Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

giải pháp phát triển tiềm năng tài nguyên du lịch tỉnh Bạc Liêu từ nay đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.57 KB, 99 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

PHẦN MỞ ĐẦU
(Nghiên cứu định tính- SV ĐH Cần Thơ)
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu tất
yếu của xã hội, không những là ngành kinh tế mũi nhọn của các quốc gia mà còn
là cầu nối giao lưu giữa các dân tộc, quốc gia và các miền trong một đất nước. Bạn
bè quốc tế trước đây biết đến Việt Nam là một quốc gia phải trải qua nhiều thập kỷ
chiến tranh với các thế lực xâm lược mạnh hơn gấp nhiều lần và họ đã anh hùng
đánh bại các thế lực xâm lược đó, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ non sông của đất nước.
Bởi vậy, ngày nay, khi khách du lịch đến Việt Nam họ thường ngạc nhiên và tự
hỏi không hiểu vì sao những con người mãnh liệt, dũng cảm, lập nhiều kỳ tích
trong chiến tranh như vậy lại cuốn hút khách tham quan bởi sự hiền hậu, chân tình
và thân thiện chứ không phải bằng những ánh hào quang của chiến thắng. Có lẽ
một phần câu trả lời đang ẩn mình trong tính cách và truyền thống của người Việt,
bởi trải qua hàng ngàn năm lịch sử, người Việt đã tạo dựng cho mình một phong
cách, một nền văn hoá, thuần phong, mỹ tục riêng. Và đồng bằng Sông Cửu Long
nói chung, tỉnh Bạc Liêu nói riêng điều được hưởng thụ những tính cách ấy.
Thế mạnh du lịch của Bạc Liêu là du lịch sinh thái, du lịch biển với những
cảnh quan thiên nhiên độc đáo như vườn chim, vườn nhãn… đồng thời với những
di tích lịch sử - văn hoá như: tháp cổ Vĩnh Hưng, di tích đồng Nọc Nạng, đền thờ
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lưu niệm cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, hệ thống đình,
chùa… Sự hấp dẫn của du lịch Bạc Liêu còn ở những nét độc đáo trong ẩm thực,
trang phục, lễ hội, dân tộc Việt và một bộ phận dân cư người Khmer, người Hoa.
Tiềm năng du lịch của tỉnh Bạc Liêu đa dạng và phong phú, có vai trò quan
trọng trong phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Tuy nhiên, từ trước đến nay
Bạc Liêu vẫn chưa khai thác hết tiềm năng du lịch sẵn có bởi nhiều nguyên nhân.
Vì thế, em chọn đề tài “giải pháp phát triển tiềm năng tài nguyên du lịch tỉnh Bạc




Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

Liêu từ nay đến năm 2020” để phần nào hiểu rõ hơn về du lịch Bạc Liêu . Đồng
thời với mong muốn du lịch Bạc Liêu phát triển tương xứng với tiềm năng hiện có.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Tác giả chọn đề tài này nhằm mục tiêu chính là:
Thứ nhất, tìm hiểu thực trạng hoạt động du lịch tỉnh Bạc Liêu để từ đó đánh
giá tiềm năng tài nguyên du lịch của tỉnh nhằm nhận định đúng đắn về những
thuận lợi và khó khăn mà ngành du lịch tỉnh phải giải quyết qua việc quy hoạch,
điều chỉnh, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu, các dự án sao cho phù hợp và có căn
cứ khoa học.
Thứ hai, sau khi đã xem xét đánh giá tiềm năng tài nguyên du lịch Bạc
Liêu, xác định được không gian du lịch cần triển khai khai thác các tuyến, điểm du
lịch mới cũng như tăng tính đa dạng về các loại hình du lịch đã được khai thác
trước đó. Từ đó đưa ra các đề xuất, kiến nghị, định hướng du lịch tỉnh Bạc Liêu.
PHẠM VI VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Về không gian: Đề tài được thực hiện trên khu vực tỉnh Bạc Liêu.
Về thời gian: Từ nay đến năm 2020.
Về nội dung: Nhìn nhận lại thực trạng hoạt động du lịch của tỉnh Bạc Liêu
trong những năm qua. Sau đó, có định hướng giải pháp cụ thể. Toàn bộ nội dung
của đề tài “ giải pháp phát triển tiềm năng tài nguyên du lịch tỉnh Bạc Liêu từ nay
đến năm 2020” được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về du lịch.
Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch tại tỉnh Bạc Liêu trong thời gian
qua.
Chương 3: Một số giải pháp phát triển tiềm năng du lịch tỉnh Bạc Liêu từ

nay đến năm 2020.


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Phƣơng pháp khảo sát thực địa:
Sử dụng phương pháp này là tác giả đã đến một số nơi du lịch của tỉnh để
quan sát, thu thập số liệu để đánh giá hiện trạng, tiềm năng du lịch của các
vùng.
2. Phƣơng pháp thu thập và xử lý thông tin:
Các nguồn tư liệu từ sách, báo và những thông tin thu thập được của các sở
ban ngành của tỉnh liên quan đến đề tài. Đó là cơ sở để lựa chọn phân tích và
vận dụng vào đề tài một cách chính xác và hợp lý.
3. Phƣơng pháp chuyên gia:
Tuy có những nguồn thông tin từ những phương tiện khác, phương pháp
chuyên gia là rất cần thiết và hữu hiệu khi chúng ta nghiên cứu ảnh hưởng của
một số lớn các nhân tố chồng chéo, thậm chí một số nhân tố trùng nhau. Và
nhân tố này nhiều khi là duy nhất trong các trường hợp thiếu thông tin xác
thực, thông tin ít được lượng hóa hay không thể lượng hóa.
4. Phƣơng pháp phân tích xu thế:
Dựa vào sự vận động mang tính quy luật của các yếu tố mang tính xu thế để
đưa các dự báo về chỉ tiêu phát triển trong tương lai. Phương pháp này có thể
mô hình hóa bằng các phương pháp toán học do đó xu hướng phát triển trong
tương lai được suy ra là khó tránh khỏi tính sai số.
5. Phƣơng pháp toán và tin học:
Mặc dù sai số nhưng áp dụng các công thức toán học để tính được kết quả
kinh doanh du lịch cũng như hiệu quả kinh tế- xã hội mà ngành du lịch mang

lại. Đồng thời dựa vào đó để đưa ra các con số dự báo phát triển.


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

Áp dụng công cụ tin học là việc không thiếu của bất cứ đề tài khoa học nào.
Cũng như trong tổ chức hoạt động du lịch hiện nay đã sử dụng rộng rãi công cụ
tin học trong việc quảng cáo, thiết kế các chương trình du lịch.
6. Phƣơng pháp so sánh:
Áp dụng phương pháp này để thấy điểm giống và khác nhau về các đối
tượng trong hoạt động du lịch của tỉnh Bạc Liêu với các tỉnh bạn trong khu vực
đồng bằng sông Cửu Long. Từ đó có những chiến lược phát huy những thế
mạnh, khai thác các tiềm năng đặc sắc của tỉnh.
7. Phƣơng pháp cân đối kinh tế:
Đây là phương pháp quan trọng trong việc quy hoạch phát triển tiềm năng
du lịch. Qua đó cần xem xét lại sự cân bằng giữa tài nguyên du lịch và khả
năng đáp ứng nhu cầu cho du khách cũng như số lượng khách du lịch. Hay nói
đúng hơn là sự cân đối giữa cung và cầu du lịch.


