Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tiểu luận môn hành vi tổ chức mối quan hệ giữa việc làm việc nhóm và hiệu quả công việc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.62 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÀI TIỂU LUẬN
Mơn học:

HÀNH VI TỔ CHỨC

ĐỀ TÀI: MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆC LÀM VIỆC NHĨM
VÀ HIỆU QUẢ CƠNG VIỆC

Sinh viên thực hiện: Trần Đức Hồng
MSV
:33131023034

TPHCM 9-2015


Đề tài: Mối quan hệ giữa làm việc nhóm và hiệu quả công việc

MỤC LỤC

1. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ LÀM VIỆC NHÓM ..................................................... 1
1.1 Lý luận chung ............................................................................................... 1
a. Nhóm là gì ? ..................................................................................................... 1
b. Thế nào là một Nhóm làm việc ....................................................................... 1
1.2 Hình thành và phát triển nhóm..................................................................... 1
2. MỤC TIÊU NGIÊN CỨU ............................................................................... 2
2.1.Kỹ năng tổ chức công việc ............................................................................. 2
2.2 Kỹ năng giao tiếp giữa các cá nhân............................................................... 3
2.3 Hiệu quả của việc làm việc theo nhóm .......................................................... 5


a. Khuyến khích óc sáng tạo................................................................................ 5
b. Phát sinh những ý kiến mới ............................................................................ 5
c. Học cách ủy thác .............................................................................................. 6
2.4 Chức năng của nhóm ..................................................................................... 7
a. Tạo môi trường làm việc thân thiện ............................................................... 7
b. Huy động nguồn nhân lực ............................................................................... 7
c. Nâng cao trình độ của thành viên và hoạt động của toàn tổ chức ................. 8
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ............................................................................... 9
4. Ý NGHĨA. ........................................................................................................ 9

1


Đề tài: Mối quan hệ giữa làm việc nhóm và hiệu quả công việc
1.XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ LÀM VIỆC NHÓM
1.1 Lý luận chung
a.Nhóm là gì ?
Nhóm không đơn giản chỉ là một tập hợp nhiều người làm việc cùng nhau hoặc làm
việc dưới sự chỉ đạo của một nhà quản lý. Nhóm là một tập hợp những cá nhân có
các kỹ năng bổ sung cho nhau và cùng cam kết chịu trách nhiệm thực hiện một mục
tiêu chung.
Vì thế các thành viên trong nhóm cần có sự tương tác với nhau và với trưởng nhóm
để đạt được mục tiêu chung. Các thành viên trong nhóm cũng phải có sự phụ thuộc
vào thông tin của nhau để thực hiện phần việc của mình.
Như vậy chúng ta tuy có nhiều hình thức nhóm khác nhau như : Nhóm bạn học tập,
nhóm bạn cùng sở thích, nhóm năng khiếu, nhóm kỹ năng, các câu lạc bộ, các
nhóm làm việc theo dự án, nhóm làm việc trong tổ chức .v.v.
Nhưng tất cả đều phải xây dựng trên tinh thần đồng đội, tin tưởng và tôn trọng lẫn
nhau, ngoài ra chúng ta còn phải tạo ra một môi trường hoạt động mà các thành
viên trong nhóm cảm thấy tự tin, thoải mái để cùng nhau làm việc, hợp tác và hỗ trợ

nhau để đạt đến mục tiêu đã đặt ra. Điều quan trọng là phải giúp cho các thành viên
trong nhóm tin rằng sự cống hiến của mình cho tập thể được đánh giá đúng đắn,
chính xác và nhận được sự tưởng thưởng xứng đáng, không có sự nhập nhằng gây
ra ảnh hưởng đến quyền lợi của mỗi người. Những thành viên trong nhóm phải
được xác định rằng thành quả của tập thể có được là từ sự đóng góp tích cực của
mỗi người.
b.Thế nào là một Nhóm làm việc
Một nhóm có thể hình thành theo nhiều cách khác nhau: Các nhóm bạn học tập có
khi hình thành do sự chỉ định của thầy cô, nhóm sở thích hình thành do sự rủ rê
nhau, và các nhóm làm việc trong một cơ quan, đơn vị là do sự tuyển dụng theo nhu
cầu của đơn vị đó. Vì thế, có những nhóm hình thành và gắn kết rất lâu, nhưng cũng
có những nhóm chỉ hoạt động cùng nhau trong một thời điểm nào đó. Nhưng điều
quan trọng là, không phải nhóm nào cũng có những mục đích hay có những hoạt
động cùng nhau. Một nhóm người làm việc trong cùng một văn phòng hay thậm chí
một dự án chung không phải lúc nào cũng tiến hành công việc của một nhóm làm
việc. Nếu nhóm đó được quản lý theo kiểu chuyên quyền độc đoán, có lẽ không có
sự tác động qua lại liên quan đến công việc giữa các thành viên trong nhóm. Nếu có
bất kỳ tư tưởng bè phái nào trong nhóm, hoạt động của nhóm sẽ không bao giờ tiến
triển được. Ngược lại, một nhóm làm việc vẫn có thể phát triển dù các thành viên
không cùng làm việc hay sinh hoạt trong một môi trường, một không gian nhất
định.
Nói một cách đơn giản, nhóm làm việc là nhóm tạo ra được một tinh thần hợp tác,
biết phối hợp và phát huy các ưu điểm của các thành viên trong nhóm để cùng nhau
đạt đến một kết quả tốt nhất cho mục đích mà nhóm đặt ra.
1.2 Hình thành và phát triển nhóm
Tùy theo nhu cầu, mục đích được đề ra cho nhóm và số lượng cũng như năng lực
của các thành viên trong nhóm, các nhóm được hình thành và phát triển theo nhiều
hình thức và thời gian hoạt động khác nhau. Nhưng nhìn chung thì hầu như đều trại
qua 4 bước cơ bản :
1



