Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Nghiên cứu kỹ thuật nuôi thành thục, cho đẻ và theo dõi quá trình phát triển phôi, ấu trùng của ốc đĩa (nerita balteata reeve, 1855) tại quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.62 MB, 48 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

HÀ VĂN NINH

NGHIÊN CỨU KỸ THUẬT NUÔI THÀNH THỤC, CHO ĐẺ
VÀ THEO DÕI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN PHÔI, ẤU
TRÙNG CỦA ỐC ĐĨA (Nerita balteata Reeve, 1855)
TẠI QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

KHÁNH HÒA – 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

HÀ VĂN NINH

NGHIÊN CỨU KỸ THUẬT NUÔI THÀNH THỤC, CHO ĐẺ VÀ
THEO DÕI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN PHÔI, ẤU TRÙNG
CỦA ỐC ĐĨA (Nerita balteata Reeve, 1855) TẠI QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Ngành:

Nuôi trồng Thủy sản

Mã số:



60620301

Quyết định giao đề tài:

1255/QĐ-ĐHNT, 26/9/2013

Quyết định thành lập HĐ:

414/QĐ-ĐHNT, 04/5/2015

Ngày bảo vệ:

30/5/2015

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Ngô Anh Tuấn
Chủ tịch Hội đồng:
TS. Phạm Quốc Hùng
Khoa Sau đại học:
:

KHÁNH HÒA – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những số liệu viết trong bản luận văn “Nghiên cứu kỹ thuật
nuôi thành thục, cho đẻ và theo dõi quá trình phát triển phôi, ấu trùng của ốc đĩa
(Nerita balteata Reeve, 1855) tại Quảng Ninh” là trung thực. Kết quả nghiên cứu của
luận văn là do sự cố gắng làm việc, nghiên cứu và học hỏi một cách nghiêm túc của

bản thân được tách ra từ đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh Quảng Ninh mà tôi là
thành viên trực tiếp tham gia thực hiện.
Khánh Hòa, ngày 05 tháng 5 năm 2015
Học viên

Hà Văn Ninh

iii


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới thầy TS. Ngô Anh
Tuấn người đã trực tiếp định hướng cũng như tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều
kiện để tôi hoàn thành luận văn.
Chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô giáo Viện Nuôi trồng Thủy sản, Trường Đại
học Nha Trang đã giảng dạy giúp tôi hoàn thành chương trình học tập.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới BCH Hội Nông dân huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng
Ninh, đã tạo điều kiện cho tôi về thời gian và động viên về tinh thần giúp tôi hoàn
thành chương trình học tập và thực hiện đề tài.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới các anh, chị và các bạn đồng nghiệp, gia
đình… đã cổ vũ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài tốt nghiệp của
mình./.
Khánh Hòa, ngày 05 tháng 5 năm 2015
Tác giả

Hà Văn Ninh

iv



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.......................................................................................................... iii
LỜI CẢM ƠN.................................................................................................................iv
MỤC LỤC .......................................................................................................................v
DANH MỤC BẢNG .....................................................................................................vii
DANH MỤC HÌNH .................................................................................................... viii
TRÍCH YẾU LUẬN VĂN .............................................................................................ix
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1.1 Tình hình nghiên cứu về động vật thân mềm chân bụng ..........................................2
1.1.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới .........................................................................2
1.1.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam..........................................................................4
1.2 Tình hình nghiên cứu ốc đĩa ......................................................................................6
1.2.1 Tình hình nghiên cứu ốc đĩa trên thế giới ..............................................................6
1.2.2 Tình hình nghiên cứu ốc đĩa ở Việt Nam ...............................................................8
1.3 Hiện trạng sản xuất giống và nuôi thương phẩm động vật thân mềm tại Quảng
Ninh .................................................................................................................................9
1.3.1 Hiện trạng sản xuất giống.......................................................................................9
1.3.2 Hiện trạng nuôi thương phẩm...............................................................................10
1.3.3 Hiện trạng dịch bệnh trên động vật thân mềm tại Quảng Ninh............................11
1.3.4 Thị trường tiêu thụ ĐVTM ...................................................................................12
1.4 Một số điều kiện tự nhiên của tỉnh Quảng Ninh .....................................................12
1.4.1 Vị trí địa lý............................................................................................................12
1.4.2 Địa hình ................................................................................................................13
1.4.3 Khí hậu .................................................................................................................13
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................14
2.1 Đối tượng, thời gian và nội dung nghiên cứu..........................................................14
v


2.2 Phương pháp nghiên cứu .........................................................................................15

2.2.1 Kỹ thuật nuôi vỗ ốc bố mẹ ...................................................................................15
2.2.2 Kỹ thuật kích thích sinh sản .................................................................................15
2.2.3 Theo dõi quá trình phát triển phôi và ấu trùng của ốc đĩa....................................16
2.2.4 Các công thức tính toán ........................................................................................16
2.3 Phương pháp xử lý số liệu .......................................................................................17
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ..................................18
3.1 Kỹ thuật nuôi thành thục ốc đĩa bố mẹ....................................................................18
3.1.1 Điều kiện môi trường bể nuôi...............................................................................18
3.1.2 Kỹ thuật chăm sóc và quản lý bể nuôi..................................................................18
3.1.3 Kết quả nuôi thành thục ốc đĩa bố mẹ ..................................................................21
3.2 Kỹ thuật kích thích sinh sản ốc đĩa..........................................................................22
3.3 Quá trình phát triển phôi và ấu trùng của ốc đĩa .....................................................26
3.3.1 Các giai đoạn phát triển phôi và ấu trùng.............................................................26
3.3.2 Ảnh hưởng của độ mặn tới quá trình phát triển phôi và ấu trùng ốc đĩa..............30
3.3.3 Ảnh hưởng của mật độ ấp đến quá trình phát triển phôi và ấu trùng ốc đĩa ........31
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN..................................................33
4.1 Kết luận....................................................................................................................33
4.2 Đề xuất ý kiến..........................................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................34
PHỤ LỤC

vi


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Số lượng giống ĐVTM tại Quảng Ninh giai đoạn 2005 – 2012 ....................9
Bảng 1.2: Diện tích, sản lượng nuôi bãi triều từ năm 2004 – 2011 ..............................11
Bảng 3.1: Điều kiện môi trường bể nuôi vỗ ốc đĩa .......................................................18
Bảng 3.2: Kết quả nuôi thành thục ốc đĩa bố mẹ ..........................................................21
Bảng 3.3: Kết quả kích thích sinh sản ốc đĩa ................................................................22

