Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

thảo luận tư tưởng hồ chí minh VCU đề tài làm rõ cơ sở khách quan và chủ quan của cơ sở hình thành tư tưởng hồ chí minh và vận dụng của đảng ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.38 KB, 20 trang )

Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1

Đề cương thảo luận môn tư tưởng Hồ Chí Minh
PHẦN A: MỞ ĐẦU
PHẦN B: NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
II. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Cơ sở khách quan
a. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
 Bối cảnh lịch sử việt nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
 Bối cảnh thời đại
b. Những tiền đề tư tưởng – lý luận
 Giá trị truyền thống tốt đẹp
 Tinh hoa văn hóa nhân loại
 Chủ nghĩa Mác - Lênin
2. Nhân tố chủ quan
a. Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh
b. Phẩm hất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn
PHẦN C: VẬN DỤNG THỰC TIỄN


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1

PHẦN A: MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh đã đi xa hơn 40 năm, thế giới đã có nhiều đổi thay to lớn. Nhân loại
đang sống trong kỷ nguyên toàn cầu hóa với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế tri
thức và cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn
vẹn nguyên giá trị thời đại.
Nói đến Hồ Chí Minh là nói đến những điểm tương đồng, mẫu số chung của nhân
loại dù trong thời kỳ giải giáp chế độ thực dân, giải phóng thuộc địa hay trong công cuộc
kiến thiết đất nước, xây dựng xã hội mới; dù trong thời kỳ "chiến tranh lạnh" hay trong


thế giới toàn cầu hóa. Rõ ràng là trong thế giới ngày nay, khó tìm đâu ra một nhân vật đã
"trở thành huyền thoại ngay khi còn sống", một con người hội đủ khát vọng của các dân
tộc dù màu da, tiếng nói, chủng tộc, tôn giáo, văn hóa khác nhau….
Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nêu rõ: Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn, là ngọn cờ
chói lọi lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu anh
dũng, viết nên những trang sử vẻ vang nhất của Tổ quốc. Tư tưởng Hồ Chí Minh là di
sản tinh thần vô giá sẽ mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, của
nhân dân ta. Chúng ta phải tiến hành cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” một cách sâu rộng, thiết thực, hiệu quả trong hệ thống chính trị và
trong toàn xã hội, khơi dậy và phát huy các giá trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp, đấu
tranh khắc phục sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; chặn đứng, đẩy lùi
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời là một tất yếu khách quan nhằm giải đáp các vấn đề
lịch sử dân tộc đăt ra. Đó là sản phẩm của dân tộc và thời đại, nó trường tồn, bất diệt, và
là tài sản vô giá của dân tộc ta. Nhưng sản phẩm đó không phải sao chép cứng nhắc hay
tự nhiên mà hiện diện mà nó được Hồ Chí Minh đúc kết, học hỏi, nghiên cứu từ các cơ sở
khách quan và nhân tố chủ quan. Vậy thì những cơ sở đó là những gì?
Để làm rõ câu hỏi trên, bài tiểu luận của chúng em xin đề cập đến vấn đề: “Làm rõ
cơ sở khách quan và chủ quan của cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng
của đảng ta hiện nay”.

3


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1

PHẦN B: NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
1. Khái niệm tư tưởng.
Trong thuật ngữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm “tư tưởng” không phải là ý

thức tư tưởng của một cá nhân, một cộng đồng mà có nghĩa là một hệ thống những quan
điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học nhất quán, đại
biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, được hình thành trên cơ sở
thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
2. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.
Dựa trên những định hướng cơ bản của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam, các nhà khoa học đã dưa ra định nghĩa: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
Cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội
chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sang tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ
thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: tư tưởng về vấn đề dân tộc; về chủ nghĩa vã hội và
con đường đi lên chú nghĩa xã hội; về Đảng Cộng Sản Việt Nam; về đại đoàn kết dân tộc
và đoàn kết quốc tế; về dân chủ, Nhà nước của dân, do dân, vì dân; về văn hóa, đạo
đức,v.v..
II. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
1. Cơ sở khách quan.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là sản phẩm chủ quan, phản ánh tâm lý, nguyện
vọng của nhân dân Việt Nam đổi với lãnh tụ kính yêu của mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh
là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách quan và sự giải
đáp những nhu cầu bức thiết do cách mạng đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dưới tác động, ảnh hưởng của những điều
kiện lịch sử - xã hội cụ thể của dân tộc và thời đại mà Ngừơi đã sống và hoạt đông. Thiên
tài của Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã nắm bắt chính xác xu hướng phát triển của thời
đại để tìm ra con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc mình.
a) Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giới có
nhiều biến động

Xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược là xã hội phong kiến độc lập, nền nông
nghiệp lạc hậu, trì trệ. Chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối nội, đối ngoại
bảo thủ, phản động… không mở ra khả năng cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp
với sự phát triển của thế giới. Vì vậy, đã không phát huy được những thế mạnh của dân
tộc và đất nước, không tạo ra tiềm lực vật chất và tinh thần đủ sức bảo vệ Tổ quốc, chống
lại âm mưu xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) và hiệp định Patơnốt (1884) được ký
kết, xã hội Việt Nam bước sang giai đoạn mới và trở thành xã hội thuộc địa nửa phong
4


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1
kiến. Trong lòng xã hội thuộc địa, mâu thuẫn mới bao trùm lên mâu thuẫn cũ, nó không
thủ tiêu mâu thuẫn cũ mà là cơ sở để duy trì mâu thuẫn cũ, làm cho xã hội Việt Nam càng
thêm đen tối. Các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ, lan rộng ra cả
nước… lãnh đạo họ là các sĩ phu văn thân mang ý thức hệ phong kiến nhưng đều
không thành công: như Trương Định, Đồ Chiểu, Thủ Khoa Huân. Nguyễn Trung Trực
(Nam Bộ); Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân
Ôn (Trung Bộ); Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quy Binh, Hoàng Hoa Thám (Bắc Bộ)…
nhưng tất cả đều thất bại do họ đều mang ý thức hệ phong kiến, do đó: không có đường
lối kháng chiến rõ ràng; không biết dựa vào nhân dân; không quyết tâm cùng nhân dân
kháng chiến; không tin vào thắng lợi…
Sang đầu thế kỷ 20, xã hội Việt Nam có sự phân hóa sâu sắc: giai cấp CN, Tư sản
dân tộc, tiểu tư sản ra đời, các cuộc cải cách dân chủ tư sản ở Trung Quốc của Khang
Hiểu Vi, La Khải Siêu (dưới hình thức Tân Thư, Tân Sinh) tác động vào Việt Nam làm
cho phong trào yêu nước chống Pháp chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản gắn với
phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục Hội của Phan Bội Châu, Đông Kinh Nghĩa
Thục của Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Duy Tân của Phan Chu Trinh,… do các sĩ
phu phong kiến lãnh đạo. Nhưng do bất cập với xu thế lịch sử nên đều thất bại. Tình hình
đen tối như không có đường ra.