Đề tài: Mối quan hệ giữa làm việc nhóm và hiệu quả công việc
Bước 1: Tạo dựng: Khi được mời gọi hay đưa vào nhóm, các thành viên còn rụt rè,
và tìm kiếm những vị trí của mình trong nhóm, chưa bộc lộ nhu cầu cũng như năng
lực cá nhân.. Một điều không thể thiếu là các thành viên sẽ thử khả năng lãnh đạo
của trưởng nhóm. Thông thường hầu như không có nhóm nào có được sự tiến bộ
trong giai đoạn này.
Bước 2: Công phá : Đây có lẽ là giai đoạn khó nhất của mỗi nhóm. Các thành viên
thường cảm thấy thiếu kiên nhẫn với việc thiếu sự phát triển của công việc, nhưng
họ vẫn chưa có kinh nghiệm làm việc như một nhóm thật sự. Họ có thể sẽ tranh cãi
về những công việc được giao vì phải đối mặt với những điều trước đây họ chưa
bao giờ nghĩ tới và khiến họ cảm thấy không thoải mái. Tất cả “sức mạnh” của họ
dành để chĩa vào các thành viên khác, thay vì tập trung lại và hướng tới mục tiêu
chung.
Bước 3: Ổn định : Trong suốt giai đoạn này, các thành viên trong nhóm quen dần
và điều hoà những khác biệt giữa họ. Sự xung đột về tính cách và ý kiến giảm dần
và tính hợp tác tăng lên. Khi đó họ có thể tập trung nhiều hơn cho công việc và bắt
đầu có sự tiến bộ đáng kể trong hiệu quả công việc.
Bước 4: Hoàn thiện: Ở giai đoạn này, các thành viên đã hiểu và thích nghi được
với điểm mạnh và yếu của từng người trong nhóm mình và biết được vai trò của họ
là gì. Mọi người đã cởi mở và tin tưởng nhau hơn, rât nhiều ý kiến hay được nêu ra
thảo luận vì họ không còn e ngại như lúc đầu. Họ linh hoạt sử dụng quyết định của
mình như một công cụ để hiện thực hoá những ý tưởng, ưu tiên những nhiệm vụ
cần thiết và giải quyết những vấn đề khúc mắc. Rất nhiều việc được hoàn thiện và
sự gắn bó giữa các thành viên trong nhóm là rất cao.
Vì trải qua 4 giai đoạn như thế nên ban đầu, có vẻ như một nhóm hoạt động lại
không đạt được những hiệu quả như một cá nhân làm việc, vì thế nên sẽ đưa đến
hậu quả là có một vài cá nhân có năng lực, thừa nhiệt tình nên đã gánh vác hay ôm
đồm công việc cho cả nhóm và kết quả là những thành tựu mà nhóm có được chỉ là

do công sức của một vài người, từ đó sẽ đưa đến sự độc tài hay chia rẽ, dẫn đến sự
tan rã nhóm.
Ngược lại, nếu biết cách làm việc nhóm thì sau giai đoạn công phá, nhóm sẽ ổn
định và phát huy được sức mạnh của tập thể, vượt qua những giới hạn của cá nhân
để đạt đến được mục đích chung mà mọi thành viên trong nhóm đều có thể hưởng
được những ích lợi do nhóm mang lại.
2. MỤC TIÊU NGIÊN CỨU
2.1.Kỹ năng tổ chức công việc
Nhóm làm việc là những cá nhân tập hợp lại và hình thành một đơn vị hoạt động
cùng nhau, vì thế mỗi thành viên trong nhóm đều phải biết kỹ năng để gắn kết và áp
dụng tốt các kỹ năng này để đạt được những hiệu quả nhất định. Có hai kỹ năng mà
một nhóm cần phải có là kỹ năng tổ chức các hoạt động cho nhóm và kỹ năng giao
tiếp giữa các thành viên trong nhóm.
Kỹ năng tổ chức :
Bất kỳ một công việc gì, từ cá nhân đến tập thể đều cần phải có sự tổ chức, vậy phải
dựa vào yếu tố gì để có thể tổ chức một hoạt động để đem lại kết quả tốt nhất. Theo
quan điểm của người xưa, thì ta có 3 yếu tố là Thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Điều
2