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ DL
1.1.

CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN


1.1.1. KHÁI NIỆM DL
1.1.1.1.

KHÁI NIỆM DU LỊCH:

Đến nay người ta vẫn chưa xác định chính xác khái niệm du lịch có từ bao
giờ. Chỉ biết rằng du lịch đã xuất hiện từ rất lâu và trở thành một nhu cầu quan
trọng trong đời sống con người. Khái niệm du lịch vẫn đang là đối tượng nghiên
cứu và thảo luận của nhiều nhà khoa học và quản lý du lịch. Vì thế cũng có rất
nhiều khái niệm du lịch.
Theo tổ chức du lịch thế giới: “du lịch là một hoạt động du hành đến một
nơi khác với địa điểm thường trú thường xuyên của mình nhằm mục đích thỏa mãn
những thú vui của họ, không vì mục đích làm ăn.
Du lịch là tập hợp các mối quan hệ hiện tượng kinh tế bắt nguồn từ hành
trình và cư trú của các cá thể ngoài nơi ở thường xuyên của họ với mục đích hòa
bình, nơi họ đến cư trú không phải là nơi làm việc của họ”.
Theo các học giả người mỹ (Mcintosh và Goeldner): du lịch là một ngành
tổng hợp của các lĩnh vực: lữ hành, khách sạn, vận chuyển và các yếu tố cấu
thành các kể cả việc xúc tiến quảng bá nhằm phục vụ các nhu cầu và những mong
muốn đặc biệt của du khách.
Luật du lịch Việt Nam định nghĩa như sau: du lịch là hoạt động của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu tham
quan, nghĩ dưỡng, giải trí trong một khoảng thời gian nhất định.
Hay nói như Mill và Morrison: du lịch là một hoạt động xảy ra khi con
người vượt khỏi biên giới của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ… để nhằm
mục đích giải trí và lưu trú tại đó ít nhất 24h nhưng không quá 1 năm.


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

Có thể nói du lịch bắt nguồn từ nhu cầu muốn khám phá, giao tiếp và học
hỏi thế giới xung quanh vốn phong phú đa dạng và chứa nhiều tiềm ẩn. Du lịch
xuất hiện và trở thành một hiện tượng đặt biệt trong đời sống con người.
Trước đây du lịch được xem là đặc quyền của giới thượng lưu, tầng lớp
giàu có nhưng ngày nay nó đã, đang và sẽ trở thành một nhu cầu phổ biến, đáp
ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của nhiều tầng lớp trong xã hội. Du
lịch góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người.
Vì thế đặc tính của du lịch có thể khái quát 3 yếu tố cơ bản sau:
 Du lịch là sự di chuyển đến một nơi mang tính tạm thời và trở về sau thời
gian một vài ngày, vài tuần hoặc lâu hơn.
 Du lịch là hành trình tới điểm đến, lưu trú lại đó là bao gồm các hoạt động
ở điểm đến. Hoạt động ở các điểm đến của người đi du lịch làm phát sinh các hoạt
động khác với những hoạt động của người dân địa phương.
 Chuyến đi có thể có nhiều mục đích nhưng không vì mục đích định cư và
tìm kiếm việc làm tại điểm đến.
1.1.1.2. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH:
Con người có 3 nhu cầu: nhu cầu sinh tồn, nhu cầu hưởng thụ và nhu cầu
phát triển.
Sự phát triển kinh tế của thế giới ngày càng mạnh, quy mô kinh tế và thu
nhập của dân cư tăng lên nhanh chóng, con người đã thỏa mãn được cơ bản nhu
cầu sinh tồn, và có điều kiện tiến tới thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ và phát triển, tạo
điều kiện cho sự phát triển du lịch.
Do vậy, hoạt động kinh doanh du lịch có những ý kiến to lớn sau:
 Hoạt động du lịch là hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con ngƣời:
Hoạt động du lịch góp phần vào tái sản xuất sức lao động, phục hồi sức
khoẻ cho con người.
Nền sản xuất của xã hội loài người ngày càng phát triển và hiện đại, đòi hỏi

cường độ lao động, nhịp độ sinh hoạt của con người ngày càng trở nên khẩn
trương, căng thẳng. Thêm vào đó là môi trường công nghiệp hoá, đô thị hoá làm


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

cho ô nhiễm không khí, nước, tiếng ồn gia tăng bắt buộc con người phải nghĩ ngơi
thư giãn và khôi phục thể lực, trí lực.
Chính vì vậy mà hoạt động du lịch giải trí, chữa bệnh và nghỉ ngơi đáp ứng
được nhu cầu giải trí, giảm sự mệt mỏi, tăng cường sức khoẻ, nâng cao tuổi thọ.
Một trong các loại hình du lịch có tác động tích cực nhất là du lịch biển. Các quốc
gia có tuổi thọ trung bình cao của thế giới như Aixơlen, Hà Lan, Na Uy, Nhật Bản,
Thuỷ Điển có đặc điểm chung là đảo quốc có biển bao quanh hoặc quốc gia bán
đảo.
Du lịch trên biển đặc biệt có lợi cho sức khoẻ của mọi người, có nhiều
nguyên nhân:
 Thứ nhất, không khí ở bờ biển trong lành, mát mẻ, lại thêm tác dụng điều
tiết của biển cả, sự chênh lệch nhiệt độ thấp, mùa đông ấm, mùa hè mát, rất thích
hợp với thân nhiệt và sự lưu thông khí huyết trong cơ thể con người làm tăng năng
lực hoạt động của cơ thể, chữa trị tốt một số bệnh tật như viêm mũi, cổ họng mãn
tính, cao huyết áp…
 Thứ hai, hoạt động lưu thông không khí ở khu vực bờ biển rất lớn, có nhiều
gió, khiến cơ thể con người thường được không khí mát kích thích, việc tắm
không khí tạo khả năng điều tiết và rèn luyện cơ chế trong cơ thể con người rất tốt.
 Thứ ba, tắm nước biển là một hoạt động vui chơi và rèn luyện thân thể lý
tưởng.
 Thứ tư, sản vật biển ở khu vực bờ biển hết sức phong phú có khả năng cung
cấp dinh dưỡng cao cho du khách, làm tăng sức khoẻ.

