ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ thời xa xưa, răng mọc chen chúc không đều đã là mối bận tâm của
nhiều người, nhiều gia đình, những khiếm khuyết về hàm răng đó gõy tác
động xấu đến tâm lý cũng như sự mất tự tin trong giao tiếp xã hội.
Tại Mỹ: Theo thống kê chỉ 1/3 dân số có khớp cắn bình thường, còn 2/3
dân số bị sai khớp cắn ở một mức độ nào đó.[2].
Tại Việt Nam: Hiện đang phải đối mặt với những vấn đề sâu răng, mất
răng, viêm lợi, những diễn biến về lệch lạc khớp cắn ở tuổi học đường do
những bất thường tới sự phát triển của răng, thãi quen xấu về răng miệng,
răng sữa tồn tại lâu trên cung hàm hay răng sữa mất sớm, đang là những yếu
tè làm gia tăng các bệnh răng miệng và cũng đang là những nguy cơ tiềm Èn
gây rối loạn chức năng như khó cử động hàm, ăn nhai khó và làm xấu khuân
mặt.
Theo điều tra của nhiều tác giả cho thấy tỷ lệ người bị lệch lạc khớp cắn
trong cộng đồng là rất lớn chiếm từ 80% đến trên 90%.[1].[3]. [8]. Trẻ bị sai
lệch khớp cắn nếu không được can thiệp kịp thời sẽ gây ảnh hưởng xấu tới
chức năng, thẩm mỹ và sức khỏe răng miệng.
Những năm gần đây ở Việt Nam với sự quan tâm của các bác sỹ Răng-
Hàm- Mặt cũng như sự mong muốn của các bậc phụ huynh về điều trị dự
phòng lệch lạc răng cho trẻ ngày càng cao và chính sự quan tâm này đã
mang lại cho trẻ một hàm răng bền vững, khỏe đẹp. Ngày nay trẻ được tiếp
cận với những phương tiện, kỹ thuật chỉnh nha hiện đại hơn và loại hàm
gắn chặt chiếm rất nhiều ưu thế so với hàm tháo lắp, song đờ̉ có được
phương pháp điều trị dự phòng phù hợp với trẻ bị lệch lạc răng thì một
việc làm không thể thiếu đó là điờ̀u tra tình trạng khớp cắn của trẻ và từ đó
1
áp dụng những phương pháp can thiệp đơn giản, hữu hiệu, đỡ tốn kém.
Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
Nhận xét thực trạng khớp cắn và một số yếu tố liên quan tới lệch lạc
khớp cắn của trẻ 9 - 12 tuổi tại thành phố Hòa Bình.
Nhằm 2 mục tiêu sau:
1. Nhận xét thực trạng khớp cắn của học sinh 9 - 12 tuổi tại thành phố
Hòa Bình, năm 2011.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan tới lệch lạc khớp cắn của học sinh 9-
12 tuổi nơi nghiên cứu và đề xuất các phương pháp can thiệp dự phòng.
2
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. MẤY NẫT VỀ SỰ PHÁT TRIỂN XƯƠNG VÙNG HÀM MẶT.
1.1.1. sự tăng trưởng của xương sọ.[13]
Sự tăng trưởng của nền sọ Trái với vòm sọ, các xương nền sọ được tạo
thành ban đầu dưới hình thức sụn và sau đó được biến đổi thành xương bởi
sự hình thành xương từ sụn. Những vùng phát triển quan trọng của nền sọ
là các đường khớp sụn giữa xương bướm và xương chẩm, giữa hai phần
của xương bướm, và giữa xương bướm và xương sàng. Về mô học, các
đường khớp sụn này gióng như bản sụn có ở hai mặt của đầu xương chỉ.
Vùng nằm giữa hai xương chứa sụn đang tăng trưởng. Đường khớp sụn
này gồm có vùng tăng sản tế bào ở giữa và nhóm tế bào sụn trưởng thành
trỉa dài ở hai đầu, mà sau này sẽ được thay thế bởi xương.
1.1.2. Sự tăng trưởngcủa xương mặt.[13], [17].
Sự tăng trưởng của xương hàm trên và xương khẩu cái. Xương hàm trên
phát triển sau khi sinh bằng sự hình thành từ xương màng. Sự tăng trưởng
của răng hàm trên ảnh hưởng lớn đến tầng giữa của mặt. Xương hàm trên
tăng trưởng theo ba chiều trong không gian
- Chiều rộng
Sự tăng trưởng theo chiều rộng của xương hàm trên là do đường khớp
xương, đắp xương ở mặt ngoài thân xương hàm và sự tạo xương ổ do mọc
răng. Trong sự phát triển, xương ổ răng ngày hôm nay có thể trở thành một
phần nền xương hàm trong ngày mai
- Chiều cao
3
Có sự phối hợp của nhiều yếu tố làm tăng chiều cao mặt Sự phát triển của
nền sọ cũng ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của chiều cao mặt. Sự tăng
trưởng của vách mũi, các đường khớp xương, phần lớn là do sự tăng
trưởng của xương ổ răng về phía mặt nhai.
- Chiều trước sau
Sự đắp xương bề mặt nhất là sự đắp xương ở mặt sau của nền hàm để cung
cấp chỗ cho răng cối vĩnh viễn
1.1.3. Sự tăng trưởng của xương hàm dưới.
Mọc răng và tiêu xương ổ răng. Có thể nói xương hàm dưới bị dịch
chuyển xuống dưới và ra trước đồng thời tăng kích thước là do phát triển
ra sau và lên trên, quá trình bồi xương và tiêu xương tại xương hàm dưới.
Mặt khác hướng phát triển của nó còn bị ảnh hưởng bởi sự phát triển của ổ
chảo xương thái dương. Trong quá trình phát triển nếu vùng này di chuyển
ra trước thỡ nó sẽ đẩy xương hàm dưới ra trước. Ngược lại, nếu vùng này
di chuyển ra sau hoặc thẳng xuống dưới thỡ nó lại đẩy xương hàm dưới lùi
ra sau.
1.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BỘ RĂNG. [15],[18]. [31].
Quá trình hình thành và phát triển bộ răng sữa là giai đoạn đầu tiên
đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển của toàn bộ hệ thống
nhai sau này, khoảng 3 tuổi khớp cắn bộ răng sữa được thiết lập hoàn chỉnh.
