và nền kinh tế. Nếu môi trương đầu tư thuận lợi có thể
tăng chi đầu tư và tổng đầu tư của toàn xã hội.
Trong môi trường đầu tư có nhiều yếu tố, cụ thể là: Cơ sở hạ tầng kĩ
thuật của xã hội; môi trường chính trị; hệ thống chính sách của nhà nước
và môi trường luật pháp, hệ thống pháp lý liên quan đến hoạt động đầu tư.
6.1.Cơ sở hạ tầng kĩ thuật của xã hội:
Cơ sở hạ tầng ở đây mang tính xúc tác cho hoạt động đầu tư, tạo điều
kiện cho kinh tế xã hội phát triển. Những quốc gia có cơ sở hạ tầng phát
triển sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư tích cực đầu tư sản xuất, làm tăng chi cho
đầu tư.
6.2. Môi trường chính trị:
Là nhân tố vô cùng quan trọng của môi trường đầu tư. Ổn định chính trị
sẽ tạo ra sự ổn định về kinh tế xã hội và giảm bớt độ rủi ro cho nhà đầu tư.
Từ đó khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn thực hiện hoạt động của mình,
đặc biệt đối với nhà đầu tư nước ngoài, ổn định chính trị là một yếu tố

hàng đầu trong việc ra quyết định đầu tư vào một quốc gia khác.
6.3. Môi trường luật pháp:
Quá trình đầu tư liên quan đến nhiều lĩnh vực hoạt động trong một thời
gian dài, nên một môi trường pháp lý ổn định và có hiệu lực là một yếu tố
quan trọng để quản lý và thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả. Môi
trường này bao gồm các chính sách, quy định, luật cần thiết đảm bảo sự
nhất quán, không mâu thuẫn,chồng chéo nhau và có hiệu lực cao. Những
chính sách cụ thể ảnh hưởng tới chi đầu tư là:
- Chính sách sở hữu: Mục đích là kiểm soát các hoạt động của các nhà
đầu tư, khống chế một mức vốn sở hữu đối với từng nhà đầu tư.
- Chính sách thuế: bao gồm các nội dung liên quan đến các loại thuế,
mức thuế, thời gian miễn giảm thuế, thời gian khấu hao và các điều kiện
ưu đãi đầu tư khác.
- Chính sách lệ phí: quy định về các khoản tiền phải nộp như phí dịch vụ
cấp giấy phép, dịch vụ cơ sở hạ tầng...
- Chính sách quản lý ngoại hối: bao gồm các quy định về mở tài khoản
ngoại tệ, tỷ giá hối đoái, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Những quy định
này có ảnh hương lớn tới nhà đầu tư nước ngoài.
-Quản lý hoạt động đầu tư: trong quá trình hình thành và triển khai dự án
đầu tư, chủ đầu tư phải chịu sự quản lý của các cơ quan có thẩm quyền từ
khâu cấp giấy phép, thẩm định dự án đến quản lý thực hiện dự án.
- Ngoài những chính sách trên còn có những chính sách khác mà nhà đầu
tư cần xem xét khi đưa ra quyết định đầu tư như:
Chính sách về công nghệ.
Chính sách về bảo vệ môi trường.
Chính sách về lao động, tiền lương.
Chính sách về việc sử dụng các nguồn tài nguyên...
7. Lợi nhuận thực tế:
Liên quan đến mối quan hệ giữa đầu tư và lợi nhuận thực tế ta có
thể xem xét đến lí thuyết quỹ đầu tư nội bộ, thể hiện qua phương trình