 Hoạt động du lich là hoạt động nhằm nâng cao và làm phong phú hoá
kiến thức của con ngƣời.
Hoạt động du lịch là một bộ phận trong hoạt động văn hoá của loài người
và cũng là một hình thức học tập đặc biệt, nó lấy xã hội và giới tự nhiên rộng lớn
làm trường học, lấy tài nguyên du lịch tự nhiên, nhân văn và xã hội làm sách giáo
khoa. Thông qua việc thưởng ngoạn du lịch, phỏng vấn, khảo sát làm phương pháp
học tập, du khách sẽ thu thập được rất nhiều kiến thức bổ ích về các lĩnh vực khoa


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

học như địa chất, địa lý, thiên văn- khí tượng, sinh học, lịch sử, văn hoá, phong tục
tập quán…
 Hoạt động du lịch là hoạt động rèn luyện đạo đức tinh thần cho con
ngƣời:
Thông qua hoạt động du lịch làm tăng thêm lòng yêu đất nước, yêu quê
hương và lòng yêu đời, yêu cuộc sống cho du khách. Trong quá trình đi du lịch, du
khách tận mắt chiêm ngưỡng những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp, những tinh
hoa văn hoá dân tộc, sự nghiệp của thế hệ đi trước và thành tựu xây dựng vĩ đại
của thời hiện đại, từ đó làm tăng thêm niềm tự hào về Tổ Quốc, về con người và
tình cảm đối với cuộc sống.
Thông qua các tour du lịch ra nước ngoài, du khách cũng có thể thông qua
việc tham quan để từ đó so sánh và làm nổi bật được nét đặc sắc, độc đáo của nền
văn hoá đầy bản sắc của quốc gia mình, làm cho du khách có chí hướng giữ gìn,
phát triển và làm vẻ vang, rạng rỡ cho Tổ Quốc.
1.2. CÁC KHÁI NIỆM KHÁC
1.2.1.


Khách du lịch:

Xuất phát từ những nhận định về khái niệm du lịch nên có nhiều định nghĩa
về khách du lịch như sau:
Nhà kinh tế học người anh (Ogilvie) cho rằng: khách du lịch là tất cả
những người thõa mãn 2 điều kiện: rời khỏi nơi ở thường xuyên trong khoảng thời
gian dưới một năm và chỉ tiêu tiền tại nơi họ đến mà không kiếm tiền ở đó.
Theo nhà xã hội học Cohen: khách du lịch là một người tự nguyện rời khỏi
nơi cư trú thường xuyên trong khoảng thời gian nhất định với mong muốn được
giải trí khám phá những điều mới lạ từ những chuyến đi tương đối xa và không
thường xuyên.
Định nghĩa khách du lịch còn phân biệt rõ khách du lịch quốc tế và khách
du lịch nội địa:


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

Khách du lịch quốc tế: là người lưu trú ít nhất một đêm nhưng không quá
một năm tại một quốc gia khác với quốc gia thường trú với nhiều mục đích khác
nhau ngoài hoạt động để trả lương ở nơi đến.
Ngoài ra, Pháp lệnh du lịch Việt Nam còn quy định: khách du lịch quốc tế
là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam đi du
lịch và công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam ra nước ngoài
du lịch.
Khách du lịch nội địa là người đang sống trong một quốc gia, không kể
quốc gia nào, đi đến một nơi khác không phải là nơi cư trú thường xuyên trong
quốc gia đó, ở một thời gian ít nhất 24 giờ và không quá 1 năm, với các mục đích:
giải trí, công vụ, hội họp, thăm thân… ngoài những hoạt động để lãnh lương ở nơi

đến.
Pháp lệnh du lịch Việt Nam còn quy định: khách du lịch nội địa là công
dân Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi
lãnh thổ Việt Nam.
1.2.2.

Khái niệm nhu cầu:

Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được.
Con người có nhiều nhu cầu, đa dạng và phức tạp. Nhu cầu thì vô hạn và
thay đổi theo thời gian, theo đà phát triển của xã hội. Xã hội phát triển cao thì con
người cũng có những nhu cầu cao. Theo Abraham Maslow, nhu cầu chia làm 5
bậc:
 Nhu cầu sinh lý (Psychological needs) như: ăn, uống…
 Nhu cầu an toàn (Safety needs) như an ninh trật tự, không ai quấy rầy…
 Nhu cầu xã hội (Social needs) như tình cảm, giao lưu bạn bè…
 Nhu cầu được tôn trọng (Esteem needs) như địa vị trong xã hội để được
mọi người tôn trọng…
 Nhu cầu tự khẳng định mình: (Self actualisation needs) như làm những gì
mình thích để phát huy hết tài năng của mình.


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

Maslow cho rằng nhu cầu của con người được sắp xếp trật tự theo thứ bậc ý
nghĩa quan trọng từ cấp thiết nhất đến ít cấp thiết nhất. Và theo ông, trong thời
gian khác nhau, con người lại bị thôi thúc bởi những nhu cầu khác nhau.
1.2.3. Khái niệm sản phẩm dịch vụ:

1.2.3.1. Khái niệm sản phẩm:
Có rất nhiều khái niệm liên quan đến sản phẩm du lịch:
Sản phẩm du lịch là một tổng thể phức tạp bao gồm nhiều thành phần
không đồng nhất cấu tạo thành, đó là tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn,
cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch và đội ngũ cán bộ nhân viên
du lịch.
Sản phẩm du lịch bao gồm cả sản phẩm hữu hình và sản phẩm vô hình.
Theo tiến sĩ Thu Trang Công Thị Nghĩa, tiến sĩ sử học, uỷ viên đoàn chủ
tịch hội người Việt Nam tại Pháp: sản phẩm du lịch là một loại sản phẩm tiêu
dùng đáp ứng cho nhu cầu của du khách, nó bao gồm di chuyển, ăn, ở và giải trí.
Theo các nhà du lịch Trung Quốc, sản phẩm du lịch bao gồm 2 mặt chính:
 Xuất phát từ đích tới du lịch, sản phẩm du lịch là chỉ toàn bộ dịch vụ của
nhà kinh doanh du lịch dựa vào vật thu hút du lịch, cung cấp cho du khách để thỏa
mãn nhu cầu hoạt động du lịch.
 Xuất phát từ góc độ người du lịch là chỉ quá trình du lịch một lần do du
khách bỏ qua thời gian, chi phí và sức lực nhất định để đổi được.
Theo các tác giả Trần Ngọc Nam và Trần Duy Khang: sản phẩm du lịch là
một tổng thể bao gồm các thành phần không đồng nhất hữu hình và vô hình.
Theo Michael M.Coltman: Sản phẩm du lịch có thể là món hàng cụ thể như
thức ăn hoặc một món hàng không cụ thể như chất lượng phục vụ, bầu không khí
nơi nghỉ mát.
Từ các định nghĩa trên có thể đưa ra một định nghĩa bao quát và ngắn gọn
hơn: sản phẩm du lịch là sự kết hợp hàng hoá và dịch vụ trên cơ sở khai thác hợp


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

lý tài nguyên du lịch nhằm đáp ứng mọi nhu cầu cho du khách trong hoạt động du

lịch.

