1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ những năm 90 của thế kỷ 20, các chuyên gia y tế đã dự báo “Thế kỷ
21 là thế kỷ của các bệnh rối loạn chuyển hóa”.
Đái tháo đường là căn bệnh mạn tính, phổ biến, dễ mắc phải và điều trị
tốn kém. Đái tháo đường ảnh hưởng đến hàng triệu người, cả nam và nữ, ở
mọi lứa tuổi và trình độ. Đái tháo đường đang trở thành gánh nặng đối với sự
phát triển kinh tế và xã hội vì sự phổ biến và các hậu quả nặng nề của nó.
Gánh nặng bệnh nhân đái tháo đường đang tăng lên trên toàn cầu, đặc biệt là
ở các nước đang phát triển.
Theo nghiên cứu về Gánh nặng bệnh tật toàn cầu của Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) năm 2004 và theo Sarah Wild và CS [61], tỷ lệ mắc bệnh đái tháo
đường ở các nhóm tuổi trên toàn thế giới là 2,8% vào năm 2000 và ước tính là
4,4% vào năm 2030. Tổng số người bị bệnh đái tháo đường tăng từ 171 triệu
người trong năm 2000, dự kiến lên 366 triệu người vào năm 2030. Bệnh đái
tháo đường nếu phát hiện muộn hoặc kiểm soát kém sẽ gây ra các biến chứng
cấp và mạn tính, làm ảnh hưởng tới chất lượng sống của người bệnh.
Khi mà các quốc gia trên thế giới đang mải tập trung đối phó với dịch
cúm gà và căn bệnh HIV/AIDS, bệnh tiểu đường "ung dung" phá hủy ngầm.
"Nó thực sự đã lọt qua khỏi tầm kiểm soát", giáo sư Paul Zimmet, Giám đốc
Trung tâm nghiên cứu bệnh tiểu đường của WHO cho biết: "Tỷ lệ mắc bệnh tiểu
đường ở châu Á hiện nay đã vượt xa châu Âu, nơi vốn được xem là ổ bệnh.
Việt Nam không phải là nước có tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường cao,
nhưng là quốc gia có tốc độ phát triển bệnh nhanh nhất thế giới. Đái tháo
đường phát hiện muộn trong cộng đồng cao, chiếm 64,5%. Thường khi phát
hiện khoảng 20% bệnh nhân đã có tổn thương thận, 8% có tổn thương võng
mạc, 9% có tổn thương thần kinh và 50% đã có bệnh tim mạch [8].
2
Đối với người bệnh đái tháo đường, việc nâng cao chất lượng điều trị,
dự phòng biến chứng ; phục hồi chức năng; nâng cao chất lượng tư vấn cho
người bệnh là rất quan trọng. Để đạt được điều này, đòi hỏi công tác quản lý
bệnh đái tháo đường phải ngày càng được cải thiện [3].
Cortez Dias N. và cộng sự (2010) nghiên cứu trên 16.856 người có tuổi
trung bình là 58,1 +15,1 tại Bồ Đào Nha, với 3.215 người mắc bệnh đái tháo
đường. Kết quả cho thấy việc kiểm soát bệnh đái tháo đường có tác động
mạnh tới nguy cơ biến chứng lâu dài. Cứ tăng 1% HbA 1C thì nguy cơ bị
bệnh mạch vành tăng 18%, nguy cơ tử vong tăng 12-14% và nguy cơ bị bệnh
võng mạc hoặc suy thận tăng 37%. Việc quản lý bệnh đái tháo đường có thể
và nên được cải thiện, vì 9,8% số người bệnh không được điều trị và 48,3%
không được kiểm soát bệnh [36].
Nguyễn Vinh Quang và cộng sự (2006) tìm hiểu thực trạng quản lý
bệnh đái tháo đường tại Nam Định và Thái bình thấy việc quản lý và điều trị
đái tháo đường ở 2 tỉnh này chưa tốt: 65,06% có kiểm soát đường huyết kém
khi đói, 54,22% số người bệnh đang điều trị có tăng huyết áp.
Bệnh đái tháo đường vẫn đang là vấn đề thời sự của cộng đồng. Tại thị
xã Chí Linh, trong những năm gần đây tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường ngày
một gia tăng. Trong khi việc quản lý, theo dõi, điều trị người bệnh còn hạn
chế.Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài: “Thực trạng quản lý và một số yếu tố
liên quan đến đái tháo đƣờng týp 2 tại phòng khám bệnh viện Chí Linh
2013” với mục tiêu như sau:
1.
Mô tả thực trạng quản lý bệnh đái tháo đường týp 2 tại Phòng khám
Bệnh viện Chí Linh Hải Dương năm 2013.
2.
Xác định một số yếu tố liên quan đến công tác quản lý bệnh đái tháo
đường týp 2 tại Phòng khám Bệnh viện Chí Linh Hải Dương năm 2013.
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Định nghĩa, tiêu chuẩn chẩn đoán và phân loại bệnh đái tháo đƣờng
1.1.1.Định nghĩa bệnh đái tháo đường
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO), thì đái tháo đường “Là một hội
chứng có đặc tính biểu hiện bằng tăng glucose máu do hậu quả của việc
thiếu/hoặc mất hoàn toàn insulin hoặc là do có liên quan đến sự suy yếu
trong bài tiết và hoạt động của insulin”.
Ngày nay người ta cho rằng đái tháo đường là một rối loạn của hệ
thống nội tiết; bệnh có thuộc tính là tăng glucose máu. Mức độ tăng glucose
máu phụ thuộc vào sự mất toàn bộ hay một phần khả năng bài tiết hoặc khả
năng hoạt động của insulin hoặc cả hai.
Tháng 1 năm 2003, các chuyên gia thuộc “Ủy ban chẩn đoán và phân
loại bệnh đái tháo đường Hoa Kỳ” đã đưa ra một định nghĩa mới về đái tháo
đường “Đái tháo đường là một nhóm các bệnh chuyển hoá có đặc điểm là
tăng glucose máu, hậu quả của sự thiếu hụt bài tiết insulin, khiếm khuyết
trong hoạt động của insulin, hoặc cả hai. Tăng glucose máu mạn tính thường
kết hợp với sự huỷ hoại, rối loạn chức năng và suy yếu chức năng của nhiều
cơ quan đặc biệt là mắt, thận, thần kinh, tim và mạch máu [2], [10].
1.1.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường
Theo tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường, được Hiệp hội đái
tháo đường Mỹ kiến nghị năm 1997 và được nhóm chuyên gia về bệnh đái
tháo đường của Tổ chức Y tế thế giới công nhận vào năm 1998, tuyên bố áp
dụng vào năm 1999, gồm 3 tiêu chí [2]:
4
* Có các triệu chứng của đái tháo đường (lâm sàng); mức glucose huyết
tương ở thời điểm bất kỳ ≥ 11,1 mmol ( ≥ 200mg/d1).