Khớp cắn này được duy trì và phát triển liên tục cho đến khoảng 5 tuổi. Ở
thời điểm này các răng vĩnh viễn bắt đầu mọc, khoảng từ 3 đến 5 tuổi là giai
đoạn tương đối ổn định nhất của bộ răng sữa và đây cũng là giai đoạn có ý
nghĩa quan trọng đối với sự mọc và phát triển của các răng vĩnh viễn thay thế.
1.2.2 Giai đoạn từ 2,5 đến 6 tuổi
Đây là giai đoạn ổn định cửa hàm răng sữa
Lúc 3 tuổi, tất cả các răng sữa đã được hàn tất (kín cuống).
4
Thân RHL thứ nhất đã phát triển đầy đủ và chân răng đang được thành lập.
Giữa 3- 6 tuổi các răng vĩnh viễn tiếp tục phát triển nhất là các răng cửa.
Từ 5-6 tuổi, ngay trước khi các răng sữa bắt đầu rụng đi là giai đoạn cá nhiều
răng trên cung hàm nhất. Các răng vĩnh viễn đang phát triển sẽ dịch chuyển
gần hơn về phía bờ trên xương ổ răng, cuống các chân răng sữa bắt đầu tiêu,
răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất bắt đầu chuẩn bị mọc. Sự tác động lẫn nhau
của phức hợp nhiều lực lên cung hàm có tác dụng duy trì sự ổn định của cung
hàm. Giảm chiều dài cung răng do sâu, do mất sớm răng sữa có thể gây ra
khớp cắn sai lạc do các răng thiếu chỗ mọc.
1.2.3. Giai đoạn 6-10 tuổi:
Giữa 6-7 tuổi, răng hàm lớn thứ nhất mọc lên, đây là răng vĩnh viễn đầu
tiên mọc qua lợi và khoang miệng. Các răng cửa giữa sữa rụng đi và răng
vĩnh viễn thay thế chúng bắt đầu mọc lên và trạm khớp với răng cửa đối diện.
Thường là răng cửa giữa HD mọc trước, sau đó mới đến răng cửa giữa HT.
Các răng cửa HD thường mọc về phía lưỡi so với các răng sữa và di chuyển
ra trước áp lực lưỡi. Răng cửa giữa HT xuất hiện lúc ban đầu là những chỗ
phồng lớn ngách tiền đình phía trên các răng sữa.
Khoảng thời gian 7-8 tuổi là rất quan trọng đối với sự phát triển của
hàm răng. Liệu có đủ chỗ cho các răng hay không ? Do đó việc khám định kỳ
là rất quan trọng. Đôi khi việc kiểm tra X-quang sẽ phát hiện được những
chân răng sữa tiêu bất thường, thiếu hay thừa răng bẩm sinh. Nếu có sự thiếu
chỗ nhiều, cần có một kế hoạch chi tiết để nhổ răng có hướng dẫn, điều này sẽ
làm giảm bớt những vấn đề phải can thiệp chỉnh nha sau này.
Từ 7-8 tuổi các răng cửa bên HD mọc. Răng cửa bên HT mọc sau đó 1
năm. Nếu không có đủ chỗ cho răng này, thời gian mọc sẽ bị chậm lại, răng sẽ
bị mọc lệch vào trong hoặc xoay. Trong truờng hợp này có thể phải nhổ răng
nanh sữa trước khi răng này rụng, dựa vào kiểm tra phim X-quang. Nếu chậm
5
trễ răng cửa bên sẽ mọc về phía hàm ếch và gây nên khớp cắn ngược với
răng cửa dưới. Sau khi răng cửa giữa, cửa bờn đó mọc đúng vị trí thì cuống
răng vẫn còn mở rộng và chưa thể đống kín ít nhất là trong vòng một năm
nữa.
Khoảng 9-10 tuổi, tất cả các răng vĩnh viễn trừ RHL thứ ba đã được
hình thành xong phần thân răng và lắng đọng canxi.Trong thời gian này,
cuống răng nanh sữa RHS bắt đầu tiêu, thông thường quá trình tiêu chân răng
này xảy ra ở bé gái sớm hơn bé trai từ 1-1,5 năm. Tổng kích thước theo chiều
gần xa của răng nanh sữa, RHS thứ nhất, thứ hai lớn hơn tống kích thước gần
xa của răng nanh vĩnh viễn, RHS thứ nhất, thứ hai khoáng 1.7mm ở HD,
0.9mm ở HT mỗi bên. Khoảng chênh lẹch này được Nance gọi là “ leeway”.
Khoảng sẵn có không phải là yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến quá trình
mọc của các răng vĩnh viễn và sự tiêu của các răng nanh sữa. Bệnh thiểu năng
tuyến giáp cũng làm các chân răng sữa tiêu bất thường, chậm mọc răng, răng
sữa tồn tại lõu trờn cung hàm, hình dạng răng bất thường, các rối lợn ở lợi.
Bất thường áp lực cơ do yếu tố di truyền, do thúi quyờn mút môi , mút ngón
tay, đẩy lưỡi cũng làm ảnh hưởng đến sự phát triển của bộ răng.
1.2.4. Giai đoạn 10-12 tuổi:
Đây là giai đoạn răng hỗn hợp muộn .
Giai đoạn này hàm răng hỗn hợp chuyển sang răng vĩnh viễn.
Răng nanh sữa và răng hàm sữa thứ nhất HD thường rụng cựng lỳc,
ngay sau đó là RHS thứ nhất HT. Thông thường ở HD, răng nanh vĩnh viễn
mọc trước RHN thứ nhất và thứ hai. Ở HT răng hàm nhỏ thứ nhất mọc trước,
sau đó đến RHN thứ hai và răng nanh. Một quy tắc quan trong là duy trì sự
thay răng tương xứng ở hai bên cung hàm. Ví dụ, nếu RHS thứ nhất HT bên
trái rụng đi bình thường mà RHS bên phải vẫn tồn tại, chụp phim có thể thấy
6
chân gần hoặc chân xa của nó không tiêu hoặc tiêu rất ít, khi đú nờn nhổ răng
này đi.
