Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Quản lý hoạt động bồi dưỡng cho cán bộ hội liên hiệp phụ nữ cấp cơ sở ở thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.76 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
–––––––––––––––––––

TRẦN THỊ THU HẠNH

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG
CHO CÁN BỘ HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ CẤP CƠ SỞ
Ở TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


THÁI NGUYÊN - 2013

2


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
–––––––––––––––––––

TRẦN THỊ THU HẠNH

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG
CHO CÁN BỘ HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ CẤP CƠ SỞ
Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60.14.01.14

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC



Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ MINH HUẾ


THÁI NGUYÊN - 2013

4


XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

XÁC NHẬN CỦA KHOA TLGD


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn "Quản lý hoạt động bồi dưỡng cho cán bộ hội liên hiệp phụ
nữ cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên" được thực hiện từ tháng 11 năm 2012 đến
tháng 08 năm 2013.
Tôi xin cam đoan:
- Tôi luôn luôn nỗ lực, cố gắng và trung thực trong suốt quá trình nghiên
cứu đề tài.
- Luận văn sử dụng nhiều nguồn thông tin khác nhau, các thông tin đă
được chọn lọc, phân tích, tổng hợp, xử lý và đưa vào luận văn đúng qui định.
- Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung
thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
- Quyết tâm đưa đề tài vào thực tiễn giáo dục của nhà trường.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2013
Tác giả

Trần Thị Thu Hạnh


i


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Hội đồng đào tạo cao học
chuyên ngành Quản lý giáo dục, Phòng Quản lý đào tạo sau Đại học, Khoa
Tâm lý giáo dục, các thầy cô giáo của trường Đại học sư phạm Hà Nội, trường
Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tận tình giảng dạy và tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sỹ Trần Thị Minh Huế,
người hướng dẫn khoa học đã chỉ bảo tận tình, chu đáo, giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của lãnh đạo Hội
LHPN tỉnh, các huyện, thành phố, thị xã và các chị Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội
LHPN cấp cơ sở đã giúp đỡ tác giả trong quá trình nghiên cứu luận văn.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã khích lệ, động viên, chia sẻ
với tôi trong thời gian qua.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện, song luận văn khó tránh
khỏi những thiếu sót. Tác giả kính mong nhận được ý kiến chỉ dẫn, đóng góp
của các thầy cô giáo và bạn bè, đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2013
Tác giả

Trần Thị Thu Hạnh

ii



MỤC LỤC
Chuẩn hoá công tác lập kế hoạch và chương trình bồi dưỡng kiến thức cho
đội ngũ cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở theo từng nhiệm kỳ và từng năm .....79
Chuẩn hoá công tác lập kế hoạch và chương trình bồi dưỡng kiến thức cho
đội ngũ cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở theo từng nhiệm kỳ và từng năm........2

iii


NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT
LHPN

Liên hiệp phụ nữ

TW

Trung ương

CNH -HĐH

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

BCH

Ban Chấp hành


BTV

Ban thường vụ

CB

Cán bộ

ĐH

Đại học

LLCT

Lý luận chính trí

NQ

Nghị quyết

CLB

Câu lạc bộ

CHQS

Chỉ huy quân sự

KT


Kiến thức

ĐH

Đại hội

BC

Báo cáo

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG
Chuẩn hoá công tác lập kế hoạch và chương trình bồi dưỡng kiến thức cho
đội ngũ cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở theo từng nhiệm kỳ và từng năm .....79
Chuẩn hoá công tác lập kế hoạch và chương trình bồi dưỡng kiến thức cho
đội ngũ cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở theo từng nhiệm kỳ và từng năm........2