Đề tài: Mối quan hệ giữa làm việc nhóm và hiệu quả công việc
này có nghĩa là : Phải gặp đúng thời cơ hay thời điểm thích hợp, phải thực hiện ở
một địa điểm thích hợp, có những yếu tố thuận lợi và điều quan trọng nhất là đạt
được sự đồng lòng, hòa thuận giữa mọi người với nhau. Còn hiện nay thì chúng ta
có thể dựa vào nguyên lý 5W + 1 H để tổ chức một công việc hay một hoạt động,
một kế hoạch :
Khi bắt đầu bất kỳ một vấn đề gì mới, chúng ta phải trả lời được các câu hỏi:
Kế hoạch hay chương trình đó dùng để làm gì ( What )
Kế hoạch đó xuất phát từ đâu, ở đâu ra ( Where )
Khi nào thì bắt đầu tiến hành ( When )

Ai sẽ là người thực hiện hay phụ trách việc này ( Who )
Tại sao phải tiến hành hoạt động này ( Why )
Chúng ta sẽ thực hiện nó như thế nào ( How )
Nếu một kế hoạch hay dự án mà không trả lời được các câu hỏi này thì chúng ta
không nên tiến hành vì có nhiều khả năng thất bại hay chí ít cũng là những khó
khăn khó khắc phục, có thể dẫn đến sự mất đoàn kết hay tan rã nhóm.
Ngoài ra trong kỹ năng tổ chức, mỗi người trong nhóm đều phải nhận ra được thế
mạnh cũng như điểm yếu của mình để có thể đảm nhận hay sắp xếp các công việc,
các trách nhiệm phù hợp điều đó mới giúp cho nhóm đạt được những kết quả tốt
nhất
2.2 Kỹ năng giao tiếp giữa các cá nhân
Như đã nói, để thực hiện các hoạt động thì một cá nhân dù xuất sắc đến đâu cũng
không thể thực hiện nếu không có sự trợ giúp của những người cùng làm việc với
mình. Vì thế, điều cơ bản nhất là phải tạo được sự đồng thuận hay tiếng nói chung
giữa những người trong nhóm để cùng nhau thực hiện. Để thực hiện được các hoạt
động chung, thì mỗi một thành viên trong nhóm cần phải có một số các kỹ năng sau
đây ngoài sự đồng thuận chung về quan điểm và mục đích của nhóm:
a.Lắng nghe:
Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất. Các thành viên trong nhóm phải
biết lắng nghe ý kiến của nhau. Kỹ năng này phản ánh sự tôn trọng ý kiến giữa các
thành viên trong nhóm.
Lắng nghe không chỉ là sự tiếp nhận thông tin từ người nói mà còn phải biết phân
tích, nhìn nhận theo hướng tích cực và phản hồi bằng thái độ tôn trọng những ý
kiến của người nói dù đó là ý kiến hoàn toàn trái ngược với quan điểm của bản
thân.
b. Chất vấn:
Chất vấn là kỹ năng thể hiện tư duy phản biện tích cực Thực tế đây là một kỹ năng
khó mà bất kỳ ai cũng cần phải rèn luyện. Chất vấn bằng những câu hỏi thông minh
dựa trên những lý lẽ tán đồng hay phản biện chặt chẽ. Điều này đòi hỏi mức độ tư
duy cao và tinh thần xây dựng cho nhóm.