Sau khi RHS thứ hai rụng, sảy ra sự điều chỉnh khớp cắn của RHL thứ
nhất. Múi ngoài gần của RHL thứ nhất HT cắn khớp với rãnh ngoài của RHL
thứ nhất HD. Khuynh hướng khớp cắn loại II ở hàm răng sữa và răng hỗn hợp
sẽ không còn tồn tại nữa. Ở giai đoạn này những biện pháp chỉnh nha dự
phòng hoặc can thiệp chỉnh nha rất có hiệu quả, có thể ngăn ngừa được sự
lệch lạc khớp cắn sau này.
RHL thứ hai thường mọc ngay sau RHN thứ hai một thời gian ngắn.
Tuy nhiên theo Hurme, có thể RHL thứ hai mọc trước RHN thứ hai trong 17%
trường hợp. Khi đó, RHL thứ nhất có thể bị nghiêng về phía gần. Hiện tượng
này càng trầm trọng hơn nếu ở bệnh nhân bị mất sớm RHS thứ hai. Do đó, tương
quan RHL thứ nhất càng sai lệch nhiều hơn, RHN thứ hai sẽ bị mọc chậm hoặc
mọc lệch về phía lưỡi, thậm chí có thể bị kẹt hoàn toàn không mọc được.
1.2.5 Giai đoạn sau 12 tuổi:
Kể từ khi rằn hàm lớn thứ hai mọc hoàn toàn, khớp cắn đã được hình
thành tương đối hoàn chỉnh theo cả ba chiều: trước - sau, chiều ngang và
chiều đứng.
Có nhiều trường hợp, mới đầu tương quan vùng răng cửa vĩnh viễn
bình thường, nhưng khi RHL thứ hai và nhất là RHL thứ ba mọc tạo một áp
lực đẩy ra truớc làm xô lệch nhóm răng cửa, đặc biệt là răng cửa dưới.
Túm tắt thời kỳ mọc và thứ tự mọc của răng vĩnh viễn:
* Thời kỳ mọc răng vĩnh viễn.
Việc thành lập bộ răng vĩnh viễn gắn liền với sự tồn tại của của bộ răng
sữa trước đó, thời gian diễn ra sự rụng răng sữa và mọc răng vĩnh viễn có thể
kéo dài từ 5 – 6 tuổi đến 10 – 12 tuổi.
7
Thời kỳ mọc răng vĩnh viễn.
R.số 1 2 3 4 5 6 7 8
Hàm trên
(tuổi)
7-8 8-9 11-12 10-11
11-
12
6-7 12-13
17-21 Nam
18-25 Nữ
Hàm dưới
(tuổi)
6-7 7-8 9-11 10-11
11-
12
6-7 11-13 17-21
Thứ tự mọc răng (Mc Donal RE & AveryPor)
Số thứ tự
răng mọc
1 2 3 4 5 6 7 8
Hàm trên a 6 1 2 4 5 3 7 8
b 6 1 2 4 3 5 7 8
Hàm
dưới
a 1 6 2 4 3 5 7 8
b 1 6 2 3 4 5 7 8
a: Thường xảy ra
b: Đôi khi
1.2.6. Sự thay đổi của cung hàm trong quá trình răng vĩnh viễn thay răng
sữa theo chiều gần xa. [7].[9].[26].[27].[28].
* Sự thay đổi khi răng cửa sữa thay bằng răng cửa vĩnh viễn:
Do thay đổi kích thước giữa răng sữa và răng vĩnh viễn dẫn đến những
thay đổi về tình trạng răng, khớp cắn nhiều nhất. Sự biến đổi chiều hướng
mọc răng, sự loại bỏ khe hở giữa các răng, sự mòn răng theo thời gian và ảnh
hưởng của cơ trong giai đoạn từ 6 - 12 tuổi có nhiều thay đổi nhất. Sau 12 tuổi
thường rắt ít biến đổi, gần như là ổn định.
8
Sự khác biệt về kích thước răng sữa và răng vĩnh viễn (Meyers - 1976)
Răng cửa
(mm)
Răng nanh/răng
hàm nhỏ (mm)
Tổng (mm)
Hàm
trên
Răng vĩnh viễn 31,6 43,0 74,6
Răng sữa 23,4 44,6 68,0
Chênh lệch 8,2 -1,6 6,6
Hàm
dưới
Răng vĩnh viễn 23,0 42,2 65,2
Răng sữa 17,4 47,0 64,4
Chênh lệch 5,6 -4,8 0,8
* Sự thay đổi khi thay răng nanh, răng hàm.
* Sự thay đổi cung hàm theo chiều ngang.
Từ lúc sinh tới lúc 2 tuổi khoảng cách giữa hai răng cửa tăng 5mm ở
hàm trên và 3 mm ở hàm dưới. Lúc 12 tuổi khoảng cách tăng thêm 5mm và
không thay đổi từ đó. Vùng răng hàm lúc mọc răng sữa đến lúc 12 tuổi tăng
0,5mm hàm trên và 2mm hàm dưới.
* Sự thay đổi cung hàm theo chiều đứng: Từ răng sữa đến răng vĩnh
viễn được thực hiện bởi xương ổ răng và sự mọc răng.
1.2.7. Sự thay đổi của khớp cắn răng sữa sang răng vĩnh viễn. [39]
Sự thay đổi quan hệ răng hàm phụ thuộc vào các yếu tố:
- Tương quan RHS thứ hai
- Sự phát triển của xương hàm
- Khoảng leeway.
- Sự hiện diện của khe hở trên cung hàm: khe hở tiờn phỏt giữa răng
nanh và RHS thứ nhất ở HD, khe hở giữa các RHS.
- Mất RHS sớm.
9
1.3. KHỚP CẮN BÌNH THƯỜNG.
1.3.1. Tương quan giữa các răng trong một hàm[15].
1.3.1.1. Chiều trước sau: Tất cả các răng đều tiếp xúc nhau ở cả mặt gần
và xa, trừ răng khôn chỉ có một điểm tiếp xúc.
1.3.1.2. Độ nghiêng ngoài trong của răng
+ Hàm trên: Các răng sau hơi nghiêng về phía ngoài
+ Hàm dưới: Các răng sau hơi nghiêng về phía trong
Đường cong Wilson: là đường cong lõm lên trên đi qua đỉnh múi ngoài
và trong các răng sau hàm dưới.
1.3.1.3. Độ nghiêng gần xa của răng
Đường cong SPEE: là đường cong lõm lên trên, đi qua đỉnh múi răng
nanh và đỉnh múi ngoài các răng hàm nhỏ, hàm lớn hàm dưới.