Cùng vào thời điểm lịch sử đó, các “tân thư”,”tân văn”,”tân báo” và những ảnh
hưởng của trào lưu cải cách ở Nhật Bản,Trung Quốc tràn vào Việt Nam, Phong trào yêu
nước của nhân dân ta chuyển sang xu hướng dân chủ tư sản.
Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, các sĩ phu Nho học có tư tưởng tiến bộ,
thức thời tiêu biểu như: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đã cố gắng tổ chức và vận động
cuộc đấu tranh yêu nước chống Pháp theo mục tiêu và phương pháp mới. nhưng những
con đường đi của các phu Nho học cũng đều bị thất bại hoặc đã lâm vào bế tắc.
Chính lúc đó Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện Người đã sớm tìm ra nguyên nhân thất
bại của các phong trào giải phóng dân tộc là: các phong trào giải phóng dân tộc đều
không gắn với tiến bộ xã hội. Nguyễn Ái Quốc nảy ý định ra đi tìm đường cứu nước –
con đường đưa Nguyễn Ái Quốc đến với tư tưởng Hồ Chí Minh: “ độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc phải đi theo con đường mới”. Sự xuất hiện
tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu, đáp ứng nhu cầu lịch sử của cách mạng Việt Nam.
Bên cạnh đó Nghệ Tĩnh, nơi Người sinh ra cũng là mảnh đất giàu truyền thống yêu
nước, chống giặc ngoại xâm và cũng là quê hương của nhiều anh hùng nổi tiếng trong
lịch sử chống giặc ngoại xâm (Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung…); các lãnh tụ
yêu nước cận đại (Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu,…) và biết bao con người ưu tú khác
của dân tộc VN. Hơn nữa ngay từ nhỏ Người đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo
khổ, bị bóc lột đến cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương. Những
năm ở Huế, Người đã tận mắt nhìn thấy tội ác của bọn thực dân và thái độ ươn hèn, bạc
nhược của bọn quan lại Nam triều.
Tất cả những điều đó đã thôi thúc Người phải sớm ra đi tìm một con đường mới để
cứu dân, cứu nước. Quê hương, gia đình, truyền thống dân tộc,… đã chuẩn bị cho Người
về nhiều mặt, nhưng sẽ không thể thành công nếu không đến được với trào lưu mới của
thời đại.
5


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1
 Bối cảnh thời đại

Hồ Chí Minh bước vào vũ đài chính trị khi chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh
tự do sang giai đoạn độc quyền đã xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn
thế giới. Năm 1912, Hốp-xơn (người Anh) đã mô tả tường tận đặc điểm kinh tế - chính trị
của chủ nghĩa đế quốc. Lênin dựa trên quan điểm của Hốp-xơn đưa ra định nghĩa nói về
bản chất của chủ nghĩa đế quốc gắn liền đặc điểm kinh tế là các nước lớn xâm chiếm
thuộc địa và chia nhau xong đất đai thế giới. Đây là đặc điểm liên quan trực tiếp đến việc
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh sau này.
Bên cạnh mâu thuẫn vốn có là mâu thuẫn giữa Tư sản và Vô sản, khi chủ nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh chuyển sang độc quyền hình thành hệ thống thuộc địa làm nảy sinh
mâu thuẫn mới là mâu thuẫn giữa các nuớc thuộc địa và các nước Chủ nghĩa Đế quốc,
phong trào giải phóng dân tộc dâng lên mạnh mẽ nhưng chưa ở đâu giành được thắng lợi.
Chủ nghĩa Mác-Lênin phát triển mạnh mẽ, sâu rộng, thâm nhập vào phong trào cách
mạng thế giới, trở thành hệ tư tưởng tiên tiến của thời đại.
Chủ Nghĩa Tư bản phát triển không đều, một số nước Tư bản gây chiến tranh chia
lại thuộc địa làm đại chiến Thế giới II nổ ra, Chủ Nghĩa Đế Quốc suy yếu, tạo điều kiện
thuận lợi cho Cách Mạng Tháng Mười Nga nổ ra và thành công, mở ra thời đại mới, thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, làm phát sinh mâu thuẫn mới giữa
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1917, Cách mạng tháng mười Nga thắng lợi mở ra thời đại mới- thời đại quá độ
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, đã làm “ thức tỉnh các dân tộc châu Á”, lật
đổ nhà nước tư sản, thiết lập Chính quyền Xô Viết mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử
loài người.
Từ sau cách mạng Tháng Mười Nga, với sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (3-1919),
làm nảy sinh mâu thuẫn thời đại giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội nhưng lại làm
cho phong trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đông càng có quan hệ mật thiết với
nhau hơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc.
Sự xuất hiện chủ nghĩa Lênin có vai trò quan trọng đối với sự hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh và tạo tiền đề bỏ qua Chủ Nghĩa Tư Bản lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dần dần từ cảm tính đến lý tính nhằm tìm ra

con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Việc xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh là
nhu cầu tất yếu khách quan của cách mạng Việt Nam và do lịch sử của cách mạng Việt
Nam quy định.
b) Những tiền đề tư tưởng – lý luận
 Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Để tìm hiểu về giá trị truyền thống dân tộc đầu tiên phải hiểu rõ giá trị và giá trị
truyền thống là gì?
- Khái niệm giá trị?
Giá trị cũng được hiểu như tập quán, chuẩn mực, tri thức... đều là sản phẩm của quá
trình tư duy, sản xuất tinh thần của con người, nó là yếu tố cốt lõi nhất của văn hoá. Giá
trị gắn liền với cái tốt, cái hay, cái đúng, cái đẹp nhưng không nên và cũng không thể
"đạo đức hóa" toàn bộ các giá trị. Bởi lẻ, chỉ riêng cái tốt đã là thuộc tính của rất nhiều
6


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1
các giá trị khác nhau chứ không đơn thuần là thuộc tính riêng của đạo đức. Bất kỳ sự vật
nào cũng có thể được coi là "có giá trị", dù đó là vật thể hay tư tưởng, là vật thực hay vật
ảo nếu nó được các thành viên xã hội thừa nhận và xem xét như một biểu tượng quan
trọng trong đời sống tinh thần của họ và cần đến nó như một nhu cầu thực thụ.
Giá trị có thể là lý tưởng xã hội cần vươn tới, là mục tiêu chính trị cần đạt được, là
sự đam mê nghề nghiệp, là danh dự, tình yêu, sức khỏe, tiền bạc, du lịch, vui chơi, giải
trí….
- Khái niệm giá trị truyền thống?
Theo nghĩa tổng quát nhất, truyền thống đó là những yếu tố của di tồn văn hoá, xã
hội thể hiện trong chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục tập quán, thói quen lối sống và
cách ứng sử của cộng đồng người được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định,
được truyền từ đời này sang đời khác và được lưu giữ lâu dài. Lịch sử cho thấy rằng
truyền thống mang trong bản thân nó tính hai mặt rõ rệt:
Một là: truyền thống góp phần suy tôn, giữ gìn những gì là quý giá, là cốt cách,