1.2.3.2. Khái niệm dịch vụ:
Theo tiến sĩ Nguyễn Văn Thanh: dịch vụ là một loại hàng hóa đặc biệt, nó
có những nét đặc trưng riêng mà hàng hóa hiện hữu không có.
Dịch vụ du lịch về cơ bản cũng có 4 đặc điểm nổi bật như sau.
Dịch vụ có tính chất không hiện hữu (vô hình): là đặc điểm cơ bản của
dịch vụ. Tuy vậy sản phẩm dịch vụ vẫn mang nặng tính vật chất (như khách du
lịch có thể thưởng thức nội dung, chương trình văn nghệ, nghe một bài hát….
Không tồn tại dưới dạng vật chất nào, không cầm được nó. Tính chất không hiện
hữu biểu hiện khác nhau ở từng loại sản phẩm.
Do vật chất có tính chất không hiện hữu nên người mua đứng trước sai số
lớn khi nua dịch vụ. Vì thế để xây dựng niềm tin nơi khách hàng, doanh nghiệp
cần cụ thể hóa các yếu tố vô hình thông qua các vật liệu như tờ rơi, hình ảnh trực
quan sinh động…
Dịch vụ có tính không đồng nhất: việc cung cấp dịch vụ không thể tạo ra
dịch vụ như nhau trong thời gian khác nhau. Vì thế ở mỗi thời điểm, mỗi đối
tượng khách cũng có những cảm nhận vầ chất lượng khác nhau. Vì vậy sản phẩm
dịch vụ du lịch sẽ có giá trị cao khi thỏa mãn nhu cầu riêng biệt của khách hàng.
Dịch vụ có tính chất không tách rời: Sản phẩm dịch vụ gắn liền với
những hoạt động cung cấp dịch vụ. Các sản phẩm cụ thể là không đồng nhất
nhưng đều mang tính hệ thống. Quá trình sản xuất gắn liền với việc tiêu dùng dịch
vụ. Người tiêu dùng cũng tham gia vào hoạt động sản xuất cung cấp dịch vụ cho
chính mình. Có nhu cầu, có khách hàng thì quá trình thực hiện dịch vụ mới có thể
thực hiện được.


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng


Dịch vụ có tính không lƣu trữ: dịch vụ không thể tồn kho, không cất trữ
và không thể vận chuyển từ khu vực này đến khu vực khác. Vì vậy việc sản xuất,
phân phối và tiêu dùng dịch vụ cũng giới hạn bởi thời gian.

1.2.4.

Khái niệm du lịch sinh thái

Định nghĩa về du lịch sinh thái ở việt nam:
Du lịch sinh thái (DLST) là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn
hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nổ lực bảo tồn và bền
vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương.
Sự khác nhau giữa du lịch sinh thái với các loại hình du lịch thiên nhiên
khác thể hiện ở các mặt:
Có mức độ giáo dục cao đối với môi trường và sinh thái, thông qua những
hướng dẫn viên có nghiệp vụ lành nghề.
Du lịch sinh thái tạo ra mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên hoang dã
cùng với ý thức được giáo dục để biến bản thân du khách thành những người đi
tiên phong trong công tác bảo tồn môi trường.
Phát triển du lịch sinh thái sẽ làm giảm thiểu tác động tiêu cực của du
khách đến văn hóa và môi trường, đảm bảo cho địa phương hưởng nguồn lợi tài
chính do du lịch mang lại và chú trọng đến những đóng góp tài chính cho việc bảo
tồn thiên nhiên.
1.2.5.

Khái niệm du lịch sinh thái cộng đồng:

Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch dựa trên sự đa dạng về điều kiện sinh
thái tự nhiên, sự phong phú của các làng nghề truyền thống và nét đặc sắc của các

dân cư bản địa tại những điểm đến. Tham gia loại hình du lịch này du khách được
đến với cộng đồng dân cư địa phương, thực hiện những cuộc đối thoại, tìm hiểu
những nét đặc sắc trong văn hóa bản địa, tắm mình trong cuộc sống của người dân.


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

Loại hình du lịch cộng đồng đã khuyến khích các cộng đồng dân cư tại nơi
khách đến tham quan vào các hoạt động du lịch và tạo thêm thu nhập, giảm nhẹ
một phần khó khăn trong đời sống vật chất và tinh thần mà họ đang phải chịu
đựng, rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.
1.2.6.

Vai trò của DLST cộng đồng:

Ngày nay, du lịch trở thành một nhu cầu không thể thiếu của con người
trong đời sống công nghiệp hiện đại, càng ngày càng có nhiều người thích phương
thức du lịch đến với các cộng đồng dân cư địa phương, thực hiện những cuộc đối
thoại, tìm hiểu những nét đặc sắc trong văn hóa bản địa, tắm mình trong cuộc sống
của người dân. Sự đa dạng về văn hóa và sinh thái là những nét mới trong nhu cầu
tìm hiểu của du khách tham quan. Vì thế loại hình du lịch cộng đồng đã khuyến
khích cộng đồng dân cư tại nơi khách đến tham gia vào các hoạt động du lịch và
tạo thêm thu nhập, giảm nhẹ một phần những khó khăn trong đời sống vật chất và
tinh thần mà họ đang phải chịu đựng.
Một trong những điều kiện góp phần phát triển du lịch cộng đồng là phát
triển các làng nghề. Làng nghề hình thành lâu đời ở nước ta nhưng sự ra đời của
nó không đồng điều trong các vùng của cả nước và thực sự chỉ phát triển kể từ khi
đất nước bước vào công cuộc đổi mới.

Cùng với sự đi lên của nền kinh tế, nhiều làng nghề năng động đã tìm
hướng đi cho mình bằng sự phát triển các làng nghề truyền thống. Bằng những nổ
lực đó, nhiều làng nghề đã khôi phục lại những sản phẩm truyền thống như: dệt
lụa, dệt thổ cẩm, thêu ren, đan mây, gốm sứ, đồ gỗ, đúc đồng…nổi tiếng một thời
bị mai mọt vì không được khuyến khích. Những làng nghề đó đang dần dần trở
thành những điểm du lịch hấp dẫn du khách, không những chỉ giới thiệu được
truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc mà còn sáng tạo ra những sản phẩm đáp
ứng nhu cầu, thị hiếu của khách tham quan, tăng thêm thu nhập cho cá nhân và gia
đình.
1.2.7.

Khái niệm cơ sở làng nghề:


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

Làng nghề là những làng trước đây nguồn thu chủ yếu vào nông nghiệp là
chủ yếu nhưng do điều kiện khách quan nào đó (vị trí địa lí thuận lợi, nghề phụ có
thị trường tiêu thụ rộng lớn trên bình diện vùng, miền…) các làng nghề đã chuyển
hẳn sản xuất các sản phẩm mang tính chuyên biệt và nguồn thu của các sản phẩm
là nguồn thu nhập chính của làng.
1.2.8.