1.3.2. Tương quan giữa các răng hàm trên và hàm dưới.
1.3.2.1. Độ cắn chìa: là khoảng cách giữa bờ cắn răng của hàm trên và hàm
dưới theo chiều trước sau. Trung bình ở người Việt Nam là 2,79 ± 1,29 mm.
1.3.2.2. Độ cắn phủ: là khoảng cách giữa bờ cắn răng cửa hàm trên và
hàm dưới theo chiều đứng khi hai hàm cắn khớp. Trung bình ở người Việt
Nam là 2,89 ± 1,45 mm.
1.3.2.3. Đường cắn khớp: là đường nối cỏc mỳi ngoài của răng sau và
bờ cắn các răng trước hàm dưới hoặc là đường nối trũng giữa các răng sau và
cingulum các răng trước hàm trên. Đường cắn khớp là một đường cong đối
xứng, liên tục và đều đặn, khi hai hàm cắn khớp chúng chồng khớt lờn nhau
1.3.3. Quan niệm khớp cắn bình thường của ANDREWS:
Gồm 6 đặc tính và nó là mục tiêu của điều trị Chỉnh hình răng mặt [14].
10
1.3.3.1. Tương quan ở vùng răng hàm:
• Gờ bên xa múi ngoài răng 6 hàm trên tiếp xúc gờ bên gần múi ngoài
gần răng 7 hàm dưới.
• Múi ngoài gần răng 6 hàm trên tiếp xúc rãnh ngoài gần răng 6 hàm
dưới.
• Múi trong gần răng 6 hàm trên khớp với trũng giữa răng 6 hàm dưới.
1.3.3.2. Độ nghiêng gần – xa của thân răng: bình thường có góc độ dương
và độ nghiêng này thay đổi theo từng răng [14] (Hình 1.1).
1.3.3.3. Độ nghiêng ngoài – trong của thân răng: tương quan này ảnh hưởng
đến độ cắn phủ [14]
1.3.3.4. Không có răng xoay:
1.3.3.5. Không có khe hở giữa các răng:
1.3.3.6. Đường cong SPEE phẳng hoặc cong ít: Không sâu quá 1.5 mm
Mục đích của điều trị chỉnh hình răng mặt là tạo ra 1 khớp cắn tối ưu
có thể đạt được ở mỗi bệnh nhân và tiêu chuẩn khớp cắn thực sự cho mỗi
bệnh nhân chỉ có thể xác định sau khi quá trình điều trị và duy trì đã được
hoàn tất [2], [14], [16].
1.4. PHÂN LOẠI KHỚP CẮN THEO ANGLE
Phân loại khớp cắn theo Angle được công bố vào thập niên 1890, là
một mốc quan trọng trong sự phát triển của chỉnh hình răng mặt, nó không chỉ
phân loại các hạng sai khớp cắn mà còn định nghĩa đơn giản, rõ ràng về khớp
cắn bình thường của hàm răng thật và đến nay vẫn được sử dụng rộng rãi
trong chỉnh hình răng mặt. Do đó chúng tôi sử dụng cách phân loại của Angle
trong nghiên cứu này.
Theo Angle có 4 loại khớp cắn.
11
1.4.3.1. Khớp cắn bình thường: Múi ngoài gần răng 6 hàm trên khớp với
rãnh ngoài gần răng 6 hàm dưới và các răng sắp xếp theo một đường cắn
khớp đều đặn.
1.4.3.2. Khớp cắn loại I: Như khớp cắn bình thường nhưng đường cắn khớp
không đúng do các răng trước mọc sai chỗ, xoay.
1.4.3.3. Khớp cắn loại II: Múi ngoài gần răng 6 hàm trên khớp về phía gần so
với rãnh ngoài gần răng 6 hàm dưới. Loại II gồm 2 tiểu loại:
Tiểu loại 1: Cung hàm trên hẹp hình chữ V, nhô ra trước, răng cửa trên ngả
mụi, mụi đúng khụng kớn, môi dưới thường chạm mặt trong các răng cửa trên.
Tiểu loại 2: Các răng cửa giữa hàm trên quặp vào trong cũn cỏc răng
cửa bờn nghiờng ngoài. Độ cắn phủ tăng, cung răng trên thường rộng, loại này
thường do di truyền.
1.4.3.4. Khớp cắn loại III: Múi ngoài gần răng 6 hàm trên khớp về phía xa so
với rãnh ngoài gần răng 6 hàm dưới, các răng cửa dưới có thể ở phía ngoài các
răng cửa trên. Cần phân biệt sai khớp cắn loại III thật và giả.
12
Hình 1.4: Khớp cắn bình thường và các loại sai khớp cắn theo Angle
1.5. MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN LỆCH LẠC KHỚP CẮN VÀ
PHƯƠNG PHÁP CAN THIỆP. [19].[21].[22].[23]
1.5.1. Răng sữa tồn tại lõu trờn cung hàm.
Khi chân răng vĩnh viễn thành lập được ắ chiều dài, nên nhổ răng sữa
tương ứng dù răng sữa có bị tiờu chõn hay không. Nếu răng sữa vẫn tồn tại
khi chân răng vĩnh viễn tương ứng đã thành lập trên ắ chiều dài thì gọi là răng
sữa tồn tại lõu trờn cung hàm. Hầu hết răng cối sữa hàm trên có chân răng
trong hoặc chân răng ngoài không bị tiêu. Ngược lại răng cối sữa hàm dưới có
chân răng gần hoặc chân răng xa không tiêu.
Răng sữa tồn tại lõu trờn cung hàm làm mất chỗ của răng vĩnh viễn vì
vậy có thể gây lệch lạc hoặc cắn chéo răng vĩnh viễn. khi răng sữa tồn tại lõu
trờn cung hàm được nhổ và khoảng trống đủ và răng vĩnh viễn có vị trí và
hướng mọc thích hợp, răng này sẽ mọc đúng vào vị trí. Nếu răng vĩnh viễn
mọc lên bị lệch ngoài hoặc lệch trong nhẹ sẽ tự điều chỉnh nhờ thăng bằng cơ
mụi mỏ lưỡi, ở vùng răng cửa dưới, do mầm răng vĩnh viễn nằm phía trong
nên thường răng cửa vĩnh viễn sẽ mọc phía trong và di chuyển ra phía ngoài
khi răng sữa rụng. ở vùng răng cối nhỏ và răng nanh, răng vĩnh viễn có thể
mọc ra ngoài hoặc vào trong và sẽ có khuynh hướng di chuyển vào vị trí
13
đúng. Nếu các răng không tự điều chỉnh vào đúng vị trí trước khi đạt được độ
cắn phủ sẽ không tự sắp xếp ngay ngắn và dẫn đến cắn chéo.