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc ta, phụ nữ Việt Nam đã có
những đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng
đất nước, viết nên trang sử hào hùng để hình thành nên truyền thống tốt đẹp
“Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” trong thời kỳ kháng chiến. Ngày
nay, khi đất nước bước vào kỷ nguyên hội nhập với thế giới, trong công cuộc
xây dựng đất nước trên con đường CNH -HĐH, phụ nữ Việt Nam tiếp tục phát

huy được những truyền thống quý báu đó, đóng góp vai trò quan trọng, là động
lực thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước, xứng đáng với danh hiệu “Trung
hậu, đảm đang, tài năng, anh hùng” mà Đảng và Bác Hồ đã trao tặng.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVIII xác định
mục tiêu: “Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với phát huy dân chủ trong
đời sống xã hội; Thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết toàn dân, chăm lo lợi ích
thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc trong
tỉnh; Kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội trên
cơ sở đó tạo động lực chủ yếu thúc đẩy thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, xã hội của tỉnh, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc nhiệm kỳ 2012 - 2017 xác
định mục tiêu: “Đoàn kết, vận động phụ nữ phát huy nội lực, chủ động, tích cực
tham gia phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng gia đình hạnh
phúc bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Xây dựng
người phụ nữ Việt Nam yêu nước, có sức khỏe, năng động, sáng tạo, có lối
sống văn hóa, có lòng nhân hậu. Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, phát huy
đầy đủ vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới”.
Trong những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, các cấp
Hội phụ nữ Tỉnh Thái Nguyên đã cùng các cấp, các ngành trong toàn tỉnh ra
1


sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đảng bộ lần thứ XVIII của
Tỉnh và Nghị quyết Đại hội phụ nữ các cấp đề ra. Chiếm tỷ lệ trên 50% dân số
và chiếm trên 60% lực lượng lao động, phụ nữ Thái Nguyên đã nêu cao vai trò
và vị trí to lớn của người phụ nữ vừa là người công dân, người lao động vừa là
người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ chuyên môn, đội ngũ cán bộ chuyên trách Hội LHPN các cấp đã khẳng định
được vai trò lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động Hội, góp phần quan trọng vào việc

thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, đội ngũ cán bộ Hội cấp cơ sở đã bộc lộ những tồn tại yếu kém trong
nhận thức, kỹ năng, trong tiếp cận với nền khoa học công nghệ hiện đại ứng
dụng vào lĩnh vực chuyên môn. Số cán bộ Hội chưa được đào tạo nghiệp vụ
công tác Hội, thiếu kiến thức thực tiễn, lý luận chính trị, thiếu kỹ năng tổ chức
hoạt động,… còn khá phổ biến. Một bộ phận cán bộ còn hạn chế về khả năng
nghiên cứu, đề xuất, lập kế hoạch, tổng kết đánh giá, chỉ đạo và tổ chức thực
hiện các hoạt động của Hội nên kết quả hoạt động công tác Hội ở cơ sở nói
chung chưa cao.
Việc nghiên cứu, đánh giá công tác bồi dưỡng năng lực và phẩm chất
cho cán bộ Hội cấp cơ sở để đề xuất biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Hội có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
tại Hội LHPN tỉnh trong thời gian hiện nay. Xuất phát từ những lý do nêu trên
tôi chọn vấn đề“Quản lý hoạt động bồi dưỡng cho cán bộ Hội Liên hiệp phụ
nữ cấp cơ sở ở Thái Nguyên” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng cho cán bộ Hội
cấp cơ sở, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của Hội LHPN cấp cơ sở ở
Tỉnh Thái Nguyên hiện nay.

2


3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình quản lý hoạt động bồi dưỡng cho cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở
ở Tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng cho cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở

ở Tỉnh Thái Nguyên.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng và áp dụng được những biện pháp quản lý hoạt động bồi
dưỡng phù hợp với chức năng của Hội LHPN tỉnh, phù hợp với đặc điểm của
đội ngũ cán bộ Hội cấp cơ sở, với đặc điểm và điều kiện vùng miền sẽ góp
phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng công tác Hội và
phong trào phụ nữ cấp cơ sở hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xác định cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng kiến thức
và kỹ năng hoạt động xã hội cho cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở của Hội
LHPN cấp tỉnh.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động bồi dưỡng, thực trạng quản
lý hoạt động bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng hoạt động xã hội cho cán bộ Hội
LHPN cấp cơ sở ở Tỉnh Thái Nguyên.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng kiến thức và
kỹ năng hoạt động xã hội cho cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở tại Hội LHPN Tỉnh
Thái Nguyên giai đoạn 2012 - 2017.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng kiến
thức và kỹ năng hoạt động xã hội cơ bản cho Chủ tịch và Phó chủ tịch Hội
LHPN cấp cơ sở ở Hội LHPN Tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2012 - 2017. Chủ
thể quản lý hoạt động bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng hoạt động xã hội cho cán
bộ Hội phụ nữ cấp cơ sở là đồng chí Chủ tịch Hội LHPN cấp tỉnh.
3


Hoạt động bồi dưỡng kiến thức tập trung vào các nội dung: phong trào
thi đua, hai cuộc vận động và 6 nhiệm vụ công tác trọng tâm của Hội trong
nhiệm kỳ; một số nội dung chuyên đề như: ma túy, tội phạm, phòng, chống
mua bán người, vệ sinh môi trường, chăm sóc sức khỏe...

Bồi dưỡng kỹ năng, bao gồm: kỹ năng lập kế hoạch hoạt động, lựa chọn
các vấn đề ưu tiên phù hợp với đặc điểm địa phương, đơn vị; kỹ năng soạn thảo
văn bản; kỹ năng làm việc theo nhóm hiệu quả; kỹ năng tổ chức hội họp; kỹ
năng thuyết trình; kỹ năng tư vấn...
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; quán triệt và vận dụng các quan
điểm cơ bản của Đảng về công tác cán bộ và công tác Hội phụ nữ.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận, gồm: phương pháp tổng hợp lý
thuyết, phân tích, khái quát hóa, hệ thống hóa cơ sở lý luận, phương pháp lịch
sử - lôgic.
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn, gồm: phương pháp quan sát,
phương pháp điều tra (điều tra viết và phỏng vấn sâu), phương pháp nghiên cứu
sản phẩm hoạt động sư phạm; phương pháp tổng kết kinh nghiệm; phương
pháp thực nghiệm.
7.2.3. Phương pháp bổ trợ: phương pháp thống kê, phương pháp kiểm
định giả thuyết.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Khuyến nghị; Danh mục tài liệu tham
khảo và Phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng
hoạt động xã hội cho cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở của Hội LHPN cấp tỉnh
4


Chương 2. Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng kiến thức và kỹ
năng hoạt động xã hội cho cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở ở Tỉnh Thái Nguyên
Chương 3. Một số biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng kiến thức và

kỹ năng hoạt động xã hội cho cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở ở Tỉnh Thái Nguyên

5


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC
VÀ KỸ NĂNG HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI CHO CÁN BỘ HỘI LHPN
CẤP CƠ SỞ CỦA HỘI LHPN CẤP TỈNH
1.1. Khái lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hội LHPN Việt Nam là một tổ chức chính trị xã hội có chức năng chăm
lo, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ và trẻ
em; tuyên truyền, vận động hội viên phụ nữ thực hiện chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước.
Trong những năm qua, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của tổ chức,
Hội LHPN Việt Nam đã phối hợp với nhiều tổ chức nước ngoài tổ chức các
Hội thảo nghiên cứu những vấn đề khoa học liên quan đến các lĩnh vực xã hội,
cụ thể như: vấn đề thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo; vấn đề bình
đẳng giới, vấn đề bạo lực gia đình, HIV/AIDS; chương trình phòng chống ma
túy, tội phạm, buôn bán phụ nữ và trẻ em; chương trình nước sạch vệ sinh môi
trường, chăm sóc sức khỏe; bảo vệ bà mẹ, trẻ em, quyền của trẻ em; hoạt động
hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế...
Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn,
đề ra những giải pháp quản lý trong lĩnh vực nâng cao năng lực cho đội ngũ cán
bộ Hội, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức và các hoạt động hỗ trợ phụ
nữ phát triển kinh tế. Luận văn chuyên ngành xã hội với đề tài “Nâng cao năng
lực cán bộ Trung ương Hội LHPN Việt Nam giai đoạn 2007 - 2015” (năm
2006) của Trung ương Hội LHPN Việt Nam. Luận văn thạc sỹ với đề tài “Vai
trò của phụ nữ nông thôn trong phát triển kinh tế hộ tại huyện Phú Lương tỉnh
Thái Nguyên” của tác giả Vương Thị Vân (năm 2009). Luận văn thạc sỹ với đề

