Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển hệ thống bán lẻ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (868.59 KB, 27 trang )

Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU

1.1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay xu hướng quốc tế hóa và toàn cầu hóa là một đòi hỏi tất yếu đối với
các quốc gia trên thế giới và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Khi Việt
Nam trở thành thành viên 150 của WTO thì cũng là lúc Việt Nam phải thực hiện
rất nhiều cam kết với tổ chức này. Trong đó có cam kết mở cửa thị trường bán lẻ
Việt Nam –một thị trường với đầy tiềm năng phát triển.
Như đã biết, Việt Nam là một đất nước đông dân với gần 90 triệu dân hiện đang
đứng thứ 13 trên thế giới, lại có nền kinh tế năng động với mức tăng trưởng khá
cao, thu nhập bình quân đầu người ở ngưỡng 1000 USD/người/năm. Hơn thế nữa,
người tiêu dùng Việt Nam lại thuộc hàng trẻ nhất ở châu Á với 65% dân số là
người tiêu dùng trẻ, có hơn một nữa dân số có độ tuổi dưới 30 và ngày càng chi
tiêu mạnh tay, sẵn lòng chi tiêu để theo kịp các xu hướng và trào lưu mới nhất.
Điều này cho thấy nhu cầu chi tiêu của người dân Việt Nam ngày càng cao. Năm
2009, ngành bán lẻ được cho là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất Việt Nam
(12%). Dự báo đến năm 2012, doanh số bán lẻ tại Việt Nam có thể đạt mức 85 tỷ
đô la. Chính những điều trên đã làm cho thị trường bán lẻ của Việt Nam ngày càng
hấp dẫn và hệ thống bán lẻ ngày càng trở nên quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân.
Hệ thống bán lẻ quan trọng bởi vì nó phục vụ những nhu cầu thiết yếu của con
người, giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho vấn đề lao động trong xã hội.
Quan trọng hơn, nó là cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng, tạo điều kiện để hàng
hóa từ sản xuất tiếp cận đến tay người tiêu dùng, giúp người tiêu dùng mua được
sản phẩm hàng hóa theo đúng yêu cầu, giúp nhà sản xuất tiêu thụ được sản phẩm
của mình. Như vậy hệ thống bán lẻ có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Nó


có vai trò kích thích sản xuất và thỏa mãn tiêu dùng.
Với tầm quan trọng như trên cùng với sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ, Việt
Nam đang là mục tiêu mà các tập đoàn bán lẻ hàng đầu của thế giới hướng đến.
Trang 1


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

Việc họ xâm nhập vào thị trường bán lẻ Việt Nam là điều sớm muộn và việc cạnh
tranh với các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam là điều không thể tránh khỏi. Thế
nhưng, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam hiện nay với kênh phân phối còn manh
mún, khâu hậu cần còn lạc hậu, thiếu đồng bộ, vốn ít, trình độ quản lý cũng như
nghiệp vụ chuyên môn lại chưa cao…mà những điều trên đều là điểm mạnh của
các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài. Câu hỏi đặt ra là: làm thế nào để các doanh
nghiệp bán lẻ Việt Nam có thể cạnh tranh được với các “cường quốc bán lẻ” nước
ngoài? Làm thế nào để đảm bảo được tính cạnh tranh mà không để thị trường bán
lẻ nước ta “rơi vào tay” các tập đoàn bán lẻ nước ngoài và không để cho họ “lũng
đoạn” nền kinh tế nước ta? Đó là lý do em chọn đề tài: “Phân tích thực trạng và
đề xuất giải pháp phát triển hệ thống bán lẻ Việt Nam”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Tìm hiểu thực trạng hệ thống bán lẻ Việt Nam, nêu lên những thuận lợi và khó
khăn của các doanh nghiệp bán lẻ nước ta hiện nay, phân tích, đánh giá những cơ
hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam khi phải đương đầu cạnh tranh
với những doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu tổng quan về thực trạng hệ thống bán lẻ của Việt Nam hiện nay.
- Phân tích và đánh giá thực trạng của hệ thống sau khi Việt Nam chính thức mở

cửa thị trường bán lẻ theo cam kết với tổ chức thương mại thế giới WTO.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hơn về hoạt động bán lẻ
của hệ thống để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
1.3.1 Phương pháp thu thập số liệu:
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp phổ biến trong nghiên cứu như: thu
thập các dữ liệu thứ cấp từ sách, báo, internet, tạp chí liên quan đến lĩnh vực bán lẻ.
1.3.2 Phương pháp phân tích số liệu:
Trên cơ sở những số liệu đã có tác giả tiến hành tổng hợp, so sánh, phân tích
và đưa ra kết luận cũng như đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động
bán lẻ hiện nay.

Trang 2


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

1.4. Phạm vi nghiên cứu
_

Về nội dung nghiên cứu:Đề tài nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng hệ

thống bán lẻ, điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của hệ thống
để qua đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển bộ phận kinh tế quan
trọng này.
_

Về không gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên


phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam.
_

Về thời gian nghiên cứu: các số liệu thứ cấp sẽ được thu thập từ

năm 2005- 2009 và những tháng đầu năm 2010.

CHƯƠNG 2

Trang 3


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

THỰC TRẠNG VỀ HỆ THỐNG BÁN LẺ VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. VÀI NÉT VỀ HỆ THỐNG BÁN LẺ VIỆT NAM
2.1.1. Khái niệm bán lẻ và hoạt động bán lẻ.
Bán lẻ bao gồm tất cả những hoạt động liên quan đến việc bán hàng hoá hay
cung cấp dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để sử dụng vào mục đích cá
nhân, không kinh doanh. Mọi tổ chức làm công việc bán hàng này, cho dù đó là người
sản xuất hàng hoá, người bán sỉ hay người bán lẻ đều làm công việc bán lẻ bất kể hàng
hoá hay dịch vụ đó được bán như thế nào hay chúng được bán ở đâu. Mặt khác người
bán lẻ hay cửa hàng bán lẻ là một doanh nghiệp có khối lượng hàng bán ra chủ yếu
dưới hìng thức bán lẻ.
2.1.2. Vị trí và vai trò của hoạt động bán lẻ đối với sự phát triển nền kinh tế
quốc dân.

2.1.2.1. Về vị trí.
Bán lẻ là một hoạt động vô cùng quan trọng, nó quyết định đến phát triển của các
doanh nghiệp sản xuất. Nó còn là khâu năng động và linh hoạt nhất của chu trình tái
sản xuất - một bộ phận chuyên thực hiện các hoạt động nghiệp vụ liên quan năng luân
chuyển hàng hoá từ hình thái giá trị của sản phẩm sang tiền và phân phối hàng hóa
trực tiếp đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Do đó, bán lẻ có tác động chi phối sự vận
động của đời sống kinh tế - xã hội .
2.1.2.2. Về vai trò.
Vai trò của hoạt động bán lẻ được thể hiện qua các điểm sau:
_

Hoạt động bán lẻ góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành và cả nền

kinh tế. Nó là mắt xích cuối cùng trong kênh phân phối, do vậy nó cũng đẩy nhanh tốc
độ chu chuyển hàng hoá từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng.

