Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Đề cương ôn thi môn giáo dục học có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.01 KB, 25 trang )

GIÁO DỤC HỌC

SPT VB2 K5

Đề tài: Phân tích vai trò của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn
hiện nay, vai trò của giáo dục trong thực tiễn.
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SẢN XUẤT CỦA
MỘT QUỐC GIA
- Hiện nay để đánh giá sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia ta thường xét đến
chỉ số GDP – Gross Domestic Product (tổng sản phẩm quốc nội) của quốc gia đó.
Theo thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại thì tỉ lệ tăng của tổng sản phẩm quốc nội của
một quốc gia phụ thuộc vào 5 yếu tố:
- Nhân lực
- Vốn sản xuất
- Tài nguyên
- Khoa học – Công nghệ
- Hiệu quả sử dụng của 4 yếu tố trên
II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
- Bất kì một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế sản xuất thì cần phải có đủ nhân lực
và nhân lực phải có chất lượng cao.
- Tầm quan trọng của giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế là thông qua việc làm tăng
năng suất lao động.
- Con người được xem xét là phương tiện, là động lực cơ bản và bền vững của sự tăng
trưởng kinh tế.
- Giáo dục với xóa đói giảm nghèo và công bằng xã hội.
- Giáo dục và việc giảm mức sinh và tăng cường sức khỏe.
III. TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA GIÁO DỤC
1. Tính phổ biến và vĩnh hằng
- Giáo dục hiện diện trong tất cả các chế độ, các giai đoạn lịch sử nhân loại mà không
phụ thuộc vào tính chất, cơ cấu của xã hội đó như thế nào.


- Trong bất kì một chế độ nào thì mục đích của giáo dục vẫn luôn được đảm bảo thực
hiện.
 Giáo dục tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
2. Tính nhân văn
- Giáo dục phản ánh những giá trị văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ chung nhất của nhân loại
và bản sắc truyền thống của mỗi quốc gia dân tộc.
- Giáo dục hướng con người đến những cái hay, cái đẹp, cái tốt và phát huy yếu tố tích
cực trong mỗi con người.
 Giáo dục phát triển và hoàn thiện nhân cách con người.
I.

3.
-

Tính xã hội lịch sử
Giáo dục chịu sựquy định bởi các điều kiện xã hội trong giai đoạn lịch sử đó.
Giáo dục luôn cải cách, đổi mới để đáp ứng các yêu cầu phát triển của thực tiễn xã
hội.

1


GIÁO DỤC HỌC
SPT VB2 K5
4. Tính giai cấp
- Giáo dục phản ánh việc đảm bảo lợi ích của giai cấp thông qua các hoạt động, mục

đích, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục.
Nền giáo dục xã hội chủ nghĩa củaViệt Nam là nền giáo dục mang tính dân chủ, nhân
đạo. Nhà trường là công cụ chuyên chính vô sản theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Mục tiêu chung là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước.
IV. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC
1. Trong lĩnh vực kinh tế - sản xuất
- Đào tạo nhân lực: Đào tạo ra những con người mới, là những người có trình độ văn
hóa, am hiểu về khoa học kỹ thuật – khoa học công nghệ; có khả năng vận dụng
những thành tựu khoa học kỹ thuật – công nghệ vào quá trình sản xuất lao động. Nhờ
vậy làm tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tạo động lực
cho xã hội phát triển.
- Tái sản xuất sức lao động xã hội : Tạo ra nguồn nhân lực mới để thay thế những sức
lao động cũ bị mất đi do ốm đau, bệnh tật, tuổi già, tai nạn …
 Trình độ phát triển kinh tế do trình độ của con người được giáo dục và đào tạo quyết
định
- Trong nền kinh tế thị trường thì nguồn nhân lực được xem là quan trọng nhất vì nó
giữ vai trò chủ thể quyết định việc khai thác các nguồn vốn khác (tài nguyên, vốn sản
xuất, khoa học – công nghệ) và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng
- Tri thức là xương cốt của nền kinh tế hiện đại, song tri thức chỉ được thực hiện thông
qua kĩ năng của cá nhân. Do vậy giáo dục đào tạo là yếu tố đầu vào của sản xuất, tầm
nhìn xa cho đất nước cho dân tộc là giáo dục, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự
phát triển.
2.
Trong lĩnh vực chính trị - tư tưởng
- Giáo dục trực tiếp truyền bá hệ tư tưởng chính trị, đường lối chính sách của giai cấp
nắm quyền và trực tiếp đào tạo thế hệ trẻ tham gia vào cuộc sống, bảo vệ chế độ chính
trị đương thời
- Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc,
khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng.
-