Lời lẽ chất vấn cần mềm mỏng, lịch sự. Tuy nhiên, điều quan trọng là trong nhóm
cần có sự cởi mở để khuyến khích mọi người có thể tiếp nhận những ý kiến trái
chiều với quan điểm của mình mà không tự ái. Người chất vấn cũng phải sử dụng
những lời lẽ mềm mại và tế nhị, không xoáy vào những điểm yếu lên tiếng phê
phán hay chê bai để dẫn đến sự tranh luận vô ích.
c. Thuyết phục:
Các thành viên phải trao đổi, suy xét những ý tưởng đã đưa ra. Đồng thời họ cần
biết tự bảo vệ và thuyết phục người khác đồng tình với ý kiến của mình dựa trên cơ
3


Đề tài: Mối quan hệ giữa làm việc nhóm và hiệu quả công việc
sở chuyên môn đúng đắn. Khi thuyết phục, ta phải dựa vào chính những ý kiến
chung để củng cố hay làm cho nó trở nên hợp lý hơn chứ không chỉ dựa vào lý lẽ cá
nhân. Nhất là không thể dựa vào vị trí hay của mình để buộc người nghe phải chấp
nhận.
d. Tôn trọng:
Mỗi thành viên trong nhóm phải tôn trọng ý kiến của những người khác thể hiện
qua việc động viên, hỗ trợ nhau, nỗ lực biến chúng thành hiện thực. Khi các thành
viên trong nhóm thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau nghĩa là đang đóng góp sức mình
vào sự thành công trong việc tổ chức các hoạt động của nhóm.
e. Trợ giúp:
Các thành viên phải biết giúp đỡ nhau vì trong một nhóm, có người sẽ mạnh lĩnh
vực này, nhưng người khác lại mạnh lĩnh vực khác. Và nhiều khi, vấn đề mà nhóm
đang phải giải quyết cần kiến thức ở nhiều lĩnh vực, mức độ và đòi hỏi các kỹ năng
khác nhau. Đây là kỹ năng mà mỗi người cần rèn luyện để sẵn sàng đóng góp vào
thành quả chung của nhóm.
f. Chia sẻ:
Các thành viên đưa ra ý kiến và chia sẻ kinh nghiệm của mình khi gặp các tình
huống tương tự trước đó. Trong nhóm đang thảo luận, người nào càng chia sẻ được

nhiều kinh nghiệm quý giá của mình, hoặc đưa ra các ý kiến sáng suốt cho nhóm,
thì sẽ càng nhận được sự yêu mến và vị nể của các thành viên còn lại. Và một khi,
mỗi thành viên trong nhóm đều nhận thức được tầm quan trọng của việc chia sẻ,
không khí làm việc của nhóm sẽ cởi mở và tích cực hơn.
g. Chung sức:
Mỗi thành viên phải đóng góp trí lực cùng nhau thực hiện kế hoạch đã đề ra. Có
nghĩa là, cả nhóm cần phải hiểu rõ mục đích của nhóm cần đạt được là gì, và có
cùng chung khao khát hoàn thành nó. “Hãy tưởng tượng, chúng ta đang cùng ở trên
một con thuyền, tất cả đều phải cùng chèo để đưa con thuyền về đến đích!”.
Khó khăn trong việc tổ chức hoạt động nhóm:
Tổ chức hoạt động là một điều không dễ dàng, có nhiều yếu tố từ khách quan đến
chủ quan có thể đưa đến sự thất bại, thậm chí là tan rã nhóm. Ngoài những tác động
khách quan từ bên ngoài, còn có những yếu tố chủ quan mà chúng ta thường gặp
phải khi tổ chức các hoạt động cho nhóm, mà trong đó 4 yếu tố gây nhiều trở ngại
nhất là :
- Quá nể nang các mối quan hệ.
Chúng ta thường lẫn lộn giữa tình cảm cá nhân hay sự tôn trọng vị trí của các thành
viên trong nhóm để không đưa ra những góp ý, chất vấn hay tranh luận nhằm đạt
đến những kết quả tốt nhất. Chúng ta thường có thái độ “ Dĩ hòa vi quý”, nhưng
đây là yếu tố để tạo sự đồng thuận, chứ không phải sự xuê xoa, dễ dãi trong các
điều kiện làm việc.
- Thứ nhất ngồi ỳ, thứ nhì đồng ý
Chúng ta thường thích làm vừa lòng người khác bằng cách luôn luôn tỏ ra đồng ý
khi người khác đưa ra ý kiến trong khi thực sự là mình không đồng ý hoặc chẳng
hiểu gì cả. Điều đó sẽ làm cho cả nhóm hiểu lầm nhau, chia năm sẻ bảy hoặc mạnh
ai nấy làm. Cũng có nhiều người thì lại chọn thái độ thụ động, “ngồi mát ăn bát
vàng” ai làm gì cũng gật nhưng bản thân mình thì lại không làm gì cả, hoặc chỉ chờ
người ta làm trước mình chỉ nương theo, hay động viên bằng miệng. Đây chính là
thái độ có hại nhất cho các hoạt động của nhóm.
4