tài “ Vai trò của phụ nữ nông thôn trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở huyện
Phú Bình tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Hứa Thị Châu Giang (năm 2013).

6


Các nghiên cứu đã đề cập đến giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động
của đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên viên cơ quan Trung ương Hội LHPN
Việt Nam; các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh
tế hộ gia đình. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu về “Quản lý hoạt động
bồi dưỡng cho cán bộ Hội LHPN cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên”. Do vậy, tôi
chọn nội dung này làm đề tài nghiên cứu với mong muốn sẽ góp phần tham
mưu, đề xuất những biện pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ Hội LHPN cấp cơ sở tỉnh Thái Nguyên, xây dựng tổ chức Hội vững mạnh.
1.2. Khái niệm công cụ
1.2.1. Quản lý
Quản lý là một hoạt động rất chung và rộng. Khái niệm quản lý không
dùng riêng cho một chuyên ngành nào mà dùng cho cả quá trình quản lý xã hội
như trường học, đoàn thể...; quản lý giới sinh vật; quản lý giới vô sinh. Trong
quản lý xã hội, người ta chia ra 3 lĩnh vực quản lý cơ bản đó là: quản lý xã hội chính trị và đời sống tinh thần; quản lý kinh tế và quản lý sản xuất. Trong phạm
vi của luận văn này, tác giả chỉ nói đến quản lý xã hội - chính trị và quản lý đời
sống tinh thần. Cụ thể là chỉ giới hạn trong phạm vi quản lý giáo dục.
Quản lý vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật, đó là sự điều khiển
một hệ thống xã hội ở tầm vĩ mô cũng như vi mô. Có nhiều quan điểm khác
nhau về quản lý, tuy nhiên tác giả chỉ đề cập đến một số khái niệm liên quan
trực tiếp đến đề tài này.
Theo quan điểm chung “Quản lý là biết chính xác điều mình muốn người
khác và sau đó thấy được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và
rẻ nhất”, “Quản lý là một nghệ thuật đạt được mục tiêu đã đề ra thông qua việc
điều khiển, phối hợp, hướng dẫn, chỉ huy hoạt động của người khác ...” hoặc

“Quản lý là hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi con người kết hợp với
nhau trong các nhóm, tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu chung”
[45,tr175].
7


Bên cạnh đó, khi nói về quản lý, có nhiều nhà nghiên cứu lại đưa ra cách
hiểu khác nhau, đó là:
Quản lý là sự tác động liên tục, có định hướng của chủ thể quản lý
(người quản lý hay tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng) quản lý về các
mặt chính trị - văn hóa - xã hội- kinh tế... bằng một hệ thống luật lệ, chính sách,
nguyên tắc các phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo môi trường và điều
kiện cho sự phát triển của đối tượng.
Quản lý là sự tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý
đến đối tượng quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích
nhất định .[sđd,tr9]
Horold Koontz cho rằng: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó bảo
đảm phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm. Mục
tiêu của nhà quản lý và hình thành một môi trường mà con người có thể đạt
được mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn ít nhất.
Với tư cách thực hành thì quản lý là một nghệ thuật, còn với kiến thức thì quản
lý là một khoa học”[18,9].
Trong cuốn “Khoa hoc quản lý”, tác giả Trần Quốc Thành cho rằng:
“Quản lý là hoạt động có ý thức của chủ thể quản lý để chỉ huy, điều chỉnh,
hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt động của con người nhằm đạt
tới mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp với quay luật khách quan”.
[44,9]
Trong giáo trình của Học viện Hành chính quốc gia cũng nêu khái niệm
quản lý như sau: “Quản lý là sự tác động, chỉ huy, điều khiển các quá trình xã
hội và hành vi hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy

luật đạt tới mục đích đã đề ra và đúng ý chí của nhà quản lý”.[sđd,tr9]
Quản lý một hệ thống xã hội, là tác động có mục đích đến tập thể người thành viên của hệ- nhằm làm cho hệ vận hành thuận lợi và đạt được đến mục
đích dự kiến [sđd,tr9]
8


Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ chức
và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động (Theo tiến sỹ Nguyễn
Bá Sơn- Một số vấn đề cơ bản về khoa học quản lý, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2000)”.[sđd,tr9]
Tác giả Bùi Minh Hiền: “Quản lý là hoạt động có tổ chức, có hướng đích
của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý đạt mục tiêu đề ra”.
Khái niệm quản lý mặc dù được diễn đạt khác nhau, nhưng có thể hiểu
rằng: Quản lý là hoạt động có ý thức của con người nhằm phối hợp hoạt động
của một nhóm người, một tổ chức, hay nói rộng hơn là một nhà nước để đạt
được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất.
Hoạt động quản lý gồm các thành phần chủ yếu sau:
Chủ thể quản lý: có thể là một cá nhân, một nhóm người hay một tổ chức.
Đối tượng quản lý: đó có thể là người, tổ chức, vật chất hay sự việc.
Chủ thể quản lý và đối tượng quản lý có tác động qua lại thông qua công
cụ quản lý và phương pháp quản lý (trong đó công cụ quản lý là các phương
tiện mà chủ thể quản lý dùng để tác động đến đối tượng quản lý, ví dụ như các
luật, các kế hoạch).
Phương pháp quản lý là cách thức tác động của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý. Phương pháp quản lý tương đối phong phú như phương pháp
thuyết phục, phương pháp kinh tế, phương pháp hành chính - tổ chức, phương
pháp tâm lý - giáo dục. Có thể sử dụng đơn lẻ hoặc kết hợp các phương pháp
trong các tình huống khác nhau sao cho đạt hiệu quả quản lý và như vậy, mối
quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý được hiểu như sau: Chủ thể
quản lý làm nảy sinh các hoạt động quản lý. Còn đối tượng quản lý thì làm nảy

sinh ra các giá trị vật chất và tinh thần có giá trị sử dụng, trực tiếp đáp ứng nhu
cầu của con người, thỏa mãn mục đích của chủ thể quản lý.
Trong hoạt động quản lý, chủ thể quản lý phải có những tác động phù
hợp và sắp xếp các tác động đó một cách hợp lý làm cho đối tượng quản lý thay
9


đổi trạng thái (từ lộn xộn thành trật tự theo ý chí và mục tiêu của nhà quản lý)
theo các phương pháp quản lý nhất định.
*. Bản chất và chức năng của quản lý
Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích đến tập thể
người nhằm thực hiện mục tiêu quản lý.
Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của
chủ thể quản lý nảy sinh từ phân công chuyên môn hóa trong hoạt động quản lý
nhằm mục thực hiện mục tiêu.
Chức năng quản lý biểu hiện bản chất quản lý và là những phạm trù cơ
bản, chiếm vị trí then chốt của quá trình quản lý. Các chức năng quản lý là
những hình thái biểu hiện sự tác động có mục đích đến tập thể người.
Quản lý là một hoạt động đặc biệt, có tính sáng tạo, có tính nghệ thuật .
Hoạt động quản lý phát triển không ngừng từ thấp đến cao, gắn liền với quá
trình phát triển, đó là sự phân công chuyên môn hóa lao động quản lý. Sự phận
công, chuyên môn hóa lao động quản lý là cơ sở hình thành các chức năng
quản lý.
Chức năng quản lý là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của
chủ thể quản lý nảy sinh từ phân công, chuyên môn hóa cao trong hoạt động
quản lý nhằm thực hiện mục tiêu.
Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý, thông qua đó, chủ thể
quản lý tác động đến khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu xác định.
Quản lý phải thực hiện nhiều chức năng khác nhau, trong các chức năng
có tính độc lập tương đối nhưng chúng được liên kết hữu cơ trong một thể