_

Những người bán lẻ tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nên họ là những người

nắm được các thông tin phản hồi từ khách hàng, nắm được những thông tin từ phía đối

Trang 4


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

thủ cạnh tranh. Do vậy nó là nguồn cung cấp thông tin đáng tin cậy cho các doanh

nghiệp sản xuất, từ đó giúp đưa ra các kế hoạch sản xuất nhằm thu được lợi ích cao
nhất.
_

Hoạt động bán lẻ cũng góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề xã

hội như: tạo việc làm cho người lao động, tăng thu nhập, làm giảm các tệ nạn xã hội
(do không có việc làm), đóng góp vào GDP của đất nước, ngân sách Nhà nước sách
nhà nước và tham gia vào các hoạt đông văn hoá xã hội.
_

Ngoài ra hệ thống bán lẻ còn là cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng.

Nó tạo điều kiện để hàng hóa đi từ nhà sản xuất tiếp cận đến tay người tiêu dùng, giúp
người tiêu dùng mua được sản phẩm hàng hóa theo đúng yêu cầu, giúp nhà sản xuất
tiêu thụ được sản phẩm của mình.
Như vậy hệ thống bán lẻ có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế.
2.2. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG BÁN LẺ NƯỚC TA HIỆN NAY
2.2.1. Về tính liên kết
Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước đang nổ lực tạo sự liên kết. Điển hình là
việc thành lập hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam (AVR) vào 16/10/2007 bao gồm 130
doanh nghiệp bán lẻ làm thành viên. Ngoài ra 4 nhà phân phối hàng đầu của Việt Nam
là: Tổng công ty Thương Mại Sài Gòn, Tổng công ty Thương Mại Hà Nội, Liên hiệp
Hợp tác xã TP.Hồ Chí Minh và Tập đoàn Phú Thái đã góp vốn thành lập Công ty cổ
phần đầu tư và phát triển hệ thống phân phối (VDA) vào tháng 5-2007.
Thế nhưng nhìn chung những sự liên kết này còn lõng lẽo, mang nặng tính hình
thức. Cụ thể là sau 3 năm thành lập VDA việc thực hiện cam kết cũng như những nổ
lực triển khai dự án diễn ra khá chậm chạp và hiện tại VDA vẫn chưa có đóng góp gì
nhiều vào hệ thống phân phối bán lẻ Việt Nam. Nguyên nhân là do lối tư duy còn
mang nặng tính lợi ích kinh tế của bản thân - lo cho doanh nghiệp của mình hơn là lo

cho cái chung. Một số doanh nghiệp còn cho rằng nếu sự liên kết chỉ dựa trên quan hệ
kinh doanh thuần túy thì không thể bền vững được. Bên cạnh đó, thiếu những cam kết
cũng như lộ trình thực hiện và không có chiến lược liên kết lâu dài đã làm cho dự án
VDA chưa đi vào thực tiễn. Ngoài ra, khi các doanh nghiệp không tìm được tiếng nói
chung thì việc thực hiện liên doanh là điều rất khó khăn. Chẳng hạn như Sài Gòn

Trang 5


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

Co.op và Satra đã có nhiều cuộc họp bàn phương án liên doanh nhưng vẫn không đạt
được kết quả.
Tóm lại, để tăng sức mạnh nội lực cho hệ thống bán lẻ, các doanh nghiệp
trong nước cần hợp tác, liên kết và coi đây là yêu cầu tự thân trong quá trình phát
triển. Việc sáp nhập doanh nghiệp bán lẻ nhỏ với doanh nghiệp bán lẻ lớn sẽ giúp các
doanh nghiệp cùng nhau tồn tại và phát triển. Quá trình liên kết giữa các doanh nghiệp
bán lẻ còn giúp giảm chi phí, tạo kênh phân phối và nguồn hàng ổn định. Tuy nhiên,
sự liên kết của các doanh nghiệp trong hệ thống bán lẻ Việt Nam hiện nay vẫn còn ở
mức độ sơ khai, nặng hình thức và thiếu chiều sâu.
2.2.2. Về nguồn lực tài chính
Về nguồn vốn thì hầu hết các nhà phân phối trong nước hiện nay rất yếu.
Các nhà bán lẻ nước ngoài đều là những nhà bán lẻ lớn, họ có tiềm lực về kinh tế cũng
như tài chính rất mạnh. Trong khi đó, các DN Việt Nam chủ yếu là các DN nhỏ và
vừa, tiềm lực kinh tế, tài chính còn yếu nên khó có thể cạnh tranh nổi với các DN nước
ngoài.
Nhìn vào bảng 1 ta có thể thấy được con số đầu tư chênh lệch giữa một số
doanh nghiệp bán lẻ trong nước (hơn 17.700 tỷ đồng) với một số doanh nghiệp bán lẻ

nước ngoài (hơn 103.239 tỷ VND)-một con số chênh lệch khá xa.

Bảng 1. Tình hình đầu tư của một số doanh nghiệp bán lẻ trong nước và nước
ngoài.
Trang 6


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa
Đơn vị: Tỷ VND

STT

Tên doanh nghiệp

Số tiền đầu tư

Hình thức đầu tư

Tổng cộng

Hơn 7000

Chuỗi cửa hàng tiện ích

Hơn 17700 tỷ

Doanh nghiệp Việt Nam
1.


Trung Nguyên

G7mart
2.

Công ty cổ phần Phú Mỹ Hưng

3

Công ty cổ phần đầu tư và phát 6000

Lĩnh vực phân phối và

triển

logistics

hệ

thống

phân

Hơn 1800

phối

TTTM Crescent


(VDA)
4.

Công ty cổ phần Vincom

1900

TTTM Vincom centre
shopping mall

5.
Co.op Mart
Doanh nghiệp nước ngoài

Hơn 1000

Chuỗi siêu thị

1.

Hơn 97

Mua chuỗi 6 siêu thị Hơn 103239

Dairy Farm (Hồng Kông)

của Citimart
2.

Metro (Đức)


Hơn 598

Hệ thống cung ứng

Hơn 21

Công tác huấn luyện

tỷ

nhân viên

3.

Lotte (Hàn Quốc)

Hơn 2300

Chuỗi 8 siêu thị

Hơn 290

TTTM

Hơn 97000

Chuỗi 30 siêu thị

Hơn 2300


Chuỗi Siêu thị

4.

Borbon (Pháp)

5.

ECC (Hà Lan) và Guocoland Hơn 642

TTTM

(Singapore)

Promeda@Canary

Nguồn: Trung Nguyên Corporation, Tin Tức Online, Việt Báo, VnExpress, Nhân dân.net.