Đề tài: Mối quan hệ giữa làm việc nhóm và hiệu quả công việc
- Đùn đẩy trách nhiệm cho người khác
Chính do sự thảo luận không dứt điểm, phân chia công việc không phân minh nên
ai cũng nghĩ đó là việc của người khác chứ không phải của mình. Ngược lại, nếu
phải đứng ra làm thì lại sẵn sàng có đủ lý do để biện minh cho những hạn chế của
mình, và khi gặp thất bại thì luôn tìm mọi lý lẽ để đổ trách nhiệm qua cho người
khác, hay từ chối không dám nhận trách nhiệm về mình.
- Không chú ý đến công việc của nhóm
Một khuynh hướng trái ngược là luôn luôn cố gắng cho ý kiến của mình là tốt và
chẳng bao giờ chịu chấp nhận ý kiến của bât kỳ ai khác. Một số thành viên trong
nhóm cho rằng mình giỏi nên chỉ bàn luận trong phạm vi những người mà mình cho
là tài giỏi trong nhóm, hoặc đưa ý kiến của mình ra mà không cho người khác tham
gia.
Đây là yếu tố quan trọng gây ra sự chia rẽ trong nhóm nhóm. Khi cả đội bàn bạc
với nhau, một số thành viên hoặc nghĩ rằng ý kiến của mình không tốt nên không
chịu nói ra hoặc cho rằng đề tài quá chán nên không tốn thời gian. Thế là, trong khi
phải bàn luận kỹ hơn để giải quyết vấn đề lại quay sang nói chuyện riêng với nhau.
Cho đến khi thời gian chỉ còn 5-10 phút thì tất cả mới bắt đầu quay sang, đùn đẩy
nhau phát biểu. Và chính lúc đã có một người lên thuyết trình, chúng ta vẫn cứ tiếp
tục bàn về chuyện riêng của mình mà không quan tâm đến nội dung hay mục tiêu
đề ra. Kết quả là chúng ta hoặc là không hiểu sẽ làm gì, hoặc sẽ thực hiện với sự bất
mãn, không đem lại hiệu quả cao cho nhóm.
Tổ chức công việc hay hoạt động cho nhóm là một kỹ năng cần thiết mà ngay từ khi
còn là học sinh, hay sinh viên, mỗi chúng ta đều cần phải học hỏi để vừa giúp cho
sự phát triển của bản thân, vừa góp phần vào sự phát triển chung cho tập thể mà
chúng ta đang hoạt động trong đó. Mình vì mọi người thì mọi người sẽ vì mình. Đó
là yếu tố đem lại thành công cho cuộc sống của mỗi người chúng ta
2.3 Hiệu quả của việc làm việc theo nhóm

a. Khuyến khích óc sáng tạo
Nhiều người trở thành những kẻ chỉ biết làm theo kinh nghiệm và tính cách riêng
của họ. Hãy phá thế thụ động ấy và tạo tính sáng tạo.
Đừng để nhóm của bạn bị phân lớp thành những con người chuyên sáng tạo và
những kẻ thụ động. Muốn vậy, bạn luôn biết hoan nghênh tính đa dạng của các
quan điểm và ý tưởng, để rồi lái buổi tranh luận đi đến chỗ thống nhất.
b.Phát sinh những ý kiến mới
Việc có được những sáng kiến đòi hỏi có người lãnh đạo và cần một hình thức tổ
chức nào đó, để kết quả buổi họp có thể mở ra một hướng đi.
Mọi ý kiến cần được ghi chép lên biểu đồ hay bảng để mọi người có thể nhìn thấy.
Sau đó, loại bỏ những ý kiến bất khả thi và tóm tắt những ý khả thi.
Những điểm cần ghi nhớ:
5


Đề tài: Mối quan hệ giữa làm việc nhóm và hiệu quả công việc
§
§
§
§
§
§

Phương pháp vận dụng trí tuệ tập thể đôi khi được gọi là “tư duy hành động
nhóm”.
Sự chỉ trích làm giảm óc sáng tạo.
Đừng bao giờ miệt thị ý kiến nào trong buổi họp.
Nhiều ý kiến tưởng chừng ngớ ngẩn lại có thể đưa đến những giải pháp đáng
giá.
Cần ghi mọi ý kiến lên bảng cho dù đấy chưa hẳn là ý kiến độc đáo.