Tóm lại: khi các răng vĩnh viễn đến tuổi mọc, cần chụp phim X quang kiểm
tra, nếu răng vĩnh viễn có chân răng thành lập được ắ chiều dài mà răng sữa
vẫn còn tồn tại trên cung hàm, cần:
- Nhổ răng sữa.
- Làm bộ phận giữ khoảng (nếu cần).
- Nếu răng vĩnh viễn có vị trí và hướng mọc thích hợp, thường sẽ có
khuynh hướng di chuyển vào đúng vị trí. Ngược lại, có thể cần phải tiểu phẫu
thuật bộc lộ răng hoặc/và kéo vào cung hàm bằng lực chỉnh hình.
1.5.2. Răng sữa mất sớm.
Khi các răng sữa mất sớm trước thời hạn, các răng sữa còn lại và các
răng vĩnh viễn mới mọc lên có khuynh hướng di chuyển làm thu ngắn hoặc
mất hoàn toàn khoảng trống do mất răng. Các răng vĩnh viễn thay thế bị thiếu
chỗ hoặc không có chỗ mọc nên sẽ mọc lệch lạc hoặc không mọc lên được.
* Khi mất răng sữa sớm gõy.[13]; [33].[31]
- Di lệch của các răng kế cận
- Ảnh hưởng đến chiều dài và chu vi cung răng.
- Ảnh hưởng tới các răng ở hàm đối diện:
1.5.3. Răng thừa: [22],[23]
Thường mọc ở vùng răng cửa trên, hình thể không bình thường. Răng
mọc chen vào các răng khác hoặc mọc phía trong cung răng. Thường gặp răng
mọc giữa hai răng cửa giữa hàm trên hoặc mọc ngầm gây cản trở sự mọc răng
vĩnh viễn hoặc gây lệch lạc chen chúc răng vĩnh viễn.
Răng thừa có thể cản trở các răng khác mọc bình thường hoặc gây lệch lạc
các răng vĩnh viên.
14
Một số trường hợp có nhiều răng dư nằm nông, có thể nhổ răng dư mà
không ảnh hưởng đến những răng bình thường khác. Thông thường, càng
nhiều răng dư, càng có nhiều hình dạng bất thường; vị trí răng càng nằm sâu
trong xương, càng khó can thiệp. Nhiều răng dư bất thường cản trở vị trí và
thời gian mọc của các răng bình thường khác. Răng dư nhiều múi thường
không mọc được. nên nhổ răng dư ngay khi có thể để không ảnh hưởng đến
những răng bình thường đang mọc. nhổ răng dư càng sớm, những răng bình
thường có thể mọc lên mà không cần điều trị gì. Ngược lại, răng dư để lâu
trên cung hàm sẽ cản trở những răng bình thường mọc lên. Do đó có khi cần
phẫu thuật bộc lộ và kéo răng bình thường vào cung hàm bằng lực chỉnh
hỡnh.
Lâm sàng.
– Có sự hiển diện của răng thừa.
– Các răng bên cạnh mọc lệch lạc, chen chúc hoặc có khe thưa
– Chụp QX có thể thấy răng thừa ngầm.
Hậu quả.
- Răng thừa vùng của gây mất thẩm mỹ.
- Gây lệch lạc, chen chúc răng kế cận.
- Răng thừa mọc ngầm gõy tiờu chân răng, mọc sai vị trí răng bên cạnh.
Chẩn đoán. Dựa vào lâm sàng hoặc chụp XQ.
Can thiệp:
Theo Phan Thị Xuân Lan, Hồ Thị Thùy Trang, nhổ răng dư càng sớm
những răng bình thường có thể mọc lên mà không cần điều trị gì.
Theo Lê Thị Phúc, nếu phát hiện sớm và loại trừ răng thừa sớm thì việc điều
trị chỉnh hình răng mặt có thể sẽ không cần thiết hoặc không phức tạp lắm.
15
1.5.4. Răng vĩnh viễn mọc sai vị trí.[19]
Khi mầm răng vĩnh viễn ở vị trí sai dẫn đến răng vĩnh viễn mọc sai vị
trí gây tình trạng chen chúc răng hoặc các răng vĩnh viễn mọc ở vị trí bất
thường.
Nhóm răng cửa mọc sai vị trí
Khi một răng nanh sữa bị mất, cần ngăn chặn lệch đường giữa bằng
cách nhổ răng nanh sữa bờn phớa đối diện hoặc dùng cung lưỡi hàn với thanh
chặn để giữ vị trí răng cửa bên. nếu đường giữa bị lệch, cần có kế hoạch điều
trị thích hợp bằng khí cụ tháo lắp hoặc khí cụ cố định. Nếu cả hai răng nanh
sữa bị mất sớm, dùng cung lưỡi thụ động để giữ khoảng và không cần điều trị
gỡ khỏc. Trong một số trường hợp, chen chúc do răng cửa bên mọc sai vị trí
quá trầm trọng càn điều trị với khí cụ cố định và có thể phải nhổ răng cối nhỏ.
Ericson và Kurol thấy rằng nếu thân răng nanh vĩnh viễn phủ lên nhỏ hơn ẵ
chân răng cửa bên, răng nanh vĩnh viễn thường mọc bình thường (91% trường
hợp). khi >1/2 chân răng cửa bên bị thân răng nanh vĩnh viễn mọc đúng vị trí
(64% trường hợp) hoặc cải thiện vị trí của răng nanh.
Khi chân răng cửa bên vĩnh viễn bị tiêu và vị trí răng nanh vĩnh viễn sai
lệch trầm trọng. ngoài việc nhổ răng nanh sữa, thường cần phẫu thuật bục lộ
răng nanh vĩnh viễn và dùng lực chỉnh hình để kéo răng nanh vào đúng vị trí.
N hóm răng hàm mọc sai vị trí.