I = f (lợi nhuận thực tế)
Do đó dự án nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn. Vì lợi
nhuận cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn và mức đầu tư sẽ cao hơn.
Nguồn vốn có thể huy động cho đầu tư bao gồm: lợi nhuận giữ lại, tiền
trích khấu hao, đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái
phiếu và bán cổ phiếu. Lợi nhuận giữ lại và tiền trích khấu hao tài sản là
nguồn vốn nội bộ của doanh nghiệp, còn đi vay và phát hành trái phiếu,
bán cổ phiếu là nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả
nơ, trường hợp nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp có
thể không trả được nợ và lâm vào phá sản. Do đó việc đi vay khôn phải là
hấp dẫn, trừ khi có ưu đãi. Cũng tương tự, việc tăng vốn đầu tư bằng phát
hành trái phiếu cũng không phải là biện pháp hấp dẫn, còn bán cổ phiếu
để tài trợ cho đầu tư chỉ được các doanh nghiệp áp dụng khi hiệu quả của
dựa án đầu tư là rõ ràng và thu nhập do dự án đem lại trong tương lai sẽ
lớn hơn chi phí đã bỏ ra.
Chính vì vậy, theo lí thuyết quỹ đầu tư nội bộ thì doanh nghiệp thường
chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và chính sự gia
tăng của lợi nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn.
Mục đích cuối cùng mà nhà đầu tư hướng tới là thu lợi nhuận. Trước
khi quyết định thực hiện hoạt động đầu tư của mình, nhà đầu tư phải phân
tích, xem xét khả năng thu lợi nhuận của dự án rồi mới thực hiện đầu tư.
8. Các nhân tố vĩ mô khác:
Không trực tiếp can thiệp vào nên kinh tế, nhà nước điều tiết sản lượng
của nền kinh tế gián tiếp thông qua 2 chính sách vĩ mô là chính sách tài
khóa và chính sách tiền tệ, từ thay tác động tới chi tiên đầu tư.
- Chính sách tài khoá: là chính sách của chính phủ nhằm tác động tới
tổng cầu và sản lượng của nền kinh tế, thông qua hai công cụ là thuế và
chi tiêu của chính phủ.
Chính sách thuế có tác động rất lớn đến chi đầu tư. Đối với những lĩnh
vực cần khuyến khích đầu tư, nhà nước có thể giảm mức thuế đầu tư để

thu hút các nhà đầu tư. Mặt khác đối với những lĩnh vực cần hạn chế, nhà
nước sẽ đưa ra chính sách thuế khắt khe hơn. Thuế cũng là nguồn thu chủ
yếu của ngân sách nhà nước, là nguồn vốn đầu tư nhà nước vô cung quan
trọng. Tùy thuộc điều kiện cụ thể mà nhà nước sẽ đưa ra chính sách tài
khóa thắt chặt hoặc mở rộng. Chính sách tài khóa mở rộng là chính sách
tài khóa nhằm kích thích tổng cầu và tăng sản lượng cân bằng thông qua
việc tăng chi tiêu chính phủ hoặc giảm thuế. Mặt khác việc tăng thuế hoặc
giảm chi tiêu chính phủ để cắt giảm tổng cầu được gọi là chính sách tài
khóa thắt chặt.
Chính sách thuế thay đổi cũng tác động đến lợi nhuận kì vọng, từ đó ảnh
hưởng đến chi đầu tư.
- Chính sách tiền tệ: Nhằm điều tiết cung tiền tệ thông qua các chính
sách như: chính sách lãi suất, chính sách tỉ giá, nghiệp vụ thị trường
mở...Cũng như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ có chính sách tiền
tệ mở rộng và chính sách tiền tệ thắt chặt. Khi cần giảm lượng tiền cung
ứng, ngân hàng trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, ngược
lại, khi cần tăng lượng tiền cung ứng, ngân hàng nhà nước thực hiện các
chính sách tiền tệ mở rộng. Keynes lập luận rằng khi nền kinh tế lâm vào
khủng hoảng, chính sách tiền tệ tương đối ít hiệu quả hơn. Hơn nữa khi
kinh tế khủng hoảng hay các nhà đầu tư bi quan về triển vọng kinh tế
trong tương lai, lãi suất cần giảm để khuyến khích các doanh nghiệp đầu
tư nhiều hơn.
Mặt khác, khi chính phủ thay đổi tỉ giá cũng làm ảnh hưởng đến nhiều
hoạt động đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Trước khi đầu tư
vào một nước, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ xem xét tỉ giá, giá trị đồng
tiền của quốc gia đó, kết hợp với nhiều yếu tố khác nữa rồi mới đưa ra
quyết định đầu tư.
III. Kích cầu đầu tư:
1. Khái niệm:
Kích cầu là một giải pháp nhằm kích thích, khuyến khích tiêu dùng với