là nền tảng cho sự phát triển, cho sự vận động đi lên của cộng đồng dân tộc. Xét từ
mặt này thì truyền thống mang ý nghĩa giá trị tích cực, là cái góp phần tạo nên sức
mạnh, là chổ dựa không thể thiếu của dân tộc trên đư ờng đi tối tương lai.
Hai là: truyền thống đồng thời cũng còn là mảnh đất hết sức thuận lợi cho sự dung
dưỡng, duy trì và làm sống lại mặt bảo thủ, lạc hậu, lỗi thời khi mà điều kiện và hoàn
cảnh lịch sử đã thay đổi. Mặt thứ hai này có tác dụng không nhỏ trong việc kìm hãm, níu
kéo, làm chậm sự phát triển của một quốc gia, dân tộc nào đó, nhất là khi quốc gia, dân
tộc này hạn chế giao lưu hoặc thi hành chính sách đóng cửa với thếi giới bên ngoài vì các
lý do khác nhau.
Nói cách khác, khi nói đến giá trị truyền thống là nói đến những truyền thống nào đã
có sự đánh giá, đã được thẩm định nghiêm ngặt của thời gian, đã có sự chọn lọc, sự phân
định và khẳng định ý nghĩa tích cực của chúng đối với cộng đồng trong những giai đoạn
lịch sử nhất định.
Tóm lại giá trị, giá trị truyền thống là một hình thái của đời sống tinh thần, nó phản
ánh và kết tinh đời sống văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của con người.
Mỗi dân tộc trên khắp hành tinh này, dù ở trình độ văn minh cao hay thấp, dù
đã phát triển hay đang phát triển thì cũng đều có những truyền thống đặc trưng của riêng
mình và do đó có hệ thống giá trị truyền thống riêng của mình.
Dân tộc Việt Nam trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo lập
cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền thống tốt hết
sức đặc sắc và cao quý, trở thành tiền đề tư tưởng –lý luận xuất phát hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đó là truyền thống chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất trong dựng và
giữ nước, là tinh thần đoàn kết nhân ái, là tinh thần lạc quan yêu đời, là truyền thống cần
cù, dung cảm, ham học hỏi….trong đó chủ nghĩa yêu nước truyền thống là tư tưởng, tình
cảm cao quý, thiêng liêng nhất, là cội nguồn của trí tuệ sang tạo và long dung cảm của
con người Việt Nam, cũng là chuẩn mực đạo đức cơ bản của dân tộc.
Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và
giữ nước:

7



Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1
Từ văn hóa dân gian đến văn hóa bác học, từ nhân vật truyền thuyết đến các tên tuổi
sáng ngời trong lịch sử: Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,… đều
đã phản ánh chân lý đó một cách hùng hồn. Chủ nghĩa yêu nước là một tình cảm rất
thiêng liêng, nó ăn sâu bám rễ trong lòng dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử.
Lòng yêu nước của mỗi con người Việt Nam tạo thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam đều được tiếp
nhận, khúc xạ qua lăng kính của tư tưởng yêu nước đó. Đó là chuẩn mực cao nhất, đứng
đầu bảng giá trị văn hóa và tinh thần Việt Nam
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được hun đúc nên bởi cuộc đấu tranh dựng nước và
giữ nước của nhân dân ta, của dân tộc ta. Tinh thần yêu nước đã trở thành đạo lý, triết lý
sống, niềm tự hào của con người Việt Nam. Bởi vậy, ở mỗi người dân Việt Nam gắn
mình với vận mệnh của Tổ quốc, của dân tộc thì chủ nghĩa yêu nước ấy lại nhân sức
mạnh của bản thân, biến thành một sức mạnh thúc đẩy mình vượt qua mọi khó khăn,
nguy hiểm, mọi thử thách gian nan.
Chính từ thực tiễn, Hồ Chí Minh đã đúc kết chân lý ấy: “Dân ta có một lòng nồng
nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc
bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp
nước” - Đây là tài sản quý giá nhất trong hành trang của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở
xuất phát , là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, là động lực
giúp Người vượt qua mọi gian nan thử thách, hiểm nguy. Đây là nguồn gốc, là một cơ sở
quan trọng để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh hính sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam, của chủ nghĩa yêu nước mang tính cộng đồng ấy, đã nhân sức mạnh của
bản thân Nguyễn Ái Quốc để Người có thể vượt lên mọi khó khăn, thử thách, vươn lên
hoàn thành sứ mệnh mà lịch sử giao phó là thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, hoài
bão của các thế hệ cách mạng Việt Nam. “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ
chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Và khi

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh tìm được con đường cứu nước đúng đắn thì chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam lại được nâng lên một tầm cao mới: giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người.
Có thể nói Hồ Chí Minh không phải là người Việt Nam đầu tiên yêu nước, nhưng
công lao chính của Người là đã nâng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam lên tầm cao mới khi
những vấn đề mới của thời đại tác động vào dân tộc Việt Nam và những vấn đề mà dân
tộc Việt Nam đòi hỏi.
Ngày nay, chủ nghĩa yêu nước thời bình được thể hiện bằng sự phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội, dân giàu, nước mạnh, đạt nhiều thành tựu trên lĩnh vực kinh tế,
văn hoá, xã hội, về lối sống xã hội chủ nghĩa, những giá trị đạo đức và những ý
tưởng mới. Nó phát sinh hằng ngày, hằng giờ trong mỗi con người chân chính, trong
phong trào thi đua của những người lao động tiên tiến, trong cuộc đấu tranh cho sự
công bằng và tiến bộ xã hội, cho sự tổ chức công việc một cách khoa học. Nó biểu
hiện sự không khoan nhượng đối với những khuyết điểm, thiếu sót.
Hai là, Tinh thần đoàn kết nhân ái:

8


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1
Thứ nhất là tinh thần tương thân, tương ái, “lá lành đùm lá rách” trong hoạn nạn,
khó khăn: truyền thống này cũng được hình thành cùng một lúc với sự hình thành dân
tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm.
Người Việt Nam quen sống gắn bó với nhau trong tình làng nghĩa xóm, tắt lửa tối đèn có
nhau. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam có sự phân hóa về giai cấp, truyền
thống này vẫn bền vững. Vì vậy Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát huy sức mạnh của
truyền thống nhân nghĩa, nhấn mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng,
đồng minh).
Thứ hai là tinh thần đoàn kết: đoàn kết là sự gắn bó, hợp tác với nhau, cố kết cộng
đồng để tạo nên sức mạnh. Truyền thống đoàn kết được hình thành cùng với sự hình

thành của dân tộc Việt và cũng là cội nguồn của sức mạnh dân tộc Việt, có 4 hình thức
đoàn kết cơ bản:
- Đoàn kết gia đình
- Đoàn kết trong cộng đồng và dòng họ
- Đoàn kết trong cộng đồng làng xã
- Đoàn kết quốc gia dân tộc: thể hiện ở chỗ có tính nội dung, có văn hóa chung và
có ngày giỗ tổ chung (10/3 âm lịch)
Ba là, Tinh thần lạc quan yêu đời: Tinh thần lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào
sức mạnh của bản thân mình, dân tộc mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa.
Trong muôn nguy, ngàn khó, người lao động Việt Nam vẫn động viên
nhau:
“Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”
Tinh thần lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh, tin vào sự tất thắng của
chân lý, chính nghĩa, dù trước mắt còn đầy fian truân, khổ ải.
Hồ Chí Minh chính là hiện thân của truyền thống lạc quan đó:
“Hết mưa là nắng hửng lên thôi
…Hết khổ là vui vốn lẽ đời”
(Tình thiên, trong Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh)
Trong thời gian ở nhà ngục Quảng Châu, Người đã sáng tác ra tập Nhật ký trong tù:
“Đầy mình đỏ tím như hoa gấm
Sột soạt luôn tay tựa gảy đàn”
Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, Người cũng nhận định:
“Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”
Bốn là, Truyền thống cần cù, dũng cảm, ham học hỏi, thông minh, sáng tạo trong
sản xuất và chiến đấu, đồng thời cũng là một dân tộc ham học hỏi, cầu tiến bộ, không
ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại, từ Nho, Phật, Lão của

9



Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1
phương Đông đến tư tưởng văn hóa hiện đại của phương Tây. Trên cơ sở giữ vững bản
sắc của dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái
đẹp của người thành những giá trị của riêng mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và
trọn vẹn của truyền thống đó.
Ý nghĩa:
Giá trị truyền thống dân tộc có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách
của con người. Đó là chuẩn mực đạo đức xã hội, là thước đô đánh giá mỗi người.
Trong giai đoạn hiện nay cần kế thừa, phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, coi
đây là một trong những “động lực” cần phát huy trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
 Tinh hoa văn hóa nhân loại.
Nét đặc sắc trong quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân cách và văn hóa
Hồ Chí Minh là sự kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đông và các
thành tựu hiện đại của văn minh phương Tây. Xuất thân trong một gia đình khoa bảng,
với tư chất thông minh tuyệt vời, từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã được giáo dục Hán học và đã
tiếp thu nền văn hóa phương Tây tại trường Quốc học Huế. Khi bôn ba khắp năm châu,
bốn bể, Người vừa hoạt động cách mạng, vừa học hỏi không ngừng. Người đã thông thạo
các ngôn ngữ tiêu biểu cho nền văn minh của nhân loại, am tường các nền văn hóa Đông,
Tây, kim, cổ. Khi tiếp thu các nền văn hóa, Người bao giờ cũng phân tích các yếu tố giá
trị toàn nhân loại và vĩnh cửu. Người đã làm giàu trí tuệ của mình bằng tinh thần văn hóa
nhân loại. Người là tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa giữa các nền văn hóa và tỏa ra
một nền văn hóa của tương lai.
 Văn hoá phương Đông: Người đã tiếp thu tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo, chủ
nghĩa tam dân và tư tưởng tiến bộ khác của văn hoá phương Đông:
- Trước hết nói về Nho giáo:
Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho giáo và người sáng lập ra nó là
Khổng Tử và đã đặc biệt khai thác những mặt tích cực của tư tưởng Nho giáo. Hồ Chí
Minh đã khai thác nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp trong các học
thuyết triết học hay trong tư tưởng của Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử…để phục vụ cho
nhiệm vụ cách mạng. Đó là các triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành động

giúp đời, là ước vọng về một xã hội bình trị, hòa mục, hòa đồng, là triết lý nhân
sinh; tu thân dưỡng tính; đề cao văn hóa lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học. Nho
giáo có châm ngôn “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Về điểm này theo Người,
Nho giáo hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi vì nhiều học thuyết cổ đại chủ trương ngu
dân để dễ cai trị. Người dẫn lời của V.I.Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân
chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”.
Bên cạnh đó người cũng phê phán, lọc bỏ những yếu tố tiêu cực của học thuyết này
như là tư tưởng phân biệt đẳng cấp, những giáo điều cực đoan về "tam cương", "ngũ
thường", khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệm, doanh lợi…
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng phê phán Nho giáo có tư tưởng tiêu cực duy tâm, lạc hậu,
như bảo vệ chế độ phong kiến, phân chia đẳng cấp – quân tử và tiểu nhân, trọng nam
khinh nữ, chỉ đề cao nghề đọc sách. Hồ Chí Minh đã chịu ảnh hưởng của Nho giáo rất
nhiều dựa trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
- Tiếp theo là về Phật giáo:
10


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm. Ngay khi Nho giáo trở thành quốc giáo,
Phật giáo vẫn còn ảnh hưởng rất sâu sắc trong nhân dân, để lại nhiều dấu ấn trong văn
hóa Việt Nam, từ tư tưởng, tình cảm, tín ngưỡng đến phong tục tập quán, lối sống,… Bên
cạnh những mặt tiêu cực vốn có của một tôn giáo, Phật giáo cũng có rất nhiều ưu điểm
như là:
• Tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân
- một tình yêu bao la không chỉ dành cho con người mà dành cho cả chim muông, cây cỏ.
• Nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện.
• Tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng
cấp.
• Phật giáo Thiền tông đề ra luật “chấp tác”: “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”
(một ngày không làm, một ngày không ăn), đề cao lao động, chống lười biếng. Cuối