3.
-

Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội
Giáo dục truyền tải nền văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác, là cách thức đặc trưng
cơ bản để bảo tồn và phát triển nền văn hóa của nhân loại.
Nền giáo dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền giáo dục “ của dân, do dân, vì dân “,
nền giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người, làm cho các tầng lớp xã hội gần nhau

2


GIÁO DỤC HỌC

V.

SPT VB2 K5

hơn. Mặc dù các tầng lớp xã hội khác nhau về hoạt động, tính chất, hoạt động và lợi
ích xã hội nhưng nhờ giáo dục mà các tầng lớp xã hội khác nhau có thể đoàn kết, hợp
tác đấu tranh và xây dựng xã hội vì mục tiêu chung: “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
KẾT LUẬN
- Thế giới xem giáo dục là động lực cơ bản, là đòn bẩy mạnh mẽ, là điều kiện tiên
quyết thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định phát triển giáo dục là: “quốc sách hàng đầu”
và“đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển bền vững nhất”.

Đề tài: Phân tích khái niệm hoạt động dạy học từ đó giải thích quan niệm về tính chất hai
mặt của hoạt động dạy học

Trong quá trình sống và tồn tại, con người có thể tiếp nhận kinh nghiệm sống một cách tự
nhiên nhờ quá trình giao tiếp và hoạt động với cộng đồng. Mỗi cá nhân ngay từ bé đã tiếp nhận
được những kỹ năng, kỹ xảo về ngôn ngữ, về lao động sản xuất về cách thức chung sống giữa
người với người, giữa người với tự nhiên. Trải qua thời gian, cá nhân có sự sàng lọc những gì có
lợi cho mình, giúp mình tồn tại trong các mối quan hệ xã hội, thiết lập được những kinh nghiệm
sống bao gồm một hệ thống tri thức và kỹ năng thực hành nhờ những chỉ dẫn của người có kinh
nghiệm bằng sự bắt chước, tập dượt để đạt tới sự đúng – sai giữ lại hoặc loại bỏ.
Điều đó cũng có nghĩa là việc lĩnh hội tri thức, kỹ năng hoạt động của tuổi trẻ có thể thực
hiện bằng nhiều hình thức (tự phát hoặc tự giác), song dạy học là con đường tối ưu nhất giúp cho
tuổi trẻ tiếp cận, nắm vững kinh nghiệm xã hội được phản ánh trong các khái niệm khoa học do
loài người tích luỹ với sự tham gia điều chỉnh hợp lý về mặt tổ chức trong những khoảng thời
gian xác định họ đạt với mục đích do nhu cầu xã hội đặt ra với từng trình độ nhận thức tương
ứng.
Như chúng ta đã biết có rất nhiều quan điểm về hoạt động dạy học, dưới đây là một số khái niệm
khác nhau của hoạt động dạy học
-

Dạy học là quá trình trong đó người dạy truyền thụ tri thức khoa học cho người học.

3


GIÁO DỤC HỌC

SPT VB2 K5

-

Dạy học là một quá trình truyền thụ và lĩnh hội tri thức và phương pháp hoạt động nhận
thức của con người.


-

Dạy học là một quá trình điều khiển và tự điều khiển, là một quá trình thống nhất biện
chứng giữa sự chỉ đạo, bị chỉ đạo và tự chỉ đạo.

Từ tất cả các quan điểm về khái niệm dạy học nhóm bốn xin đưa ra một khái niệm được cho
là đầy đủ nhất về khái niệm dạy học:

Hoạt động dạy học là hoạt động tương tác, phối hợp và thống nhất giữa hoạt động chủ đạo
của giáo viên và hoạt động tự giác, tích cực, chủ động của học sinh nhằm thực hiện mục tiêu
dạy học.
Nhiệm vụ của hoạt động dạy học
-

Làm cho học sinh nắm vững hệ thống những tri thức phổ thông cơ bản, hiện đại. phù hợp
với thực tiễn nước ta về tự nhiên, xã hội và tư duy, đồng thời rèn luyện cho họ hệ thống kỹ