thống nhất. Quản lý có 4 chức năng cơ bản là: kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo,
kiểm tra.
Kế hoạch là chức năng đầu tiên và quan trọng nhất, là sự quyết định lựa
chọn đường lối hành động của nhà quản lý. Nhà quản lý phải xác định các mục
tiêu chiến lược và các thời kỳ xây dựng các phương án tổ chức, triển khai thực
10


hiện, tính toán, cân đối các yếu tố vật chất; chọn giải pháp hợp lý; xác định
bước đi cụ thể, hình dung tường tận quá trình diễn biến từ mục tiêu chính sách,
đường lối thành hiện thực. Lập kế hoạch là nền tảng của quản lý.
Tổ chức là quá trình sắp xếp, liên kết giữa các yếu tố công việc - con
người - bộ máy sao cho phù hợp, ăn khớp với nhau. Cả trong nội bộ từng yếu
tố, nhằm lựa chọn quyết định phương án cụ thể, hợp lý các phương tiện vật chất
(vật tư, vốn, lao động...).Tổ chức là hoạt động cần thiết để đạt được mục tiêu,
tổ chức vừa là chức năng, vừa là một công cụ của quản lý.
Chỉ đạo là việc định hướng và tác động, huy động, điều hành, điều khiển
của nhà quản lý đến cán bộ dưới quyền thực hiện những nhiệm vụ được giao.
Hoạt động lãnh đạo là làm việc với con người, cá nhân, tập thể, là xây dựng
mối quan hệ trong tổ chức, là khích lệ, động viên, tạo dựng bầu không khí tâm
lý tích cực trong tổ chức nhằm thực hiện nhiệm vụ, cộng việc.
Kiểm tra là việc thu thấp và xử lý thông tin trong quản lý, là đo lường,
đánh giá kết quả của việc thực hiện các nhiệm vụ, công việc. Thông qua kiểm
tra, nhà quản lý nắm bắt được những vấn đề tồn tại, thiếu sót, hạn chế, khuyết
điểm để có những biện pháp điều chỉnh kịp thời, đồng thời phát hiện những ưu
điểm để phát huy, động viên, khích lệ hoàn thành kế hoạch đề ra. Không kiểm
tra là buông lỏng công tác quản lý, kiểm tra đi liền với đánh giá.
1.2.2. Hoạt động bồi dưỡng
1.2.2.1. Khái niệm hoạt động
Theo Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ hoạt động được định nghĩa là tiến

hành những việc làm có quan hệ với nhau, chặt chẽ nhằm một mục đích nhất
định trong đời sống xã hội [40,tr.536].
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Theo Tâm lý học
Macxit, cuộc sống con người là một dòng hoạt động, con người là chủ thể của
các hoạt dộng thay thế nhau. Hoạt động là quá trình con người thực hiện các
quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên, xã hội. Đó là quá trình chuyển
11