Khái niệm cơ sở lƣu trú:

Cơ sở lưu trú du lịch là những cơ sở kinh doanh về buồng phòng, và các
dịch vụ khác phục vụ du khách.
Cơ sở lưu trú bao gồm: khách sạn, làng du lịch, biệt thự, căn hộ, lều, bãi

cắm trại cho thuê, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú chủ yếu.
1.2.9.

Khái niệm điểm du lịch:

Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, có khả năng thu hút du
khách.
1.2.10.

Khái niệm tuyến du lịch:

Tuyến du lịch là lộ trình kết nối các điểm du lịch, khu du lịch khác nhau về
chức năng nhằm đáp ứng cho nhu cầu đi tham quan du lịch của du khách.
1.2.11.

Khái niệm tài nguyên du lịch:

Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách
mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử
dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du
lịch, khu du lịch nhằm tạo sự hấp dẫn du lịch.
1.2.11.1.

Tài nguyên thiên nhiên:

Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên khai được hình
thành và tồn tại trong tự nhiên mà con người có thể khai thác, chế biến và sử dụng(Nguyễn Đức Qúy – Trung tâm Khoa học tự nhiên & Công nghệ Quốc gia –
2001).
Theo từ điển bách khoa toàn thƣ Việt Nam:
Toàn bộ giá trị vật chất sẵn có trong tự nhiên (nguyên liệu, vật liệu do tự

nhiên tạo ra mà loài người có thể khai thác và sử dụng trong sản xuất và đời sống),


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

là những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của xã hội loài người. Tất cả những
dạng vật chất khi chưa được hiểu biết, khai thác, sử dụng thì chưa được gọi là
TNTN mà chỉ là điều kiện tự nhiên hay môi trường tự nhiên, cho nên TNTN mang
tính chất xã hội, được "xã hội hoá". TNTN là tư liệu sản xuất bao quát nhất, là
điều kiện không thể thiếu được của hoạt động sản xuất của xã hội. Thành phần của
chúng bao gồm các nguồn TNTN có thể phục hồi được và các nguồn TNTN
không thể phục hồi được. Có những TNTN có thể coi như vô tận, nhưng có những
TNTN sẽ bị cạn kiệt. TNTN được phân chia thành rất nhiều loại khác nhau tuỳ
thuộc vào đặc điểm, tính chất và mục đích sử dụng của chúng. Nhưng có thể tổng
quát phân loại TNTN thành các dạng chính theo sơ đồ sau:

TNDLTN là tổng thể tự nhiên các thành phần của nó có thể góp phần khôi
phục và phát triển thể lực, trí tuệ con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ
và được lôi cuốn vào phục vụ cho nhu cầu cũng như sản xuất dịch vụ du lịch.
Trong chuyến du lịch, người ta thường tìm đến những nơi có phong cảnh đẹp.
Phong cảnh theo một nghĩa nào đó được hiểu là một khái niệm tổng hợp liên quan
đến tài nguyên du lịch. Căn cứ vào mức độ biến đổi của phong cảnh do con người
tạo nên, có thể chia nó làm 4 loại:
- Phong cảnh nguyên sinh (thực tế rất ít gặp trên thế giới)


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

- Phong cảnh tự nhiên, trong đó thiên nhiên bị thay đổi tương đối ít bởi con
người.
- Phong cảnh nhân tạo (văn hoá), trước hết nó là những yếu tố do con người tạo
ra.
- Phong cảnh suy biến (loại phong cảnh bị thoái hoá khi có những thay đổi
không có lợi đối với môi trường tự nhiên).
Các thành phần của tự nhiên với tư cách là TNDL có tác động mạnh nhất
đến hoạt động du lịch là: địa hình, nguồn nước và thực – động vật.

Các loại tài nguyên du lịch tự nhiên.
 Địa hình
- Địa hình là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên phong cảnh
và sự đa dạng của phong cảnh nơi đó. Đối với du lịch, các dấu hiệu bên ngoài của
địa hình càng đa dạng và đặc biệt thì càng có sức hấp dẫn du khách.
- Các đơn vị hình thái chính của địa hình là núi, đồi và đồng bằng, chúng được
phân biệt bởi độ chênh cao của địa hình.
+ Địa hình đồng bằng tương đối đơn điệu về mặt ngoại hình, ít gây cảm
hứng cho khách tham quan du lịch.
+ Địa hình vùng đồi thường tạo ra một không gian thoáng đãng, bao la…
tác động mạnh đến tâm lý của khách ưa thích dã ngoại, rất thích hợp với loại hình
du lịch cắm trại, tham quan…
+ Địa hình miền núi thường có nhiều ưu thế đối với hoạt động du lịch vì có
sự kết hợp của nhiều dạng địa hình, vừa thể hiện vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của
thiên nhiên, vừa có khí hậu mát mẻ, không khí trong lành. Ở miền núi có nhiều đối
tượng cho hoạt động du lịch. Đó là các sông suối, thác nước, hang động, rừng cây
với thế giới sinh vật tự nhiên vô cùng phong phú. Miền núi còn là nơi cư trú của
đồng bào các dân tộc ít người với đời sống và nền văn hoá đa dạng đặc sắc.
Ở miền núi với sự kết hợp của địa hình, khí hậu, nguồn nước, tài nguyên thực –

động vật và bản sắc văn hoá của cộng đồng các dân tộc ít người đã tạo nên tài


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

nguyên du lịch tổng hợp có thể phát triển được nhiều loại hình du lịch khác nhau
và có sức hấp dẫn rất lớn đối với du khách.
- Ngoài các dạng địa hình trên, địa hình Karst và địa hình ven bờ có ý nghĩa rất
lớn cho tổ chức du lịch.
+ Địa hình Karst là kiểu địa hình được thành tạo do sự lưu thông của nước
trong các đá dễ hoà tan (đá vôi, đôlômit, đá phấn, thạch cao, muối mỏ…). ở Việt
Nam chủ yếu là đá vôi. Địa hình Karst có một số kiểu:
* Các công trình điều tra nghiên cứu hang động ở Việt Nam đã phát hiện được
khảng 200 hang động, trong đó tới 90% là hang động ngắn và trung bình có độ dài
dưới 100m và chỉ 10% số hang có độ dài trên 100m. Các hang động dài nhất và có
thể nói là đẹp nhất ở nước ta được phát hiện cho đến nay phần lớn tập trung ở tỉnh
Quảng Bình như động Phong Nha dài 7.729m, sâu 83m; hang Tối dài 5.258m, sâu
80m; hang Vòm dài 5.050m, sâu 145m… Ở Cao Bằng với hang Pắc Bó dài
3.248m, sâu 77m; hang Ngườm Sập dài 2.184m, sâu 31m; hang Ngườm Khu dài
804m sâu 36m; ở Lạng Sơn có hang Cả dài 3.342m, sâu 123m; hang Rù Moóc dài
1.560m, sâu 42m …
* Ngoài hang động Karst, kiểu địa hình Karst ngập nước, tiêu biểu là vịnh Hạ
Long – một di sản thiên nhiên thế giới; kiểu địa hình Karst đồng bằng tiêu biểu ở
vùng Ninh Bình được mệnh danh là “vịnh Hạ Long cạn” cũng rất có giá trị về du
lịch.
+ Địa hình ven bờ
Kiểu địa hình ven bờ, các kho chứa nước lớn (đại dương, biển, hồ…) có ý
nghĩa quan trọng đối với du lịch.