Bảng 3.4: Các giai đoạn phát triển phôi và ấu trùng của ốc đĩa (26 – 30oC) ................27
Bảng 3.5: Ảnh hưởng của độ mặn đến quá trình phát triển phôi ốc đĩa........................30
Bảng 3.6: Quá trình phát triển phôi của ốc đĩa ở các mật độ khác nhau.......................32

vii


DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Ốc đĩa Nerita balteata (Reeve, 1855) ...........................................................14
Hình 2.2: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu....................................................................14
Hình 3.1: Bể nuôi vỗ ốc đĩa bố mẹ ................................................................................19
Hình 3.2: Rong câu tươi, tảo khô và tảo bám làm thức ăn cho ốc đĩa bố mẹ ...............19
Hình 3.3: Thức ăn tảo bám (Navicula sp.) trong quá trình nuôi thành thục ốc đĩa.......20
Hình 3.4: Thức ăn rong câu tươi trong quá trình nuôi thành thục ốc đĩa......................20
Hình 3.5: Ốc đĩa kết cặp giao phối trong quá trình nuôi vỗ ..........................................21
Hình 3.6: Vệ sinh ốc đĩa bố mẹ trước khi kích thích sinh sản ......................................23
Hình 3.7: Hệ thống đèn tia cực tím dùng để kích thích sinh sản ốc đĩa ........................24
Hình 3.8: Chuyển ốc vào bể đẻ sau khi kích thích sinh sản ..........................................24
Hình 3.9: Bọc trứng của ốc đĩa bám trên giá thể và thành bể .......................................25
Hình 3. 10: Hình dạng bọc trứng ốc đĩa (độ phóng đại x40) ........................................26
Hình 3.11: Các giai đoạn phát triển phôi và ấu trùng của ốc đĩa ..................................29
Hình 3.12: Ấu trùng ốc đĩa bị dị hình ở giai đoạn veliger.............................................31

viii


TRÍCH YẾU LUẬN VĂN
Ốc đĩa N. balteata là một đối tượng nuôi thủy sản mới. Đây là loài ốc nhỏ với
kích thước thành thục lần đầu chỉ từ 20 – 30mm nhưng có giá trị dinh dưỡng và giá trị
kinh tế cao, đặc biệt tại tỉnh Quảng Ninh. Thế giới đã có một số công trình nghiên cứu

về đối tượng này được công bố, nhưng những hiểu biết về kỹ thuật cho đẻ và ương
nuôi ấu trùng ốc đĩa còn rất hạn chế.
Nhằm giảm áp lực khai thác và phát triển đối tượng nuôi mới, nhóm nghiên cứu
thuộc Trường Đại học Nha Trang đã thực hiện đề tài cấp tỉnh nghiên cứu sản xuất
giống nhân tạo loài ốc này tại Quảng Ninh. Nằm trong khuôn khổ của đề tài, nghiên
cứu này được thực hiện nhằm xác định các biện pháp kỹ thuật nuôi thành thục, phương
pháp kich thích sinh sản, quá trình phát triển phôi và ảnh hưởng của độ mặn và mật độ
ương lên tỷ lệ nở và tỷ lệ dị hình của ấu trùng ốc đĩa trong sinh sản nhân tạo.
Nghiên cứu được tiến hành trong năm 2013 tại Quảng Ninh. Ốc đĩa bố mẹ được
thu từ bãi phân bố ngoài tự nhiên với độ mặn dao động từ 20 tới 32‰ (trung bình:
28,5±3,0‰) và được nuôi thành thục trong bể xi măng với thức ăn là tảo bám, tảo khô
dạng phiến và rong câu non. Sử dụng 3 phương pháp kich thích cho ốc sinh sản là sốc
nhiệt, sốc nhiệt kết hợp chiếu tia cực tím và sốc nhiệt kết ngâm trong dung dịch hóa
chất H2O2 (ôxy già). Quá trình phát triển phôi và ấu trùng của ốc đĩa được xác định ở
nhiệt độ dao động từ 26-30oC, độ mặn 30‰ với mật độ ấp 5 bọc trứng/lít.
Thí nghiệm ảnh hưởng của độ mặn và mật độ đến quá trình phát triển phôi của ốc
đĩa được bố trí gồm 3 nghiệm thức độ mặn (20, 25 và 30‰) và 3 nghiệm thức mật độ
(5, 7 và 9 bọc trứng/lít).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ sống trung bình của ốc trong quá trình nuôi vỗ
là 80,8 ± 3,5 % và tỷ lệ thành thục trung bình là 74,4 ± 6,0%. Đối với kỹ thuật kích
thích ốc sinh sản thì cả 3 phương pháp kích thích sinh sản được áp dụng đều có hiệu
quả với ốc với sức sinh sản thực tế trung bình là 4,6 ± 0,3 bọc trứng/ốc cái/lần đẻ; số
lượng phôi trung bình là 94,9 ± 3,3 phôi/bọc trứng, tỷ lệ thụ tinh của trứng trung bình
là 92,7 ± 1,9% và tỷ lệ nở trung bình là 80 ± 0,7%.
Quá trình phát triển phôi và ấu trùng của ốc đĩa trải qua các giai đoạn sau (ở điều
kiện nhiệt độ nước 26 – 30oC):
ix


- Giai đoạn phân cắt tế bào tới ấu trùng Trochophora diễn ra trong bọc trứng kéo

dài trong khoảng 25 tới 40 ngày. Kích thước trung bình của trứng mới thụ tinh: 137,5
± 11,4µm và của ấu trùng Trochophora: 275 ± 10,5µm.
- Giai đoạn ấu trùng Veliger gồm có 2 giai đoạn phụ: ấu trùng Veliger 2 thùy và
Veliger 4 thùy, thời gian biến thái từ khi trứng mới thụ tinh: 50 – 70 ngày. Kích thước
ấu trùng: 354,5 – 530,0µm.
- Giai đoạn ấu trùng Spat: thời gian biến thái 70 – 90 ngày, kích thước ấu trùng:
805 ± 15,9µm.
- Giai đoạn ốc con: thời gian biến thái 100 – 120 ngày, kích thước 1851,8 ± 46,6µm.
Trong quá trình phát triển phôi của ốc đĩa, độ mặn 25‰ là thích hợp nhất (tỷ lệ
nở đạt cao nhất 80,6 ± 2,3% và tỷ lệ ấu trùng dị hình là thấp nhất 3,6 ± 0,25%). Mật độ
ấp thích hợp nhất là 5 bọc trứng/lít với tỷ lệ nở cao nhất: 75,1 ± 0,53% và tỷ lệ dị hình
thấp nhất: 3,38 ± 0,25%.

x


MỞ ĐẦU
Ốc đĩa (N. balteata) là động vật chân bụng có thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng và
được xem là một món ăn đặc sản được nhiều người ưa chuộng, đặc biệt là ở Quảng
Ninh, Hải Phòng. Ở nước ta, ốc đĩa phân bố chủ yếu ở các rừng ngập mặn tại vùng
triều và các bãi đá của các đảo xa bờ của tỉnh Quảng Ninh. Đây là loài hải sản có giá
trị kinh tế cao, ở Quảng Ninh giá bán tại các nhà hàng dao động trong khoảng 400 500 ngàn đồng/kg. Do đó, tỉnh Quảng Ninh đã chú trọng nghiên cứu phát triển đối
tượng này theo định hướng tạo sản phẩm cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu. Tuy nhiên, do là đối tượng mới nên sản lượng ốc đĩa cung cấp cho thị
trường hiện nay hoàn toàn là khai thác từ tự nhiên. Đặc biệt, trong những năm gần đây
tình trạng khai thác quá mức đã làm cho nguồn lợi ốc đĩa ngoài tự nhiên đang đứng
trước nguy cơ cạn kiệt (Ngô Anh Tuấn và ctv, 2013).
Nhằm giảm áp lực khai thác, bảo tồn nguồn lợi và phát triển đối tượng nuôi mới,
Trường Đại học Nha Trang đã thực hiện đề tài nghiên cứu khả năng sản xuất giống
nhân tạo loài ốc này. Trong khuôn khổ của đề tài và được sự cho phép của Viện Nuôi