cùng, Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất
chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã hình thành nên Thiền phái Trúc lâm Việt Nam, chủ
trương sống không xa rời, lẩn tránh mà gắn bó với đời sống của nhân dân, với đất nước,
tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc.
Có thể nói, những mặt tích cực của Phật Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân
tộc và nhân dân lao động. Gia đình Bác Hồ là gia đình nhà nho nghèo, gần gũi với nông
dân, cũng thấm nhuần tinh thần đó và để lại dấu ấn trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phật giáo vào Việt Nam từ sớm và có ảnh hưởng rất mạnh đối với Việt Nam. Hồ
Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ
cứu nạn, thương người như thể thương thân….;là nếp sống có đạo đức,trong sạch, giản
dị,chăm lo làm việc thiện; là tinh thần bình đẳng, dân chủ, chống phân biệt đẳng cấp; là
việc đề cao lao động, chống lười biếng “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”;là chủ
trương sống không xa lánh việc đời mà gắn bó với các dân, với nước, tích cực tham gia
vào cuộc đấu tranh của nhân chống kẻ thù dân tộc. Chính vì vậy Hồ Chí Minh là hiện
thân của lòng nhân ái, độ lượng, khoan dung - những nét đặc trưng của giáo lý đạo Phật.
Bên cạnh đó, Người cũng phê phán tính chất duy tâm về mặt xã hội của Phật giáo.
Học giả Hà Thúc Minh khẳng định: “Hạn chế của Phật giáo chính là ở chỗ không thấy
được bản chất xã hội nơi con người”. Theo quan điểm của tác giả Hà Thúc Minh, Phật
giáo có một hạn chế quan trọng chính là không thấy được “con người xã hội”, do đó
không chủ trương “cải tạo” bản thân hay cải tạo xã hội.
Phật giáo chỉ thấy con người cá thể, tách khỏi xã hội, không xem xét trên góc độ
con người xã hội, chỉ thấy cá nhân con người mà không thấy xã hội con người, chỉ thấy
con người nói chung mà không thấy con người của giai cấp đối kháng nhau trong xã hội
trước đây, không thừa nhận đấu tranh trong giai cấp xã hội. Đây là quan điểm duy tâm
tách khỏi hiện thực. Phật giáo quá đề cao cái Tâm, đề cao tính hướng thiện, sự tu tập của
mỗi con người trong xã hội. Do đó không thấy được nguyên nhân khổ ải của con người,
không thấy được sự cần thiết phải chống áp bức.
Hạn chế lớn nhất của Phật giáo đối với tư duy người Việt Nam là quan điểm duy
tâm thần bí. Khi gặp một việc mà không tìm được cách giải quyết, ta cầu xin được thần
linh phù hộ, độ trì sinh ra mê tín dị đoan. Những tư tưởng ấy vừa phung phí tiền bạc, thời


11


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1
gian lại làm xuất hiện trong xã hội những loại người chỉ dựa vào nghề nghiệp ấy mà kiếm
sống gây ra một sự bất công trong xã hội. Và một khi tư duy như vậy thì không cần khám
phá tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo và hành động. Lâu dần sẽ tạo ra tư tưởng ỷ lại, thụ
động.
Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động, để
lại dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Ái Quốc cũng tìm hiểu về Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và tìm
thấy trong đó “những điều thích hợp với điều kiện nước ta”. Các tiêu chí của chủ nghĩa
Tam dân là dân tộc - độc lập; dân quyền - tự do; dân sinh - hạnh phúc đã được Hồ Chí
Minh rút gọn trong quốc hiệu của Việt Nam “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”.
Người viết : “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giê xu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác – Lênin có ưu điểm là
phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của
nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê xu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải có
những điểm chung đó sao? Họ đều muốn “Mưu hạnh phúc cho loài người, mưu lợi cho
xã hội”. nếu hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng
họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố
gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”
Là người mác-xít tỉnh táo và sáng suốt, Hồ Chí Minh đã khai thác những yếu tố tích
cực của tư tưởng văn hóa phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng nước ta.
 Văn hoá phương Tây:
Trong ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh sống chủ yếu ở
châu Âu nên cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng
của phương Tây:
- Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở

Newyork, làm thuê và thường đến thăm khu ở của người da đen. Trong các bài viết sau
này, Người thường nhắc đến ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền sống của con
người được ghi lại trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ. Người đã tiếp thu giá trị
của tư tưởng nhân quyền với nội dung là quyền tự do cá nhân thiêng liêng trong bản
tuyên ngôn này. Sau này Người đã phát triển nó thành quyền sống, quyền độc lập, quyền
tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả các dân tộc. Nội dung nhân quyền được
Người nâng lên một tầm cỡ mới trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam năm 1945.
- Văn hoá Pháp: Cuối năm 1917, Người từ Anh sang Pháp và quyết định sống và
hoạt động ở thủ đô nước Pháp có ý nghĩa lịch sử rất lớn, mở ra một thời kỳ mới trong
cuộc đời mình. Lần đầu sang Pháp Hồ Chí Minh đã thể hiện bản lĩnh, nhân cách phẩm
chất cao thượng, tư duy độc lập tự chủ. Người đã nhìn thấy mặt trái của “lý tưởng” tự do,
bình đẳng, bác ái. Người cũng tiếp thu tư tưởng của những nhà Khai sáng Pháp như
Voltaire, Rousso, Montesquieu - những lý luận gia của đại cách mạng Pháp 1789, như
Tinh thần pháp luật của Mông-tét-xki-ơ, Khế ước xã hội của Rút-xô, v.v…tư tưởng dân
chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng tới tư tưởng của Người.
Ngoài ra, Người còn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và hình thành được phong cách dân
chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn. Rõ ràng là, ở Pháp, Người đã có thể hoạt động

12


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1
và đấu tranh cách mạng một cách tương đối tự do, thuận lợi hơn ở trên đất nước mình,
dưới chế độ thuộc địa. Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ vũ,
dìu dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Pháp như M. Ca-sanh, P.V.
Cu-tuya-ri-ê, G. Mông-mút-xô…mà Hồ Chí Minh đã từng bước trưởng thành. Con người
ấy, trên hành trình cứu nước, đã làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại,
Đông và Tây, vừa thâu thái, vừa gạn lọc để có thể từ tầm cao của tri thức nhân loại mà
suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.4
 Chủ nghĩa Mác – Lênin.

Chủ nghĩa Mác - LêNin là đỉnh cao trí tuệ của nhân loại, là hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân, bao gồm 3 bộ phận cấu thành:
•Triết học giúp Hồ Chí Minh hình thành thế giới quan, phương pháp biện chứng,
nhân sinh quan, khoa học, Cách Mạng, thấy được những quy luật vận động phát triển của
thế giới và xã hội loài người.
•Kinh tế chính trị học vạch rõ các quan hệ xã hội được hình thành phát triển gắn
với quá trình sản xuất, thấy được bản chất bốc lột của chủ nghĩa Tư bản đối với chủ
nghĩa, xóa bỏ bốc lột gắn liền với xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự chuyển
biến tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
•Chủ nghĩa xã hội khoa học vạch ra quy luật phát sinh, hình thành, phát triển của
hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, những điều kiện, tiền đề, nguyên tắc, con
đường, học thức, phương pháp của giai cấp công nhân, nhân dân lao động để thực hiện sự
chuyển biến xã hội từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cộng sản.
Sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin ở Hồ Chí Minh nổi lên một số
điểm đáng chú ý:
Một là, khi ra đi tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã có một vốn học vấn
chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo, Người đã phân tích, tổng kết các phong trào yêu
nước Việt Nam chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; Người tự hoàn thiện vốn
văn hoá, vốn chính trị, vốn sống thực tiễn phong phú nhờ đó Bác đã tiếp thu chủ nghĩa
Mác-Lênin như một lẽ tự nhiên “tất yếu khách quan và hợp với quy luật”. Chủ nghĩa
Mác-Lênin là bộ phận văn hoá đặc sắc nhất của nhân loại: tinh tuý nhất, cách mạng nhất,
triệt để nhất và khoa học nhất.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Bản lĩnh trí tuệ đó đã nâng cao khả năng tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo ở
Người khi vận dụng những lý luận cách mạng của thời đại vào hoàn cảnh, điều kiện cụ
thể của Việt Nam
Trong bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Mác-Lênin Người có viết: “Lúc bấy giờ
tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên….Tôi kính yêu Lênin vì
Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình….Tôi tham gia Đảng
Xã hội Pháp chẳng qua là vì các “ông bà” ấy-(hồi đó tôi gọi các đồng chí của tôi như thế)

– đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng là
gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu” Người đã bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin và trở thành người Cộng sản. Từ đó Người đã rút
ra kết luận: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản. Đó là con đường cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới do Đảng
13


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1
tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai,
giành độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng xã
hội chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam. Đó là
đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại nhằm đi tới mục tiêu cao cả là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải
phóng con người. Quá trình tưởng chừng như đơn giản và tư nhiên đó, thực ra “là chặng
đường chiến thắng biết bao khó khăn với sự lựa chọn vững chắc, tránh được những sai
lầm tới ngõ cụt”.
Đó là một luận điểm sáng tạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến vào sự
phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa. Người cũng đã cùng với Đảng đề ra và giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề
về chiến lược và sách lược, dẫn đến thắng lợi lịch sử của cách mạng Tháng Tám.
Hai là, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là tìm con đường giải
phóng cho dân tộc. Người hồi tưởng lần đầu tiếp xúc với chủ nghĩa Lênin, “khi ấy ngồi
một mình trong phòng mà tôi nói to lên như đang đứng trước đông đảo quần chúng: hỡi
đồng bào bị đoạ đầy đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng cho chúng ta.”
Mặc dù tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là điểm xuất phát của tư
tưởng Hồ Chí Minh nhưng dưới ánh sáng Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của Lênin và tấm gương cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã khẳng định: Chỉ có
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và

giai cấp công nhân toàn thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải thực
hiện được sự liên minh chiến đấu giữa vô sản ở thuộc địa với vô sản ở chính quốc nhịp
nhàng như hai cánh của một con chim. Cách mạng ở thuộc địa không chỉ trông chờ vào
kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc mà phải tiến hành song song với cách mạng ở
chính quốc, hơn nữa nó cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước, và bằng thắng
lợi của mình nó có thể đóng góp vào sự nghiệp giải phóng anh em vô sản ở phương Tây.
Ba là, Người vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin theo phương pháp mác-xít và theo
tinh thần phương Đông, không sách vở, không kinh viện, không tìm kết luận có sẵn mà tự
tìm ra giải pháp riêng, cụ thể cho cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở
chủ yếu nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chính thế giới quan và phương pháp luận Mác – Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng
kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn của mình mà tìm ra con đường cứu nước: “trong
cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần
tôi hiểu được rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới”; “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa
Lênin”. Và “Chính do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin một cách sáng tạo, phù
hợp với thực tế Việt Nam mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được thắng lợi to lớn”.
Tóm lại:

14


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1
• Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác - Lênin, những phạm trù cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong những phạm trù cơ bản của lý luận Mác Lênin.
• Tư tưởng Hồ Chí Minh không những là sự vận dụng sáng tạo mà còn là sự phát
triển chủ nghĩ Mác – Lênin, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
• Lý luận Mác - Lênin là một học thuyết cách mạng và khoa học, Đảng ta lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi

hoạt động của Đảng.
2. Nhân tố chủ quan
c) Khả năng tư duy và trí tuệ của Hồ Chí Minh
Những năm tháng hoạt động trong nước và bôn ba khắp thế giới Hồ Chí Minh đã
không ngừng quan sát, nhận xét thực tiễn, làm phong phú thêm hiểu biết của mình, hình
thành những cơ sở quan trọng để tạo dựng nên những thành công trong lĩnh vự hoạt động
lý luận.
Hồ Chí Minh là người có đầu óc thông minh sáng suốt, năng lực tư duy độc lập,
sáng tạo, học vấn uyên bác, năng lực phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp sâu sắc suốt
trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới.
Tài năng và trí tuệ của Hồ Chí Minh đã giúp Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin
và tiếp thu được các giá trị văn hoá nhân loại, khám phá ra các quy luật vận động xã
hội… để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo thực tiễn và được kiểm nghiệm
trong thực tiễn. Nhờ vậy mà lý luận của Hồ Chí Minh mang giá trị khách quan, cách
mạng và khoa học.
a) Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn
Phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo là đặc trưng nổi bật, bao trùm nhất, điển
hình cho phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Đặc trưng này được thể hiện ngay khi Người
còn ngồi trên ghế nhà trường, cho đến khi lựa chọn con đường cứu nước. Chính nét đặc
sắc này đã làm cho phong cách tư duy của Người vừa mang tính dân tộc, vừa có tính thời
đại, vừa có giá trị phổ biến bền vững, vừa có tính độc đáo rất riêng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một người giàu trí tuệ mà còn là một người có
tình cảm, có ý chí, nghị lực phi thường. Ở Người, ý chí, tình cảm cách mạng và tri thức
khoa học thống nhất trong tư duy, trong hành động và trong quá trình vạch ra đường lối
cho cách mạng Việt Nam. Mọi suy nghĩ, sáng tạo của Người đều xuất phát từ thực tiễn
đất nước và thời đại. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn mà Người đưa ra những luận
điểm đúng đắn nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một vĩ nhân với một phong cách tư duy độc lập
tự chủ sang tạo gắn với thực tiễn là bởi vì Người “đã biết làm giàu vốn trí tuệ của mình
bằng những di sản quý báu của văn hóa nhân loại. người biết kế thừa các học thuyết một

cách có phê phán, chọn lọc, không bao giờ sao chép máy móc, cũng không bao giờ phủ
định một cách giản đơn, mà có sự phan tích sâu sắc để tìm ra những yếu tố tích cực, làm
giàu thêm vốn kiến thức và hành trang tư tưởng của mình”. Đặc trưng này làm cho Người
trở thành một nhà mác – xít với đầy đủ những yếu tố khoa học và biện chứng.