mục tiêu làm tăng tổng cầu, tổng cung hàng hóa xã hội, thúc đẩy sản xuất
phát triển.
Kích cầu đầu tư là tổng hợp tất cả các biện pháp chính sách, các công cụ
pháp lý được sử dụng một cách có hệ thống và đồng bộ nhằm thu hút
ngày càng nhiều vốn đầu tư để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng phát triển
kinh tế xã hội trong một giai đoạn hay thời kì nhất định.
Theo lý thuyết của keynes, thành phần của tổng cầu bao gồm:
AD = C + I+ G + NX
Trong đó:
C -chi tiêu của hộ gia đình.
I - đầu tư của tư nhân.
G- chi tiêu của chính phủ, trong đó có chi thường xuyên và chi
cho đầu tư phát triển
NX- xuất khẩu ròng.
Như vậy, theo lý thuyết của keynes, kích cầu tức là phải làm tăng sản
lượng và mức nhân dụng, làm tăng nhu cầu đầu tư của tư nhân và chính
phủ.
2. Ý nghĩa của kích cầu đầu tư:
Kích cầu đầu tư có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc
biệt là ở các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển thường có
đặc điểm là thu nhập thấp, trình độ công nghệ lạc hậu, năng suất thấp bởi
vậy cần có biện pháp kích cầu để thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Nếu có biện pháp kích cầu đầu tư thích hợp sẽ làm tăng nhu cầu đầu tư,
tăng lượng vốn đầu tư toàn xã hội, từ đó làm tăng tổng cung. Vốn đầu tư
được sử dụng hiệu quả sẽ có tác động đến tăng trưởng kinh tế, góp phần
chuyển dịch cơ cấu theo ngành, vùng lãnh thổ và theo thành phần kinh tế.
Đầu tư nước ngoài còn thu hút khoa học công nghệ hiện đại, làm thay đổi
bộ mặt của toàn bộ nền kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội. Như vậy kích
cầu đầu tư có tác dụng rất quan trọng ở mỗi quốc gia và mang tính tất yếu
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn. Vai trò cụ thể của kích

cầu:
-Giúp hoàn thiện và nâng cao kết cấu hạ tầng xã hội.
-Nâng cao trình độ của nguồn nhân lực.
-Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế .
-Đạt mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
3. Các biện pháp kích cầu đầu tư:
Theo quan điểm của keynes, để kích cầu đầu tư chính phủ có thể tác
động vào nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu đầu tư là lãi suất, bên
cạnh đó là các nhân tố tác động gián tiếp nhưng không kém phần quan
trọng như thuế, chi phí sản xuất, môi trường đầu tư. Sau đây là các biện
pháp cụ thể để kích cầu đầu tư.
3.1. Chính sách lãi suất:
Lãi suất có tác động trực tiếp đến nhu cầu đầu tư. Lãi suất chính là giá cả
của tín dụng, giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ
về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng thức tài sản khác. Qua nghiên
cứu mối quan hệ giữa lãi suất và đầu tư cho ta thấy giữa lãi suất là đầu tư
có quan hệ ngược chiều. Vì thế khi lãi suất giảm, các nhà đầu tư sẽ vay
vốn nhiều hơn để thực hiên hoạt động đầu tư của mình, quy mô vốn đầu
tư tăng. Mặt khác, khi lãi suất tăng thì quy mô vốn đầu tư sẽ giảm. Đối
với yếu tố lãi suất, ngân hàng trung ương có thể thông qua các chính sách
sau:
- Khi chính phủ thực hiện giảm lãi suất thì đầu tư tăng
- Thông qua nghiệp vụ thị trường mở: khi NHTW mua trái phiếu trên thị
trường, cung tiền tăng làm giảm lãi suất, đầu tư tăng.
- NHTW giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng thương
mại(NHTM): khi đó, NHTM sẽ dự trữ ít hơn và cho vay nhiều hơn, cung
tiền tăng và đầu tư tăng.
-NHTW giảm lãi suất chiết khấu: lãi suất chiết khấu là lãi suất mà
NHTM vay tiền từ NHTW. Khi lãi suất chiết khấu giảm, NHTM sẽ tin
tưởng vào khả năng trả nợ của mình trong tương lai nhờ vay tiền từ