Những ý kiến sáng tạo trong những buổi họp bao giờ cũng cao hơn ý kiến
của một cá nhân đưa ra.

c. Học cách ủy thác
Sự ủy thác cói hai hình thức: ủy thác công việc và ủy thác quyền hành.
Ủy thác công việc là phân nhỏ mỗi kế hoạch thành các phần việc riêng và với mục
tiêu riêng, rồi phân chúng cho các thành viên của nhóm. Sau đó, phó mặc cho họ và
chỉ can thiệp khi không đạt mục tiêu.
Việc ủy thác quyền hành là sau khi tham khảo ý kiến, trao cho người được ủy
quyền đầy đủ quyền và để họ được hành xử nó.
Khi ủy thác, cần nhận diện các loại đặc tính khi ủy thác:
§

§

§
§

Có khả năng muốn thực hiện: Đây là trường hợp ta gặp người được ủy
nhiệm lý tưởng, sẵn lòng nhận trách nhiệm và cũng sẵn lòng tham khảo ý
kiến người khác, thực hiện theo ý khi được ủy nhiệm.
Có khả năng không muốn thực hiện: Loại người này không sẵn lòng học hỏi
và tiếp thu ý kiến của người khác, thiếu tinh thần hợp tác, không nên giao
quyền cho họ.
Thiếu khả năng muốn thực hiện: Cần được đào tạo bổ khuyết những mặt yếu
trước khi được ủy nhiệm.
Thiếu khả năng, không muốn thực hiện: Giao việc cho loại người này hẳn là
hỏng to.

d. Khuyến khích mọi người phát biểu

Người lãnh đạo cần động viên mọi người bàn thảo, ngay cả với ý kiến nghịch lại
cũng có giá trị của nó.
Chia sẻ trách nhiệm
Bổ sung các cách thức hành động, giám sát tiến độ, sáng tạo, có tính xây dựng khi
hoạt động nhóm gặp trở ngại tạm thời. Cũng cần tạo bầu không khí thông hiểu nhau
giữa các thành viên thống nhất thông tin về tiến độ và những thay đổi đường lối làm
việc.
Cần linh hoạt
6


Đề tài: Mối quan hệ giữa làm việc nhóm và hiệu quả công việc
Mỗi thành viên phải có khả năng thực hiện vai trò của mình chí ít cũng như người
khác.
Mỗi người phải được phân nhiệm để hành động chủ động trong nhóm.
Dù việc khó đến đâu nhưng nếu có sự đồng lòng của toàn nhóm thì đều có thể hoàn
thành.
Mọi người đều được phân nhiệm rõ ràng tử đầu đến cuối.
Mọi người đều được khuyến khích làm theo phương cách hiệu quả nhất của mình.
2.4 Chức năng của nhóm
a. Tạo môi trường làm việc thân thiện:
- Cải thiện hành vi giao tiếp:
Nhóm giúp cải thiện sự giao tiếp thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra thường
xuyên, mọi người trở nên thân thiện, từ đó giúp bầu không khí học tập, lao động trở
nên sôi động hơn. Mọi người dần giảm bớt chủ nghĩa cá nhân để hướng đến tập thể,
để cùng giải quyết các vấn đề lớn mà một người hoặc một nhóm người làm việc độc
lập, riêng rẽ không thể hoàn thành được. Bầu không khí làm việc của tổ chức thay
đổi theo hướng tích cực, mọi người có thái độ thiện chí với nhau. Chính vì vậy mà
vấn đề hóc búa thường được giải quyết dễ dàng hơn.
- Xây dựng tinh thần đồng đội và hỗ trợ nhau cùng phát triển:

Sau quãng thời gian lao động và học tập, đặc biệt là những công việc lặp đi lặp lại,
hoặc các vấn đề cần giải quyết quá phức tạp, áp lực công việc quá cao làm cho
người thực hiện cảm thấy dễ chán nản, đơn điệu, buông xuôi. Khi đó, tham gia
nhóm làm họ trở nên hưng phấn, họ chờ đón các hoạt động của nhóm và khi tham
gia nhóm, họ bị thu hút vào công việc hơn bao giờ hết, vì trong nhóm có sự hỗ trợ
của đồng đội, có điều kiện thể hiện cá nhân, được chia sẻ kinh nghiệm và hướng
dẫn những thành viên khác và mọi việc trước đây được xem là nhàm chán thì giờ
đây, dưới cái nhìn từ một góc độ khác từ nhóm, vấn đề trở nên mới và hấp dẫn hơn.
- Mở rộng hợp tác và liên hệ giữa tất cả các cấp:
Khi tham gia nhóm, các thành viên có xu hướng mở rộng hợp tác với nhau để tạo
sự thống nhất của tổ chức, giúp xóa bỏ ngăn cách trong các mối quan hệ. Nhóm là
một trong những cách kết nối tất cả mọi người không phân biệt chức vụ, cấp bậc.
Khi mọi người cùng bắt tay cùng giải quyết các vấn đề đặt ra, lúc đó bức tường
ngăn cách bị phá toang, mọi người hòa nhập lại, gần gũi nhau hơn, hỗ trợ nhau
cùng tồn tại và phát triển.
b. Huy động nguồn nhân lực
- Thu hút mọi người vào công việc:

7


Đề tài: Mối quan hệ giữa làm việc nhóm và hiệu quả công việc
Nội dung sinh hoạt luôn đa dạng, mối quan hệ được củng cố giữa các thành viên,
vấn đề mà nhóm thường giải quyết là các vấn đề liên quan trực tiếp đến công việc
của mỗi thành viên, vì vậy họ bị cuốn hút bởi sự hấp dẫn của công việc được tạo ra
từ quá trình sinh hoạt nhóm.
- Nâng cao tinh thần làm việc, phát triển ý thức về chất lượng và sự tiến bộ
- Tạo cơ hội thuận lợi cho các thành viên phát huy tài năng của mình
Nhóm tạo ra cơ hội tuyệt vời để giải quyết các vấn đề công việc hằng ngày. Mọi
người có dịp nhóm họp, cùng suy nghĩ và đưa ra những ý kiến của mình cho việc

giải quyết các vấn đề khó khăn. Quá trình sử dụng kiến thức, sức lao động, máy
móc, nguyên liệu... luôn xảy ra những bất trắc, khi đó vận dụng chất xám hơn nữa
là chất xám tập thể là phương thức tối ưu nhất để khắc phục những bất trắc. Nhóm
tạo ra cơ hội vô hạn cho thành viên giải quyết khó khăn, đồng thời khiến mỗi thành
viên nhận thấy mình là một phần hữu cơ của tổ chức.
c. Nâng cao trình độ của thành viên và hoạt động của toàn tổ chức thông qua:
- Thảo luận nhóm, kích thích sáng tạo của mọi người
Nhóm tạo ra môi trường kích thích sự sáng tạo của mọi người. Người ta sẽ không
mạnh dạn nêu ra các ý tưởng hay ý kiến của riêng mình nếu bị cự tuyệt, hay bị chế
nhạo. Thường các giải pháp khả thi nhất lại xuất phát từ những ý tưởng có vẻ lộn
xộn, không tuân theo các quy phạm thường thấy.
- Giảm lãng phí, nâng cao hiệu quả lao động và học tập.
Hiệu quả học tập hay năng suất lao động bị ảnh hưởng nhiều bởi tâm lý của người
thực hiện, khi tham gia vào nhóm, tâm lý của mỗi thành viên được cải thiện nhiều,
do đó hiệu quả học tập, năng suất lao động cũng được cải thiện đáng kể. Mặt khác,
khi tham gia hoạt động nhóm, các vấn đề khó khăn của mỗi thành viên được đưa ra
và giải quyết bởi tập thể, do đó áp lực công việc giảm bớt, đồng thời họ nhận thấy
nhiều khía cạnh chưa tích cực trong lao động và học tập của chính mình để tự khắc
phục và thay đổi cho phù hợp. Nhóm giúp giảm lãng phí, lãng phí về thời gian, vật
liệu, nguyên liệu...
Để dễ hình dung về nhóm và hoạt động của nhóm, bạn hãy liên tưởng đến một đội
bóng đá. Đội bóng đá có các thành viên là các cầu thủ, khi chơi trên sân luôn có
một người đội trưởng chỉ đạo tức thời trên sân. Các cầu thủ thi đấu trên sân cùng
hướng đến mục tiêu chung là đưa bóng vào khung thành đối phương. Mỗi thành
viên chịu một phần trách nhiệm liên quan đến thành công của đội bóng. Mỗi thành
viên, hay cầu thủ, được phân công trách nhiệm ở một vị trí mà người đó có thể đảm
đương. Nếu có một vị trí nào đó bị yếu đi, cầu thủ không thể hoàn thành nhiệm vụ
tại vị trí đó, thì các thành viên khác cùng hỗ trợ giúp thành viên tại vị trí đó hoàn
thành nhiệm vụ hoặc khắc phục sai lầm trước đó. Chính vì vậy, đội bóng ổn định,
không bị đổ vỡ và hình thành sức mạnh chung của toàn đội bóng. Tuy nhiên, mỗi