-

năng, kỹ xảo tương ứng.
Phát triển trong học sinh năng lực hoạt động trí tuệ và hoạt động thực hành, đặc biệt là

-

năng lực tư duy sáng tạo.
Trên cơ sở vũ trang tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo và phát triển năng lực hoạt động
trí tuệ và thực hành mà hình thành cho học sinh cơ sở thế giới quan khoa học, lý tưởng và
những phẩm chất đạo đức của con người mới


Hoạt động dạy học bao gồm:
Hoạt động dạy:Trong hoạt động dạy học giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy, giữ vai trò chủ
đạo, có chức năng định hướng, tổ chức, hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động học tập của học sinh,
đảm bảo cho học sinh thực hiện đầy đủ và có chất lượng những yêu cầu, nhiệm vụ học tập phù
hợp với mục tiêu dạy học.
Thật vậy,
-

GV đề xuất vẫn đề, gây cho học sinh ý thức nhiệm vụ học tập.

4


GIÁO DỤC HỌC
SPT VB2 K5
- Tổ chức, điều khiển học sinh lĩnh hội tri thức mới
- Tổ chức, điều khiển học sinh củng cố tri thức
- Tổ chức, điều khiển học sinh rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo
- Tổ chức, điều khiển kiểm tra, đánh giá việc nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách
-

có hệ thống của học sinh và tổ chức cho họ tự kiểm tra, tự đánh giá.
Phân tích kết quả từng giai đoạn, từng bước nhất định của quá trình dạy học.

Hoạt động học:Học sinh vừa là đối tượng của hoạt động dạy, vừa là chủ thể của hoạt động học,
tự giác, tích cực, độc lập và sáng tạo, tự tổ chức hoạt động học tập dưới sự tổ chức sư phạm của
giáo viên.
Hai hoạt động dạy và học luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau
-


Nhất thiết tồn tại đồng thời và thống nhất cả hai hoạt động dạy- học
Trong quá trình dạy học, giáo viên càng thực hiện tốt việc tổ chức, điều khiển và hướng

-

dẫn càng phát huy được tính tự giác và tích cực học tập của học sinh
Trong quá trình dạy học, học sinh càng tự giác, tích cực học tập, càng tạo điều kiện thuận
lợi cho giáo viên thực hiện tốt vai trò tổ chức, điều khiển và hướng dẫn của mình.

Tính chất hai mặt của hoạt động dạy học
Quan niệm trên về quá trình dạy học đã phản ánh tính chất hai mặt của quá trình này: quá
trình dạy của giáo viên và quá trình học của học sinh. Hai quá trình này không tách rời nhau mà
là một quá trình hoạt động chung nhằm hình thành nhân cách của con người mới, đáp ứng được
yêu cầu của thời đại. Trong quá trình họat động chung đó, người giáo viên đóng vai trò lãnh đạo,
tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của học sinhđể giúp họ tự khám phá ra tri thức. Tất
nhiên người giáo viên còn có chức năng cung cấp cho người học tri thức, nhưng chỉ khi nào thật
cần thiết.Song chức năng này không phải là chức năng chính yếu của toàn bộ quá trình dạy.
Người giáo viên phải suy nghĩ để giúp học sinh sử dụng những tri thức, những kinh nghiệm mà
họ thu thập được qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua cuộc sống, kết hợp với tri thức
giáo viên cung cấp cho để tạo nên sự hiểu biết của bản thân mình.
Phối hợp với hoạt động đó của giáo viên, học sinh tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ chức,
tự điều khiển hoạt động nhận thức của mình nhằm nắm vững tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ
xảo, phát triển năng lực nhận thức, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo, hình thành cơ sở thế giới

5


GIÁO DỤC HỌC

SPT VB2 K5


quan khoa học và những phẩm chất đạo đức của con người mới. Chính học sinh chứ không phải
người nào khác phải tự mình làm ra sản phẩm giáo dục. Tính chất hành động của họ có ảnh
hưởng quyết định tới chất lượng tri thức mà họ tiếp thu.