Nhận xét: số liệu bảng trên cho thấy các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh
nghiệp nước ngoài đang đua nhau về chiều rộng như mở thêm chuỗi siêu thị hay trung
tâm thương mại. Tuy nhiên những doanh nghiệp bán lẻ ngoại lại có những công ty mẹ

Trang 7


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa


hùng hậu về tài chính, sẵn sàng tại trợ cho quyết định đầu tư nên các doanh nghiệp
ngoại đầu tư rất mạnh tay. Có doanh nghiệp dự định đầu tư với số vốn lên đến hơn
97000 tỷ VND (5 tỷ USD) như Lotte. Ngoài đầu tư theo chiều rộng họ còn đầu tư theo
chiều sâu. Chẳng hạn như Metro đã đầu tư vào hệ thống cung ứng và công tác huấn
luyện nhân viên với số tiền lên đến 619 tỷ VND. Trong khi đó các doanh nghiệp trong
nước vẫn còn đầu tư dàn trải. Đầu tư lớn nhất là Trung Nguyên với số vốn cũng chỉ có
7000 tỷ VND (tương đương 395 triệu USD). Nguồn vốn cho việc đầu tư luôn là vấn đề
nhức nhối đối với các doanh nghiệp hiện nay.
2.2.3. Về kênh phân phối
Năm 2008 cả nước hiện có 30 trung tâm thương mại lớn, hơn 2.000 siêu thị,
1.000 cửa hàng tự phục vụ và hơn 9.000 chợ. Hiện có đến 5 triệu người kinh doanh,
buôn bán với đa số tiểu thương tại các chợ. Trong số đó, chợ chiếm 40% thị phần, cửa
hàng bán lẻ chiếm 40% và trung tâm thương mại, siêu thị chiếm 17% thị phần bán ra,
phần còn lại do các DN sản xuất tự phân phối.
Hình 1. Xu hướng thay đổi thị phần kênh phân phối chính từ 2006-2010

Nguồn: Grocery Report - The Nielsen. (*):dự báo

Trang 8


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

Nhận xét: Đã có sự thay đổi đáng kể về thị phần các kênh phân phối chính như năm
2006 kênh phân phối truyền thống chiếm đến 90% thị phần và kênh phân phối hiện đại
chỉ chiếm 10% thị phần cho đến 2009 thì kênh phân phối truyền thống đã giảm 10%
thị phần xuống còn 80% và kênh phân phối hiện đại đã tăng đến 20%. Theo “Dự thảo
Đề án phát triển thương mại nội địa đến năm 2010” của Bộ Thương mại, hiện nay

kênh phân phối hiện đại với các siêu thị chỉ mới xuất hiện ở 30/64 tỉnh thành và chủ
yếu là vẫn tập trung ở các thành phố lớn trong khi thị trường nông thôn chiếm 70% số
dân cả nước thì sự phát triển các kênh phân phối hiện đại ở đây còn yếu ớt và ít sôi
động. Về cơ bản thì hệ thống kênh phân phối hiện đại cũng mới chỉ dừng lại ở quy mô
nhỏ, trình độ quản lý, công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật và phương thức kinh doanh
chưa đạt được chuẩn mực quốc tế. Đồng thời hệ thống phân phối truyền thống còn tồn
tại nhiều cửa hàng nhỏ lẻ, phát triển một cách tự phát chưa tạo được sức hấp dẫn đối
với khách hàng, các chợ hoạt động còn lộn xộn không có trật tự.
Từ thực tế trên cho thấy nếu các doanh nghiệp Việt Nam không tiến hành xây dựng
và tổ chức các kênh thống phân phối hiện đại, xây dựng chiến lược phát triển thị
trường nội địa đúng đắn, tiến tới hình thành những doanh nghiệp bán buôn, bán lẻ hiện
đại, có mạng lưới rộng, phát triển nhanh, đổi mới và hoàn thiện hoạt động theo hướng
hiện đại, chuyên nghiệp cao thì khó có thể cạnh tranh và bám trụ thị trường trong bối
cảnh hội nhập như hiện nay.
2.2.4. Về mô hình kinh doanh
Nhìn chung các mô hình bán lẻ theo kiểu hiện đại của Việt Nam vẫn còn ít.
Siêu thị lớn nhất Việt Nam cũng chỉ có doanh số không quá 200 tỷ đồng một năm.
Trên thực tế, các mô hình bán lẻ của nước ta hiện nay còn mang nặng tính đại lý. Hình
thức này tuy có thuận lợi là cần ít vốn, lại tận dụng được lợi thế nguồn lao động dồi
dào về số lượng, ít bị rủi ro... Tuy nhiên, đặc điểm lớn nhất của hình thức này là lấy
công làm lãi, lợi nhuận thấp, trình độ kinh doanh không cao, thiếu thốn về mặt bằng
địa điểm kinh doanh và phụ thuộc nhiều vào chủ hàng mà mình bán đại lý.
Trong khi các tập đoàn bán lẻ nước ngoài được biết đến với những mô hình bán
lẻ rất hiện đại đang hiện diện trên thị trường Việt Nam thì hầu hết cửa hàng truyền
thống của Việt Nam đều ở trong tình trạng chung là có diện tích nhỏ, trung bình
khoảng 11,8 m2/cửa hàng, trang thiết bị thô sơ và chủ yếu sử dụng lao động phổ
Trang 9


Chuyên đề kinh tế


GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

thông. Hệ quả là văn minh thương mại, phong cách phục vụ, vệ sinh an toàn thực
phẩm, chất lượng hàng hóa... cung cấp cho người tiêu dùng không được đảm bảo.
Có thể nói với mô hình lạc hậu có quy mô nhỏ, trình độ quản lý thấp, phương
thức kinh doanh chưa tiên tiến, cơ sở hạ tầng kinh doanh chưa hiện đại và còn sơ sài;
bán hàng và thanh toán chủ yếu theo phương thức truyền thống; hàm lượng thông tin
mỏng; quan hệ giữa nhà bán lẻ với người tiêu dùng còn sơ khai, chiến lược kinh doanh
chưa được quan tâm đúng mức thì khả năng cạnh tranh giành thị phần với các mô hình
hiện đại của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài là rất mong manh.
2.2.5. Về cơ sở hạ tầng
Các doanh nghiệp bán lẻ đang phải đối mặt với tình trạng mặt bằng đẹp phục vụ
riêng cho hoạt động kinh doanh bán lẻ thiếu hụt trầm trọng. Hầu hết các mặt bằng hiện
hữu đều không đạt chuẩn quốc tế khiến các nhà đầu tư kinh doanh bán lẻ quốc tế phải
chọn giải pháp cải tạo lại các cửa hàng mặt tiền. Khi nhu cầu về mặt bằng bán lẻ cao
cấp ngày một tăng cao tại khu vực trung tâm thành phố thì giá thuê mặt bằng vẫn tiếp
tục leo thang . Giá thuê trung bình tại TP HCM và Hà Nội đã tăng nhanh chóng và đạt
mức 40USD/m2/tháng vào cuối quý 3 năm 2007. Giá thuê của những mặt bằng tại
những vị trí đẹp, hoặc tại khu trung tâm kinh doanh thương mại và tầng trệt lên đến
200USD/m2/tháng. Vì giá thuê mặt bằng tại các thành phố lớn quá cao nên nhiều vị trí
đẹp đều do các nhà phân phối nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh thuê được. Mà
trong kinh doanh bán lẻ vị trí và cơ sở vật chất trang thiết bị đóng vai trò không nhỏ.
Nó quyết định rất lớn đến doanh số cũng như sự phát triển của hệ thống. Bên cạnh đó,
vốn ít còn làm các doanh nghiệp không thể đầu tư nhiều vào hạ tầng cơ sở thông tin.
Theo thống kê của Hiệp hội siêu thị Hà Nội cho thấy có đến 60-70% doanh nghiệp
chưa áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý, chỉ khoảng 20% doanh nghiệp sử dụng
trang Web với nội dung nghèo nàn.
Nhìn tổng quát, trong cuộc chạy đua cơ sở hạ tầng này thì các doanh nghiệp trong
nước có phần yếu thế hơn.