Răng cối lớn thứ nhất hàm trên mọc sai vị trí thường được chuẩn đoán
nhờ phim tia X. Một số tác giả thấy tình trạng này khụng gõy đau và thường
bỏ qua. Trường hợp này có thể liên quan với xương hàm trên nhỏ và lùi sau
cùng như răng cối vĩnh viễn có kích thước lớn và mọc nghiêng. Nếu không
can thiệp kịp thời có thể gây mất răng cối sữa, gây mất khoảng và răng vĩnh
viễn mọc lên sẽ nghiêng gần. trường hợp mọc sai vị trí gõy tiờu răng cối sữa
16
nhẹ, răng có thể tự điều chỉnh, chúng ta chỉ cần theo dõi. Nếu răng vĩnh viễn
bị kẹt không mọc được kéo dàu trong 6 tháng hoặc nếu răng cối sữa tiếp tục
tiêu, cần có kế hoạch điều trị. Cần di chuyển răng vĩnh viễn mọc sai vị trí ra
khỏi răng sữa bị tiêu. Kẹp lò xo tách kẽ kim loại cũng có thể sử dụng nếu như
chân răng cối sữa tiêu nhẹ hoặc có thể sử dụng thun tách kẽ chêm vào phía
gần của răng cối vĩnh viễn
1.5.5. Thiếu răng vĩnh viễn
Thiếu răng vĩnh viễn có thể gây lệch lạc các răng kế cận hay trồi răng đối
diện. cần đánh giá kỹ các yếu tố: mặt nhỡn nghiờng, vị trí răng cửa, phân tích
khoảng để có kế hoạch điều chỉnh thích hợp.
Lâm sàng.
- Có khe răng, một khoảng mào ổ răng thấp xuống.
- Vắng mặt một số răng, răng khác mọc vào vị trí đó.
- Lệch lạc các răng kế cận hay trồi răng đối diện.
- Khớp cắn thay đổi tùy theo khoảng thiếu răng.
, Cắn ngược do thiếu nhiều răng ở hàm trên.
, Cắn sâu do thiếu răng cửa dưới hoặc răng sau hai bên.
Chẩn đoán. Dựa vào khám lâm sàng và chụp phim XQ.
Can thiệp
thiếu răng cối nhỏ hàm dưới.
Nếu bệnh nhân có khớp cắn tốt hoặc có thể chấp nhận được, kế hoạch điều trị
là nên giữ lại răng cối sữa cho đến lứa tuối 20, nhiều nghiên cứu cho thấy
răng cối sữa vẫn có thể được giữ lại trên cung răng ở bệnh nhân 40 đến 60
tuổi. Biện pháp tối ưu hơn là cắm ghép trong xương. Điều lưu ý là cắm ghép
chỉ nên thực hiện khi quá trình tăng trưởng hoàn tất,
Thiếu răng cửa bên hàm trên.
17
kế hoạch điều trị là không nên giữ lại răng cửa bên sữa lâu dài trên cung
hàm. Khi thiếu răng cửa bên vĩnh viễn, thường có hai trường hợp xảy ra:
Một số trường hợp, răng nanh vĩnh viễn mọc làm tiêu răng cửa bên sữa
và răng nanh vĩnh viễn tự thay thế vị trí răng cửa bên vĩnh viễn bị thiếu, điều
này có nghĩa là răng nanh sữa không có răng thay thế.
Nếu khoảng trống thích hợp nên đặt cắm ghép (implant).
Ngoài ra trường hợp này cần điều trị toàn diện với việc tạo lại hình dạng răng
trước để cải thiện thẩm mỹ, nhưng mức độ và thời gian điều trị sẽ giảm nhiều
do nhổ răng đúng thời gian.
Thiếu răng cửa hàm dưới.
Thường biểu hiện cung răng trờn nhụ nhiều ra trước hoặc chen chúc
trong khi cung răng hàm dưới điều đặn hoặc cung răng trên đều đặn trong khi
cung răng dưới thưa kẽ.
Nếu cung răng trên chen chúc nhiều hoặc nét mặt nhô, thường phải nhổ bớt
răng trên để giải quyết tình trạng chen chúc và thẫm mỹ.
Nếu cung răng trên đều đặn hoặc nét mặt nghiêng hài hòa, hàm dưới có thể
nới khoảng để làm phục hình thay thế răng thiếu hoặc đóng khoảng hở do
thiếu răng Ở bệnh nhân thiếu một răng hoặc nhiều răng ở một phần hàm
nhưng chen chúc ở phần hàm bên kia, giải pháp có thể là tự chuyển ghép.
Răng .
1.5.6. Mút ngón tay. [8], [19]:
Khớp cắn ban đầu của trẻ trước khi có thói quen xấu quan trọng trong
chẩn đoán để xác định những lệch lạc gây ra bởi thói quen xấu hay có sự tham
gia của yếu tố di truyền. Rakosi đã nghiên cứu trên 693 trẻ em có thói quen
mút ngón tay và thấy rằng khoảng 60% trẻ đã dừng thói quen xấu này trước 2
tuổi và phần lớn trong nhóm trẻ này có khớp cắn bình thường, trong khi đó
413 trẻ kéo dài thói quen xấu này qua 4 tuổi đều có lệch lạc khớp cắn và từ đó
18
ông ta đưa ra kết luận rằng mút ngón tay kéo dài là nguyên nhân gây ra lệch
lạc khớp cắn ở những trẻ em này. Graber cũng có kết luận tương tự là mút
ngón tay được coi như là hiện tượng bình thường ở trẻ em dưới 2 tuổi và lệch
lạc răng miệng vĩnh viễn sẽ xảy ra khi mà trẻ kéo dài thói quen xấu này qua 4
tuổi. Những nghiên cứu về tỉ lệ thói quen xấu này ở trẻ em cho thấy xuất hiện
nhiều nhất ở trẻ 6 – 7 tháng tuổi và giảm tới 0 ở trẻ 14 tuổi. Mút ngón tay cho
dù chỉ xuất hiện một thời gian ngắn ở trẻ nhỏ cũng đều ảnh hưởng đến sự phát
triển của răng, xương ổ răng, Theo Graber lệch lạc vĩnh viễn sẽ xảy ra khi trẻ
qua 4 tuổi do mút ngón tay không chỉ trực tiếp gây ra lệch lạc răng mà nó cũn
làm tăng thêm những rối loạn chức năng của hệ thống cơ quanh miệng, đặc
biệt là cơ cằm và gây ra hoạt động bù trừ dẫn đến đẩy lưỡi, và tác động lâu
dài các hoạt động mất cân bằng của hệ thống cơ lên răng và xương ổ răng liên
quan gây ra những biến dạng ngay cả khi các thói quen xấu đú đó chấm dứt.