* Mức glucose huyết tương lúc đói ≥ 7mmol/1 (≥126mg/d1)
* Mức glucose huyết tương > 11,1 mmol/1 (≥ 200mg/d1) ở thời điểm 2
giờ sau nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống 75g đường (loại
anhydrous) hoặc 82,5g đường (loại monohydrat).
1.1.3. Phân loại bệnh đái tháo đường
- ĐTĐ týp 1: Là hậu quả của quá trình hủy hoại các tế bào beta của đảo
tụy. Hậu quả là cần phải sử dụng insulin ngoại lai để duy trì chuyển hóa, ngăn
ngừa tình trạng nhiễm toan ceton có thể gây hôn mê và tử vong. Bệnh đái tháo
đường týp 1 thường xảy ra ở trẻ em và thanh niên, nhưng có thể xuất hiện ở
bất cứ lứa tuổi nào.
Cho đến nay, nguyên nhân chính xác dẫn đến bệnh Đái tháo đường týp
1 vẫn chưa được biết. Tuy nhiên, người ta thấy các yếu tố gen, virus và tự
kháng thể có thể đóng vai trò gây ra Đái tháo đường týp 1.
- ĐTĐ týp 2: Đây là loại tiểu đường thường gặp nhất chiếm khoảng
90% bệnh nhân bệnh tiểu đường, thường gặp ở lứa tuổi trên 40, nhưng gần
đây bệnh có xu hướng trẻ hóa, xuất hiện ngày càng nhiều ở lứa tuổi 30, thậm
chí cả lứa tuổi thanh thiếu niên. Thông thường, với bệnh Đái tháo đường týp
2, trong cơ thể vẫn còn sản xuất insulin, nhưng các tế bào không thể sử dụng
nó. Điều này được gọi là đề kháng insulin. Theo thời gian, đường huyết sẽ
tăng cao trong máu. Béo phì và ít vận động làm tăng nguy cơ phát triển bệnh
Đái đường týp 2 [27].
- ĐTĐ thai nghén: Là dạng tiểu đường xảy ra ở một số phụ nữ mang
thai và chấm dứt sau khi sinh. Có thể gây ra các vấn đề trong quá trình mang
thai. Phụ nữ bị Đái tháo đường thai kỳ có nhiều khả năng phát triển thành
bệnh Đái tháo đường týp 2 sau này.
5
- Các thể đặc biệt khác:
+ Thể MODY
+ Bệnh lý gen tổng hợp insulin
+ Bệnh lý tuỵ ngoại tiết: Viêm tuỵ, xơ tuỵ, sỏi tuỵ.
+ Bệnh lý nội tiết: Cushing, to đầu chi, cường giáp.
+ Thuốc hoặc hoá chất: thiazide, T3, T4.
+ Nhiễm trùng
+ Hội chứng đột biến gen: Down, Huntington… [12]
1.2. Biến chứng và phòng chống biến chứng bệnh đái tháo đƣờng
1.2.1. Biến chứng bệnh đái tháo đường
ĐTĐ gắn liền với các biến chứng nguy hiểm và là nguyên nhân hàng
đầu gây nhồi máu cơ tim, đột quỵ, suy thận giai đoạn cuối, mù lòa…
Các biến chứng này cùng với các stress về tâm lý không chỉ làm chất
lượng cuộc sống của người bệnh giảm đi mà còn làm hao tổn cả tuổi thọ. Do
đó, ĐTĐ được gọi là “kẻ giết người thầm lặng”.
Giống như ung thư hay HIV, những nguy hiểm mà bệnh tiểu đường gây
ra cho người bệnh không thể hiện rõ ràng và ngay lập tức mà mang tính chất
“âm ỉ”, đến khi thấy triệu chứng thì đã quá muộn. Thông thường, những hậu
quả khủng khiếp nhất mà người bị tiểu đường gặp phải đến trực tiếp từ những
biến chứng nguy hiểm mà căn bệnh này gây ra.
Đái tháo đường nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh
sẽ tiến triển nhanh chóng và xuất hiện các biến chứng cấp và mạn tính. Bệnh
nhân có thể tử vong do các biến chứng này [6].
1.2.1.1. Biến chứng cấp tính
Biến chứng cấp tính thường là hậu quả của chẩn đoán muộn, nhiễm
khuẩn cấp tính hoặc điều trị không thích hợp. Ngay cả khi điều trị đúng, hôn
6
mê nhiễm toan ceton và hôn mê tăng áp lực thẩm thấu vẫn có thể là hai biến
chứng nguy hiểm.
- Nhiễm toan ceton: là tình trạng trầm trọng của rối loạn chuyển hoá
glucid do thiếu insulin nặng gây tăng glucose máu, tăng phân huỷ lipid, tăng
sinh thể ceton gây toan hoá tổ chức, hậu quả là mất nước và điện giải trong và
ngoài tế bào. Đây là một trong những nguyên nhân khiến bệnh nhân phải vào
viện và là nguyên nhân tử vong cao nhất trong các biến chứng cấp tính của
ĐTĐ, đặc biệt là ĐTĐ týp 1. Mặc dù y học hiện đại đã có nhiều tiến bộ về
trang thiết bị, điều trị và chăm sóc, tỷ lệ tử vong do hôn mê nhiễm toan ceton
vẫn cao (5-10%). Khoảng 20-40% số bệnh nhân ĐTĐ týp 1 mới được chẩn
đoán phải vào viện điều trị do nhiễm toan. Các nguyên nhân và yếu tố khởi
phát nhiễm toan ceton thường gặp bao gồm: ĐTĐ không được chẩn đoán và
điều trị,bỏ tiêm insulin, các bệnh cấp tính như nhiễm trùng nặng, nhồi máu cơ
tim, tai biến mạch máu não, chấn thương…
- Tăng áp lực thẩm thấu: Là tình trạng rối loạn chuyển hoá glucid
nặng, có đặc điểm là glucose máu tăng cao ≥ 6g/l, mất nước nặng và áp lực
thẩm thấu huyết tương 320 mosmol/kg, pH: 7,2-7,3. Hôn mê tăng áp lực thẩm
thấu chiếm 5- 10% trong các loại biến chứng hôn mê ở bệnh nhân ĐTĐ và là
một trong những loại hôn mê nặng nhất, thường gặp ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2
cao tuổi (>60 tuổi), tỉ lệ tử vong là 10-30%. Các nguyên nhân và yếu tổ khởi
phát bao gồm: ĐTĐ týp 2 không được phát hiện và điều trị, bỏ thuốc điều trị
ĐTĐ, nhiễm trùng và các bệnh cấp tính như tai biến mạch máu não, chấn
thương, sử dụng một số thuốc như lợi tiểu, corticoid
- Nhiễm toan acid lactic: Là một rối loạn chuyển hoá nặng, thường gặp
khi có rối loạn cung cấp ôxy tổ chức, acid lactic được sản xuất tăng lên ở các
tổ chức như cơ, xương và ở tất cả các tổ chức bị thiếu ôxy trầm trọng. Mặc dù
được điều trị tích cực, tỷ lệ tử vong rất cao (>50%).