2.2.6. Về hậu cần

Trang 10


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

Theo các chuyên gia kinh tế, hiện nước ta có quá ít các doanh nghiệp và hệ
thống phân phối đủ mạnh thỏa mãn đủ các nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Hầu hết
các doanh nghiệp thương mại đều chưa có một cấu trúc hậu cần được tổ chức mang
tính hệ thống, khoa học bám sát quy trình vận động của hàng hóa. Việc tổ chức cung
ứng hàng hoá chủ yếu là có nguồn hàng nào bán nguồn hàng nấy, nhiều nguồn hàng
được huy động thông qua các hình thức trung gian nên chi phí cao và không đảm bảo
chất lượng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam vẫn chưa xây dựng được
những vùng cung cấp nguồn hàng ổn định để tiêu thụ. Tính chủ động trong hợp tác
liên kết theo chiều dọc giữa các doanh nghiệp bán lẻ với các doanh nghiệp sản xuất
còn lõng lẽo, liên doanh thu mua, tiêu thụ hàng hoá còn rời rạc. Từ đó khiến khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ nội ngày càng bị thu hẹp.
Kinh doanh với những kênh phân phối hiện đại đòi hỏi phải có một hệ thống
hậu cần được tổ chức chuyên nghiệp. Các tập đoàn bán lẻ nước ngoài đều trang bị hệ
thống kho lạnh, xe chuyên dụng, thiết bị kiểm tra, bảo quản hàng hóa...theo chuẩn của
họ trên toàn cầu và họ cũng rất chú trọng đến công tác huấn luyện nhân viên trong
hoạt động cung ứng và hậu cần. Trong khi đó, ở các doanh nghiệp bán lẻ của Việt
Nam, các giám đốc vẫn còn tranh cãi với nhau về việc thành lập trung tâm phân phối
hoặc việc nhà cung cấp không giao đủ hàng bán khi có nhu cầu đột biến tăng cao mà
vẫn chưa có biện pháp nào để khắc phục tình trạng này. Việc điều phối các xe giao
hàng đúng loại, đúng nơi, đúng thời điểm vẫn còn được điều hành, quản lý khá đơn

giản. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh mà còn làm gia tăng
chi phí lao động cũng như chi phí quản lý.
Có thể nói, khâu hậu cần trong hệ thống bán lẻ Việt Nam hiện nay còn khá sơ sài,
thiếu đồng bộ và chưa đạt chuẩn quốc tế.
2.2.7. Về sự phát triển
Theo tổng cục thống kê tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6
tháng đầu năm 2010 ước tính đạt 747,4 nghìn tỷ đồng, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm
2009, nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 16,4%. Trong tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh
thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm, kinh doanh thương nghiệp đạt 590,2 nghìn tỷ
đồng, chiếm 78,9% tổng số và tăng 27,6%.

Trang 11


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

Hình 2. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ từ 2005 đến 6 tháng đầu năm 2010
Đơn vị tính: ngàn tỷ đồng

Nguồn: Tổng cục thống kê
Những con số trên cho thấy tốc độ phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam đang
ngày một tăng cao.
Để giành thế chủ động trên “sân nhà” cũng như tận dụng được khoảng thời gian trước
khi mở của thị trường bán lẻ các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đang nhanh chóng mở
rộng hệ thống bán lẻ của mình. Điển hình như Saigon Co.op quyết định khai trương
cùng một lúc 12 cửa hàng Co.opMart hiện đại ngay từ năm 2006 và phấn đấu để đạt
con số 50 vào năm 2010; Công ty G7Mart cũng cho khai trương hàng loạt các cửa
hàng G7Mart với tổng giá trị của dự án lên tới 395 triệu USD. Ngoài ra, Maximark đã

khai trương TTTM rộng 20.000m2 trên đường 3 Tháng 2 tại Quận10, TP.HCM.
Citimart thì mua lại quyền kinh doanh của hệ thống siêu thị Family Mart (Malaysia)
trong các TTTM Parkson. Nhưng thực tế cho thấy các doanh nghiệp bán lẻ trên vẫn
còn tập trung vào phát triển ở thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ trong khi thị trường
nông thôn chiếm hơn 70% dân số thì chậm đầu tư phát triển. Như hệ thống siêu thị
Co.op Mart có tổng cộng 44 siêu thị, trong đó có đến 20 siêu thị tại TP.HCM và 24
siêu thị tại các tỉnh miền Tây, Đông Nam Bộ, miền Trung - Tây Nguyên và Hà Nội.
Bên cạnh đó, sự phát triển của hệ thống còn manh mún, tản mạn, tự phát, thiếu ổn
định, chưa đạt trình độ chuyên nghiệp. Hiện nay, kênh bán hàng hiện đại tại Việt Nam
chỉ mới chiếm được khoảng 20% trong tổng cơ cấu thị trường bán lẻ.

Trang 12


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

Tóm lại, nhìn vào thực trạng của hệ thống bán lẻ Việt Nam hiện nay, nhiều
chuyên gia cũng như các doanh nghiệp đều có chung nhận xét: nhỏ bé, phát triển tự
phát chủ yếu theo bề rộng và thiếu tính ổn định.

CHƯƠNG 3
PHÂN TÍCH ĐIỂM MẠNH, ĐIỂM YẾU, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA HỆ
THỐNG BÁN LẺ VIỆT NAM
3.1. ĐIỂM MẠNH VÀ ĐIỂM YẾU CỦA HỆ THỐNG BÁN LẺ VIỆT NAM

Trang 13



Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

3.1.1. Điểm mạnh của hệ thống bán lẻ Việt Nam
Các nhà bán lẻ Việt Nam có những điểm mạnh riêng như: am hiểu về thị
trường, am hiểu người tiêu dùng Việt Nam, văn hóa Việt Nam, cũng như có những
cách kinh doanh rất thực tế. Ưu thế về độ quen thuộc, thông hiểu tập quán, sở thích
tiêu dùng của người dân đã giúp các doanh nghiệp bắt kịp với sự thay đổi nhanh chóng
của thị hiếu tiêu dùng của người dân, tăng khả năng nhạy bén với giá cả, chất lượng
dịch vụ mà phải mất một thời gian các nhà bán lẻ nước ngoài mới có thể tiếp cận và
lĩnh hội được.
Bên cạnh đó, các nhà đầu tư trong nước thường tiếp cận dễ dàng với các vị trí
bán lẻ tốt và vì vậy có nhiều thuận lợi hơn để tiếp cận với khách hàng.
Phong cách phục vụ của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam tuy chưa chuyên
nghiệp nhưng bù lại các doanh nghiệp trong nước lại rất linh động, sáng tạo trong việc
đưa hàng đến tận tay người tiêu dùng, chẳng hạn hệ thống phân phối hàng hoá bằng xe
máy, khắp các vùng miền - điều mà các công ty nước ngoài chưa thể làm quen.
Một điều quan trọng nữa là hiện nay 80% hàng hoá vẫn còn được phân phối
theo hệ thống chợ, điểm bán hàng và cửa hàng nhỏ lẻ, truyền thống phân bổ khắp các
vùng miền. Do vậy trước mắt, doanh nghiệp trong nước có thể tận dụng mạng lưới
phân phối dày đặc này trong việc tạo thói quen mua sắm cho người tiêu dùng trong các
chợ truyền thống.
Theo kết quả khảo sát người tiêu dùng tại Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh của
AGROINFO cho thấy, các nhà bán lẻ trong nước đang đáp ứng tốt hơn sự kỳ vọng của
người tiêu dùng trong một số tiêu chí. Trường hợp của chuỗi siêu thị Co.opMart là một
ví dụ điển hình. Chuỗi siêu thị Co.opMart được người tiêu dùng đánh giá khá cao như
giá cả cạnh tranh, thanh toán nhanh gọn, gần nhà và thuận tiện về giao thông so với
các tập đoàn bán lẻ nước ngoài là Metro Cash & Carry và Big C. Nắm bắt được thói
quen, thị hiếu của người tiêu dùng, chuỗi siêu thị Co.opMart không cần một diện tích