Tác động của mút ngón tay bao gổm tác động trực tiếp và tác động
gián tiếp:
- Tác động trực tiếp:
+ Đẩy răng cửa trên ra phía ngoài.
+ Đẩy răng cửa dưới vào trong.
+ Khớp cắn hở.
+ Hạn chế sự phát triển theo chiều đứng của các răng trước, các răng
hàm mọc thụ động do có khoảng trống lâu ngày dẫn tới thay đổi hướng phát
triển của XHD lên trên và ra sau quá mức tạo khớp cắn hở do xương.
+ Hàm trên bị hẹp dẫn tới khớp cắn chéo phía sau 1 hoặc 2 bên.
- Tác động gián tiếp:
+ Tăng trương lực cơ môi dưới.
19
+ Nuốt đẩy lưỡi, dẫn tới làm tăng khớp cắn hở do mút ngón tay gây ra.
+ Mức độ lệch lạc răng miệng do mút ngón tay gây ra còn phụ thuộc vào
vị trí đặt ngón tay do lực đòn bẩy của ngón tay chống lại răng và xương ổ
răng, và còn phụ thuộc vào sự phát triển của cơ môi, mức độ thường xuyên
cũng như sự kéo dài của thói quen xấu này.
Hầu như trẻ em có thói quen mút ngón tay kéo dài đều đưa đến sai khớp
cắn. Mút ngón tay trong thời kỳ răng sữa không có ảnh hưởng lâu dài đến
hàm răng, nhưng nếu kéo dài sang thời kỳ răng vĩnh viễn bắt đầu mọc dẫn đến
sai khớp cắn với các biểu hiện (Hình 1.5):
- Răng cửa trên thưa và nghiêng về phớa mụi.
- Răng cửa dưới nghiêng về phía lưỡi.
- Cắn hở vùng răng trước, hẹp cung răng trên (cung răng hình chữ V).
Răng di chuyển ít; nhiều phụ thuộc vào thời gian tác động của thói quen,
nếu trẻ mút ngón tay với áp lực mạnh nhưng không liên tục và thời gian
không đủ lõu thỡ cỏc răng di chuyển ít [30]. Ngược lại, trẻ mút ngón tay nhẹ
nhàng nhưng kéo dài hơn 6giờ/ngày, đặc biệt là những trẻ mút ngón tay suốt
đêm thì sẽ bị sai khớp cắn trầm trọng, mút ngón tay có thể gây sai khớp cắn
nếu thói quen này kéo dài đến thời kỳ răng hỗn hợp và nếu thói quen kéo dài
sau khi răng cửa vĩnh viễn đã mọc lên cần phải điều trị chỉnh hình để giải
quyết vấn đề sai vị trí của răng [21], [26], [28].
20
Hình 1.5: Thói quen mút tay và lệch lạc khớp cắn [22].
Điều trị can thiệp. Phần lớn trẻ 4 – 5 tuổi tự bỏ thói quen mút tay, nếu trẻ
không bỏ được thói quen xấu này thì:
- Nha sỹ nói chuyện trực tiếp với những trẻ lớn, trẻ sẽ dần dần từ bỏ thói
quen xấu này.
- Dùng biện pháp “nhắc nhở” cùng với những lời giải thích:
+ Một miếng băng keo không thấm nước dán ở ngón tay trẻ thường mút
sẽ giúp nhắc nhở trẻ .
+ Dùng một băng đàn hồi quấn quanh khuỷu tay để ngăn đưa tay vào
miệng(chỉ cần băng đàn hồi qua đêm). Trong 6 – 8 tuần là đủ. Nhưng cần giải
thích cho trẻ rừ đú không phải là hình phạt mà chỉ giúp trẻ bỏ thói quen xấu.
- Khí cụ tháo lắp:
+ Một tấm khẩu cái đơn giản, thụ động, không chức năng sẽ có tác dụng
nhắc nhở trẻ bỏ dần thói quen.
+ Khí cụ Hawley có dây cung môi vừa để chỉnh lại các răng trước trên bị
đẩy ra trước cũng như đóng kớn cỏc khoảng trống nếu muốn.
1.5.7. Thói quen xấu của môi:
Mút môi dưới có thể là nguyên nhân chính trực tiếp gây ra lệch lạc răng,
hàm hoặc là hậu quả do hoạt động bù trừ của cơ khi có lệch lạc làm tăng them
lệch lạc vốn có. Thói quen xấu mút môi dưới có thể được coi là thứ phát trong
trường hợp bệnh nhân có lệch lạc khớp cắn loại II Angle tiểu loại 1 hoặc có
độ cắn chìa lớn, hoạt động của cơ môi lúc này là hoạt động thích nghi hoặc bù
trừ khi môi trên và dưới khó khăn trong việc đóng kín trong lúc nuốt, do đó
trẻ sẽ phải cố đưa môi dưới lên để đóng kín miệng. Nhưng việc đóng kín
được thực hiện dễ dàng hơn đối với trẻ khi chúng đẩy môi dưới vào mặt trong
của răng cửa trên, điều này làm tăng thêm độ cắn chìa do tạo lực đẩy răng cửa
trên ra phía trước đồng thời tạo áp lực quá mức về phía lưỡi ở phần trước của
21
XHD. Khi lệch lạc tăng lên, hoạt động của cơ tăng theo tạo vòng xoắn bệnh lý
làm lệch lạc ngày càng tăng, thói quen xấu này thường dẫn đến tăng hoạt
động và tăng trương lực của cơ cằm dẫn đến cản trở sự phát triển của xương ổ
răng vùng răng cửa dưới nơi tiếp xúc trực tiếp với cơ và do đó ảnh hưởng cả
các răng cửa dưới. Mút môi dưới là thói quen thường gặp, biểu hiện lâm sàng
thường gặp là (Hình 1.6):
- Làm tăng độ cắn chùm.
- Rãnh môi cằm hằn rõ, tăng hoạt động cơ cằm, trên lâm sàng thấy nhiều
nếp nhăn ở vùng cằm khi bệnh nhân nuốt.