NHTW nên sẽ cho vay nhiều hơn, làm cung tiền tăng, đầu tư tăng.
3.2. Chính sách thuế:
Khi thuế tăng, lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ giảm do chi phí tăng. Do
đó, để kích cầu, chính phủ cần giảm thuế, đặc biệt là thuế doanh nghiệp.
Các chính sách cụ thể có thể áp dụng như:
- Giảm mức thuế.
-Giãn hạn nộp thuế.
- Thực hiện ưu đãi về thuế suất đối với những ngành cần khuyến khích
đầu tư như những ngành mũi nhọn hay có tính xã hội cao.
3.3. Chính sách tỉ giá:
Tỷ giá hối đoái là một công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu để điều tiết cán
cân thương mại quốc tế theo mục tiêu đã định trước của nhà nước.
Bên cạnh tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu, tỷ giá còn tác động tới
lĩnh vực đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư từ bên ngoài vào.
Khi tỉ giá giữa đồng ngoại tệ và đồng nội tệ tăng, đồng ngoại tệ sẽ đắt
hơn tương đối so với đồng nội tệ, khi ấy sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư nước
ngoài hơn.
3.4. Đầu tư nhà nước:
Cần thực hiện đầu tư nhà nước một cách có hiệu quả, đúng hướng để hỗ
trợ kinh tế phát triển. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, tiến
hành đầu tư công nhằm nâng cao điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật là nhân
tố không thể thiếu để kích cầu đầu tư.
Chi phí để đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng là rất lớn, vì vậy khi đâu
tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài luôn quan tâm đến chất lượng cơ
sở hạ tầng – điều quyết định hiệu quả đầu tư của ho.
Ngoài việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng của xã hội, nhà nước cũng cần chú ý
đầu tư xây dựng những khu vực đặc biệt như khu chế suất, khu công
nghiệp, khu công nghệ cao. Khu chế xuất là khu vực địa lý được khoanh
vùng với các quy chế đặc biệt là tách khỏi các quy định về thuế
quan,thương mại của một nước. Khu công nghiệp là khu vực địa lý được

phân chia và phát triển một cách có hệ thống theo một kế hoạch tổng thể
nhằm cung cấp các dịch vụ kĩ thuật càn thiết. Khu công nghệ cao là những
khu nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực sử dụng
công nghệ hiện đại. Nói chung, để kích cầu đầu tư thì một biên pháp là sử
dụng đầu tư công một cách hiệu quả để cung cấp một môi trường đầu tư
tốt nhất cung với các điều kiện ưu đãi cho nhà đầu tư.
3.5. Các biện pháp phát triển thị trường tài chính:
Hiện nay có rất nhiều nguồn lục của xã hôi vẫn chưa được sử dụng hoặc
sử dụng không đúng cách, không mang lại hiệu quả cao. Bởi vậy, cần tạo
ra nhiều kênh huy động vốn để tập trung nguồn lực của toàn xã hội cho
đầu tư.
Bên cạnh đó cũng cân chú trọng công tác thẩm định và quản lý sử dụng
vốn nhằm đảm bảo hiệu quả của các dự án đầu tư.
3.6. Xúc tiến đầu tư nước ngoài, tìm kiếm thị trường mới:
Xúc tiến đầu tư là các hoạt động nhằm giới thiệu, quảng cáo cơ hội đầu
tư và hỗ trợ đầu tư. Các hoạt động này do các quan chưc chính phủ, các
nhà khoa học, các tổ chức, các doanh nghiệp ... thực hiện dưới nhiều hình
thức như tổ chức các hội thảo khoa học, các chuyến viếng thăm ngoại
giao cấp chính phủ, diễn đàn đầu tư, tham khảo, quan sát...và thông qua
các phương tiện thông tin, xây dựng các mạng lưới văn phòng đại diện ở
nước ngoài.
Một môi trường đầu tư tốt nhưng nếu ít được thế giới biết đến hoặc biết
không đầy đủ, sai lệch thì cũng kém thu hút các nhà đầu tư. Thông qua
xúc tiến, ta cũng có thể tìm kiếm dược những thị trường mới để tăng cầu
đầu tư.
3.7. Kiềm chế lạm phát, bình ổn giá cả:
Trong một nền kinh tế có lạm phát thì dù kinh tế có tăng trưởng cao, thu
nhập quốc dân cao thì cũng chưa chắc mang lại mức sống cao hơn cho
người dân. Hơn nữa trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát thì tích lũy
của nền kinh tế sẽ không đủ cho đầu tư và hoạt động đầu tư cũng khó