kinh doanh lớn như Metro hay Big C. Do vậy việc bố trí các siêu thị gần khu dân cư
đông đúc là điều hoàn toàn có thể và đáp ứng rất tốt thói quen của người tiêu dùng
Việt Nam thích đi mua sắm gần nhà. Cũng theo kết quả khảo sát trên có lần lượt
90,3% và 77,6% người tiêu dùng cho rằng Co.opMart là nơi mua sắm gần nhà và khá
thuận tiện về giao thông. Ngoài ra, Co.opMart tỏ ra vượt trội so với Metro Cash &
Carry và Big C, đó là nhân viên bán hàng nhiệt tình, thân thiện (41,8%) và thủ tục
Trang 14


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

thanh toán nhanh gọn (50%). Bên cạnh đó, Co.opMart còn có được những nguồn hàng
tốt nên chiến lược cạnh tranh giá cũng rất hiệu quả. Theo đánh giá của người tiêu
dùng, Co.opMart là kênh phân phối có giá cả cạnh tranh hơn so với Big C (60,4%).
Những điểm mạnh trên cần được các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam phát huy. Nếu
có thể tận dụng tốt thì họ hoàn toàn có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước
ngoài.
3.1.2. Điểm yếu của hệ thống bán lẻ Việt Nam
Hệ thống bán lẻ của Việt Nam hiện nay đã và đang bộc lộ rõ 3 điểm yếu rất cơ
bản cần phải khắc phục ngay, đó là: tài chính, hậu cần (logistics) và tính chuyên
nghiệp.
Về tài chính như đã phân tích ở trên các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đang rất
yếu. Vốn ít dẫn đến khả năng đầu tư mở rộng quy mô là không cao. Do đó hầu hết các
doanh nghiệp chỉ hoạt động với quy mô nhỏ nên không thể đặt hàng với số lượng lớn
từ đó không thể đưa ra mức giá bán lẻ hấp dẫn cho khách hàng. Bên cạnh đó, vốn ít
còn dẫn đến sự yếu kém của các doanh nghiệp trong cuộc chạy đua phát triển cơ sở hạ
tầng. Theo thống kê của Hiệp hội siêu thị Hà Nội cho thấy có đến 60-70% doanh
nghiệp chưa áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý, chỉ khoảng 20% doanh nghiệp

sử dụng trang Web với nội dung nghèo nàn. Ngoài ra, mặt bằng bán lẻ cũng đang thiếu
hụt nghiêm trọng. Trong cuộc chạy tìm kiếm các mặt bằng tốt thì bên doanh nghiệp
ngoại tỏ ra ưu thế hơn khi sẵn sàng thuê với giá cao, thậm chí chịu thua lỗ trong vòng
vài năm chỉ để có được những vị trí đắc địa.
Về hậu cần thì hiện nay hệ thống kho bãi, xe chuyên dùng, trung tâm phân phối,
nguồn hàng còn rời rạt, thiếu đồng bộ và không đạt chuẩn quốc tế. Trong khâu hậu cần
còn nhiều công đoạn không hợp lý làm tăng giá bán hàng hóa.
Về tính chuyên nghiệp thì không cao. Do trong số hàng triệu lao động trong
lĩnh vực này chỉ có khoảng 4-5% lao động là được đào tạo chuyên ngành dẫn đến
phương thức bán hàng và phong cách phục vụ thiếu chuyên nghiệp. Theo kết quả điều
tra của Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (Vinastas) mới đây cho
thấy, hơn 70% người tiêu dùng Việt Nam chưa hài lòng về dịch vụ hậu mãi và hầu hết
người tiêu dùng không hài lòng với thái độ của người bán hàng. Điều này đang là một
trở ngại khiến nhiều doanh nghiệp khó có thể cạnh tranh với hệ thống phân phối nước
ngoài trong thời gian tới.
Trang 15


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

Ngoài những điểm yếu trên thì tính liên kết kể cả liên kết theo chiều ngang giữa
các doanh nghiệp bán lẻ và liên kết theo chiều dọc giữa nhà bán lẻ và nhà sản xuất còn
ở mức độ sơ khai, chưa đi vào chiều sâu và chưa tận dụng được sức mạnh của sự liên
kết.
Nhìn chung, các doanh nghiệp bán lẻ của Việt Nam với những yếu kém trên mọi
phương diện từ con người, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, mặt bằng, bán hàng và thông
tin. Nếu hệ thống bán lẻ Việt Nam không có những điều chỉnh kịp thời sẽ có nguy cơ
bị thất bại ngay trên sân nhà.

3.2. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA HỆ THỐNG BÁN LẺ VIỆT NAM
3.2.1. Cơ hội

Trong năm 2007, về mức chi tiêu thì người dân Việt Nam đã chi gần 45 tỷ USD
cho mua sắm, dự kiến đến năm 2012, con số này sẽ đạt khoảng 85 tỷ USD và dự báo:
mức tiêu dùng của người dân Việt Nam sẽ tiếp tục tăng khoảng trên dưới 20%/năm
trong thời gian tới. Dù hiện nay, đa phần người Việt Nam mua hàng hóa tại các chợ
(chiếm khoảng 40%) mua từ người sản xuất (khoảng 6%) và qua các cửa hàng bán lẻ
độc lập (khoảng 44%). Song, xu hướng mua hàng theo kênh phân phối hiện đại đang
là xu hướng tiêu dùng chủ yếu. Xu hướng này đang dần khẳng định được những ưu thế
so với hình thức kinh doanh tại các chợ truyền thống. Thế nhưng hệ thống thương mại
hiện đại: siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện ích... mới chỉ chiếm khoảng
20% tổng mức lưu chuyển hàng hóa. Điều này cho thấy, cơ hội vẫn còn rộng mở đối
với các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam.
Bên cạnh đó, Việt Nam có 50 - 60% dân số ở độ tuổi dưới 35 với những cơ hội
nâng cao thu nhập là rất lớn do chính sách kinh tế trong nước và tác động của hội nhập
quốc tế. Hơn nữa theo công bố của Công ty nghiên cứu thị trường AC Nielsen thì chỉ
số niềm tin của người tiêu dùng Việt Nam đang ở mức cao kỷ lục, đạt 118 điểm và
đứng thứ 5 thế giới trong khi chỉ số này trên toàn cầu đang giảm vào cuối năm 2006.
Điều đó cho thấy, người tiêu dùng Việt Nam đang ngày càng nâng cao mức chi tiêu và
thói quen mua sắm cũng như xu hướng tiêu dùng đang dần thay đổi. Đây chính là yếu
tố quan trọng để thị trường bán lẻ ngày càng được kích thích phát triển đa dạng.
Không chỉ vậy, hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sống ở vùng nông thôn với
sức mua còn hạn chế. Nhưng trong thời gian tới thị trường bán lẻ ở nông thôn sẽ rất