- Viền môi đỏ có thể phì đại nhỡn rừ ở tư thế nghỉ.
- Dấu các răng cửa trên môi dưới; ở một số bệnh nhân có thể thấy xuất
hiện các tổn thương mạn tính do virus tại những vựng mụi bị sang chấn hoặc
kích thích.
- Tăng trương lực cơ cằm.
- Cắn hở vùng răng trước, răng cửa dưới nghiờng phớa lưỡi, răng cửa
trên chen chúc và nghiờng phớa mụi.
- Thói quen mút môi dưới làm tăng độ cắn chìa [8], [22], [27].
Can thiệp. Loại bỏ thói quen xấu này bằng cách.
- Chỉnh hình làm giảm cắn chìa đến mức có thể chấp nhận được.
- Tấm chặn môi được mang ban đêm và 2 – 3 giờ vào ban ngày khi trẻ ở
nhà (Hình 1.10)
22
Hình 1.10: Tấm chặn môi [12].
1.5.8. Đẩy lưỡi:
Khái niệm đẩy lưỡi không có nghĩa là lưỡi tạo một lực đẩy ra phía trước
mà chỉ ngụ ý rằng lưỡi nằm quá về phía trước và ở giữa các răng cửa hàm
trên và răng cửa hàm dưới, có nhiều tác giả phân loại đẩy lưỡi theo các
cách khác nhau:
+ James và Townsend mô tả các loại đẩy lưỡi khác nhau dựa trên những
biến dạng do nó gây ra để giúp cho việc điều trị do các tác giả cho rằng
nguyên nhân gây đẩy lưỡi không thể xác định được.
+ Tulley lại cho rằng đẩy lưỡi là thói quen nội sinh hoặc hành vi thích
nghi, việc phân loại dựa vào hình thái học của mặt hoặc hoạt động nuốt.
+ Theo Proffit và Mason, đẩy lưỡi có khả năng là là một sự thích nghi
đối với khớp cắn hở, và việc điều trị mục đích là để thay đổi kiểu nuốt không
được chỉ định. Sự di chuyển răng trong trường hợp này không phải là do đẩy
lưỡi mà vị trí đặt lưỡi mới đóng vai trò quan trọng là nguyên nhân của khớp
cắn hở. Quan điểm của Proffit và Mason phù hợp với thuyết cân bằng. Hơn
nữa, các tác giả này gợi ý rằng việc điều trị vị trí của của lưỡi có hiệu quả
nhất khi phối hợp với điều trị chỉnh nha, điều trị về phát âm và điều trị chức
năng cơ có thể phối hợp với điều trị chỉnh nha khi cần thiết.
23
+ Theo Bahr và Holt, dựa trên đặc điểm lâm sàng khớp cắn hở phân chia
hoạt động đẩy lưỡi làm 4 loại sau:
• Đẩy lưỡi là hiện tượng bình thường khi nó khụng gõy biến dạng, mặc
dù có bất thường về mặt chức năng.
• Đẩy lưỡi làm biến dạng vùng cửa gây ra khớp cắn hở đôi khi kèm theo
hẹp hàm 2 bên và khớp cắn chéo phía sau. Moyers gọi đây là khớp cắn
hở đơn giản.
• Đẩy lưỡi gây ra khớp cắn hở phía sau, hoạt động đẩy lưỡi bên có thể
tạo ra khớp cắn sâu chức năng, khớp cắn hở phía sau, một vài trường
hợp khớp cắn loại II Angle tiểu loại 2 thấy ở loại này.
• Đẩy lưỡi phối hợp gây ra khớp cắn hở cả phía trước và phía sau.
Moyers gọi đây là khớp cắn hở phúc tạp, khó điều trị hơn các loại khác.
Chức năng và vị trí lưỡi bất thường có thể là nguyên nhân của sai khớp
cắn, nhưng cũng có thể là sự đáp ứng của lưỡi đối với sai khớp cắn có từ
trước, lưỡi có thể nằm về trước, sang hai bên, vừa sang bên. Tùy theo vị trí
của lưỡi mà ta cú cỏc kiểu sai khớp cắn (Hình 1.7):
- Cắn hở vùng răng trước: Do vị trí lưỡi nằm về trước và đẩy lưỡi ra
trước khi nuốt.
- Cắn hở vùng răng sau và cắn sâu: Do vị trí nghỉ của lưỡi nằm về phía
sau và tràn lên mặt nhai vùng răng sau, làm lỳn cỏc răng sau.
- Cắn đối đầu vùng răng trước và khớp cắn múi – múi vựng răng sau do
vị trí lưỡi nằm cả vùng răng trước và răng sau [18], [20].
- Dùng tấm chặn lưỡi tháo lắp; cố định để ngăn chặn vị trí bất thường
của lưỡi.
- Tấm chặn lưỡi được làm bằng thép không gỉ có ф o.8 mm.
24
- Có thể dựng thờm tấm chặn môi để ngăn chặn sự tiếp xúc giữa lưỡi và
môi trong trường hợp trẻ có kiểu nuốt đẩy lưỡi ra trước [8], [29].
Hình 1.11: Tấm chặn lưỡi [18].
1.5.9. Thở miệng:
Thật ra là thở “Mũi – Miệng” vì hiếm gặp thở miệng đơn thuần, dù là
thuật ngữ nào thì thói quen này cũng vẫn cần phải bàn luận. Thở miệng được
coi là thói quen xấu khi đường thở không còn bị tắc nghẽn nhưng việc thở vẫn
tiếp tục được thực hiện chủ yếu qua miệng, để xác định một người nào đó thở
qua miệng nhiều hơn là qua mũi, cần thiết phải có dụng cụ để đo lượng thông
khí qua miệng và qua mũi cùng một lúc, nếu lớn hơn 1/2 thì có thể khảng
định là người này có hiện tượng thở miệng.
Nguyên nhân:
+ Đường mũi bị cản trở: Vẹo vách ngăn, dị ứng.
+ Thói quen dù đường mũi không bị cản trở.
+ Cấu tạo giải phẫu: Trẻ thở bằng mũi nhưng do môi trên quá ngắn nên
miệng vẫn hở khi trẻ thở mũi.
Lâm sàng:
- Khuôn mặt dài, hẹp
- Răng cửa hàm trên nhô trước.
25