7
- Hạ glucose huyết: là một trong những biến chứng cấp tính rất nguy
hiểm ở bệnh nhân ĐTĐ, có thể dẫn tới tử vong nhanh chóng nếu không được
phát hiện và điều trị kịp thời. Ở các bệnh nhân cao tuổi và có bệnh tim mạch
từ trước, biến chứng này có thể làm phức tạp thêm bệnh cảnh và góp phần
tăng tỷ lệ tử vong. Hạ đường huyết rất hay gặp ở bệnh nhân ĐTĐ và hầu hết
bệnh nhân ĐTĐ đều bị hạ đường huyết. Điều quan trọng là phải biết cách
phát hiện và xử trí, nếu không cấp cứu kịp thời, đúng phương pháp bệnh nhân
có thể tử vong hoặc bị tổn thương não không hồi phục.
Mức đường máu (glucose máu) bình thường khoảng 4,0 - 5,6 mnol/l.
Trong đa số các trường hợp các triệu chứng hạ đường huyết xảy ra khi đường
huyết thấp hơn 3mnol/l. Tuy nhiên, trong một số trường hợp các triệu chứng
có thể xảy ra ở mức đường máu cao hơn, hoặc ngược lại chỉ xuất hiện ở mức
đường máu thấp hơn nữa, thậm chí không có triệu chừng hạ đường huyết. Hạ
đường huyết có thể xảy ra do nhiều yếu tố tác động độc lập hoặc phối hợp với
nhau. Các nguyên nhân có thể dẫn đến hạ đường huyết gồm: quá liều thuốc
(đặc biệt là đối với Insulin), ăn muộn hoặc bỏ bữa, vận động quá mức....
1.2.1.2. Biến chứng mạn tính
Biến chứng mạn tính do ĐTĐ thường hay gặp, thậm chí các biến chứng
này có ngay tại thời điểm bệnh được phát hiện ở người mắc bệnh ĐTĐ týp 2.
Đây là nguyên nhân không chỉ làm tăng gánh nặng kinh tế của mỗi cá nhân,
của cộng đồng, mà còn là lý do chủ yếu làm giảm chất lượng cuộc sống của
người mắc bệnh ĐTĐ.
* Biến chứng thận do đái tháo đường
Biến chứng thận do ĐTĐ là một trong những biến chứng mạn tính hay
gặp nhất ở bệnh nhân ĐTĐ và là nguyên nhân thường gặp nhất gây suy thận
giai đoạn cuối. Tổn thương cơ bản của bệnh lý thận do ĐTĐ là tổn thương
mạch máu vi mạch cầu thận. Tỷ lệ người mắc bệnh ĐTĐ ngày càng tăng,
8
cuộc sống được cải thiện, tuổi thọ của người bệnh ĐTĐ tăng nên tỷ lệ biến
chứng tăng theo thời gian.
Tỷ lệ biến chứng thận nặng ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 thường thấp hơn so
với ĐTĐ týp 1.
Nhiều nghiên cứu cho thấy tiến triển tự nhiên của bệnh nhân do ĐTĐ
bắt đầu là microalbumin niệu → protein niệu → suy thận.
Để hạn chế tổn thương thận do ĐTĐ, ngoài vấn đề kiểm soát glucose
máu, còn phải phối hợp điều trị tốt các yếu tố nguy cơ và tăng huyết áp (HA),
chế độ ăn hạn chế đạm và muối khi có suy thận [12].
*Biến chứng mắt do đái tháo đường
Biến chứng mắt do ĐTĐ là một trong những biến chứng mạn tính
thường gặp. Nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời sẽ hạn chế được tác
hại của bệnh. Do lượng đường huyết trong mạch máu cao, làm những mạch
máu nhỏ tại võng mạc bị nghẽn, có thể bị vỡ gây tấy đỏ, sưng ứ gây ra tổn
thương mắt và các bệnh võng mạc. Bệnh võng mạc do ĐTĐ là nguyên nhân
hàng đầu gây mù ở các nước đang phát triển Biến chứng sớm xuất hiện như
giảm thị lực, đục thuỷ tinh thể, tăng nhãn áp.
Đục thuỷ tinh thể là tổn thương thường gặp ở bệnh nhân ĐTĐ, tương
quan với thời gian mắc bệnh và mức độ tăng đường huyết kéo dài. Đục thủy
tinh thể ở người ĐTĐ cao tuổi sẽ tiến triển nhanh hơn người không ĐTĐ [13].
* Bệnh lý tim mạch ở người đái tháo đường
Có 2 loại bệnh tim mạch thường gặp trên bệnh nhân đái tháo đường:
bệnh mạch vành và suy tim.
Đái tháo đường là yếu tố nguy cơ độc lập của bệnh lý tim mạch, đặc
biệt là bệnh mạch vành. Người bị ĐTĐ có nguy cơ tử vong vì bệnh tim mạch
cao gấp 3-4 lần, nguy cơ bị suy tim sung huyết cao gấp 3 lần so với người
không bị ĐTĐ.
9
Người bị ĐTĐ thường bị nhồi máu cơ tim cấp, sau nhồi máu thường xuất
hiện suy tim sung huyết nặng, góp phần làm tăng tỷ lệ tử vong sau nhồi máu.
Bệnh ĐTĐ làm tăng nguy cơ bị bệnh mạch vành gấp 2 lần ở nam và
gấp 3 lần ở nữ so với người không bị ĐTĐ. Mức độ tổn thương động mạch
vành ở bệnh nhân ĐTĐ nặng hơn, lan rộng và đa dạng hơn nhiều so với người
không bị ĐTĐ [12].
* Bệnh lý bàn chân do đái tháo đường
Bệnh lý bàn chân là một biến chứng mạn tính thường gặp ở bệnh nhân
ĐTĐ. Đây là một trong những biến chứng nặng mà hậu quả là loét bàn chân
khiến bệnh nhân phải vào viện điều trị.
Ở Mỹ, hàng năm có tới 50.000 trường hợp cắt cụt chi dưới ở bệnh nhân
ĐTĐ, trong đó 24% cắt cụt ngón chân, 6% cắt cụt nửa bàn chân, 30% cắt cụt
dưới gối, 21% cắt cụt 1/3 dưới đùi.
Một thống kê 3 năm cho thấy tỷ lệ bệnh lý bàn chân ở người bệnh ĐTĐ
tại Hà Nội là 7,6%.