Trang 16


Chuyên đề kinh tế


GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

sôi động, đặc biệt đối với những vùng có tốc độ đô thị hoá nhanh. Các chính sách của
Chính phủ đều quan tâm đến các vùng nông thôn, khi thu nhập tăng nhanh, chuyển đổi
cơ cấu hiệu quả, những chính sách phát triển công nghiệp, đặc biệt là chính sách “tam
nông” đang được nỗ lực thực hiện, thì đối tượng này sẽ dần trở thành nhân tố bùng
phát sức mua tại các khu vực. Do đó, thị trường nông thôn với hơn 60 triệu dân đáng
được các doanh nghiệp bán lẻ để mắt tới.
Mặt khác, theo “Phân tích hiện trạng và triển vọng tiêu dùng thực phẩm 2008”
của AGROINFO cho thấy giá cả và chất lượng sản phẩm luôn là yếu tố hàng đầu
quyết định sự lựa chọn của khách hàng, không chỉ đối với sản phẩm mà còn với kênh
phân phối. Có đến 97,4% người tiêu dùng được hỏi quan tâm đến vấn đề giá cả, 94%
quan tâm đến chất lượng sản phẩm được bán, gần nhà và thuận tiện về giao thông cũng
là những tiêu chí quan trọng lần lượt được 88,9% và 79% người tiêu dùng quan tâm.
Các tiêu chí quan trọng khác là thủ tục thanh toán nhanh gọn (88,2%), có bãi giữ xe
rộng (74%) và hàng hóa được bài trí gọn gàng, ngăn nắp (58,4%)... Các tiêu chí ít
được người tiêu dùng đánh giá cao là có nhiều chương trình khuyến mại, tặng quà
(31,9%), có dịch vụ vận chuyển hàng hóa (38,3%) và sự nhiệt tình, thân thiện của nhân
viên bán hàng (37,4%). Sự đánh giá của người tiêu dùng đối với các tiêu chí của một
hệ thống bán lẻ có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ và
các nhà phân phối. Vì những đánh giá này là cơ sở để các doanh nghiệp bán lẻ xây
dựng những mô hình kinh doanh phù hợp với những thói quen mua sắm của người tiêu
dùng.

3.2.2. Thách thức
Bán lẻ được “duyệt” vào một trong 4 ngành sẽ gặp nhiều trở ngại trong tiến trình
hội nhập. Xét về chiến lược thì ai nắm mạng lưới phân phối người đó có thể điều khiển
sản xuất. Thế nhưng khi nhà phân phối nước ngoài vào Việt Nam, chẳng hạn như
Walmart họ sẽ kéo theo hàng trăm nghìn nhà sản xuất của họ mang hàng vào, vì vậy
chúng ta không chỉ mất hệ thống phân phối mà các nhà sản xuất trong nước cũng gặp

nhiều khó khăn. Nếu điều này xảy ra thì nguy cơ khu vực phân phối bán lẻ bị lấn át
Trang 17


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

bởi các nhà đầu tư nước ngoài có thể lan rộng sang cả lĩnh vực bán buôn, gây ảnh
hướng đến sự đảm bảo ổn định vĩ mô của toàn bộ mạng lưới sản xuất và tiêu dùng.
Trước mắt cho thấy việc các tập đoàn nước ngoài chưa tràn vào thị trường Việt Nam
sau hơn một năm mở cửa thị trường bán lẻ vì đây là thời gian thăm dò, nghiên cứu thị
trường. Tuy nhiên, theo các dự báo, thời gian tới cùng với việc kinh tế thế giới phục
hồi, xu hướng các nhà phân phối nước ngoài xâm nhập thị trường Việt Nam sẽ ngày
càng mạnh mẽ hơn.
Sự có mặt của các nhà phân phối nước ngoài cũng đang tạo ra áp lực cạnh tranh
lớn với các nhà phân phối trong nước. Chẳng hạn ngay trên thị trường bán lẻ nước nhà
của các doanh nghiệp Việt Nam mà Metro có thể phân phối đầy đủ các mặt hàng nội
địa kể cả thực phẩm và phi thực phẩm với giá rẻ hơn bên ngoài. Hiện ở Việt Nam có
khoảng 15 tập đoàn phân phối lớn có mặt từ 10 năm trước dưới các mô hình khác nhau
tại các thành phố, trung tâm kinh tế lớn, và họ đang kinh doanh rất thành công. Trong
đó, có những tên tuổi lớn như Wal-Mart (Mỹ), Carrefour (Pháp), Tesco (Anh), Metro
Cash (Đức) và nhiều tập đoàn bán lẻ hàng đầu châu Á như Plaza (Nhật Bản), Dary
Farm (Hồng Kông), Diamond Plaza (Hàn Quốc), Parkson (Ma-lai-xi-a), South Asia
Ivestment (Xin-ga-po)...Trước áp lực đổ bộ ào ạt của các doanh nghiệp nước ngoài đã
tạo ra thách thức lớn cho hệ thống phân phối trong nước, thậm chí là nguy cơ phá sản
nếu không tự đổi mới và làm lớn mình.
Mặt khác, ngành kinh doanh bán lẻ thế giới đã tiếp cận hai xu thế là cửa hàng
thực thể và kênh bán hàng ảo qua website, điện thoại di động. Theo kết quả nghiên
cứu thị trường, 65% khách hàng tìm thông tin trước khi mua sắm và 27% khách hàng

mua sắm có ảnh hưởng của mạng. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, xu thế này còn
mới mẻ nhưng nếu không bắt đầu làm quen thì một vài năm nữa, doanh nghiệp bán lẻ
trong nước sẽ gặp khó khăn ngay khi các tập đoàn bán lẻ nước ngoài đua nhau vào
Việt Nam vói những ứng dụng công nghệ thông tin và mô hình kinh doanh qua mạng.
Các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài không chỉ đưa hàng vào nước ta, mà còn
trực tiếp vào đầu tư để hình thành các siêu thị với nguồn vốn lớn, với phong cách bán
hàng hiện đại, lượng hàng hóa dồi dào, phong phú, đa dạng về mẫu mã, chất lượng
cao, giá rẻ, có nhiều chương trình khuyến mãi hấp dẫn người tiêu dùng. Một số siêu thị
Metro, Bici, Tháp Đôi ở Hà Nội hằng ngày đã thu hút hàng vạn khách hàng vào mua
hàng về dùng cho cả tuần, cả tháng, có loại rẻ hơn cả giá bán buôn tại chợ Đồng XuânTrang 18