trồng Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu kỹ thuật
nuôi thành thục, cho đẻ và theo dõi quá trình phát triển phôi, ấu trùng của ốc đĩa
(Nerita balteata Reeve, 1855) tại Quảng Ninh”.
Mục tiêu của đề tài: nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật trong quá trình nuôi thành
thục, kích thích sinh sản và quá trình phát triển phôi, ấu trùng của ốc đĩa tại Quảng Ninh.
Nội dung nghiên cứu: luận văn được thực hiện với 3 nội dung chính:
- Kỹ thuật nuôi thành thục ốc đĩa bố mẹ.
- Kỹ thuật kích thích sinh sản ốc đĩa bố mẹ.
- Theo dõi quá trình phát triển phôi, ấu trùng và nghiên cứu ảnh hưởng của độ
mặn, mật độ đến quá trình phát triển phôi của ốc đĩa.
Ý nghĩa của đề tài:
Ý nghĩa khoa học: Lần đầu tiên nghiên cứu về quá trình phát triển phôi và ấu
trùng của ốc đĩa tại Việt Nam, kết quả của đề tài sẽ góp phần cung cấp những thông tin
về quá trình phát triển phôi và ấu trùng của ốc đĩa làm cơ sở khoa học quan trọng phục
vụ cho việc nghiên cứu xây dựng kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo đối tượng này tại
Quảng Ninh.
Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần chủ động sản xuất con giống nhân tạo cho nuôi
thương phẩm, giảm áp lực khai thác tự nhiên, bảo vệ nguồn lợi, đa dạng hóa các đối
tượng nuôi biển, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân ven biển ở Quảng Ninh.
1


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1

Tình hình nghiên cứu về động vật thân mềm chân bụng

1.1.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Theo McArthur và Harasewych (2003), lớp động vật chân bụng Gastropoda là
lớp có thành phần loài phong phú nhất, chiếm khoảng 75 – 80% số loài trong ngành

động vật thân mềm hiện nay. Động vật chân bụng có phân bố địa lý trên toàn thế giới,
từ vùng hàn đới đến vùng nhiệt đới, chúng có thể phân bố ở hầu hết các loại địa hình,
khí hậu và thích nghi tốt với sự thay đổi của các yếu tố môi trường.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu về các đối tượng động vật chân
bụng, tuy nhiên các nghiên cứu về sản xuất giống nhân tạo mới chỉ tập trung vào một
số đối tượng có giá trị kinh tế cao như: ốc hương (Babylonia areolata), bào ngư
(Haliotis diversicolor), ốc nhảy (Strombus canarium).
Đặc điểm sinh sản và kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo ốc hương đã được nghiên
cứu ở nhiều nước trên thế giới. Ở Ấn Độ, Raghunathan và Ayyakkannu (1995), đã tiến
hành nghiên cứu về loài ốc hương B. spirata ở trong phòng thí nghiệm. Kết quả nghiên
cứu đã mô tả được hoạt động đẻ trứng, hình thái cấu tạo và quá trình phát triển phôi,
ấu trùng của ốc hương. Theo đó, mỗi con ốc cái có chiều cao trung bình 5 - 6 cm đẻ
được 24 – 35 bọc trứng, mỗi bọc chứa khoảng 900 trứng. Nghiên cứu của
Shannmugaraj và Ayykkannu (1997) đã xác định được mùa vụ sinh sản của loài ốc
này kéo dài từ tháng 1 đến tháng 8 nhưng chủ yếu vào tháng 4 đến tháng 8. Tại Thái
Lan đã có nhiều công trình nghiên cứu về đặc điểm sinh sản và kỹ thuật sản xuất giống
ốc hương loài B. areolata. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hoạt động đẻ trứng, quá trình
phát triển phôi và ấu trùng của loài B. areolata tương tự như loài B. spirata. Ốc hương
bố mẹ thành thục sinh dục có khả năng sinh sản quanh năm từ tháng 1 đến tháng 10
nhưng đẻ rộ vào tháng 3 đến tháng 7 mà đỉnh cao là tháng 4. Trung bình mỗi con đẻ
25 bọc trứng/lần đẻ, mỗi bọc chứa khoảng 400 trứng với đường kính trứng khoảng 286
µm. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy không có mối tương quan giữa ngày đẻ trứng
với tuần trăng và chu kỳ triều cũng như kích cỡ ốc và số bọc trứng/lần đẻ (Tanate và
Jararat, 1996).
Những nghiên cứu đầu tiên về kích thích sinh sản bào ngư nhân tạo đã được thực
hiện bởi Murayama vào năm 1935 tại Nhật Bản. Bào ngư Haliotis dicus hannai được
kích thích sinh sản bằng phương pháp nâng nhiệt và pH nước. Ino (1952) đã sản xuất
2



giống nhân tạo thành công hai loài bào ngư H. discus và H. sieboldii, ương ấu trùng
được 2 tháng đạt kích cỡ 2mm. Theo Uki và Kikuchi (1984), trong điều kiện nuôi nhốt
bào ngư bố mẹ có thể sinh sản nếu nhận được kích thích phù hợp. Một số phương pháp
kích thích bào ngư sinh sản bào ngư có hiệu quả đã được áp dụng như: kích thích nhiệt
khô, nhiệt ướt, kích thích bằng tia cực tím, dung dịch ôxy già và thay đổi chu kỳ chiếu
sáng nhân tạo ngày và đêm.
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về đối tượng ốc nhảy Strombus.
Các loài trong giống Strombus đều thụ tinh trong, cá thể đực có cơ quan giao cấu gọi
là penis hay verge, là đặc điểm quan trọng để phân biệt với những cá thể cái. Khi đến
mùa sinh sản, chúng thường bắt cặp và thực hiện quá trình giao phối. Theo Syamsul và
ctv (1998), ốc nhảy S. canarium cũng như một số loài ốc khác thường đẻ trứng vào
thời điểm trăng tròn. Trong khi đó tại Indonesia, kết quả nghiên cứu của Zaidi và ctv
(2005) cho thấy mùa vụ sinh sản của ốc nhảy tập trung vào khoảng cuối tháng 11 đến
đầu tháng 3 năm sau.
Erlambang (1996) tiến hành nuôi vỗ ốc bố mẹ trong bể có thể tích 25 m3, ốc bố
mẹ có khối lượng 20 – 25 g/con, kích thích sinh sản bằng phương pháp sốc nhiệt kết
hợp tạo dòng chảy. Patcharee và ctv (2004) chọn ốc bố mẹ có kích thước trung bình
4,98 ± 0,45 cm với khối lượng 19,07 ± 6,29 g/con nuôi trong bể composite có thể tích
1 m3, kích thích sinh sản bằng cách để ốc nhảy bố mẹ trên khô mát trong vòng 30 phút
kết quả cho thấy ốc nhảy bố mẹ được kích thích đẻ tốt hơn.
Shawl và Davis (2004) đã nghiên cứu về khả năng sinh sản của 4 loài ốc trong
giống Strombus trong điều kiện nhân tạo với các tỷ lệ đực: cái khác nhau như sau: S.
gigas (1 cái : 3 đực), S. costatus (3 cái : 2 đực), S. raninus (5 cái : 2 đực); S. alatus (4
cái : 2 đực), sau 40 ngày theo dõi, số lượng bọc trứng của mỗi loài thu được lần lượt là
4, 23, 34, 58 bọc.
Syamsul (2005) đã sử dụng phương pháp sốc nhiệt để kích thích sinh sản ở ốc
nhảy S. canarium. Ốc nhảy S. canarium thích đẻ trứng trên những búi cỏ biển, bọc
trứng có dạng dải dây và thường cuộn lại thành búi như cuộn chỉ rối, cứ 15 cm dải dây
trứng chứa khoảng 450-500 trứng và một cá thể cái có thể đẻ được 10-20 búi nhỏ
tương đương với 5000-7000 trứng trong một lần đẻ. Sau 61,5 giờ ấp ấu trùng sẽ chui

ra khỏi bọc trứng và bơi lội tự do trong nước với tỷ lệ nở từ 90-95%. Đường kính của
trứng là 250-300 µm và ấu trùng sau khi nở ra có kích thước dao động từ 320-400 µm.
3