15


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1
Hồ Chí Minh bàn nhiều đến đạo đức và vai trò của đạo đức trong dấu tranh cách
mạng. Người chỉ rõ: Đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một thể thống nhất giữa đạo đức với chính trị, đạo đức với
tài năng, giữa nói và làm, giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường. Tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh là một bộ phận rất quan trọng trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, có sức
sống mãnh liệt, đã sớm đi vào nhân dân, được nhân dân tiếp nhận. Cùng với tư tưởng đạo
đức, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một đóng góp có giá trị vào triết học về con
người của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tôi chỉ có một ham muốn,
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của tinh thần: Thắng không kiêu, khó không nản.
Cuộc đời Hồ Chí Minh là một chuỗi những năm tháng vô cùng gian khổ: hai lần ngồi tù,
một lần lãnh án tử hình; có giai đoạn hoạt động rất sôi nổi, được đánh giá cao, có giai
đoạn bị hiểu lầm, ngộ nhận, lâm vào cảnh "như là sống ở bên lề, ở bên ngoài của Đảng.
Vượt qua được thử thách khổ ải, tù đày đã rất khó, nhưng vượt qua được thử thách do bị
hiểu lầm, nghi kỵ còn day dứt hơn nhiều. Để kiên trì chân lý, giữ vững quan điểm độc
lập, tự chủ, Người đã bình tĩnh, chủ động vượt qua những năm tháng khó khăn đó.
Quan điểm thực tiễn của Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét trong cách tiếp cận với các
học thuyết cách mạng. Hồ Chí Minh luôn coi các học thuyết chỉ là công cụ để thực hiện
mục tiêu giải phóng dân tộc và đem lại hoà bình, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Quan điểm thực tiễn càng rõ trong hoạt động ngoại giao. Những ngày tháng đầu tiên
sau Cách mạng tháng Tám, để có thời gian củng cố lực lượng cho chính quyền nhân dân
còn non trẻ, đồng thời tranh thủ sự hậu thuẫn quốc tế, thêm bạn bớt thù, Hồ Chủ tịch chủ
trương đối thoại, hòa hoãn, nhưng kiên trì mục đích cuối cùng là độc lập dân tộc. Nhận rõ
những khó khăn do thái độ không thiện chí của Pháp và cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu
tăng lên giữa các cường quốc, Hồ Chủ Tịch thậm chí từng có ý định từ chức để Bảo Đại
thay mặt chính phủ thương thuyết nhằm đạt được độc lập dân tộc. Chính nhờ đường lối
khôn khéo này mà chúng ta đã đấy được quân Tàu Tưởng ra không miền Bắc và đạt được
thoả thuận với Pháp tháng 3 năm 1946, trong đó Pháp "công nhận nước Cộng Hòa Việt
Nam là một Quốc Gia Tự Do, có Chính phủ, Quốc hội, Ngân khố, Quân đội, nằm trong
khuôn khổ Liên Bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp" và như vậy đã xác lập chính phủ
Hồ Chí Minh là "chính phủ hợp pháp duy nhất của Việt Nam".

16


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1

PHẦN C: VẬN DỤNG THỰC TIỄN
Hồ Chí Minh đi vào cõi vĩnh hằng, trở về với thế giới Người Hiền đã hơn 1/3 thế kỷ
nay. Sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo đã gần 20 năm, tính từ Đại hội VI ( 12 /1986 ) đến nay. Khoảng thời gian đó đã đủ để
sinh thành một thế hệ. Người đã đi xa nhưng ai cũng cảm thấy như Người vẫn ở bên cạnh
chúng ta, cổ vũ khuyến khích những việc làm tốt, nhắc nhở giúp đỡ chúng ta những yếu
kém, hạn chế, sửa chữa những khuyết điểm sai lầm để tiến bộ trưởng thành.
Từ việc nghiên cứu các cơ sở để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh – tư tưởng
tiến bộ cho mọi thời đại chúng ta có thể thấy được rõ rệt trí tuệ cao siêu của chủ tịch hồ
chí minh và những điều cần học hỏi từ Người: cách nắm bắt tình hình thực tại để từ đó
tìm ra con đường đi đúng đắn, tinh thần tự giác học tập nghiên cứu các cơ sở một cách
chuyên sâu và nghiêm túc, sự vận dụng lý thuyết một cách mền dẻo vào thực tiễn hoạt

động của đất nước, cách tiếp thu các tinh hoa văn hóa, kế thừa,phát triển truyền thống của
dân tộc và phẩm chất đạo đức.
Với chủ tịch Hồ Chí Minh quá trình tìm con đường cứu nước là một quá trình vừa
học tập vừa hoạt động cách mạng; học tập để hoạt động cách mạng qua hoạt động cách
mạng, không ngừng học tập, hoàn thiện tri thức và nhân cách của bản thân. Tất cả là tinh
thần tự học. Là sinh viên học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là học tập tấm gương
về tinh thần tự học và học tập suốt đời của Bác. Đối với tuổi trẻ nói chung và sinh viên
trong các trường đại học nói riêng tự học là cách tốt nhất giúp ta tiến bộ hơn trong học
tập, mang lại một kết quả học tập cao nhất có thể. Nếu chúng ta biết nỗ lực tự học, chúng
ta sẽ thành công, sẽ mở được một tương lai rộng mở cho chính mình. Nếu chúng ta học
tập thành công, chúng ta sẽ trở thành những người có ích cho xã hội, cho đất nước, đưa
đất nước ngày càng đi lên, phát triển đến một tầm cao mới.
Học tập tấm gương của chủ tịch Hồ Chí Minh đảng ta chủ trương tiếp tục phát triển
sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết
chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra chất lượng mới của cuộc sống; xây dựng và hoàn
thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. bên
cạnh đó luôn nhấn mạnh việc tiếp thu tinh hoa của nhân loại làm giàu thêm nền văn hóa
việt nam. Ba lĩnh vực cần tập trung thực hiện bằng được là :
• xây dựng môi trường, lối sống và đời sống văn hoá của mọi người dân ở cơ sở,
phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân;

17


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1
• khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm, công trình có
giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật; xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế
văn hoá, chú trọng các công trình văn hoá lớn, tiêu biểu.
• Theo phương hướng ấy, cần tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn và tôn tạo các di

tích lịch sử và di sản văn hoá; tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại
chúng phát triển; bảo đảm tự do dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn hoá, văn học
nghệ thuật đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sĩ, chăm sóc các tài
năng văn hoá, nghệ thuật; đổi mới nội dung và phương thức quản lý của Nhà nước về văn
hóa.
Hiện nay đang là học sinh, sinh viên ngồi trên ghế nhà trường thì mỗi đoàn viên,
sinh viên phải thấm nhuần giá trị đạo đức tấm gương Hồ Chí Minh. Điều này không chỉ
dừng ở việc chỉ đọc lí thuyết suông mà cần phải bằng hành động thực tế chứng minh.
Hiện nay, Đảng ta đang phát động cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” trên khắp cả nước, trong tất cả tổ chức.. Việc học tập Bác không ở đâu
xa mà thể hiện ở ngày những hành động cụ thể, những việc tốt trong cuộc sống: như sinh
viên trước khi tan học thì tắt điện, giữ vệ sinh, bảo vệ của công, không đi học muộn,
chăm chỉ học tập, không gian lận trong thi cử, nói không với các tệ nạn xã hội... Như thế
thì mỗi đoàn viên, sinh viên sẽ dễ hình dung mình cần phải làm gì và như thế nào, và
chắc chắn phong trào sẽ đi vào chiều sâu và có hiệu quả hơn. Đồng thời, mỗi người khi
đã rèn cho mình lối sống đạo đức, thì mình thử soi xem đã làm được bao nhiêu phần
trăm, tự đánh giá, từ đó giúp đỡ những người xung quanh, những người còn chưa làm
tốt. Bên cạnh đó, vấn đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh còn thể
hiện ở chỗ cần có sự nêu gương, chỉ bảo của tất cả những người thầy về những vấn đề
đạo đức đặt ra đối với mỗi ngành nghề cụ thể, để sinh viên khi ra trường có thể trở thành
những con người vừa “hồng” vừa “chuyên” đúng như mong muốn của Bác Hồ. Đây mới
thực sự là kết quả to lớn, bền vững, góp phần thiết thực vào công cuộc xây dựng đất nước
hiện nay.
Ngoài ra chúng ta cần vận dụng tốt các đức tính, phẩm chất của Người:
- Trung với nước, hiếu với dân: Nếu như lòng yêu nước là nhận thức và tình cảm
đạo đức thì “trung với nước, hiếu với dân” là hành vi đạo đức. Nhận thức, tình cảm
đạo đức là cơ sở của hành vi đạo đức. Với người cách mạng, đây là phẩm chất, là
chuẩn mực hàng đầu. Cụ thể, “trung với nước, hiếu với dân” là: Phải đặt lợi ích
của cách mạng, của Tổ quốc lên trên hết; phải quyết tâm đấu tranh cho sự phồn
vinh của đất nước, hạnh phúc của nhân dân; phải tin tưởng ở sức mạnh ở quần