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

một trung tâm bán buôn lớn của thủ đô. Đáng ngại hơn, hệ thống bán lẻ của các nhà
đầu tư nước ngoài có một lực lượng đứng đằng sau là các tập đoàn đa quốc gia hùng
hậu về tài chính, có chi nhánh trên khắp thế giới.
Về tốc độ cấp phép thì theo kinh nghiệm các nước Ấn Độ hay Thái Lan người ta
chỉ cho các tập đoàn nước ngoài đầu tư rất ít các trung tâm phân phối, nhưng ở Việt
Nam thì không như vậy. Đến thời điểm 6/2010 này, Việt Nam đã cấp khoảng 180 giấy
phép cho các nhà phân phối nước ngoài hoạt động với những quy mô khác nhau. Có
119 giấy phép cấp trước ngày 1/1/2009. Chúng ta cam kết nhưng chúng ta vẫn có
quyền hạn chế việc mở thêm các điểm bán lẻ. Do đó không nên cấp phép ồ ạt cho các
nhà phân phối nước ngoài mở thêm đại lý hay lập thành chuỗi, gây ra sự cạnh tranh
khốc liệt như hiện nay. Chẳng hạn như Metro có tới hệ thống 8 trung tâm bán sỉ (thực
tế là bán lẻ) trên cả nước được cấp phép. Nếu Metro liên doanh, liên kết với một số
doanh nghiệp trong nước để phát triển thêm các trung tâm khác thì các doanh nghiệp
của Việt Nam khó có thể cạnh tranh nổi.

Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật về dịch vụ phân phối đang còn có những điểm
chưa hoàn thiện như: chưa có quy định thống nhất về dịch vụ phân phối, chưa làm rõ
các khái niệm bán buôn, bán lẻ, tiêu chí kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT). Đồng thời các
văn bản hiện hành còn nhiều bất cập trong việc quản lý hàng hóa hạn chế kinh doanh
và kinh doanh có điều kiện; công tác quy hoạch còn chung chung chưa có quy hoạch
tổng thể và cụ thể.
Nhìn vào thực tế cho thấy tương quan sức mạnh giữa các doanh nghiệp bán lẻ Việt
Nam và các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài là không cân sức. Tuy nhiên trong cuộc
chiến cạnh tranh giành thị phần này các doanh nghiệp trong nước vẫn có khả năng
thắng cuộc nếu biết tận dụng tốt ưu thế của mình, tránh đối đầu trực tiếp với điểm
mạnh của họ mà nên đánh vào điểm yếu của họ. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng
phải đổi mới không ngừng, tích tụ các nguồn lực để có thể giống như các doanh
nghiệp bán lẻ Hàn Quốc đánh bại được các tập đoàn bán lẻ lớn ngay trên chính sân nhà
của mình.

Trang 19


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

CHƯƠNG 4
GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC NHỮNG KHIẾM KHUYẾT VÀ PHÁT
TRIỂN HỆ THỐNG BÁN LẺ VIỆT NAM
4.1. ĐỐI VỚI CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
4.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động bán lẻ và dịch vụ phân phối.
Nhà nước nên sớm hoàn thiện hệ thống luật liên quan tới hoạt động bán lẻ như Luật
Bán lẻ, Luật Chất lượng sản phẩm, Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm, Luật Bảo vệ
người tiêu dùng. Ngoài ra, Nhà nước cần phải đặc biệt chú ý đến lĩnh vực bán lẻ,

Trang 20


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

nhanh chóng đưa ra quy định thống nhất về dịch vụ phân phối, làm rõ các khái niệm,
bán lẻ, bán buôn. Đồng thời cần có các qui định đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và tạo
cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển kinh doanh trong lĩnh vực này.
4.1.2. Quy hoạch lại hệ thống bán lẻ.
Các cơ quan quản lý cần lập quy hoạch về bán lẻ. Quy hoạch này phải xác định rõ
những vị trí, địa điểm xây dựng siêu thị, đại siêu thị, trung tâm thương mại, chợ truyền
thống; xác định địa điểm ưu tiên cho doanh nghiệp trong nước, địa điểm kêu gọi đầu
tư nước ngoài. Quy hoạch lại những khu vực có thể cho phát triển thành trung tâm
mua sắm không nên để phân tán, tự phát như hiện nay.
4.1.3. Có chính sách hỗ trợ thích hợp cho các doanh nghiệp bán lẻ nước nhà.
Nhà nước cần có những định chế tài chính, tín dụng, chính sách đầu tư, đất đai
thích hợp nhằm giúp các DN bán lẻ nội địa tiếp cận với các nguồn vốn vay, đất đai để
có thể phát triển hạ tầng các cơ sở bán lẻ hiện đại, hoặc thông qua các ngân hàng
thương mại cho vay tín dụng ưu đãi với những dự án phát triển các cơ sở kinh doanh.
Nhà nước nên khuyến khích các thành phần kinh tế huy động vốn, đầu tư xây dựng
thêm cơ sở, trung tâm phân phối, bán lẻ, nhất là ở các đô thị.
Ngoài ra, Nhà nước không nên để thị trường vận động hoàn toàn tự do mà cần
có sự giám sát, điều chỉnh tránh tình trạng các nhà phân phối lớn triệt tiêu các nhà
phân phối nhỏ để thống lĩnh thị trường nhằm đảm bảo bình đẳng kinh doanh và bảo vệ
quyền lợi lâu dài cho người tiêu dùng, đảm bảo thực hiện tốt các cam kết với WTO.
4.2. ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺ VIỆT NAM
4.2.1. Giải pháp về mô hình.
Các doanh nghiệp trong nước muốn tồn tại và phát triển kinh doanh, phải không

ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh, áp dụng các mô hình quản lý kinh doanh, bán
hàng, thanh toán phải theo phương thức hiện đại. Phải đ a dạng hoá các chương trình
khuyến mãi và bán hàng, tạo nên sự mới lạ và phong cách bán hàng phải văn minh,
lịch sự để thu hút khách hàng. Đồng thời các doanh nghiệp cần không ngừng mở rộng
quy mô kinh doanh, phát triển các kênh phân phối hiện đại như: siêu thị, đại siêu thị,
TTTM, cửa hàng tiện ích. Đối với những hệ thống đang hoạt động theo mô hình cũ
cần nâng cấp, cải tiến đi sâu vào tính chuyên nghiệp.