Trên phạm vi thế giới, số khách đi du lịch biển thường chiếm số đông. Nhất
là các quốc gia ở vùng Địa Trung Hải.
Nước ta có đường bờ biển dài 3.260km với nhiều bãi tắm tốt (nhiều bãi
biển vẫn còn ở dạng sơ khai, chưa bị ô nhiễm) độ dốc trung bình từ 10 – 30 và một
hệ thống đảo ven bờ, trong đó một số đảo có giá trị về du lịch.


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

Từ Móng Cái đến Hà Tiên với rất nhiều bãi tắm đẹp như Trà Cổ, Bãi Cháy,
Đồ Sơn, Hải Thịnh, Sầm Sơn, Cửa Lò, Thiên Cầm, Đá Nhảy, Nhật Lệ, Cửa Tùng,
Thuận An, Cảnh Dương, Lăng Cô, Non Nước, Mỹ Khê, Sa Huỳnh, Quy Nhơn,
Đại Lãnh, Dốc Lết, Nha Trang, Ninh Chữ, Mũi Né, Vũng Tàu, Long Hải, Phước
Hải.
Theo đánh giá của các chuyên gia Tổ chức du lịch thế giới, dải bờ biển có
những bãi tắm đẹp nhất nước ta kéo dài liên tục từ Đại Lãnh (dưới chân đèo Cả)
và vịnh Văn Phong cho đến Nha Trang. Đây là tiềm năng lớn để tạo nên các khu
du lịch biển có thể cạnh tranh được với các khu du lịch biển của các nước trong
khu vực (như Pattaya – Thái Lan, Bali – Inđônêxia…)
 Khí hậu
Khí hậu cũng được coi là một dạng tài nguyên du lịch. Trong các chỉ tiêu
về khí hậu, đáng lưu ý nhất là hai chỉ tiêu: nhiệt độ và độ ẩm không khí. Ngoài ra
còn phải tính đến các yếu tố khác như gió, áp suất khí quyển, ánh nắng mặt trời,
các hiện tượng thời tiết đặc biệt.
Điều kiện khí hậu có ảnh hưởng đến việc thực hiện các chuyến du lịch hoặc
hoạt động dịch vụ du lịch. Nhìn chung, những nơi có khí hậu ôn hoà thường được
du khách ưa thích. Những nơi có nhiều gió cũng không thích hợp với phát triển du
lịch. Mỗi loại hình du lịch thường đòi hỏi những điều kiện khí hậu khác nhau.

Chẳng hạn du khách đi nghỉ biển mùa hè thường chọn những dịp ít mưa, nắng
nhiều nhưng không gắt, nước mát, gió vừa phải. Như vậy, ở mức độ nhất định cần
phải chú ý đến những hiện tượng thời tiết đặc biệt làm cản trở đến kế hoạch du
lịch. Đó là bão trên các vùng biển, duyên hải, hải đảo, gió mùa đông bắc, gió tây
khô nóng, lốc, lũ… vẫn xảy ra ở nước ta.
Tính mùa của khí hậu ảnh hưởng rất rõ rệt đến tính mùa vụ trong du lịch.
Các vùng khác nhau trên thế giới có mùa du lịch khác nhau do ảnh hưởng của các
yếu tố khí hậu. Sự phụ thuộc chặt chẽ vào các điều kiện khí hậu, hoạt động du lịch
có thể diễn ra quanh năm hoặc trong một vài tháng.


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

+ Mùa du lịch cả năm (liên tục) thích hợp với loại hình du lịch chữa bệnh ở
suối khoáng, du lịch trên núi (cả mùa đông và mùa hè). Ở vùng có khí hậu nhiệt
đới như các tỉnh phía Nam nước ta, mùa du lịch hầu như chưa diễn ra quanh năm.
+ Mùa đông là mùa du lịch trên núi, du lịch thể thao mùa đông…
+ Mùa hè là mùa du lịch quan trọng nhất vì nó có thể phát triển nhiều loại hình
du lịch như du lịch biển, các loại hình du lịch trên núi và khu vực đồng bằng – đồi;
khả năng du lịch ngoài trời rất phong phú và đa dạng.
 Nguồn nƣớc
Tài nguyên nước bao gồm nước chảy trên mặt và nước ngầm. Đối với du
lịch thì nước mặt có ý nghĩa quan trọng. Nó bao gồm nước đại dương, biển, sông,
hồ (tự nhiên, nhân tạo), suối phun, thác nước…
Nhằm mục đích du lịch, nước được sử dụng theo nhu cầu cá nhân, theo độ
tuổi và nhu cầu quốc gia. Nói chung giới hạn về nhiệt độ của lớp nước trên mặt tối
thiểu có thể chấp nhận được là 180C đối với người lớn, trên 200C đối với trẻ em,
ngoài ra còn phải chú ý tới tần số, tính chất của sóng, độ sạch của nước…

Đối với du lịch thể thao nên đánh giá tài nguyên cá, khả năng đánh bắt cá,
bảo vệ cá…
Tài nguyên nước mặt không chỉ có tác dụng hồi phục trực tiếp mà còn ảnh
hưởng nhiều đến thành phần khác của môi trường sống, đặc biệt nó làm dịu đi khí
hậu ven bờ.
Hiện nay, trên thế giới đã mọc lên nhiều khu du lịch nghỉ dưỡng ven biển,
ven hồ,… đã thu hút một lượng lớn du khách.
Nước ngầm nhìn chung ít có giá trị đối với du lịch, tuy nhiên cần phải nói
tới tài nguyên nước khoáng. Đây là nguồn tài nguyên có giá trị du lịch an dưỡng
và chữa bệnh. Tính chất chữa bệnh của các nguồn nước khoáng đã được phát hiện
từ thời đế chế La Mã. Những nước có nhiều tài nguyên nước khoáng là Liên bang
Nga, Bungri, Italia, CHLB Đức, CH Séc… cũng là những nước phát triển loại
hình du lịch chữa bệnh.