ĐỀ TÀI: VÌ SAO NÓI HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC LÀ HOẠT
ĐỘNG NHẬN THỨC ĐỘC ĐÁO CỦA HỌC SINH ĐẶT DƯỚI
SỰ HƯỚNG DẪN CỦA GIÁO VIÊN
-

Từ ngàn xưa, nghiên cứu, tìm tòi và tích lũy kinh nghiệm để rồi truyền lại cho thế hệ sau
vẫn luôn là một quá trình góp phần thúc đẩy sự tiến hóa của nhân loại. Thế hệ sau kế thừa
thế hệ trước, dùng kiến thức và kinh nghiệm được truyền lại để làm nền tảng cho những
kiến thức cao hơn và kinh nghiệm sâu hơn. Như một dòng sông trôi ra biển cả, kiến thức
và kinh nghiệm của nhân loại, trên dòng chảy của mình, có thể mang thêm phù sa, được
mở rộng thêm nhờ có phụ lưu để trở nên mênh mông hơn nhưng cũng có thể teo dần rồi
chấm dứt dòng chảy trong những mảnh đất khô cằn. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào việc
nhận thức bản chất và quan niệm của con người về hai chữ DẠY và HỌC.

Định nghĩa hoạt động dạy học:
Theo nghĩa chung nhất, dạy học là sư truyền thụ lĩnh ngộ từ thế hệ trước sang thế
hệ sau. Việc dạy hoc cũng có nhiều mức độ và phương pháp khác nhau. Dạy học theo
phương thức đời sống là sự truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm cá nhân thông qua
việc người dạy hướng dẫn trực tiếp người học thực hiện các hoạt động thực tiễn. Dạy học
theo phương thức nhà trường là hoạt động chuyên biệt gọi là hoạt động dạy học – hoạt
động phối hợp giữa người dạy và người học được thực hiện theo quy trình có tổ chức khoa
học, có mục đích, có nội dung, phương pháp và phương tiện nhất định.
Từ những quan niệm truyền thống về dạy học đã đề cập ở trên và tiếp cận những
quan niệm hiện đại về dạy học, có thể hiểu hoạt động dạy học là hoạt động tương tác, phối
hợp và thống nhất giữa hoạt động chủ đạo của giáo viên và hoạt động tự giác tích cực của

học sinh nhằm thực hiện mục tiêu dạy học.

Cơ sở xác định bản chất hoạt động dạy học:
Hoạt động dạy học là hoạt động kép, trong đó hoạt động dạy do giáo viên đảm
nhận, hoạt động học do học sinh thể hiện. Hai hoạt động này không tồn tại độc lập mà có
quan hệ biện chứng với nhau, trong đó, giáo viên giữ vai trò chủ đạo, còn học sinh giữ vai
trò chủ động tích cực. Vì thế xem xét bản chất hoạt động dạy học phải xem xét cả bản chất
hoạt động học và bản chất hoạt động dạy trong mối quan hệ nói trên.

6


GIÁO DỤC HỌC

SPT VB2 K5

Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học được thể hiện qua môi hình sau đây:

Dạy và học là hai hoạt động thống nhất biện chứng (nhưng không đồng nhất) với nhau, phản
ánh tính hai mặt của QTDH và là một quy luật cơ bản của QTDH.
• Trong lượng kiến thức mà người dạy cung cấp cho người học thì sẽ có một phần không được
người học tiếp nhận ("những gì được dạy nhưng không được học"). Đây là một sự lãng phí
về nỗ lực của người dạy. Nhưng may mắn thay, điều này chỉ diễn ra trong quá trình học của
một cá nhân. Trong một tập thể lớp thì quá trình học diễn ra ở nhiều khía cạnh khác nhau. Do
đó, tất cả những gì người dạy cung cấp đều được người học (với tư cách là một tập thể) tiếp
nhận tuỳ mức độ tiếp nhận của mỗi cá nhân.
• Phần vòng tròn tượng trưng cho những kiến thức do người dạy cung cấp bao giờ cũng nhỏ
hơn những gì người học học được. Có hai lý do lý giải điều này: thứ nhất, nhu cầu về kiến
thức của người học là vô tận và rất đa dạng trong khi nội dung chương trình học là hữu hạn.
Thứ hai, để thoả mãn nhu cầu học đa dạng và phong phú đó, người học không chỉ học ở trên

lớp, học từ người dạy mà còn tự học, học từ nhiều nguồn thông tin khác nhau. Mục đích cuối
cùng của quá trình dạy – học là phát huy cao độ vai trò chủ động ở người học để giúp họ tự
giác tạo ra những thay đổi và phát triển hợp quy luật bên trong chính bản thân người học chứ
người học không phải là "một cái thùng rỗng chứa kiến thức" để người dạy "rót" đầy kiến
thức vào đó.