Trang 21


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

4.2.2. Giải pháp về hậu cần và nguồn cung ứng.
Các doanh nghiệp trong nước phải phát huy các lợi thế của mình trong việc khai thác
các nguồn hàng trong nước, vừa làm đa dạng mặt hàng, tiết kiệm chi phí vừa tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước phát triển. Bên cạnh đó, các nhà bán lẻ
cần đi sâu xây dựng các trung tâm logistics theo các tiêu chuẩn quốc tế. Phải hiện đại
và đồng bộ hóa các khâu từ kho, bãi, hệ thống xe vận tải đến xây dựng vùng hàng để
đảm bảo chất lượng sản phẩm, không bán các hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ
hay không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Việc xây dựng vùng hàng sẽ giúp
doanh nghiệp chủ động được nguồn hàng, có nguồn hàng ổn định và chất lượng để
cung cấp cho khách hàng từ đó sẽ tạo uy tín tốt cho doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh
nghiệp nên không ngừng xây dựng thương hiệu và tạo dựng lòng trung thành của
người tiêu dùng, nâng chất lượng dịch vụ, giảm giá thành để tạo nên sự cạnh tranh
riêng biệt.
4.2.3. Giải pháp về tính chuyên nghiệp
Hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ thì nguồn nhân lực giữ một vị trí rất quan trọng

trong việc thể hiện tính chuyên nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần phải xây dựng cho
mình một đội ngũ nhân viên bán hàng có đầy đủ các kỷ năng cần thiết. Các doanh
nghiệp cần có các chính sách thu hút những người lao động có trình độ về với doanh
nghiệp, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực, thường xuyên nâng cao trình độ chuyên
môn và nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên, gửi các cán bộ có năng lực đi tham quan thực
tế và học tập nâng cao trình độ ở nước ngoài, đồng thời có chính sách để tăng thu nhập
và tạo các cơ hội về nghề nghiệp, thăng tiến để giữ chân nguồn nhân lực có chất lượng
cao cho doanh nghiệp. Nếu giải quyết tốt vấn đề nguồn nhân lực có thể làm nâng cao
được phong cách phục vụ cũng như tính chuyên nghiệp và làm tăng khả năng cạnh
tranh phát triển hệ thống phân phối bán lẻ nước ta hiện nay.
4.2.4. Giải pháp về tài chính
Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp bán lẻ nước ta đều có quy mô nhỏ và có
nguồn vốn rất hạn hẹp, do đó không có đủ nguồn lực tài chính để mở rộng đầu tư. Vì
vậy, các doanh nghiệp trong nước cần liên kết, sáp nhập với nhau. Việc liên kết,
nhượng quyền thương mại, mua bán, sáp nhập giữa các doanh nghiệp trong ngành một
mặt sẽ nhanh chóng mở rộng quy mô của doanh nghiệp không phải tốn quá nhiều chi
phí cho quá trình đâu tư mở rộng sản xuất. Mặt khác sẻ tận dụng được những kinh
Trang 22


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

nghiệm của nhau để phát triển, tận dụng được thị trường hiện có của các doanh nghiệp
mà không phải mất nhiều thời gian cho việc mở rộng thị trường. Với hệ thông các cửa
hàng đại lí, các cơ sở ở nhiều nơi cho cho phép doanh nghiệp dể dàng hơn trong việc
quảng bá và phát triển thương hiệu, thu hút khách hàng về với mình.

Ngoài ra, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam cũng cần tập trung vốn thông

qua việc mở rộng hợp tác, liên doanh với các ngân hàng và các tổ chức tài chính,
tín dụng. Bởi vì đây là những nguồn cung vốn rất lớn. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp cũng có thể huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Việc huy động vốn từ nhiều nguồn như vậy sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao nội
lực cho việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển hậu cần đồng bộ hướng
vào chiều sâu, giúp các doanh nghiệp nước nhà có thể bức phá trên thương
trường bán lẻ.
4.2.5. Giải pháp về tính liên kết.
Để sự liên kết giữa các doanh nghiệp bao gồm sự liên kết giữa doanh nghiệp bán lẻ với
doanh nghiệp sản xuất và giữa các doanh nghiệp bán lẻ với nhau trở nên chặt chẽ thì
trước hết các doanh nghiệp phải thay đổi lối tư duy mang nặng tính lợi ích kinh tế của
bản thân, phải biết hướng tới cái chung vì sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp
trong ngành. Bên cạnh đó, khi liên kết với nhau các doanh nghiệp cần phải có những
cam kết rõ ràng cũng như lộ trình thực hiện và hơn nữa là phải có chiến lược liên kết
lâu dài thì mới có thể phát huy được sức mạnh của sự liên kết giúp giảm chi phí, tạo
kênh phân phối và nguồn hàng ổn định, giúp các doanh nghiệp phát triển bền vững
trong tiến trình hội nhập.

Trang 23


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Hệ thống bán lẻ là một bộ phận không thể thiếu được trong nền kinh tế thị
trường, một lĩnh vực kinh doanh rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, hứa hẹn mang lại

những khoản lợi nhuận cao. Trong những năm qua hệ thống bán lẻ nước ta đã có
những bước phát triển rất nhanh và đạt được nhiều thành tựu quan trọng đóng góp
không nhỏ vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên so với các
nước trong khu vực và trên thế giới thì hệ thống bán lẻ nước ta vẫn chưa phát triển
mạnh. Các doanh nghiệp bán lẻ đang gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn đầu
tư và thiếu kinh nghiệm quản lý trong trong lĩnh vực kinh doanh này. Hơn nữa quy mô
của các doanh nghiệp tương đối nhỏ, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ cho bán lẻ
Trang 24


Chuyên đề kinh tế

GVHD: Nguyễn Thị Ngọc Hoa

cũng như khâu hậu cần vẫn chưa được hoàn thiện nên chi phí kinh doanh cao dẫn đến
làm giảm năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Mặt khác khi gia
nhập vào tổ chức thương mại quốc tế WTO, nhiều tập đoàn bán lẻ hùng hậu trên thế
giới sẽ xâm nhập vào Việt Nam, sự cạnh tranh sẽ còn khốc liệt hơn nữa. Khi đó các
doanh nghiệp bán lẻ nước ta có nguy cơ bị đánh bật ra khỏi thị trường trong nước. Vì
vậy, để có thể đứng vững và cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài thì
ngay bây giờ các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam phải tìm cách nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Bằng cách mở rộng quy mô sản xuất, liên kết chặt chẽ với
nhau, đổi mới hệ thống quản trị doanh nghiệp, phát triển cả theo chiều rộng lẫn chiều
sâu, học hỏi những kinh nghiệm của các nước đã từng đánh bại các tập đoàn bán lẻ lớn
ở chính nước đó. Để từ đó các doanh nghiệp có thể phát triển những chiến lược “tránh
mạnh, đánh yếu”, tận dụng điểm mạnh của mình đánh vào điểm yếu của các tập đoàn
bán lẻ quốc tế giành chiến thắng trên thị trường bán lẻ nước nhà.
5.2. Kiến nghị
Sau đây là một số kiến nghị đề xuất với cơ quan quản lý nhà nước để tạo điều
kiện cho hệ thống bán lẻ Việt Nam phát triển trong tương lai:

_

Phải điều chỉnh các văn bản pháp luật cho phù hợp với các quy định của

WTO. Trong quá trình thực thi các cam kết, nhà nước cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật để tạo nên sự minh bạch và môi trường kinh doanh thuận lợi hơn.
Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần làm rõ các qui định để tránh tình trạng các địa
phương có cách giải thích và vận dụng khác nhau, hay tình trạng cấp phép hàng loạt
cho các tập đoàn phân phối nước ngoài như hiện nay.
_

Tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động bán buôn, bán lẻ, tránh trường

hợp kinh doanh các hàng hóa không đủ điều kiện, các hàng hóa vi phạm bản quyền,
chất lượng thấp, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm hay doanh nghiệp lớn
chèn ép doanh nghiệp nhỏ…, đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng.
_

Có các biện pháp hỗ trợ lãi xuất, giúp các doanh nghiệp trong nước dễ dàng

tiếp cận các nguồn vốn vay.

Trang 25


×