Theo Patcharee và ctv (2000), trong giai đoạn phát triển ấu trùng của ốc nhảy S.
canarium từ ấu trùng veliger tới giai đoạn con non thì nước biển được xử lý bằng tia
cực tím sẽ cho kết quả ương nuôi ấu trùng tốt nhất, ở mật độ ương 50 con/lít đạt tỷ lệ
sống cao nhất (9,78 ± 0,23%), tuy nhiên mật độ ương cho hiệu quả sản xuất cao nhất là
200 con/lít. Betutu (2005) đã nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn tới quá trình phát triển
phôi của ốc nhảy. Kết quả nghiên cứu cho thấy, độ mặn 30‰ là khoảng độ mặn thích
hợp nhất cho quá trình phát triển phôi với tỷ lệ nở là 96,6%.
Tất cả các loài động vật thân mềm nói chung và động vật chân bụng nói riêng
đều sử dụng tảo nổi làm thức ăn chính trong giai đoạn ấu trùng veliger. Các giống tảo
chủ yếu được sử dụng làm thức ăn trong quá trình ương nuôi là: Pseudoisochrysis,
Cheatocerous, Tetrasalmis, Nannochloropsis, Platymonas, Isocrysis, Chrorella… Kết
quả nghiên cứu của Patchee (1998) cho thấy, ấu trùng ốc nhảy S. canarium giai đoạn
veliger sinh trưởng và phát triển tốt nhất khi sử dụng thức ăn có sự phối hợp của 4 loại
tảo: Chaetoceros sp., Tetraselmis sp., Nannochloropsis sp. và Isochrysis galbana.
1.1.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Hiện nay ở nước ta có khoảng 70.000 loài thuộc lớp chân bụng đang hiện hữu.
Trong đó có khoảng 45.000 loài sống dưới nước ở cả 3 loại thủy vực nước mặn, lợ,
ngọt. Nghề nuôi động vật thân mềm ở nước ta đang phát triển mạnh và đóng góp đáng
kể vào kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản, điển hình là ốc hương, tu hài, bào ngư, trai
ngọc... Tuy nhiên, các nghiên cứu về sinh học sinh sản, sản xuất giống nhân tạo các
đối tượng thuộc lớp chân bụng để cung cấp nguồn giống ổn định và có chất lượng cao
cho người nuôi chưa thật sự phát triển. Ở nước ta, nghiên cứu về các loài động vật
chân bụng chỉ mới phát triển và tập trung vào một số đối tượng có giá trị kinh tế cao
như: ốc hương, bào ngư, ốc nhảy.
Nguyễn Thị Xuân Thu và ctv (2000) đã nghiên cứu thành công đối tượng ốc

hương B. areolata. Đây được coi là một nghiên cứu toàn diện nhất về ốc hương ở Việt
Nam – nghiên cứu về đặc điểm sinh học, kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo và nuôi
thương phẩm. Đây cũng là thành công đầu tiên trên thế giới về nuôi ốc hương thương
phẩm từ nguồn giống sản xuất nhân tạo. Ốc hương có khả năng thành thục quanh năm,
trong đó tập trung vào tháng 3 – 10 với tỷ lệ thành thục đạt 60 – 90%. Trong điều kiện
nhân tạo mỗi ốc cái đẻ khoảng 18 – 75 bọc trứng/lần đẻ (trung bình 38 bọc) và mỗi
bọc chứa khoảng 168 – 1849 trứng (trung bình khoảng 743 trứng). Độ mặn 30‰ thích
4


hợp nhất cho sinh trưởng và phát triển của ấu trùng ốc hương giai đoạn veliger và spat;
Tuy nhiên, ở ngưỡng độ mặn 35‰ ấu trùng ốc hương đạt tỷ lệ sống là cao nhất (73%
và 57% tương ứng với giai đoạn veliger và spat).
Quy trình công nghệ sản xuất giống nhân tạo ốc hương cũng được nghiên cứu và
chuyển giao cho người dân ở nhiều địa phương. Thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào
nguồn giống tự nhiên như trước đây, thì hiện nay người dân đã chủ động được nguồn
giống bằng việc cho đẻ nhân tạo hàng loạt. Từ đó hình thành nên nghề nuôi thương
phẩm và sản xuất giống nhân tạo ốc hương ở các tỉnh miền Trung, đây không những là
một nghề giúp người dân xóa đói giảm nghèo mà còn giúp nhiều hộ gia đình vươn lên
nhờ vào nguồn thu nhập cao từ việc xuất khẩu ốc thịt.
Theo Lê Đức Minh (2001), sau thời gian nuôi vỗ trong bể xi măng, bào ngư H.
asinina được kích thích sinh sản bằng phương pháp thay đổi chu kỳ chiếu sáng nhân
tạo. Kết quả nghiên cứu cho thấy, với tỷ lệ đực cái là 1:3, bào ngư sinh sản sớm nhất là
13 ngày, muộn nhất là 23 ngày và sức sinh sản thực tế là 30.024 trứng/cá thể, tỷ lệ thụ
tinh đạt 60,93%, tỷ lệ nở đạt 90,96%.
Hoàng Thị Châu Long và ctv (2004) đã có những nghiên cứu sơ bộ ban đầu về ốc
nhảy S. canarium. Theo đó, ốc đẻ trứng dạng các búi nhỏ bám trên nền đáy, ấu trùng
veliger khi mới nở có chiều dài khoảng 275µm, biến thái thành ấu trùng bò lê sau
khoảng 3 tuần với chiều dài là 685µm. Ấu trùng bò lê tiếp tục ương nuôi sau 40 ngày
đạt kích thước 6,0 mm chiều dài.

Theo Lê Thị Ngọc Hòa và ctv (2009), tại Khánh Hòa ốc nhảy S. canarium tập
trung sinh sản theo 2 đợt: từ tháng 2 - 4 và tháng 7 – 8. Kích thước thành thục lần đầu
theo chiều dài vỏ là 56 - 60mm với độ dày môi là 4 - 5 mm. Ốc bố mẹ được nuôi vỗ
với mật độ là 25 con/m2, sức sinh sản thực tế dao động từ 3.875 - 42.950 trứng, trung
bình là 18.472 trứng/con/1 lần đẻ. Trong giai đoạn ấp nở trứng đến ương nuôi ấu trùng
và con giống, độ mặn từ 25‰ đến 35‰ là thích hợp nhất. Kết quả nghiên cứu về ảnh
hưởng của thức ăn đến sinh trưởng và phát triển của ấu trùng ốc cho thấy, ở giai đoạn
ấu trùng veliger, thức ăn tốt nhất là sử dụng kết hợp 50% tảo tươi đơn bào và 50%
thức ăn tổng hợp. Trong khi đó, ở giai đoạn ấu trùng bò lê đến con giống, thức ăn tốt
nhất là tảo đáy nhưng cần thiết phải bổ sung thêm thức ăn tổng hợp. Mật độ ương,
nuôi ốc nhảy phù hợp cho từng giai đoạn phát triển như sau: ấu trùng veliger: 100 200 con/lít, ấu trùng bò lê đến con giống: 1.000 con/m2.
5