Mặc dù có nhiều tiến bộ trong phương pháp điều trị cũng như các biện
pháp phòng ngừa tích cực, nhưng vẫn có khoảng 10-15% số bệnh nhân ĐTĐ
phải cắt cụt chi trong suốt cuộc đời họ [12].
* Viêm da dây thần kinh do đái tháo đường
Viêm da dây thần kinh do ĐTĐ là một biến chứng muộn thường gặp.
Biểu hiện lâm sàng rất đa dạng và tiềm ẩn nên ít được chú ý khám xét để chẩn
đoán, do đó điều trị thường muộn [12].
1.2.1.3. Một số biến chứng thường gặp khác
* Đái tháo đường và hệ tiêu hoá
Thực quản:
- Trào ngược dạ dày, thực quản: > 60% số bệnh nhân ĐTĐ có hiện
tượng trào ngược dạ dày, thực quản.
10
- Viêm thực quản do nấm: Triệu chứng thường gặp là khó nuốt thức ăn
rắn, thức ăn lỏng vẫn nuốt bình thường.
Dạ dày: Bệnh lý dạ dày do ĐTĐ chiếm 20-30% số bệnh nhân ĐTĐ.
Các triệu chứng thường gặp bao gồm: buồn nôn, nôn, nóng rát vùng thượng
vị, cảm giác ăn chóng no, chán ăn, hôi miệng, nấc, giảm cân, ăn thấy khó tiêu.
Trường hợp nặng: Dạ dày giãn to có biểu hiện lâm sàng giống hẹp môn vị,
được gọi là hội chứng dạ dày rỗng.
Ruột non: Tiêu chảy do ĐTĐ
Tiêu chảy chiếm 10-20% số trường hợp ĐTĐ, gặp ở nam nhiều hơn nữ.
Tiêu chảy có thể xảy ra bất kỳ lúc nào và không kìm chế được.
Đường mật: Sỏi túi mật
Hay gặp ở bệnh nhân ĐTĐ có biến chứng thần kinh tự chủ, béo phì.
Sỏi túi mật ở bệnh nhân ĐTĐ thường gặp ở nữ, thể trạng béo.
Gan: Gan nhiễm mỡ
Khoảng 50% số bệnh nhân ĐTĐ được sinh thiết gan cho thấy hiện
tượng thoái hoá mỡ, đặc biệt là ở người béo.
* Đái tháo đường và bệnh lý da
100% số bệnh nhân ĐTĐ, bằng cách này hay cách khác da đều bị tổn
thương. Rối loạn điều hoà glucose, lipid, insulin dẫn tới tổn thương trực tiếp
lên da.
- Dày da: nhiều nghiên cứu cho thấy da của bệnh ĐTĐ thường dày hơn
da của người không bị ĐTĐ.
Hội chứng bàn tay ĐTĐ: thường gặp ở trẻ em và người bị ĐTĐ, kèm
theo hạn chế vận động các khớp.
- Xơ cứng bì: là biến chứng gặp, da cứng lại không bấu lên được, mất độ
mềm của da. Thường gặp ở da sau gáy, phần bả vai hai bên, phần lưng trên.
- Loét chân.
11
- Nhiễm trùng da, nhiễm nấm da,…
* Bệnh lý thần kinh tự chủ do đái tháo đường
Hay gặp ở cả hai thể ĐTĐ (týp 1 và týp 2). Tỷ lệ mắc bệnh thần kinh tự
chủ tăng lên theo thời gian bị bệnh ĐTĐ và theo nồng độ glucose máu.
* Nhiễm khuẩn ở bệnh nhân đái tháo đường
Nhiễm khuẩn là biến chứng thường gặp ở bệnh nhân ĐTĐ, chiếm 50 –
60% và luôn là nguy cơ cao đe doạ cuộc sống người bệnh.
Nhiễm khuẩn tiết niệu, lao, nhiễm khuẩn huyết, nhiễm nấm candida,
nhiễm khuẩn phổi do vi khuẩn đều không phải là các nhiễm khuẩn đặc biệt
cho bệnh ĐTĐ nhưng luôn xảy ra với tần suất cao ở người bệnh ĐTĐ.
* Rối loạn lipid máu ở bệnh nhân đái tháo đường
Rối loạn lipid máu phần lớn là nguyên nhân di truyền, tuy nhiên, các
yếu tố môi trường nhất là dinh dưỡng cũng làm ảnh hưởng đến rối loạn
chuyển hoá lipid máu.
* Tăng huyết áp ở bệnh nhân đái tháo đường
Tăng HA ở bệnh nhân ĐTĐ rất thường gặp là yếu tố làm tăng mức độ
nặng của bệnh ĐTĐ. Tăng HA ở bệnh nhân ĐTĐ làm tăng nguy cơ bị bệnh tim
mạch, bệnh mạch vành và đột quỵ gấp 2-3 lần so với ở người không bị ĐTĐ.
1.2.2. Phòng chống biến chứng ở bệnh nhân đái tháo đường
Nội dung phòng bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) bao gồm nhiều vấn đề:
phòng để không bị bệnh khi người ta có nguy cơ mắc bệnh, phòng để bệnh
không tiến triển nhanh và phòng để giảm thiểu tối đa các biến chứng của bệnh
nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh. Biến chứng của bệnh
ĐTĐ là điều không thể tránh khỏi nhưng có thể can thiệp để giảm mức độ các
biến chứng và làm chậm quá trình xảy ra biến chứng ở người bệnh ĐTĐ [34].
12
1.2.2.1 Phòng ngừa các biến chứng cấp tính
* Người bệnh:
- Cần được hướng dẫn cách tự theo dõi lượng glucose máu và ceton niệu.
- Tuân thủ chế độ điều trị, chế độ ăn uống.
- Liên hệ ngay với thầy thuốc khi mắc bệnh khác, khi xuất hiện các
triệu chứng bất thường như buồn nôn, sốt, đau bụng, tiêu chảy hoặc nồng độ
glucose máu cao, có ceton niệu dai dẳng…
* Thầy thuốc:
- Thông báo cho bệnh nhân tình hình bệnh tật, cách phát hiện các triệu
chứng hoặc dấu hiệu nguy hiểm cần đi khám bệnh.
- Khi thăm khám định kỳ, phải khám tỉ mỉ để phát hiện những diễn biến
bất thường của bệnh.
1.2.2.2. Phòng ngừa các biến chứng mãn tính
- Giáo dục cho bệnh nhân những kiến thức để lựa chọn một chế độ sinh
hoạt, luyện tập phù hợp với tình trạng bệnh lý của mình.
- Kiểm soát tốt glucose máu ở người bệnh ĐTĐ.