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

Cho đến nay trên thế giới chưa có quy định thống nhất về giới hạn dưới của
các nguyên tố, độ khoáng hoá, thành phần khí để phân biệt nước khoáng và nước
bình thường, song có thể căn cứ vào các chỉ tiêu chủ yếu dưới đây để xếp loại
nước thiên nhiên vào nước khoáng.
Để thuận lợi cho việc chữa bệnh, người ta đã tiến hành phân loại các nhóm
nước khoáng:
+ Nhóm nước khoáng Cacbonic: tác dụng giải khát, chữa bệnh cao huyết
áp, sơ vữa động mạch, các bệnh thần kinh ngoại biên.
Trên thế giới nổi tiếng với các muối khoáng Vichy (Pháp), Boczomi
(Grudia), Wisbađen (CHLB Đức).
Ở Việt Nam có nước khoáng Vĩnh Hảo được khai thác từ 1928, đã xuất

khẩu sang một số nước Đông Nam Á.
+ Nhóm nước khoáng Silíc: công dụng đối với các bệnh tiêu hoá, thần kinh,
thấp khớp, phụ khoa… Nổi tiếng trên thế giới là suối khoáng Kulđua (Liên Bang
Nga). Ở nước ta có nước khoáng Kim Bôi (Hoà Bình), Hội Vân (Phù Cát – Bình
Định)…
+ Nhóm nước khoáng Brôm – Iốt – Bo: công dụng chữa bệnh ngoài da,
thần kinh, phụ khoa… Nổi tiếng thế giới là nước khoáng Mar-geathia và
Fricarichshal (CHLB Đức). Ở Việt Nam là nước khoáng Quang Hanh (Quảng
Ninh), Tiên Lãng (Hải Phòng).
+ Ngoài 3 nhóm trên còn có một số nhóm nước khoáng khác (Liti, Sunphuahiđrô,
Asen – Fluo, phóng xạ…) cũng có giá trị với du lịch nghỉ ngơi và chữa bệnh.
 Sinh vật
Ngày nay thị hiếu về du lịch ngày càng trở nên đa dạng. Sau thời gian lao
động mệt mỏi, con người cần được nghỉ ngơi để hồi phục sức khoẻ, đảm bảo khả
năng lao động lâu dài…Việc đi du lịch đến các nơi có phong cảnh đẹp, thiên nhiên
trong lành,… là cách nghỉ ngơi rất tốt. Bởi lẽ, con người cũng như mọi sinh vật
đều được phát sinh và phát triển trong môi trường tự nhiên – nguyên thuỷ – một
môi trường hoàn toàn trong lành và ổn định. Con người đã thích nghi với môi


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

trường đó. Giờ đây sống trong một xã hội phát triển, có những điều kiện thuận lợi
do con người tạo ra, nhưng đồng thời môi trường lại bị ô nhiễm, biến đổi bất lợi
cho cuộc sống của con người.
Nhiều công trình nghiên cứu của các nhà y học, tâm lý – xã hội học đều
nhận thấy rằng, vẻ đẹp thiên nhiên, khung cảnh đất trời bao la, muôn hình muôn
vẻ có ảnh hưởng rất lớn tới trạng thái tâm hồn, sức khoẻ con người. Trong y học

gọi là phương pháp “cảnh quan trị liệu học”. Bác sĩ Iôn Boóc đieanu người
Rumani, trong cuốn sách “Làm thế nào để sống lâu” đã nói “Đối với con người,
khi mệt mỏi vì lao động hằng ngày nặng nhọc, thiên nhiên là cái giếng thần tiên
làm cho anh ta trẻ lại, trẻ lại thực sự”. Bác sĩ G. Bôtđa cũng nói: “Chỉ có thiên
nhiên như người mẹ hiền thực sự có khả năng đem lại cho con người cái thế thăng
bằng giữa tâm hồn và thể xác, mà không có nó thì chẳng có sức khoẻ, cũng chẳng
có hạnh phúc và niềm vui”. Như vậy có thể nói, cảnh quan thiên nhiên có một vai
trò vô cùng quan trọng đối với sức khoẻ con người và là một trong những nhân tố
góp phần thúc đẩy sự phát triển của du lịch, đặc biệt là loại hình Du lịch sinh thái.
Về tài nguyên sinh vật, rừng không chỉ có ý nghĩa lớn về mặt kinh tế, sinh thái, mà
còn có giá trị đối với du lịch, nhất là rừng nguyên sinh hoặc thuần chủng. Tất
nhiên không phải mọi tài nguyên động thực vật đều là đối tượng tham du lịch. Để
phục vụ các mục đích du lịch khác nhau, người ta đưa ra các chỉ tiêu sau đây:
- Chỉ tiêu phục vụ mục đích tham quan du lịch:
+ Thảm thực vật phong phú, độc đáo và điển hình.
+ Có loài đặc trưng cho khu vực, loài đặc hữu, loài quý hiếm đối với thế
giới và trong nước.
+ Có một số động vật (chim, thú, bò sát, côn trùng, cá…) phong phú và
điển hình cho vùng.
+ Có những loài có thể khai thác làm đặc sản phục vụ nhu cầu của khách du
lịch.


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

+ Thực động vật có màu sắc hấp dẫn, vui mắt, một số loài phổ biến có thể
quan sát bằng mắt thường, ống nhòm hoặc nghe được tiếng hót, tiếng kêu và chụp
ảnh.

+ Đường giao thông đi lại thuận tiện.
- Chỉ tiêu đối với du lịch săn bắn thể thao:
+ Quy định loài được săn bắn là loài phổ biến, không ảnh hưởng đến số
lượng quỹ gen.
+ Loài động vật nhanh nhẹn.
+ Ngoài ra khu vực dành cho săn bắn thể thao phải tương đối rộng, có địa
hình tương đối dễ vận động, xa dân cư, đảm bảo tầm bay của đạn và sự an toàn
tuyệt đối cho khách. Cấm dùng súng quân sự, mìn chất nổ nguy hiểm.
-Chỉ tiêu đối với mục đích du lịch nghiên cứu khoa học:
+ Nơi có động thực vật phong phú và đa dạng.
+ Nơi có tồn tại loài quý hiếm.
+ Nơi có thể đi lại quan sát, chụp ảnh.
+ Có quy định thu mẫu của cơ quan quản lý…
Về phương diện tài nguyên du lịch, cần chú ý đến các khu bảo tồn thiên
nhiên. Nước ta đã thành lập được 105 khu bảo vệ tự nhiên, bao gồm 27 vườn quốc
gia (VQG), 44 khu bảo tồn tự nhiên và 34 khu rừng văn hoá, lịch sử, môi trường
với tổng diện tích khoảng 2.092 ha (2003).
Một trong những mục tiêu xây dựng hệ thống VQG là bảo vệ các khu cảnh
quan tự nhiên, phục vụ mục đích khoa học, giáo dục và du lịch sinh thái.
1.2.11.2.

Tài nguyên du lịch nhân văn(TNDLNV):

Quan niệm.
TNDLNV nói một cách ngắn gọn, là các đối tượng, hiện tượng do con
người tạo ra trong suốt quá trình tồn tại và có giá trị phục vụ cho nhu cầu du lịch.
TNDLNV có các đặc điểm sau:
- Có tác dụng nhận thức nhiều hơn. Tác dụng giải trí không điển hình hoặc chỉ
có ý nghĩa thứ yếu.