mang lại hiệu quả.
Bởi vậy, nhà nước cần có biện pháp để kiểm soát lạm phát, bình ổn giá
cả để tạo tâm lý an tâm cho nhà đầu tư khi tham gia đầu tư.
3.8. Hệ thống chính sách pháp luật của nhà nước:
Một môi trường có tính pháp lý ổn định sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư
hơn. Vì vậy, để kích cầu đầu tư cần tạo dựng một môi trường luật pháp
đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn, chồng chéo và có tính hiệu lực
cao.
Đồng thời, trong giai đoạn toàn cầu hóa như hiện nay, nhà nước cần điều
chỉnh chính sách pháp luật cho phù hợp với môi trường quốc tế.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀ TÌNH HÌNH KÍCH
CẦU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 ĐẾN NAY.
I. Thực trạng đầu tư ở Việt Nam
1. Đầu tư trong nước
1.1. Đầu tư nhà nước
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm : nguồn vốn của ngân sách nhà
nước, nguồn vốn tín dụng đi vay đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn
vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
Thực hiện mục tiêu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn
năm 2009, nhiều dự án, công trình trọng điểm năm 2010 đã được các cấp,
các ngành tập trung chỉ đạo quyết liệt, đẩy nhanh tiến độ nhằm sớm hoàn
thành kế hoạch đề ra. Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư xây dựng của các địa
phương trên cả nước cũng phát triển khá mạnh nên giá trị sản xuất xây
dựng năm 2010 theo giá thực tế ước tính đạt 545,2 nghìn tỷ đồng, tăng
23,1% so với năm trước, trong đó khu vực nhà nước đạt 184,7 nghìn tỷ
đồng, tăng 23,4%; khu vực ngoài nhà nước và loại hình khác đạt 345,5
nghìn tỷ đồng, tăng 23,0%; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đạt 15 nghìn tỷ đồng, tăng 22,7%.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2010 theo giá thực tế ước tính
đạt 830,3 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so với năm 2009 và bằng 41,9%

GDP, trong đó có 1980 tỷ đồng từ nguồn ngân sách trung ương và 4487,5
tỷ đồng từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ được Thủ tướng cho phép ứng
trước để bổ sung và đẩy nhanh tiến độ thực hiện một số dự án quan trọng
hoàn thành trong năm 2010. Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện
năm nay, vốn khu vực Nhà nước là 316,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,1%
tổng vốn và tăng 10%; khu vực ngoài Nhà nước 299,5 nghìn tỷ đồng,
chiếm 36,1% và tăng 24,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
214,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,8% và tăng 18,4%.


Nghìn
tỷ đồng

cấu
(%)
So với năm
2009 (%)
TỔNG SỐ 830,3 100,0 117,1
Khu vực Nhà nước 316,3 38,1 110,0
Khu vực ngoài Nhà nước 299,5 36,1 124,7
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài 214,5 25,8 118,4
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2010
Vốn đầu tư từ khu vực nhà nước luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn
đầu tư toàn xã hội, và luôn có sự tăng trưởng cao trong các năm. Xét về
cơ cấu, vốn ngân sách chiếm khoảng 50% tổng vốn đầu tư từ khu vực nhà
nước, còn 50% là từ các nguồn vốn tín dụng, các doanh nghiệp Nhà nước


Trong một báo cáo gần đây, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, tổng chi

ngân sách cho đầu tư phát triển chung trong giai đoạn 2001-2010 khoảng
60 tỷ USD, chiếm khoảng 8,4% so với GDP.
Giai đoạn 10 năm tới, nhu cầu này tiếp tục tăng lên. Theo tính toán của
Chính phủ, từ nay đến năm 2020, nhu cầu vốn cho cơ sở hạ tầng của Việt
Nam chiếm 10-11% GDP. Cụ thể hơn, trong vòng 5 năm tới, nước ta sẽ
cần khoảng 70-80 tỷ USD để đầu tư cho lĩnh vực này.
So với GDP và ngân sách của Việt Nam thì đây là một sự quá sức. Lãnh
đạo Bộ Tài chính, trong các diễn đàn đầu tư, cũng đã nhiều lần thừa nhân,
với với điều kiện tài chính hiện tại thì nguồn vốn của Chính phủ khó có
thể đáp ứng hết được nhu cầu cho đầu tư cơ sở hạ tầng. Và rõ ràng, không
thể chỉ trông chờ vào nguồn vốn của Chính phủ để phát triển cơ sở hạ
tầng như mong muốn, mà cần có sự tham gia mạnh mẽ hơn của khu vực
tư nhân.
Trong những năm qua, đầu tư cho hạ tầng đã được Chính phủ rất chú
trọng, hay đúng hơn, Chính phủ đầu tư với gánh nặng đang vượt quá sức
mình. Hàng năm, ngoài nguồn từ ngân sách xuất ra, phần thiếu còn lại
trông chờ nhiều vào hai nguồn đi vay. Vay trong nước bằng trái phiếu và
vay nước ngoài thông qua vốn ODA và vay trái phiếu quốc tế. Điều này

×