Kết quả nghiên cứu của Dương Văn Hiệp (2010) cho thấy: sau 3 – 5 ngày nuôi
vỗ trong bể xi măng và kích thích sinh sản bằng phương pháp sốc nhiệt, ốc nhảy S.
canarium sẽ sinh sản. Sức sinh sản thực tế của ốc dao động từ 892-4.390, trung bình là
3.107 trứng/cá thể. Số lượng trứng/ốc cái trong một lần đẻ dao động từ 8.921 tới
16.011 trứng/búi, trung bình là 13.584 trứng/búi. Trong quá trình ấp trứng, nhiệt độ
thích hợp cho sự phát triển phôi của ốc nhảy là 25 – 30oC. Độ mặn thích hợp cho quá
trình sản xuất giống từ 30-35‰; Mật độ ương ấu trùng veliger thích hợp nhất là 400
con/l; Mật độ ương ấu trùng spat thích hợp nhất là 4-6 con/cm2; Mật độ ương giống
cấp I lên cấp II thích hợp nhất là 400 con/m2.
1.2

Tình hình nghiên cứu ốc đĩa

1.2.1 Tình hình nghiên cứu ốc đĩa trên thế giới
Ốc đĩa N. balteata là một đối tượng mới. Hiện nay trên thế giới đã có một số
công trình nghiên cứu về đối tượng này được công bố, nhưng chủ yếu là các công trình

nghiên cứu về xác định hệ thống phân loại và một số đặc điểm sinh học của loài này,
những nghiên cứu về sản xuất giống nhân tạo và nuôi thương phẩm đối tượng này còn
rất hạn chế.
Ốc đĩa có hệ thống phân loại như sau:
Ngành:

Mollusca

Lớp:

Gastropoda

Bộ:

Archaeogastropoda

Họ:

Neritidae

Giống:
Loài:

Nerita
N. balteata Reeve, 1855

Về đặc điểm phân bố, ốc đĩa được tìm thấy chủ yếu ở các nước vùng cận nhiệt
đới như: Trung Quốc, Australia, Hồng Kông, Malaixia, Mauritania, Ôman, Singapore,
Mỹ. Theo Frey và Vermeij (2008), giống Nerita bao gồm khoảng 70 loài ốc có phân
bố chủ yếu tại vùng triều dọc theo các bờ biển vùng nhiệt đới. Năm 2007, Hurtado và

cộng sự đã nghiên cứu về quy luật phân bố của hai loài N. scabricosta và N. funiculata
thuộc giống Nerita. Kết quả cho thấy đây là hai loài ốc có vùng phân bố chính tại các
bãi đá vùng triều ở vùng nhiệt đới phía đông Thái Bình Dương, trong đó loài N.
scabricosta xuất hiện tới vùng phía nam của Ecuado còn loài N. funiculata có phân bố
6


mở rộng tới Pêru. Ở phía Bắc, hai loài này phân bố từ vịnh California tới phía ngoài
của bán đảo Baja thuộc Thái Bình Dương.
Theo Tan và Clements (2008) tại Singapore có 19 loài ốc thuộc họ ốc đĩa
Neritidae, trong đó có 11 loài phân bố đặc trưng trên các loại cây tại vùng rừng ngập
mặn và các bãi đá, bờ kênh vùng nước lợ. Riêng loài N. balteata được xác định có
phân bố nhiều ở xung quanh các gốc cây trong vùng rừng ngập mặn tại các vùng triều
cửa sông, đầm, phá, đặc biệt hơn chúng phân bố với mật độ cao tại các bờ kè, ghềnh
đá trong các kênh mương, bờ đê của các vùng biển nhiệt đới.
Về đặc điểm sinh sản, tất cả các loài trong họ ốc đĩa đều là những loài thụ tinh
trong, trứng trước khi đẻ được đi qua một hệ thống phức tạp có tác dụng đóng gói tạo
thành các bọc, nhờ đó trứng đẻ ra được nằm trong bọc trứng bám trên vật bám. Tuy
nhiên, đặc điểm sinh sản của các loài ốc khác nhau là khác nhau, chúng phụ thuộc vào
đặc điểm của cơ quan sinh dục như: cơ quan dữ trữ tinh trùng của con cái và cấu tạo
cơ quan sinh sản của con đực (Tan và Chou, 2000).
Trong số 6 loài ốc được nghiên cứu tại Singapore, bọc trứng của ốc đĩa N.
balteata có kích thước khá lớn với đường kính lên tới 4mm và chiều cao là 500µm.
Bọc trứng được đẻ dính vào các hốc trên vỏ các loại cây rừng ngập mặn, vì vậy chúng
nằm ngang bằng với bề mặt của nền đáy. Bề mặt ngoài của bọc trứng được bao bọc
bởi các tinh thể hình cầu và chia thành 2 nhóm có kích thước riêng biệt. Đối với nhóm
có kích thước đường kính nhỏ (10 - 20μm) các tinh thể có dạng hình cầu lõm, bề mặt
mịn. Còn đối với nhóm có kích thước lớn (30 - 70μm) các tinh thể có dạng hình cầu
dẹt, sáu cạnh và rắn. Trong mỗi bọc trứng của ốc đĩa trung bình có 154 phôi, chiếm số
lượng lớn nhất trong số các loài ốc thuộc giống Nerita phân bố tại Singapore.

Tuy nhiên, số lượng phôi trong mỗi bọc trứng khác nhau tùy theo loài. Các phôi
này bám vào các khoang màng mỏng bên trong của bọc trứng và dễ dàng rời ra khi nó
chuẩn bị thoát ra khỏi bọc trứng dưới tác động của áp suất bên trong bọc trứng. Áp
suất này gây ra do sự làm phồng hai lớp màng mỏng trong suốt ở mặt trong của vỏ và
khung bọc trứng.
Theo Fred (1993), loài ốc đĩa N. balteata cũng giống như các loài ốc khác trong
họ Neritidae đều là những loài bắt mồi chủ động, thức ăn chủ yếu là các loài tảo đáy,
rong rêu và mùn bã hữu cơ trong vùng triều nơi chúng phân bố.
7


1.2.2 Tình hình nghiên cứu ốc đĩa ở Việt Nam
Theo Ngô Anh Tuấn và ctv (2013), ốc đĩa có các đặc điểm hình thái cấu tạo
giống như đặc điểm chung của các loài trong lớp chân bụng Gastropoda như sau:
- Vỏ: tất cả các loài ốc trong họ Neritidae đều có kích thước nhỏ hoặc trung bình
(15-40mm). Vỏ dày chắc chắn, màu nâu đen, cấu tạo bằng đá vôi, đây là bộ phận bảo
vệ cho khối thân mềm bên trong. Mặt trong của vỏ ốc đĩa có màu vàng nhạt, có 22 –
28 đường xoắn ốc trên vỏ. Các đường xoắn ốc trên vỏ thưa và ngắn hơn so với các
đường xoắn ốc trên miệng vỏ. Ốc đĩa là loài có đỉnh vỏ tù, mép trong miệng vỏ có 3 -5
răng cưa, mép ngoài có 18 – 19 răng cưa.
- Đầu: lớp Gastropoda nói chung và ốc đĩa nói riêng có bộ phận đầu rất phát triển
nằm ở phía trước cơ thể, có dạng hình ống tròn. Đầu có một đôi xúc tu, vị trí mắt nằm
ở gốc của đôi xúc tu.
- Chân: bộ phận chân của ốc đĩa nằm ở mặt bụng cơ thể và có đế chân rộng để
thích nghi với đời sống bò lê trên giá thể. Phía giữa chân của ốc có cấu tạo gồm nhiều
nếp nhăn dọc, chia chân làm hai phần. Khi ốc di chuyển thì hai phần này thay đổi động
tác cho nhau giúp cho ốc di chuyển dễ dàng.
- Màng áo: màng áo bao bọc toàn bộ phận thân mềm của ốc đĩa. Phần đầu, chân,
các lỗ bài tiết, sinh dục và hậu môn không được bao bọc bởi màng áo mà trực tiếp đổ
ra ngoài.