- Điều trị tích cực kết hợp điều chỉnh các rối loạn chuyển hoá lipid, các
rối loạn đông máu, hạn chế tình trạng dễ viêm nhiễm, tăng hoạt động thể lực,
giảm cân, loại bỏ các thói quen không có lợi cho tiên lượng như: hút thuốc lá,
uống rượu, dành nhiều thời gian để xem ti vi và sử dụng máy tính…
- Sàng lọc để phát hiện sớm bệnh lý mắt, cầu thận, thần kinh… do ĐTĐ.
1.3. Điều trị và quản lý điều trị bệnh đái tháo đƣờng
1.3.1. Điều trị đúng – phương pháp dự phòng tích cực nhất cho bệnh nhân
đái tháo đường týp 2
1.3.1.1. Chế độ ăn, uống
- Chế độ ăn phải đạt được mục đích duy trì cân nặng lý tưởng; bệnh
nhân thừa cân, béo phì cần phải giảm cân.
13
- Một chế độ ăn thích hợp phải đáp ứng được các yêu cầu:
+ Đủ calo cho hoạt động sống bình thường
+ Tỷ lệ thành phần đạm, mỡ, đường cân đối
+ Đủ vi chất
+ Chia bữa ăn phù hợp
- Phối hợp với thuốc điều trị (nếu có) [1].
1.3.1.2. Chế độ luyện tập
- Phải coi luyện tập là một biện pháp điều trị, phải thực hiện nghiêm túc
theo trình tự được hướng dẫn.
- Luyện tập phải phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khoẻ và sở thích
cá nhân.
- Nên tập những môn rèn luyện sự dẻo dai bền bỉ hơn là những môn
cần sử dụng nhiều cơ lực [3].
1.3.1.3. Thuốc điều trị trong đái tháo đường týp 2
- Dùng thuốc phải kết hợp với chế độ ăn và luyện tập.
- Phải phối hợp điều trị hạ glucose máu, điều chỉnh các rối loạn pilid,
duy trì HA hợp lý, chống rối loạn đông máu.
- Khi cần thiết phải dùng insulin [1].
1.3.2. Quản lý điều trị người bệnh đái tháo đường týp 2
Theo Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ (American Diabetes Association ADA)
năm 2005, quản lý điều trị bệnh ĐTĐ bao gồm:
* Đánh giá ban đầu
Tập trung vào các thành phần của đánh giá bệnh ĐTĐ toàn diện để trợ
giúp cho nhân viên y tế nhằm đảm bảo chăm sóc tối ưu cho người bệnh ĐTĐ.
- Tiền sử bệnh tật
+ Các triệu chứng, xét nghiệm, biến chứng có liên quan với bệnh ĐTĐ.
14
+ Tiền sử cân nặng, tình trạng dinh dưỡng, mô hình ăn uống.
+ Các chương trình điều trị trước đó, bao gồm: dinh dưỡng, giáo dục tự
kiểm soát bệnh ĐTĐ…
+ Tiền sử tập luyện, dùng thuốc có thể gây tăng glucose máu.
+ Các hành vi lối sống không có lợi cho sức khoẻ: hút thuốc lá, uống rượu.
+ Tiền sử gia đình về bệnh ĐTĐ.
+ Tiền sử mắc và điều trị các bệnh mạn tính: tim mạch, răng miệng, da,
bàn chân, thần kinh,…
- Xét nghiệm: HbA1C, glucose máu lúc đói, lipit máu (cholesterol,
triglycerid) lúc đói, điện tâm đồ (nếu có nghi ngờ bệnh tim trên lâm sàng)
- Chuyển khám chuyên khoa nếu người bệnh có các triệu trứng nghi
ngờ biến chứng của bệnh ĐTĐ hoặc bệnh kèm theo.
* Điều trị
- Kế hoạch điều trị có thể thay đổi tuỳ theo từng trường hợp.
- Khi triển khai điều trị, nên cân nhắc tuổi, công việc và tình trạng
người bệnh, hoạt động thể lực, mô hình ăn uống, tập quán sinh hoạt, các biến
chứng có sẵn và các bệnh kèm theo của người bệnh.
Những khuyến nghị trong quản lý điều trị đối với người bệnh ĐTĐ [25]
Khuyến nghị cho người
Chỉ số
Giá trị bình thường
HbA1C
4- 6%
<7%
Glucose máu lúc đói
3,9 – 6,4 mmlo/l
5,0 – 7,2 mmol/l
Glucose máu sau ăn
bệnh ĐTĐ
<10,0 mmol/l
HA
<120/80 mmHg
<130/80 mmHg
LDL
0,5 – 3,4 mmol/l
<2,6 mmol/l
Triglycerid
0,8 – 2,3 mmol/l
<1,7 mmol/l
HDL
0,9 – 1,5 mmol/l
>1,1 mmol/l
15
* Kiểm soát glucose máu
Kiểm soát glucose máu được đánh giá tốt nhất bằng cách kết hợp kết
quả tự kiểm soát glucose máu của bệnh nhân (nếu được thực hiện) và kết quả
xét nghiệm HbA1C hiện tại.
* Chế độ dinh dưỡng trị liệu
Chế độ dinh dưỡng trị liệu là một thành tố không thể thiếu trong điều trị
và đánh giá tự điều trị bệnh ĐTĐ, nên được áp dụng tuỳ theo từng trường hợp.
* Hoạt động thể lực
Trước khi bắt đầu một chương trình tập luyện thể lực, người bệnh ĐTĐ
nên được đánh giá tình trạng sức khoẻ một cách chi tiết. Việc đánh giá tình
trạng sức khoẻ cho phép thiết kế chương trình tập luyện thể lực cho riêng từng
người bệnh, nhằm giảm thiểu nguy cơ cho người bệnh [17].
1.4. Lịch theo dõi và các chỉ tiêu cần đánh giá của ngƣời bệnh đái tháo đƣờng
1.4.1. Theo dõi thường quy
- Theo dõi định kỳ về sinh hoá để điều chỉnh các chỉ số glucose, lipid,
đông máu cho người bệnh ĐTĐ.
+ Glucose máu lúc đói: lúc đầu 1tháng/1lần, khi đã ổn định có thể 3
tháng/1 lần.
+ Creatinin, urê máu: thường cùng làm với glucose máu lúc đói.
+ Các thăm dò chức năng gan nên được tiến hành trước, trong và sau
một thời gian sử dụng một loại thuốc mới.
+ HbA1C: là chỉ số đánh giá kết quả quản lý lượng glucose máu trung
thành nhất. Buộc phải làm 3 tháng/1 lần, nếu không có điều kiện thì 6
tháng/1lần. Những cơ sở chưa có HbA1C có thể thay bằng theo dõi lượng
glucose máu. Trong trường hợp này, glucose máu lúc đói phải luôn ≤ 6 mmol/l.
+ Microalbumin niệu: phải được thăm dò ngay khi mới phát hiện bệnh
ĐTĐ. Sau đó hàng năm phải được kiểm tra tuỳ theo chỉ định của thầy thuốc.