hóa năng lực lao động và các phẩm chất tâm lý khác của bản thân thành sự vật,
thành thực tế và quá trình ngược lại là quá trình tách những thuộc tính của sự
vật, của thực tế, quay trở về với chủ thể, biến thành vốn liếng tinh thần của chủ
thể. Chúng ta có thể hiểu, hoạt động là quá trình tác động qua lại giữa con
người với thế giới xung quanh để tạo ra sản phẩm về phía thế giới và sản phẩm
về phía con người. Trong quá trình tác động qua lại, có 2 chiều tác động diễn ra
đồng thời, thống nhất và bổ sung cho nhau
Chiều thứ nhất: quá trình tác động của con người với tư cách là chủ thể
vào thế giới (thế giới đồ vật). Quá trình này tạo ra sản phẩm mà trong đó chứa
đựng các đặc điểm tâm lý của người tạo ra nó. Hay nói khác đi, con người đã
chuyển những đặc điểm tâm lý của mình vào trong sản phẩm. Sản phẩm là nơi
tâm lý của con người được bộc lộ, quá trình này được gọi là quá trình xuất tâm
hay quá trình đối tượng hóa.
Chiều thứ 2: quá trình con người chuyển những cái chứa đựng trong thế
giới vào bản thân. Đó là quá trình con người có thêm kinh nghiệm về thế giới,
những thuộc tính, những quy luật của thế giới... được con người lĩnh hội, nhập
vào vốn hiểu biết của mình, đồng thời con người cũng có thêm kinh nghiệm tác
động vào thế giới, rèn luyện cho mình những phẩm chất cần thiết để tác động
hiệu quả vào thế giới. Quá trình này là quá trình hình thành tâm lý ở chủ thể,
còn gọi là quá trình chủ hóa hay quá trình nhập tâm.
Hoạt động bao giờ cũng là hoạt động có đối tượng. Hoạt động là quá

trình tác động vào thế giới, cụ thể vào một cái gì đó. Như vậy, bản thân khái
niệm hoạt động đã bao hàm cả đối tượng của hoạt động. Hoạt động học tập là
nhằm vào tri thức, kỹ năng, kỹ xảo... để hiểu biết, tiếp thu và đưa vào vốn kinh
nghiệm của bản thân, tức là lĩnh hội các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo ấy.
Hoạt động bao giờ cũng do chủ thể tiến hành.
Trong hoạt động, con người dùng công cụ để tác động vào đối tượng.
Công cụ giữ vai trò trung gian giữa chủ thể và đối tượng, tạo ra tính chất gián
tiếp trong hoạt động.
12


Hoạt động bao giờ cũng có mục đích nhất định. Trong mọi hành động
của con người, tính mục đích nổi lên rất rõ rệt. Lao động sản xuất ra của cải vật
chất, để đảm bảo sự tồn tại của xã hội và bản thân, đáp ứng nhu cầu về ăn, mặc,
ở... Học tập để có tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thảo mãn nhu cầu nhận thức và
chuẩn bị hành trang bước vào cuộc sống. Mục đích của hoạt động thường là tạo
ra sản phẩm có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến việc thỏa mãn nhu cầu của
chủ thể.
1.2.2.2. Khái niệm bồi dưỡng
Theo Từ điển Giáo dục học năm 2001, bồi dưỡng được định nghĩa
như sau:
“Bồi dưỡng là quá trình giáo dục, đào tạo nhằm hình thành nhân cách và
những phẩm chất riêng biệt của nhân cách theo hướng mục đích đã chọn”
[sđd,tr17].
Cũng theo Từ điển trên, bồi dưỡng cũng có thể được định nghĩa: “Là quá
trình trang bị thêm kiến thức, kỹ năng nhằm mục đích nâng cao và hoàn thiện
năng lực hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể”.
Theo Từ điển tiếng Việt định nghĩa: bồi dưỡng là làm cho tăng thêm
năng lực hoặc phẩm chất.
Theo các tài liệu của UNESCO, bồi dưỡng được hiểu như sau:

Bồi dưỡng là quá trình cập nhật, bổ sung kiến thức, kỹ năng thái độ để
nâng cao năng lực, phẩm chất của người lao động về một lĩnh vực hoạt động
mà người lao động đã có một trình độ năng lực chuyên môn nhất định qua một
hình thức đào tạo nào đó.
Bồi dưỡng có ý nghĩa nâng cao nghề nghiệp, quá trình này chỉ diễn ra
khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hay kỹ năng chuyên môn,
nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng các yêu cầu của lao động nghề nghiệp.
Theo tác giả Nguyễn Minh Đường: “Bồi dưỡng có thể là một quá trình
cập nhật kiến thức và kỹ năng còn thiếu hoặc đã lạc hậu trong một cấp học, bậc
học và thường được xác nhận bằng một chứng chỉ”.[sđd,tr17].
13