- Nắp vỏ: ở ốc đĩa nắp vỏ được tạo thành do đoạn cuối của chân phân tiết ra. Nắp
vỏ là cơ quan bảo vệ phần thân mềm của ốc lúc cơ thể ốc co rút vào trong vỏ. Nắp vỏ
của ốc đĩa được cấu tạo bằng chất sừng, có màu vàng nâu.
Kết quả nghiên cứu của Đặng Khánh Hùng (2012) về đặc điểm sinh sản của ốc
đĩa như sau: Ốc đĩa là loài phân tính đực cái riêng biệt. Ốc đĩa đực: tuyến sinh dục có
màu vàng nâu; Ốc đĩa cái: tuyến sinh dục màu trắng sữa. Tỷ lệ đực : cái trung bình là
1:1,34. Giống như các loài động vật chân bụng khác, cơ quan sinh dục của ốc đĩa trải
qua 5 giai đoạn phát triển, trong đó hệ số thành thục sinh dục của ốc đĩa đực luôn cao
hơn hệ số thành thục sinh dục của ốc đĩa cái và đạt giá trị cao nhất từ tháng 8 đến
tháng 10. Mùa vụ sinh sản của ốc đĩa từ tháng 6 đến hết tháng 10, trong đó mùa vụ
sinh sản chính từ tháng 8 đến tháng 10. Kích thước thành thục sinh dục lần đầu của ốc
đĩa đực nhỏ hơn ốc đĩa cái. Ốc đĩa đực thành thục sinh dục lần đầu ở nhóm kích thước
từ 18 – 22 mm, ốc đĩa cái ở nhóm có kích thước từ 23 – 27 mm.
8


1.3

Hiện trạng sản xuất giống và nuôi thương phẩm động vật thân mềm tại

Quảng Ninh
1.3.1 Hiện trạng sản xuất giống
Với diện tích đã nuôi động vật thân mềm hiện nay nên nhu cầu con giống động
vật thân mềm trong tỉnh hàng năm là rất lớn. Tuy nhiên, số lượng và chất lượng giống
động vật thân mềm sản xuất tại Quảng Ninh còn rất hạn chế và thiếu ổn định, chưa đáp
ứng được nhu cầu cho người nuôi. Theo báo cáo tổng kết tình hình nuôi trồng thủy sản
của tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2005 – 2012 thì phần lớn nguồn giống cung cấp cho
người nuôi ở Quảng Ninh được nhập từ Trung Quốc và các tỉnh miền Trung.
Bảng 1.1: Số lượng giống ĐVTM tại Quảng Ninh giai đoạn 2005 – 2012
(Nguồn: Sở Nông Nghiệp & PTNT, 2012)

Lượng giống (triệu con)

Hình thức nuôi
2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Nuôi lồng, giàn bè

120

150

290

360

662

700


900

Nuôi bãi triều

165

190

280

310

300

300

350

Tổng

285

340

570

670

962


1.000

1.250

Giống nghêu Bến Tre, ngao dầu, sò huyết: Chủ yếu được nhập từ Thái Bình,
Nam Định và các tỉnh phía Nam.
Giống trai ngọc: Năm 2001, Công ty Liên doanh ngọc trai Hạ Long đã sản xuất
thành công giống trai ngọc . Năm 2005, sản xuất được 60 triệu trai giống. Năm 2006,
công ty cổ phần ngọc trai Hạ Long sản xuất được 65 triệu. Năm 2007, 83 triệu. Năm
2008, 40 triệu. Số lượng giống sản xuất tại Quảng Ninh có xu hướng giảm vì không
cạnh tranh được với giống trai ngọc Trung Quốc về mặt giá cả. Do vậy, giống và trai
nguyên liệu chủ yếu được nhập từ Trung Quốc (Sở Nông nghiệp & PTNT, 2012).
Giống tu hài: Lần đầu tiên, năm 2005, Xí nghiệp sản xuất tôm giống Hạ Long,
Đông Xá - Vân Đồn - Quảng Ninh đã sản xuất được 0,5 triệu con giống tu hài từ 1 1,5 cm/con (Sở Nông nghiệp & PTNT, 2012).
Giống ốc nhảy: Chủ yếu được thu từ tự nhiên. Giống ốc nhảy nhân tạo mới chỉ
được thử nghiệm sản xuất. Năm 2008, Trung tâm khoa học kỹ thuật và sản xuất giống
thuỷ sản Quảng Ninh đã sản xuất được 2,3 vạn con giống cấp 2 (2-3g/con). Năm 2009,
dự kiến sản xuất được 2,5 – 2,6 vạn con giống cấp 2. Hiện Quảng Ninh có nhu cầu lớn
9


về giống ốc nhảy nhưng số lượng con giống chưa đáp ứng được cho người nuôi (Sở
Nông nghiệp & PTNT, 2012).
Ốc hương: Năm 2009, Trại giống An Sinh, Hà Khẩu, TP. Hạ Long đã sản xuất được
7 vạn ốc Hương giống. Còn lại, giống chủ yếu được nhập từ Khánh Hoà.
Điệp quạt, vẹm xanh: Giống được lấy từ tự nhiên.
Giống bào ngư: Nhập từ Viện nghiên cứu NTTS III.
Như vậy có thể thấy, nhu cầu về giống ĐVTM ở Quảng Ninh là rất lớn, tăng
mạnh hàng năm do diện tích nuôi tu hài và nuôi hầu Thái Bình Dương tăng mạnh.

Trong khi đó, hiện trạng sản xuất giống ĐVTM trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh chưa đáp
ứng được nhu cầu của người nuôi. Các trại sản xuất nhỏ lẻ, công nghệ chưa đầy đủ, cơ
sở vật chất chủ yếu là tận dụng trại sản xuất tôm giống hay thiết kế như trại sản xuất
tôm giống để sản xuất giống ĐVTM, chưa phù hợp với qui trình kỹ thuật sản xuất
giống ĐVTM.
1.3.2 Hiện trạng nuôi thương phẩm
Nghề nuôi ĐVTM ở Quảng Ninh đã có từ lâu, nhưng chỉ thực sự phát triển mạnh
mẽ từ năm 2006 cùng với sự phát triển của nghề nuôi tu hài và hầu Thái Bình Dương
trên vịnh Bái Tử Long. Đối tượng nuôi chủ yếu hiện nay ở Quảng Ninh là trai ngọc, tu
hài, hầu Thái Bình Dương, ngao dầu, nghêu Bến Tre và sò huyết… Ngoài ra, ngư dân
còn đầu tư phát triển nuôi một số loài có giá trị kinh tế cao như: vẹm xanh, điệp quạt,
ốc hương, ốc nhảy.
Các loài ĐVTM đang được nuôi phổ biển tại Quảng Ninh, chủ yếu được nuôi
theo hai hình thức :
(1) Hình thức thứ nhất:

Nuôi theo kiểu giàn bè, lồng treo.

Các đối tượng nuôi:

Trai ngọc, vẹm xanh, ốc hương, tu hài, hầu, điệp.

Các vùng nuôi:

Chủ yếu là nuôi trên biển, các vũng, vịnh kín sóng gió.