16
+ Độ ngưng tập tiểu cầu: được theo dõi khi có chỉ định dùng các thuốc
như aspirin và các thuốc chống đông máu khác, thường 3 tháng/1lần.
+ Các chỉ số về lipid máu: 3 – 6 tháng/1lần. Trường hợp đặc biệt chỉ
định theo tình trạng của người bệnh và nhu cầu điều trị.
- Đánh giá hệ thống hormon đối lập: thường 1năm/1lần.
- Những thăm khám định kỳ khác:
+ Khám bàn chân: Khám lần đầu, sau đó 3-6 tháng/1lần.
+ Khám đáy mắt: Khám lâm sàng 6tháng/1lần với người phát hiện
bệnh <5 năm, 3 tháng/1 lần với người ≥ 5năm. Chụp đáy mắt 6-12 tháng/1lần
tuỳ theo mức độ tổn thương lâm sàng.
+ Thăm dò đánh giá chức năng hệ tim mạch: Phải thường xuyên theo
dõi số đo HA. Điện tim thường làm 3 tháng/1lần.
+ Chụp Xquang tim phổi: thường làm 6 tháng/1lần.
+ Kiểm tra, đánh giá tài liệu, theo dõi chế độ ăn uống, chế độ tập luyện,
đo chỉ số khối cơ thể (BMI) thường làm 6 tháng/1lần.
1.4.2. Những chỉ định theo dõi đột xuất
- Chỉ định tuỳ thuộc vào thời điểm xuất hiện các triệu chứng và dấu
hiệu tổn thương của những biến chứng cấp và mạn tính [1].
1.5. Tình hình quản lý bệnh đái tháo đƣờng trên thế giới và ở Việt Nam
1.5.1. Tình hình quản lý bệnh đái tháo đường trên thế giới
- Tạ Văn Bình dẫn theo một thông báo của Hiệp hội ĐTĐ Quốc tế cho thấy:
+ Năm 1994: Cả thế giới có 110 triệu người mắc bệnh ĐTĐ.
+ Năm 1995: Cả thế giới có 135 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, chiếm 4%
dân số toàn cầu.
+ Năm 2000: có 151 triệu người mắc bệnh ĐTĐ.
+ Dự báo năm 2010 sẽ có 221 triệu người mắc bệnh ĐTĐ.
17
- Ở các nước phát triển, bệnh ĐTĐ chiếm tỷ lệ trung bình là 6,2% (năm
2003), dự báo tỷ lệ này sẽ là 7,6% (vào năm 2030).
- Tỷ lệ bệnh ĐTĐ tăng nhanh ở các quốc gia có nền kinh tế đang phát
triển là do có sự thay đổi nhanh chóng về lối sống, thói quen ăn uống, nhất là
lối sống ít hoạt động thể lực [2].
- Theo số liệu công bố tại Hội nghị ĐTĐ tháng 12/2007 tại Singapore,
số bệnh nhân ĐTĐ ở 10 nước điển hình như sau [12]:
Số bệnh nhân ĐTĐ
Số bệnh nhân ĐTĐ
năm 1995 (triệu người)
năm 2025 (triệu người)
Ấn Độ
19,4
57,2
Trung Quốc
16,0
37,6
Mỹ
13,9
21,9
Nga
8,9
12,2
Nhật Bản
6,3
8,5
Indonesia
4,5
12,4
Brazil
4,9
11,6
Mexico
3,8
11,7
Pakistan
4,3
14,5
Ukraina
3,6
8,8
Tên nước
Theo Manjula S. (2007), khu vực Đông Nam Á có hơn 45 triệu người
mắc bệnh ĐTĐ. Hơn 95% số này là ĐTĐ týp 2, chiếm 20 % tổng tỷ lệ mới
mắc trên toàn thế giới. Ấn Độ có số người mắc bệnh ĐTĐ cao nhất thế giới
(hơn 40 triệu người) [53].
Cortez – Dias N và cộng sự (2010) nghiên cứu trên 16.856 người có
tuổi trung bình là 58,1 ±15,1, 61,6% là nữ giới, với 3.215 người mắc bệnh
18
ĐTĐ. Kết quả cho thấy trong nhóm người bệnh ĐTĐ, 90,2% được điều trị
bằng các thuốc hạ đường huyết và 51,7% có nồng độ HbA1C <7%. Trong số
những bệnh nhân cao HA bị ĐTĐ, 78,4% được dùng thuốc hạ HA nhưng chỉ
9,3% có chỉ số HA < 130/80mmHg. Hiệu quả của việc kiểm soát bệnh ĐTĐ
có tác động mạnh tới nguy cơ biến chứng lâu dài. Việc quản lý bệnh ĐTĐ tại
cơ sở chăm sóc sức khoẻ ban đầu ở Bồ Đào Nha có thể và nên được cải thiện,
vì 9,8% số người bệnh không được điều trị và 48,3% không được kiểm soát
bệnh [36].
Braga M. và cộng sự (2010) nghiên cứu 3.002 bệnh nhân điều trị ngoại
trú mắc bệnh ĐTĐ týp 2 tại cơ sở chăm sóc sức khoẻ ban đầu ở Canada và
thấy rằng 46% bệnh nhân có chỉ số huyết áp ở trên mức được Hiệp đội CTĐ
Canada khuyến nghị. Trong số này, 11% không được điều trị, 28% dùng đơn
trị liệu [30].
Johnson-Spruill và cộng sự (2009) nghiên cứu 1.276 người bệnh ĐTĐ
týp 2 thấy rằng 55,6% người bệnh có tập luyện, nhưng chỉ 27,7% tự kiểm soát
glucose máu [43].
Frei A và cộng sự [39] nghiên cứu đặc điểm của bệnh nhân đái tháo
đường týp 2 được kiểm soát không tốt tại cơ sở chăm sóc ban đầu của Thụy
Sỹ cho thấy yếu tố nguy cơ liên quan đến quản lý không tốt đó là bệnh nhân
mắc bệnh kèm theo với đái tháo đường, điều trị không đúng phác đồ và hành
vi sức khỏe không đúng.
Wald NJ và cộng sự [70] cho nghiên cứu mối liên quan trọng lượng cơ
thể và đái tháo đường týp 2 cho thấy: giảm trọng lượng sẽ làm giảm nguy cơ
đái tháo đường týp 2.
Savill P [62] nghiên cứu phát hiện đái tháo đường týp 2 và yếu tố nguy
cơ tại Anh cho thấy tuổi, lối sống, bệnh kèm theo như bệnh tim mạch, bệnh
19
não, buồng trứng đa nang, tiền sử do thai, đái tháo đường, bệnh tâm thần là
yếu tố liên quan đến đáo tháo đường. Gopichandran V và cộng sự [40] nghiên
cứu dựa vào cộng đồng ở vùng nông thôn phía Nam Ấn Độ về các hoạt động
tự chăm sóc bệnh đái tháo đường cho thấy tình trạng gia đình khó khăn, kinh
tế - xã hội thấp, bệnh nhân mắc bệnh trầm cảm và thời gian mắc bệnh dài là
các yếu tố liên quan đến tình trạng chăm sóc đái tháo đường kém.