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

- Việc tìm hiểu các đối tượng nhân tạo thường diễn ra trong thời gian ngắn.
- Số người quan tâm tới TNDLNV thường có văn hoá cao hơn, thu nhập và yêu
cầu cao hơn.
- TNDLNV thường tập trung ở các điểm quần cư và thành phố lớn.
- Ưu thế của TNDLNV là đại bộ phận không có tính mùa vụ (trừ các lễ hội),
không bị phụ thuộc nhiều vào các điều kiện khí hậu và các điều kiện tự nhiên
khác.
- Sở thích của những người tìm đến TNDLNV rất phức tạp và rất khác nhau…
Các loại TNDLNV.
 Các di sản văn hoá thế giới và di tích lịch sử – văn hoá:
* Di sản văn hoá thế giới
- Các tiêu chuẩn của văn hoá thế giới (6 tiêu chuẩn).
+ Là các tác phẩm nghệ thuật độc nhất vô nhị, tác phẩm hàng đầu của tài
năng con người.
+ Có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc, nghệ
thuật cấu tạo không gian trong một thời kỳ nhất định, trong một khung cảnh văn
hoá nhất định.
+ Chứng cớ xác thực cho một nền văn minh đã bị biến mất.
+ Cung cấp một ví dụ hùng hồn về một thể loại xây dựng hoặc kiến trúc
phản ánh một giai đoạn lịch sử có ý nghĩa.
+ Cung cấp một ví dụ hùng hồn về một dạng nhà truyền thống nói lên được
một nền văn hoá có nguy cơ bị huỷ hoại trước những biến động không thể cưỡng
lại được.
+ Có mối quan hệ trực tiếp với sự kiện, tín ngưỡng đáp ứng được những
tiêu chuẩn xác thực về ý tưởng sáng tạo, về vật liệu, về cách tạo lập cũng như về vị

trí.
- Nhìn chung, các di sản văn hoá thế giới là kết tinh cao nhất của những sáng
tạo văn hoá một dân tộc. Bất cứ một quốc gia nào nếu có những di tích được công
nhận là di sản văn hoá thế giới thì không những là một tôn vinh lớn cho dân tộc


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

ấy, mà còn là nguồn tài nguyên quý giá, có sức hút khách du lịch, đặc biệt là khách
quốc tế.
Hết năm 2006, trên toàn thế giới Hội đồng di sản thế giới đã công nhận
được 840 di sản. Nước ta có 7 di sản thế giới, trong đó có 5 di sản văn hoá gồm cố
đô Huế (công nhận năm 1993), tháp Chàm Mỹ Sơn (1999), đô thị cổ Hội An
(1999) nhã nhạc cung đình Huế (2003), cồng chiêng Tây Nguyên (2005) và 2 di
sản tự nhiên gồm vịnh Hạ Long (1994) và Phong Nha – Kẻ Bàng (2003).
Trong số các di sản thế giới phải kể tới 7 kỳ quan do bàn tay khối óc con
người tạo ra tập trung ở những nôi của nền văn minh nhân loại. Đây là 7 kỳ quan
kỳ diệu được khắc mốc ghi tên từ thế kỷ VI sau công nguyên, như những chứng
tích điển hình. Cụ thể là:
 Kim tự tháp Ai Cập.
 Vườn treo Babilon (Irắc).
 Tượng khổng lồ Hêliốt trên đảo Rốt (Hy lạp).
 Lăng mộ vua Môdôn ở Halicacnasơ (Thổ Nhĩ Kỳ).
 Đền thờ nữ thần Actêmis ở Ephedo (Thổ Nhĩ Kỳ).
 Tượng thần Rớt trong ngôi đền tại Olympia (Hy Lạp).
 Ngọn hải đăng ở Alêcxanđria (Ai Cập).
Trong 7 kỳ quan trên, chỉ còn kim tự tháp Ai Cập là vẫn tồn tại.
* Các di tích lịch sử tích lịch sử – văn hoá

Di tích lịch sử tích lịch sử – văn hoá là tài sản quý giá của mỗi địa phương,
mỗi dân tộc, đất nước và cả nhân loại. Nó là bằng chứng trung thành, xác thực, cụ
thể về đặc điểm văn hoá mỗi nước. Ở đó chứa đựng tất cả những gì thuộc về
truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa, trí tuệ, tài năng, giá trị văn hoá nghệ thuật
của mỗi quốc gia. Di tích lịch sử – văn hoá có khả năng rất lớn góp phần vào việc
phát triển trí tuệ, tài năng của con người; góp phần vào việc phát triển khoa học
nhân văn, khoa học lịch sử. Đó chính là bộ mặt quá khứ của mỗi dân tộc, mỗi quốc
gia.


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: Th.s Trần Phi Hoàng

Trên thế giới những Kim Tự Tháp ở Ai Cập, chùa tháp dát vàng, bạc ở Ấn
Độ, Mianma, Angcovát ở Campuchia… và trong nước với thành Cổ Loa, đền
Hùng, cố đô Huế, thánh địa Mỹ Sơn… vẫn mãi là biểu tượng chói ngời cho kho
tàng văn hoá dân tộc và của nhân loại.
Được gọi chung là di tích lịch sử – văn hoá vì chúng được tạo ra bởi con
người (tập thể hoặc cá nhân) trong quá trình hoạt động, sáng tạo. Văn hoá ở đây
bao gồm cả văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần.
- Theo hiến chương Vơnidơ – Italia (1996) thì di tích lịch sử văn hoá bao
gồm những công trình xây dựng lẻ loi, những khu di tích ở đô thị hoặc nông thôn,
là những bằng chứng của một nền văn minh riêng biệt, của một sự tiến hoá có ý
nghĩa hay là một biến cố về lịch sử.
-Ở Việt Nam, theo pháp luật bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử – văn hoá và
danh lam thắng cảnh (04/04/1984), di tích lịch sử – văn hoá được quy định như
sau: “Di tích lịch sử – văn hoá là những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài
liệu và các tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật, cũng như các giá trị
văn hoá khác, hoặc liên quan đến các sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hoá

– xã hội”.
Từ những quy định về di tích lịch sử – văn hoá các nước trên thế giới và ở
nước ta có thể rút ra những quy định chung có ý nghĩa khoa học và hệ thống như
sau:
+ Di tích lịch sử – văn hoá là những nơi ẩn dấu một bộ phận giá trị văn hoá
khảo cổ.
+ Những điểm khung cảnh ghi dấu về một dân tộc học.
+ Những nơi diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng có ý nghĩa thúc đẩy
lịch sử đất nước, lịch sử địa phương phát triển .
+ Những địa điểm ghi dấu chiến công chống xâm lược, áp bức.
+ Những nơi ghi dấu giá trị lưu niệm về nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc,
danh nhân văn hoá, khoa học.
+ Những công trình kiến trúc, nghệ thuật có giá trị toàn quốc hoặc khu vực.


×