(2) Hình thức nuôi thứ hai: Nuôi bãi triều (Ít áp dụng vì khó quản lý)
Các đối tượng nuôi:

Ngao, sò, nghêu, tu hài, ốc nhảy.


Các vùng nuôi:

Chủ yếu là các bãi triều ven biển và các bãi triều

Nuôi động vật thân mềm bằng lồng, giàn bè trên biển là hình thức nuôi phức tạp
và đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao hơn so với nuôi ở bãi triều, đặc biệt là nghề nuôi trai
cấy ngọc. Đối tượng nuôi chủ yếu của hình thức này là trai ngọc Mã Thị, vẹm xanh, tu
hài, hầu, điệp, ốc hương.
10


Hình thức nuôi động vật thân mềm ở bãi triều là hình thức nuôi tương đối đơn
giản, mức đầu tư không cao, chủ yếu dựa vào tự nhiên. Đây là hình thức nuôi phù hợp
với các đối tượng như: ngao, sò, nghêu, tu hài. Tính đến hết tháng 12 năm 2004, tổng
diện tích nuôi trên bãi triều trong toàn Tỉnh là 1.300 ha. Đến năm 2008, diện tích nuôi
bãi triều toàn tỉnh đã tăng lên 2.449 ha và đến năm 2011 tăng lên tới 3.500 ha (Sở
Nông nghiệp & PTNT, 2012). Cùng với sự phát triển mạnh về diện tích nuôi thì các
mô hình nuôi cũng được cải thiện về mặt kỹ thuật và từ đó sản lượng nuôi cũng không
ngừng tăng lên.
Bảng 1.2: Diện tích, sản lượng nuôi bãi triều từ năm 2004 – 2011
(Nguồn: Sở Nông nghiệp & PTNT, 2012)
Nội dung

Năm 2004 Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010 Năm 2011


Diện tích (ha)

1.300

2.449

2.850

3.245

3.500

Sản lượng (tấn)

1.980

4.180

5.500

6.255

6.800

1.3.3 Hiện trạng dịch bệnh trên động vật thân mềm tại Quảng Ninh
Đối với tình thức nuôi ĐVTM bằng giàn bè, lồng treo chưa thấy hiện tượng dịch
bệnh nghiêm trọng xảy ra. Tuy nhiên với hình thức nuôi trên bãi triều đã xảy ra những
dịch bệnh nghiêm trọng ở một số bãi nuôi lớn trong Tỉnh, gây ra hiện tượng chết hàng
loạt của ĐVTM đặc biệt là các loài hai mảnh vỏ.
Ngao, sò, nghêu là những loài sống trong nền đáy là bùn cát ở các vùng bãi triều

và rừng ngập mặn, nên các bệnh xuất hiện là rất ít so với các loài giáp xác, nhưng khi
gặp dịch bệnh thì thường xẩy ra hiện tượng chết hàng loạt. Năm 2002 và năm 2007,
huyện Hải Hà và Đầm Hà đã xảy ra hiện tuợng ngao, nghêu chết hàng loạt. Ở Quảng
Ninh, chưa có một nghiên cứu chính thức nào về nguyên nhân gây chết hàng loạt ở
ĐVTM mà chỉ có những kết luận sơ bộ:
- Tháng 4 thời tiết bắt đầu thay đổi, chuyển từ mùa lạnh sang mùa nóng, thời gian
thuỷ triều xuống vào ban ngày nhiều nhất, tức thời gian phơi bãi vào ban ngày dài
đúng vào thời điểm ngao đã lớn.
- Ngao, nghêu là loài ăn lọc nên khi mật cao, ngao đã lớn dẫn đến hiện tượng
thiếu thức ăn gây ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của ngao. Khi chúng bị
bệnh chết, nội trạng bị phân huỷ rất nhanh, tạo ra rất nhiều khí độc gây ô nhiễm môi
trường tạo ra “hiệu ứng chết hàng loạt” ở ĐVTM.
- Nền đáy bãi nuôi lâu ngày không được cải tạo, không được cày xới phơi bãi.
11


Năm 2012, tại Quảng Ninh đã xảy ra hiện tượng tu hài nuôi thương phẩm chết
hàng loạt làm thiệt hại hàng trăm tỷ đồng của người dân, vùng nuôi bị thiệt hại nặng
nhất là huyện Vân Đồn với trên 90% số hộ nuôi, thiệt hại ước tính trên 70% lượng
giống thả, nguyên nhân chính được xác định là mật độ nuôi dày kèm theo đó là chất
lượng con giống thấp và sự có mặt của tác nhân gây bệnh là nội ký sinh Perkinsus spp
(Sở Nông nghiệp & PTNT, 2012).
1.3.4

Thị trường tiêu thụ ĐVTM

Hầu hết các sản phẩm ĐVTM tại Quảng Ninh phần lớn đều được xuất khẩu sang
Trung Quốc và một phần nhỏ là tiêu thụ nội địa. Ngọc trai chủ yếu được đưa về Nhật
chế tác. Chỉ có duy nhất Công ty Taiheiyo Shinju Việt Nam mang thương hiệu Quảng
Ninh xuất khẩu ngọc trai sang Nhật Bản thông qua sự kiểm duyệt của Hiệp hội xuất

nhập khẩu ngọc trai Nhật Bản.
Với các loại thực phẩm như ngao, nghêu, sò phần lớn được xuất khẩu sang Trung
Quốc. Năm 2008 tổng sản lượng thu hoạch tu hài thương phẩm trên toàn huyện Vân
Đồn đạt khoảng 800 tấn thương phẩm nhưng vì đầu ra không ổn định nên giá tu hài đã
giảm nhiều so với những năm trước, chỉ còn 120.000 – 140.000 đ/kg và chủ yếu được
tiêu thụ nội địa và xuất khẩu sang Trung Quốc (Sở Nông nghiệp & PTNT, 2012).
Như vậy, sản lượng ĐVTM nuôi thương phẩm tại Quảng Ninh chủ yếu được tiêu
thụ nội địa và xuất khẩu sang Trung Quốc, chưa xuất khẩu được sang các thị trường
khó tính như Mỹ và Châu Âu.
1.4 Một số điều kiện tự nhiên của tỉnh Quảng Ninh
1.4.1 Vị trí địa lý
Quảng Ninh là tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Phía Tây giáp tỉnh
Lạng Sơn và tỉnh Bắc Giang, phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ, Phía Tây Nam giáp tỉnh
Hải Dương và Thành Phố Hải Phòng, Phía bắc giáp huyện Phòng Thành và thị trấn
Đông Hưng (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) với cửa khẩu Móng Cái và Trinh Tường.
Đây là một trọng điểm kinh tế vùng phía Bắc hội tụ những điều kiện thuận lợi cho phát
triển kinh tế xã hội quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Quảng Ninh nằm trong dải hành lang biển lớn của Bắc Bộ, trên đó có mạng lưới
đường bộ, đường sắt và cảng biển lớn đang được mở rộng và phát triển.
Toàn Tỉnh có tổng diện tích 8.239,243 km2. Biển Quảng Ninh bao gồm hơn
2.000 hòn đảo, số lượng đảo rất lớn chiếm 2/3 số đảo cả nước (2.078/2.779) trong đó
12


có 1.030 đảo có tên như đảo Cô Tô, đảo Trần… Tổng diện tích các đảo là 619,913
km2. Duyên hải Quảng Ninh chạy dài gần 200 hải lí từ lãnh hải Trung Quốc ở phía
Đông đến địa giới thành phố Hải Phòng.
1.4.2 Địa hình
Là Tỉnh nằm sát biển, địa hình chủ yếu của Quảng Ninh là địa hình đồi núi, diện
tích đồi núi chiếm 80% tổng diện tích của tỉnh, tập trung chủ yếu ở phía Bắc. Tuy