Từ những khái niệm nêu trên chúng ta thấy: Chủ thể của quá trình bồi
dưỡng đã được đào tạo để có một trình độ chuyên môn nhất định.
Thực chất của quá trình bồi dưỡng là để bổ sung, cập nhật kiến thức và
kỹ năng còn thiếu hoặc lạc hậu nhằm nâng cao trình độ, phát triển thêm năng
lực trong một lĩnh vực hoạt động chuyên môn dưới một hình thức phù hợp.
Mục đích bồi dưỡng là nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực chuyên
môn để người lao động có cơ hội củng cố, mở mang hoặc nâng cao hệ thống tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo, chuyên môn đã có sẵn, giúp cho công việc đang làm đạt
được hiệu quả tốt hơn.
Yêu cầu cơ bản về bồi dưỡng: thống nhất giữa bồi dưỡng tư tưởng chính
trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ với các nhiệm vụ đặt ra từ thực
tiễn, thu hút cán bộ quản lý tham gia vào các hình thức học tập và tự bồi
dưỡng; việc bồi dưỡng toàn diện phải diễn ra thường xuyên liên tục, chú ý đến
trình độ và nhu cầu đào tạo của các cá nhân, từ đó xác định nội dung, phương
pháp và các hình thức bồi dưỡng phù hợp.
1.2.2.3. Khái niệm hoạt động bồi dưỡng
Hoạt động bồi dưỡng là hoạt động mang tính xã hội được thực hiện có

mục đích, kế hoạch, trong đó dưới vai trò của chủ thể tác động, đối tượng bồi
dưỡng được nâng cao kiến thức, kỹ năng về một lĩnh vực hoạt động nhất định.
1.2.3. Quản lý hoạt động bồi dưỡng
Quản lý hoạt động bồi dưỡng là quá trình tác động có tổ chức, có chủ
đích của chủ thể quản lý lên hoạt động bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực cho
đối tượng tác động, thực hiện có hiệu quả và đạt mục tiêu của hoạt động.
1.3. Một số vấn đề về Hội LHPN Việt Nam và người cán bộ Hội LHPN
1.3.1. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về
cán bộ và công tác cán bộ
*. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ nữ.
14


Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ
phải suốt đời phấn đấu hi sinh cho lý tưởng của Đảng, phải tận tụy với sự
nghiệp cách mạng, phải trung thành với Đảng, với Tổ quốc, phải hết lòng hết
sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng
gắng sức làm, việc gì có hại cho dân, dù nhỏ cũng hết sức tránh.
Tiêu chuẩn của người cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm đạo
đức cách mạng, có đức, có tài và có phong cách làm việc khoa học. Người
cán bộ có đạo đức cách mạng là người luôn kiên định lý tưởng xã hội chủ
nghĩa; không có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; là người
luôn biết đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của tập thể lên trên hết, biết giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của Đảng, của
dân tộc, của tập thể...
Tài của người cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm cả năng lực
trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn. Muốn có được những năng lực đó,
người cán bộ phải luôn luôn học tập để không ngừng nâng cao trình độ mọi
mặt, phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân, phải làm cho dân tin, dân

yêu, dân kính, dân phục.
Người cán bộ muốn có phong các công tác khoa học, theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh là phải chống bệnh chủ quan, tác phong quan liêu, đại khái; chống bệnh ham
chuộng hình thức, chỉ nhằm về hình thức bề ngoài, chỉ muốn phô trương cho oai;
chống cách làm việc theo lối bàn giấy, ngồi một nơi “chỉ tay năm ngón”,...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ: Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí, vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp
cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người luôn căn dặn các cấp ủy Đảng, cơ
quan, đơn vị phải luôn chăm lo cho công tác cán bộ nữ, đào tạo, bồi dưỡng cho
cán bộ nữ.
Trong thời kỳ hoạt động bí mật ở nước ngoài, Bác Hồ đã trực tiếp tổ
chức các lớp bồi dưỡng cán bộ cách mạng cho nước ta, trong đó có cán bộ nữ.
15


×