chúng nhân dân, khẳng định và tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền dân chủ;
phải gương mẫu và hướng dẫn nhân dân thực hiện tốt chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước...
- Yêu thương con người: Hồ Chí Minh vừa là con người của tư tưởng, vừa là con
người của hoạt động thực tiễn. Lòng yêu thương con người của Bác vừa bao la biển
trời, lại vừa gần gũi với từng số phận con người. Lòng yêu thương con người, lòng
nhân ái, sự cảm thông, chia sẻ - mỗi con người chúng ta đều hơn một lần cảm nhận
được. Mỗi người sống trong xã hội ai cũng hướng tới hạnh phúc, hướng tới những
điều tốt đẹp. Điều thực sự đáng sợ là khi ta không thể cảm thông, chia sẻ đối với
18


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1
người khác. Bởi cuộc sống đâu chỉ toàn những điều vui. Như thế yêu thương là hạnh
phúc của con người. Lòng thương yêu con người là cơ sở của những hành vi xã hội
đẹp. Yêu thương con người là bản chất của nhân dân lao động, là nét đẹp của chủ
nghĩa xã hội.
- Một nhà yêu nước chân chính: Lòng yêu nước được dân tộc Việt Nam ta nuôi
dưỡng từ thế hệ này sang thế hệ khác, dù có thể biến đổi dạng thức nhưng không bao giờ
mất đi. Ngày nay, lòng yêu nước được thể hiện vô cùng phong phú và sinh động. Một
học trò luôn cố gắng học tập giỏi, rèn luyện tốt; một công dân luôn chấp hành pháp luật,
tôn trọng kỷ cương; một cán bộ luôn hoàn thành tốt công việc được giao; một nhà khoa
học say mê nghiên cứu, sáng tạo; một doanh nhân tích cực lao động, làm giàu chính
đáng... đó chính là yêu nước, là góp phần xây dựng đất nước. Sức mạnh của một quốc gia
không chỉ thể hiện ở tiềm lực về kinh tế, quân sự mà còn thể hiện ở lòng yêu nước của
mỗi người dân. Nếu không có lòng yêu nước thì liệu có công dân nào muốn xây dựng đất
nước phồn vinh? Tình yêu với đất nước nằm ở nhận thức và con tim mỗi người. Được
dung dưỡng, vun đắp bằng lý trí và cảm xúc thu được từ các tri thức về lịch sử, văn hóa,
xã hội; từ cuộc sống tinh thần, hằng ngày, hằng giờ.
Như vậy, việc tiếp thu và vận dụng những điều tốt đẹp ở chủ tịch hồ chí minh là một

điều mà mỗi con người việt nam ai cũng cần phải làm. Bởi lẽ Người đã mang đến cho
cúng ta cuộc song hòa bình, no ấm, hạnh phúc như hôm nay.
“Đời đời nhớ ơn chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”

19


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1

KẾT LUẬN
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hòa của những điều kiện khách
quan và chủ quan, của truyền thống dân tộc và tinnh hoa văn hóa nhân loại. cùng với thực
tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh tổng kết, chuyển hóa sắc sảo, tinh tế với một
phương pháp khoa học, biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng chỉ đạo
của toàn đảng toàn dân ta, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Hồ chí minh cho
thanh niên, sinh viên chúng ta thấy một nhiệm vụ hết sức cần thiết hiện nay. Môn học tư
tưởng hò chí minh sẽ trang bị cho chúng ta những hiêu biết có hệ thống cơ bản về nội
dung, quan điểm lý luận cách mạng, phương pháp tư duy khoa học sang tạo về phong
cách hồ chí minh – một tài sản lý luận, tinh thần vô ccungf quý báu của đảng ta, của dân
tộc ta.
Thanh niên, sinh viên hiện nay vẫn cần có cố gắng nhiều hơn nữa, nỗ lực hơn nữa
để xứng đáng niềm tin yêu của bác, học tập và làm theo tấm gương của hồ chí minh để
hoàn thiện bản than mình. Và cái cần học tập đầu tiên là những phẩm chất tốt đẹp và tinh
thần tự học của người, từ đó góp phần vào việc xây dựng thế hệ tương tai nước nhà tốt
đẹp, sang rạng.
Trên cơ sở kiến thức đã được học, đọc, tìm hiểu từ thực tế và các tư liệu từ giáo
trình Tư tưởng Hồ Chí Minh của nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, các thông tin từ
internet và các tài liệu khác, chúng em đã cố gắng tập hợp và chọn lọc để viết nên bài tiểu
luận này. Tuy nhiên, vẫn còn những nội dung cần được sửa chửa bổ sung, chúng em hi
vọng được thầy hướng dẩn góp ý để kiến thức của chúng em được thêm phong phú và

vững chắc.
Chúng em xin chân thành cảm ơn !

20


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, 2012
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, hội đồng lý luận trung ương
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 9, trang 314
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 8, trang 562
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 6, trang
46.171
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 10, trang 126
7. Hồ Chí Minh, notre camarade. Introduction historique de Charles fỏunioau edition
sociales, paris, 1970, trang 28
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 10, trang 128
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 2, trang 268
10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 12, trang 476
11. “Một lãnh tụ ở bước ngoặt lịch sử”, Báo Nhân dân số ra ngày 17-9-1969
12. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội

13. Hồ Chí Minh, Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê-nin, Báo tuổi trẻ online, ngày
5/6/2007
14. />15. />16. Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam www.cpv.org.vn
17. />
21


Tư Tưởng Hồ Chí Minh – Nhóm 10 – đề tài 1

22



×