nhiên một phần năm diện tích ở phía Đông Nam tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng,
cùng với kinh tế đặc biệt phát triển nên Chính phủ xếp Quảng Ninh vào nhóm các tỉnh
đồng bằng sông Hồng.
Quảng Ninh có rất nhiều đảo ven biển, vùng biển và hải đảo của tỉnh là một vùng
địa hình độc đáo, đảo trải dài theo đường ven biển hơn 250 km chia thành nhiều lớp.
Trên các vùng ven biển và hải đảo có những bãi bồi phù sa và những bãi cát trắng tấp
lên từ sóng biển.
Địa hình đáy biển Quảng Ninh không bằng phẳng, độ sâu trung bình là 20m, có
nhiều lạch sâu làm nơi cư trú của các rạn san hô. Các dòng chảy nối với các lạch sâu
đáy biển tạo nên hàng loạt luồng lạch và hải cảng trên dải bờ biển khúc khuỷu kín gió
nhờ những hành lang đảo che chắn, tạo nên 1 tiềm năng cảng biển và giao thông
đường thủy rất lớn.
1.4.3 Khí hậu
Khí hậu tỉnh Quảng Ninh nằm trong vùng nhiệt đới – gió mùa, tiêu biểu cho khí
hậu các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Một năm có 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Trong đó
mùa Hạ và mùa Đông có nét đặc biệt hơn cả. Mùa hạ nóng, ẩm, mưa nhiều, gió thịnh
hành là gió Đông Nam. Mùa đông lạnh, khô hanh, ít mưa, chủ yếu là gió Đông Bắc.
Lượng mưa hàng năm lên tới 1.700 – 2.400 mm, số ngày mưa hàng năm từ 90
- 170 ngày. Do nằm trong vùng nhiệt đới, Quảng Ninh có lượng bức xạ trung bình
hàng năm 115,4 kcal/cm2 nhiệt độ không khí trung bình hàng năm trên 22,9oC. Độ
ẩm không khí trung bình năm 82%. Tuy nhiên, mưa chỉ tập trung vào mùa Hạ (hơn
85%), nhất là các tháng 7 và tháng 8, trong khi đó mùa đông chỉ mưa khoảng 150
đến 400 mm. Diện tích tỉnh Quảng Ninh lớn lại có nhiều vùng địa hình nên khí hậu
giữa các vùng cũng có sự khác nhau. Tỉnh Quảng Ninh chịu ảnh hưởng gió mùa
Đông Bắc mạnh hơn, nên so với các nơi cùng vĩ độ thường lạnh hơn 1-3oC.

13


CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Đối tượng, thời gian và nội dung nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Tên khoa học: Nerita balteata (Reeve, 1855)
+ Tên tiếng Việt: Ốc đĩa, ốc đẻ đen.

Hình 2.1: Ốc đĩa Nerita balteata (Reeve, 1855)
- Thời gian nghiên cứu: từ 5/2013 đến 12/2013.
- Nội dung nghiên cứu:
+ Nghiên cứu kỹ thuật nuôi ốc đĩa bố mẹ thành thục sinh dục.
+ Nghiên cứu phương pháp kích thích ốc sinh sản.
+ Nghiên cứu quá trình phát triển phôi, ấu trùng ốc đĩa và ảnh hưởng của độ mặn,
mật độ ấp đến sự phát triển phôi.
Nghiên cứu kỹ thuật nuôi thành thục, cho đẻ và theo dõi quá trình phát triển phôi
và ấu trùng của ốc đĩa

Kỹ thuật nuôi
thành thục

Điều
kiện
môi
trường

Kỹ
thuật
chăm
sóc

Kỹ thuật kích thích
sinh sản


Sốc nhiệt
+
Thay
nước

Sốc nhiệt
+
Tia cực
tím

Qúa trình phát triển phôi và
ấu trùng

Sốc nhiệt
+
Ngâm
H202

Hình dạng
+
Thời gian

Kết luận

Hình 2.2: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu
14

Ảnh
hưởng

của
mật độ
ấp

Ảnh
hưởng
của độ
mặn


2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Kỹ thuật nuôi vỗ ốc bố mẹ
Ốc đĩa bố mẹ được thu gom từ tự nhiên (Xã Đài Xuyên, Huyện Vân Đồn, Tỉnh
Quảng Ninh) với các đặc điểm: ốc khỏe mạnh, di chuyển linh hoạt, màu sắc tự nhiên,
vỏ nguyên vẹn. Ốc được nuôi thành thục trong bể xi măng hình chữ nhật, diện tích 16
m2, cấp nước biển lọc sạch có các yếu tố môi trường (độ mặn, pH, nhiệt độ) tương
đương với môi trường ốc phân bố và bổ sung giá thể vào bể nuôi cho ốc bám.
Ốc được cho ăn hàng ngày với liều lượng khoảng 5% khối lượng thân vào lúc
chập tối, thức ăn là các loại tảo bám (Navicula sp.) kết hợp với tảo khô dạng phiến
(Brine shrimp flakes-Red Jungle Brand) và mầm rong câu tươi (Gracilaria sp.).
Thức ăn thừa được xi-phông ra vào sáng ngày hôm sau kết hợp với thay 50%
lượng nước trong bể, định kỳ 3 ngày tiến hành thay 100% lượng nước trong bể.
Số lượng ốc chết được theo dõi hàng ngày. Định kỳ 15 ngày kiểm tra mức độ
thành thục sinh dục của ốc.
2.2.2 Kỹ thuật kích thích sinh sản
Chuẩn bị bể đẻ: bể đẻ là bể composite hình vuông, có thể tích 4m3. Bể đẻ được
cấp nước biển lọc sạch có các yếu tố môi trường (độ mặn, pH, nhiệt độ) tương đương
với bể nuôi thành thục, bổ sung đá, giá thể lên trên nền đáy để ốc bám.
Sau 15 ngày nuôi vỗ, tiến hành kiểm tra tỷ lệ thành thục của ốc và chỉ tiến hành
kích thích sinh sản cho ốc bố mẹ khi chúng đã thành thục sinh dục. Sử dụng 3 phương

pháp kinh thích sinh sản: phương pháp sốc nhiệt kết hợp với điều chỉnh mực nước
trong bể đẻ, phương pháp sốc nhiệt kết hợp chiếu tia cực tím và phương pháp sốc nhiệt
kết hợp ngâm trong dung dịch ôxy già (H2O2). Mỗi nghiệm thức thí nghiệm sử dụng
100 cặp ốc bố mẹ/lần, thí nghiệm được lặp lại 3 lần.
- Phương pháp kích thích sinh sản sốc nhiệt kết hợp với điều chỉnh mực nước
trong bể đẻ: ốc đĩa bố mẹ được vệ sinh sạch, xếp vào khay nhựa rồi phơi trong bóng
râm khoảng 30 phút (nhiệt độ 30 - 32oC). Sau đó, ốc được chuyển vào bể đẻ có nhiệt
độ nước 26 - 28oC. Sau 30 phút thay toàn bộ nước trong bể để kích thích ốc.
- Phương pháp kích thích sốc nhiệt kết hợp chiếu tia cực tím: tương tự, sau khi
được vệ sinh và phơi trong bóng râm, ốc được chuyển vào hệ thống chiếu đèn tia cực
tím có công suất 60W trong khoảng 15 phút rồi chuyển vào bể đẻ để ốc sinh sản.

15


×