Coffman MJ và cộng sự [34] nghiên cứu yếu tố nguy cơ ở bệnh nhân
đái tháo đường triệu chứng cho thấy học vấn thấp, tiếp cận dịch vụ y tế khó
khăn, kiến thức về đái tháo đường týp 2 thấp là yếu tố liên quan đến đái tháo
đường triệu chứng týp 2 ở người Latino.
Chew BH và cộng sự [33] nghiên cứu yếu tố nguy cơ tăng huyết áp ở
bệnh nhân đái tháo đường là người dân tộc thiểu số Malaysia cho thấy người
già, mới được chẩn đoán đái tháo đường, quá cân, không có bác sỹ theo dõi,
dùng thuốc giảm huyết áp không hợp lý là yếu tố liên quan đến tăng huyết áp
ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 người dân tộc Malaysia.
Umegaki H và cộng sự nghiên cứu yếu tố nguy cơ liên quan đến giảm
nhận thức ở người già Nhật Bản đái tháo đường týp 2 cho thấy bệnh nhân mắc
thêm bệnh thận, tăng huyết áp, tăng triglycerid máu liên quan đến giảm nhận
thức ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 ở Nhật [68].
1.5.2. Tình hình quản lý bệnh đái tháo đường tại Việt Nam
Năm 2010, Việt Nam có 5 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, trong đó có đến
65% người bệnh không hề biết mình mắc bệnh. Với tỉ lệ bệnh nhân tăng từ 8 10% /năm, Việt Nam trở thành nước có tỉ lệ gia tăng ĐTĐ nhanh nhất thế giới.
Theo Hoàng Kim Ước, hiện chưa có thuốc chữa khỏi bệnh ĐTĐ, nhưng
bệnh có thể điều trị và kiểm soát được. Để quản lý bệnh ĐTĐ, trước tiên cần
đưa được đường huyết của người bệnh trở về mức bình thường hoặc gần bình
20
thường thông qua các liệu pháp phối hợp giữa dinh dưỡng, thuốc hạ đường
huyết, và hoạt động thể lực. Cùng với kiểm soát đường huyết, người bệnh cần
được kiểm soát tốt tình trạng rối loạn mỡ máu, tăng HA, tình trạng đông máu,
bỏ thuốc lá và các yếu tố nguy cơ tim mạch khác (nếu có). Những điểm mấu
chốt trong quản lý bệnh là người bệnh phải lập được kế hoạch bữa ăn phù hợp
(với sự tư vấn của các chuyên gia dinh dưỡng) và thực hiện. Tập thể dục đều
đặn, sử dụng thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ. Chú ý cách dùng thuốc và thời
gian dùng thuốc, biết cách tự theo dõi và quản lý bệnh, kiểm tra định kỳ tại
các cơ sở y tế. Bác sĩ cần động viên người bệnh rằng những điều người bệnh
thực hiện ở nhà hàng ngày có ảnh hưởng đến đường máu của họ nhiều hơn là
điều bác sĩ có thể làm được cho họ khi họ đến khám định kỳ [17].
Theo Nguyễn Vinh Quang và cộng sự (2006), việc quản lý và điều trị
bệnh ĐTĐ ở Nam Định và Thái Bình trong năm 2003 chưa tốt, kiểm soát
đường huyết còn rất kém (65,06% kiểm soát kém đường huyết khi đói,
54,22% bệnh nhân đang điều trị ĐTĐ vẫn có tăng HA) [11].
Nghiên cứu của Nguyễn Minh Sang và cộng sự (2007) trên 104 bệnh
nhân ĐTĐ týp 2 thấy 64,4% số bệnh nhân theo dõi đường huyết tại cơ sở y tế,
29,8% tự theo dõi đường huyết tại nhà và 5,8% số bệnh nhân hầu như không
được theo dõi đường huyết. 80,8% số bệnh nhân kiểm soát đường huyết kém,
12,5% kiểm soát đường huyết tốt (HbA1C< 6,5%) [15].
Nguyễn Thị Ngọc Hân và cộng sự (2010) nghiên cứu 165 bệnh nhân
ĐTĐ týp 2 và nhận thấy rằng 62,4% số bệnh nhân chấp hành tốt việc điều trị.
65,5% số bệnh nhân kiểm soát tối ưu BMI, 40% về huyết áp, 32,1% về
cholesterol, 33,3% về triglycerid, 30,3% về Glucose máu và 31,5% về
HbA1C [8].
21
Tạ Văn Bình theo dõi HbA1C ở người bệnh ĐTĐ tại Việt Nam thấy chỉ
có 5-10% quản lý bệnh tốt, 20% đạt yêu cầu, vẫn còn 70-75% không đạt yêu
cầu [4].
Theo Vũ Thị Tuyết Mai [9], nghiên cứu thực trạng đái tháo đường týp
2 tại TTYT thị xã Chí Linh năm 2011 cho thấy 29,7% bệnh nhân được kiểm
tra glucose 1 tháng/lần, 49,4% được kiểm tra HA 1 tháng/lần, 58,8% người
bệnh kiểm tra glucose máu chưa tốt, 46,9% điều trị bệnh bằng đơn trị liệu.
Tác giả cũng cho thấy thuận lợi trong quản lý là 100% được khám và điều trị
theo bảo hiểm y tế, 43,8% có sự trợ giúp của gia đình và người thân trong quá
trình khám và điều trị, 71,6% tập luyện thể lực thường xuyên, 90,7% không
hút thuốc lá, thuốc lào, 88,3% không uốn rượu, bia, hạn chế ăn đồ ngọt…
22
Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu bao gồm:
+ Toàn bộ bệnh nhân ĐTĐ týp 2 đang được quản lý, điều trị ngoại trú
tại Phòng khám Bệnh viện Chí Linh trong thời gian nghiên cứu.
+ Cán bộ quản lý chung công tác khám và điều trị bệnh ĐTĐ tại Phòng
khám Bệnh viện Chí Linh.
+ Người trực tiếp khám, điều trị và quản lý bệnh nhân ĐTĐ týp 2 tại
Phòng khám Bệnh viện Chí Linh.
*Tiêu chuẩn loại trừ
+ Những bệnh nhân ĐTĐ từ chối tham gia nghiên cứu.
+ Những bệnh nhân ĐTĐ già yếu, không có khả năng nghe và nói.