7


GIÁO DỤC HỌC


SPT VB2 K5

Phần vòng tròn tượng trưng cho "những gì được học nhưng không được dạy" sẽ tác động đến
"những gì được dạy và được học". Có hai trường hợp sẽ xảy ra: một, nếu "những gì được học
nhưng không được dạy" là những kết quả hữu ích, sẽ góp phần rất lớn bổ sung cho "những gì
được dạy và được học" nói riêng, đến sự hình thành và phát triển nhân cách của người học
nói chung. Ngược lại, "những gì được học nhưng không được dạy" sẽ làm cản trở, hạn chế
việc vận dụng "những gì được dạy và được học" vào thực tiễn cuộc sống ở người học. Do đó,
PPDH phải làm sao tác động đến "những gì được học nhưng không được dạy" để hạn chế
những tác động tiêu cực có thể xảy ra đối với người học. Hay nói khác hơn, PPDH phải giúp
cho người học hình thành năng lực tự học, tự hoàn thiện nhân cách, phát huy nội lực trong
chính bản thân người học để từ đó, người học thích nghi với cuộc sống hiện đại.

Bản chất hoạt động dạy học:
Hoạt động dạy học là hoạt động nhận thức độc đáo của học sinh dưới sự tổ
chức hướng dẫn của giáo viên nhằm thực hiện mục tiêu dạy học.
 Học tập của học sinh là hoạt động nhận thức độc đáo

Tính chất nhận thức trong hoạt động học của học sinh được thể hiển ở những dấu hiệu
sau:
- Học là quá trình học sinh phản ánh hiện thực khách quan vài trong ý thức cá nhân. Học sinh là
chủ thể phản ánh tích cực, học sinh chỉ phản ánh những gì thực sự có ý nghĩa và phù hợp với
trình độ lĩnh hội của mình; học sinh chọn phương pháp, phương tiện phản ánh phù hợp với khả
năng của mình. Vì thế, kết quả phản ánh nội dung môn học không giống nhau ở tất cả học sinh.
Chẳng hạn, khi học sinh thực hiện một dự án học tập thì học sinh quyết định hướng thực hiện
dự án, khai thác và lựa chọn các nguồn tài nguyên, xử lí và sắp xếp thông tin đáp ứng yêu cầu
của dự án.
 Ví dụ: Giáo viên đưa bài toán tính tổng số con vịt gồm có hai đàn vịt, mỗi đàn 4 con khi đó
tư duy tiếp nhận của học sinh hình thành ba nhóm: nhóm học sinh thứ nhất nhìn hình và
đếm được 8 con vịt; tư duy nhóm học sinh thứ hai thì làm phép toán 4+4 =8; và nhóm thứ
ba áp dụng được toán nhân 4x2=8.

- Học tập của học sinh cũng tuân theo quy luật nhận thức, đó là “từ trực quan sinh động đến tư duy

trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”.
 Ví dụ: Từ bài toán trên đưa ra hình ảnh những con vịt được áp dụng là trực quan sinh động,
khả năng tiếp nhận cách tính bài toán là tư duy trừu tượng (khả năng tính toán học được các

8


GIÁO DỤC HỌC

SPT VB2 K5

phép tính). Học sinh áp dụng vào cuộc sống chẳng hạn: trong bữa ăn gia đình gồm có 4
người, mỗi người hai chiếc đũa nên học sinh sẽ tự tính để lấy 8 chiếc đũa cho 4 người hoặc
tính tiền khi mua 2 kg rau, 3 kg cam,… thì phải dùng bao nhiêu tiền. Đó chính là đi từ tư