8


Đề tài: Mối quan hệ giữa làm việc nhóm và hiệu quả công việc
thành viên trong đội bóng là sức mạnh chung của cả nhóm, nếu thiếu một thành
viên thì cả đội bóng có nguy cơ suy yếu.
3.PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
4.Ý NGHĨA.
Làm việc theo nhóm là yêu cầu khách quan của hoạt động kinh doanh hiện đại.
Tinh thần đồng đội của nhân viên được biểu hiện bởi ý thức hợp tác, sự phối hợp
hài hoà, lấy lợi ích của doanh nghiệp làm trọng, yêu nghề, đoàn kết với đồng
nghiệp, phấn đấu không mệt mỏi vì mục tiêu chung. Chỉ khi nhân viên tự giác nghĩ
tới lợi ích chỉnh thể của doanh nghiệp, thì khi gặp khó khăn sẽ tìm kiếm nguyên
nhân, nghĩ cách để giải quyết tốt những khó khăn đó, mà không lo ngại phải va
chạm với các bộ phận tương quan trong công việc, cũng sẽ không chi li tính toán vì
sự bất đồng ý kiến giữa đồng nghiệp với nhau, giữa nhân viên với nhau để đạt tới
sự đoàn kết chân thành. Đồng thời, tinh thần đồng đội cũng rất có ích cho chúng ta
xử lý vấn đề mối quan hệ giữa phát triển cá nhân và phát triển doanh nghiệp, nhân
viên sẽ không chi li tính toán được mất nhất thời của mình, mà biết nhìn xa hơn,
làm việc hết mình vì sự nghiệp chung, thật sự hoà mình vào sự phát triển của doanh
nghiệp. “Sự khác biệt duy nhất của thiên tài chính là hợp tác đồng đội”. Hiệu ứng
đồng đội vựa có thể phát huy được hiệu quả tốt nhất của mỗi một cá nhân, lại có thể
nảy sinh hiệu ứng tập thể tốt nhất. Mỗi một nhân viên vừa là một thành viên, lại cần
là tấm gương bồi dưỡng, xây dựng, phát huy vai trò đồng đội. Hợp tác giữa các bộ
phận trong doanh nghiệp giống như chơi bóng chuyền khi chơi bóng cần phân chia
khu vực, để thấy trách nhiệm của mỗi ngươi, ví dụ nhiệm vụ của bạn là chuyền, anh
ta là tấn công. Nhưng trong quá trình thi đấu, mỗi ngươi đều phải phịu trách nhiệm
đổi với kết quả của trận đấu. Tinh thần đồng đội của nhân viên, nghĩa là khi vắng
một ai trong vị trí nào đó thì nhất định phải có người bổ sung và một mặt cần hiểu

rõ chức trách được phân công của mình, mặt khác đòi hỏi giữa các nhân viên cần
hợp tác với nhau. Mỗi một cá nhân không những phải trở thành chuyên gia trong
lĩnh vực của mình, có trách nhiệm đối với lĩnh vực của mình, đồng thời cũng cần có
ý thức toàn cục, chính là ý thức đồng đội. Sự thành công của một doanh nghiệp
không phải chỉ dựa vào một người hay vài người là có thể hoàn thành được. Cần
phải thông qua sự nỗ lực cố gắng của toàn thể nhân viên. Mỗi một bộ phận, mỗi
một nhân viên đều nên xuất phát từ lợi ích tổng thể của công ty, biết suy nghĩ vì
người khác, phát hiện thế mạnh của người khác, phát hiện điểm chung giữa hai bên,
bổ sung lẫn nhau, xây dựng ý thức hợp tác đồng đội, đồng thời, không ngừng bồi
dưỡng tinh thần tự hào là nhân viên của doanh nghiệp.
Mô hình làm việc theo nhóm có thể thúc đẩy tinh thần hợp tác, sự phối hợp, hiểu
biết và hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên, tạo ra những giải pháp mới cho mọi vấn
9


Đề tài: Mối quan hệ giữa làm việc nhóm và hiệu quả công việc
đề khó khăn. Những kỹ năng và sự hiểu biết khi làm việc nhóm sẽ đem lại lợi ích
lớn đối với từng cá nhân. Tuy nhiên, lợi ích lớn nhất của mô hình đội nhóm là tận
dụng mọi nguồn lực chung của nhóm. Kỹ năng của mỗi cá nhân và sự tự giám sát
của nhóm sẽ tạo điều kiện cho việc hoàn thành mục tiêu một cách tốt nhất. Thậm
chí ngay cả với những vấn đề có thể được xử lý bởi cá nhân, thì việc giao cho đội
nhóm giải quyết vẫn có những ích lợi riêng: thứ nhất là việc tham gia của nhóm sẽ
tăng khả năng quyết định và thực hiện, thứ hai là có những vấn đề mà nhóm sẽ có
khả năng phân tích rõ hơn từng cá nhân riêng lẻ.
Ích lợi của mô hình đội nhóm còn được thể hiện qua sự hoàn thiện bản thân của mỗi
thành viên tham gia. Tham gia làm việc theo nhóm, mỗi người sẽ có khả năng giải
quyết những vấn đề liên quan đến công việc. Từ đó mỗi người có thể phát huy được
khả năng tiềm tàng của mình. Vì nhóm có thể tạo môi trường làm việc tập thể - nơi
mỗi cá nhân đều được giao trách nhiệm và có quyền hạn, nơi mà sự tin tưởng và sẻ
chia được đặt lên hàng đầu - nên có thể khuyến khích mọi người làm việc nhiệt tình

hơn.

10



×