2.1.2. Địa điểm tiến hành nghiên cứu:
Tại Phòng khám Bệnh viện Chí Linh, tỉnh Hải Dương
2.1.3. Thời gian tiến hành nghiên cứu:
Từ tháng 12 năm 2012 đến tháng 10 năm 2013.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, kết hợp giữa định lượng và định tính.
2.2.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu:
- Đối với nghiên cứu định lƣợng:
+ Cỡ mẫu: Nghiên cứu định lượng tiến hành trên toàn bộ bệnh nhân
ĐTĐ týp 2 đang được điều trị ngoại trú tại Phòng khám bệnh viện Chí Linh
và bệnh án ngoại trú của họ trong thời gian từ tháng 12 năm 2012 đến tháng
10 năm 2013.
23
(Dự kiến khoảng # 500 bệnh nhân)
+ Cách chọn mẫu: Chọn mẫu toàn bộ
- Đối với nghiên cứu định tính
+ Cỡ mẫu:
01 Lãnh đạo Bệnh viện Chí Linh
01 Bác sĩ trực tiếp quản lý điều trị bệnh nhân ĐTĐ.
01 Y tá (điều dưỡng) trực tiếp quản lý, theo dõi, ghi chép hồ sơ bệnh án
ngoại trú của bệnh nhân ĐTĐ.
30 bệnh nhân ĐTĐ; chia thành 2 nhóm để thảo luận, mỗi nhóm 15
bệnh nhân.
+ Cách chọn mẫu: Chọn chủ đích
2.2.3. Công cụ và phương pháp/ tổ chức thu thập số liệu
2.2.3.1 Công cụ thu thập số liệu
- Thu thập số liệu định lƣợng:
Bệnh án bệnh nhân ĐTĐ týp 2 đã được thiết kế trước.
- Thu thập số liệu định tính:
+ Hướng dẫn phỏng vấn sâu người quản lý chung : Bác sỹ Nguyễn Thị
Thu; Phó giám đốc bệnh viện, Kiêm trưởng phòng KHNV.
+ Hướng dẫn phỏng vấn sâu bác sỹ điều trị bệnh nhân ĐTĐ: Bác sỹ
Nguyễn Thị Yến C
+ Hướng dẫn phỏng vấn sâu y tá điều dưỡng trực tiếp quản lý, theo dõi,
ghi chép hồ sơ bệnh án ngoại trú của bệnh nhân; Điều dưỡng Nguyễn
Thị Hoài
+ Hướng dẫn thảo luận nhóm bệnh nhân ĐTĐ.
24
2.2.3.2. Phương pháp/tổ chức thu thập số liệu
* Chuẩn bị thu thập số liệu
- Xây dựng và thử nghiệm bộ câu hỏi: Phiếu thu thập thông tin người
bệnh (nghiên cứu định lượng) và bộ Hướng dẫn phỏng vấn sâu (nghiên cứu
định tính) được soạn thảo và soạn thảo riêng cho các đối tượng nghiên cứu.
Bộ công cụ được thử nghiệm, chỉnh sửa và hoàn thiện dựa trên kết quả của
thử nghiệm và ý kiến đóng góp của giáo viên hướng dẫn.
* Thu thập số liệu qua Phiếu thu thập thông tin bệnh nhân
- Nghiên cứu viên báo cáo và xin ý kiến cuả lãnh đạo Bệnh viện Chí
Linh, được sử dụng bệnh án ngoại trú của bệnh nhân.
- Phiếu thu thập thông tin sẽ được kiểm tra tính đầy đủ và logic ngay
sau khi thu thập. Nếu phiếu nào thiếu thông tin hoặc thông tin không hợp lý
sẽ được thu thập lại.
- Vào sáng thứ 5 hàng tuần (ngày dành riêng để khám bệnh ĐTĐ),
nghiên cứu viên sẽ trực tiếp phỏng vấn bệnh nhân theo câu hỏi thiết kế sẵn
trong phiếu thu thập tại Phòng khám theo hẹn. Các thông tin sẽ được thu thập
thêm tại gia đình bệnh nhân (nếu cần).
* Thu thập số liệu qua bộ Hướng dẫn phỏng vấn sâu người quản lý chung và
người trực tiếp khám và điều trị bệnh nhân.
- Học viên trực tiếp phỏng vấn:
+ Phó giám đốc bệnh viện- kiêm Trưởng phòng KHNV phụ trách công
tác khám chữa bệnh ngoại trú.
+ Bác sỹ-Trưởng phòng khám bệnh
+ Bác sỹ trực tiếp khám và điều trị
+ Điều dưỡng viên- người trực tiếp theo dõi, ghi chép hồ sơ bệnh án
ngoại trú của bệnh nhân ĐTĐ.
- Các cuộc phỏng vấn được xin phép ghi âm.
25
* Thu thập số liệu qua Thảo luận nhóm:
- Trong quá trình thu thập số liệu từ bệnh án ngoại trú, học viên chọn
ngẫu nhiên 30 bệnh nhân (trong buổi sáng thứ năm hàng tuần chọn bệnh nhân
đăng ký khám số thứ tự 05, 10, 15, 20 vào danh sách thảo luận nhóm)
- Sau khi chọn được những bệnh nhân này, học viên đánh dấu số bệnh
án ngoại trú, ghi địa chỉ và số điện thoại của họ. Học viên gọi điện cho từng
bệnh nhân, đặt lịch hẹn 2 cuộc thảo luận nhóm, mỗi nhóm 15 bệnh nhân.
- Các cuộc thảo luận nhóm được thực hiện tại Phòng hành chính của
Bệnh viện Chí Linh theo bộ Hướng dẫn có sẵn.
- Các cuộc thảo luận nhóm đều được xin phép chụp ảnh và ghi âm.
2.2.4. Các chỉ số nghiên cứu
2.2.4.1. Các chỉ số nghiên cứu trong nghiên cứu định lượng
Mục tiêu
nghiên cứu
1.Mô tả thực
trạng quản lý
bệnh đái tháo
đường týp 2
tại Phòng
khám Bệnh
viện Chí
Linh Hải
Dương năm
2013
Chỉ số nghiên cứu
Công cụ và
phƣơng pháp
thu thập TT
Phân bố bệnh nhân đái tháo đường theo tuổi và
giới
Bệnh án,
Ghi chép
Phân bố bệnh nhân đái tháo đường theo nghề
nghiệp
Bệnh án,
Ghi chép
Phân bố bệnh nhân đái tháo đường theo trình độ Bệnh án,
học vấn
Ghi chép
Tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường theo kinh tế hộ
gia đình và tình trạng sống (14)
Phỏng vấn,
Ghi chép
Tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường được quản lý tốt Bệnh án,
Ghi chép
Tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường được quản lý tốt Bệnh án,
theo giới
Ghi chép
Tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường theo nhóm tuổi Bệnh án,
và thời gian mắc bệnh
Ghi chép