duy trừu tượng đến thực tiễn.
- Học sinh làm cho vốn hiểu biết của học sinh phong phú và hoàn thiện hơn.
 Ví dụ 1: khi thực hiện dự án học tập, học sinh có được các tri thức lí luận, tri thức thực
tiễn, tri thức về công nghệ thông tin, tri thức về hoạt động thực tiễn, thực hành.
 Ví dụ 2: Khi học sinh đã được học về điện, học sinh sẽ biết cách khi thấy người bị điện
giật thì không dùng tay chạm trực tiếp mà dùng những vật cách điện (cây gỗ,…) tách người
bị điện giật ra khỏi vật dẫn điện.
 Ví dụ 3: Giáo viên giao cho học sinh thuyết trình, kỹ năng học sinh học được: kiếm và
chọn lọc thông tin trên mạng, làm việc nhóm, thuyết trình trước đám đông, vận dụng những
kiến thức đã học vào thực tiễn.
Tuy nhiên, hoạt động nhận thức của học sinh không hoàn toàn giống với hoạt động nhận
thức của loài người bởi vì học sinh vẫn là học sinh chứa không phải “nhà bác học thu nhỏ”,
nên hoạt động nhận thức của học sinh có những nét khác biệt so với hoạt động nhận thức nói
chung, đó là:
- Hoạt động nhận thức của học sinh diễn ra trong môi trường sư phạm, trong đó có vai trò tổ chức,
hướng dẫn, điều khiển của giáo viên. Vì vậy, hoạt động nhận thức của học sinh theo con đường
đã được khám phá, ngắn và ít khó khăn. Nếu thiếu sự hướng dẫn của giáo viên, hoạt động nhận
thức của học sinh sẽ mò mẫm, theo kiểu thử và sai. Trên con đường thử và sai ấy học sinh sẽ
gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng không đáng có làm cho họ thiếu trách nhiệm đến cùng đối
với việc học của mình.
 Ví dụ: Dân gian ngày xưa quan niệm hiện tượng mưa là do Ông Trời khóc, Trời không
mưa thì lập đàn cầu mưa nhưng nhờ có học và sự hướng dẫn của giáo viên thì chúng ta biết
được mưa là do hơi nước tích tụ hình thành mây tạo mưa.
- Hoạt động nhận thức của học sinh không tìm ra cái mới cho nhân loại mà chỉ tái tạo lại chân lí
loài người đã khám phá. Nói một cách khác, tri thức học sinh lĩnh hội chỉ mới so với học sinh
chứ không mới so với nhận thức của nhân loại.
 Ví dụ: Định luật Acsimet, tiên đề Euclide, Định lý Pytago… của toán học. Trong thời gian
ngắn, học sinh có thể lĩnh hội một khối lượng tri thức lớn một các gián tiếp hoặc chỉ lặp lại
một vài bước hình thành khái niệm nên cần phải củng cố, luyện tập, để kiến thức trở nên
vững chắc và cần kiểm tra kết quả lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo ở học sinh.

- Trong hoạt động nhận thức của học sinh, đặc điểm lứa tuổi, đặc biệt năng lực nhận thức được
quan tâm và tiến hành giáo dục học sinh.
 Ví dụ: Môn toán học sinh cấp 1 học đơn giản cộng trừ nhân chia … Cấp 2 giải phương
trình hình học phẳng…Cấp 3 hình học không gian, giải tích, tích phân…Ta không thể bắt
học sinh cấp 2 học luôn lượng kiến thức của học sinh cấp 3 hoặc cấp 1 phải học tích phân.

9


GIÁO DỤC HỌC

SPT VB2 K5

Tuy nhiên không vì vậy mà hạn chế khả năng tư duy của học sinh chẳng hạn Bộ Giáo Dục tổ
chức cuộc thi “Nghiên Cứu Khoa Học Kỹ Thuật Cấp Quốc Gia” nhằm phát huy khả năng tư duy,
sáng tạo của học sinh. Do đó học tập của học sinh là hoạt động nhận thức độc đáo.
 Vai trò tổ chức, hướng dẫn của giáo viên
- Giáo viên định hướng cho hoạt động học tập thông qua việc xác định mục đích, mục tiêu học tập

(kết quả học tập cần đạt đến) và chuyển giao mục tiêu ấy đến học sinh. Để đạt hiệu quả dạy
học tối ưu, người thầy cần cụ thể hóa các yêu cầu, nhiệm vụ học tập trên cơ sở tính đến trình độ
học vấn, trình độ tư duy, đạo đức của học sinh từng lớp. Ví dụ, đối với sinh viên, trong mỗi
môn học xác định lượng kiến thức cần truyền tải, các nhiệm vụ, ý tưởng về bài tập cá nhân, bài
tập nhóm…
 Ví dụ: Đối với môn tin học văn phòng, mụ tiêu là học sinh cần nắm vững word và excel.
Đối với phần word: học sinh thành thạo đánh văn bàn, format văn bản cho đẹp, biết cách
trình bày bài báo cáo. Đối với phần excel: học sinh biết cách nhập dữ liệu tính toán số liệu.
- Giáo viên tổ chức, hướng dẫn hoạt động học tập thông qua việc tổ chức nội dung, lựa chọn
phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học, xây dựng các tình huống dạy học để kích
thích hứng thú, tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh, không chỉ hình thành tri thức, kĩ

năng mà còn phát triển cả phương pháp tiếp cận tri thức của học sinh. Giáo viên là người quyết
định dạy cái gì và dạy như thế nào?.
 Ví dụ: Khi giao một đề tài nghiên cứu, giáo viên có thể phân công nhóm với những nhiệm
vụ cụ thể, gợi ý các nguồn tài liệu, giúp đỡ về phương pháp làm bài, kiến thức công nghệ
thong tin…Hình thức học tập cũng vậy, giáo viên lựa chọn các hình thức học tập tối ưu
chẳng hạn nếu chỉ cung cấp cho học sinh khái niệm xác định thì dùng hình thức thông báo,
nếu cần hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh thì chọn hình thức thực hành, hoặc cần
phối hợp các hình thức dạy học khác nhau để hỗ trợ giúp học sinh học tập đạt kết quả tối
ưu.
- Giáo viên kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo trong học tập của học sinh, phát hiện
những khó khăn mà học sinh thường gặp khi áp dụng các phương pháp tự học để can thiệp sư
phạm một các hợp lí sao cho không làm thui chột tính tích cực, độc lập của học sinh, và không
quá đề cao vai trò của người dạy.
 Ví dụ: Những lời khen ngợi, những phần thưởng, điểm thưởng khích lệ, quan tâm để phát
hiện những khó khăn trong quá trình học tập của học sinh để có thể can thiệp sư phạm một
cách hợp lý để không làm giãm đi tính độc lập của học sinh đồng thời kích thích sự sáng
tạo.
- Giáo viên kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh và nhận xét kết quả học tập của học sinh, từ đó mở ra
một quy trình dạy học mới. Có thể nói, giáo viên là người mở ra và cũng là người kết thúc một
quy trình dạy học. Thiết kế tiêu chuẩn và hình thức đánh giá. Quá trình này phải đảm bảo phản
ánh tính chính xác kết quả học tập của học sinh để từ đó có những điều chỉnh phù hợp, mang
tính tiến bộ.

10


GIÁO DỤC HỌC
SPT VB2 K5
 Ví dụ: Đối với mỗi bài tập, giáo viên sẽ xác định tiêu chuẩn đánh giá cụ thể cho từng nội


dung, hình thức, cách trình bày…và những hình thức đánh giá định tính hay định lượng…

KẾT LUẬN:
Hoạt động dạy học được hình thành dựa trên mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ giữa hoạt
động nhận thức (học) và việc dạy học. Trong đó “Học” do học sinh thực hiện,còn “Dạy”
do giáo viên đảm nhận. Hai mặt của hoạt động dạy học luôn có mối quan hệ biện chứng,
tương tác và thống nhất nhằm múc đích cuối cùng là phát triển toàn diện nhân cách người
học.
Vì vậy từ những phân tích trên ta có thể nói: “Hoạt Động Dạy Học” là hoạt động
nhận thức độc đáo của học sinh đặt dưới sự hướng dẫn của giáo viên.

Đề tài: Vì sao phải vận dụng phối hợp nhiều phương pháp dạy học trong
tiến trình dạy học?
1. Đặt vấn đề
- Bác Hồ đã từng dạy: “Vì lợi ích mười năm trồng cây. Vì lợi ích trăm năm trồng

người” Nối tiếp lời dạy của Bác, Đảng và Nhà nước ta luôn đưa nền giáo dục lên
quốc sách hàng đầu. Vì giáo dục trực tiếp đào tạo ra con người đủ tài năng và
phẩm chất để xây dựng đất nước. Trong đó, dạy học là một công việc đòi hỏi
người giáo viên phải sáng tạo, phải luôn trau dồi và tiếp thu những kiến thức mới,
những phương pháp mới cho phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực mới
của xã hội. Dạy học hướng vào người học, lấy người học làm trung tâm là bản
chất của đổi mới phương pháp dạy học, qua đó rèn luyện cho học sinh sự tự tin,
phát huy tính độc lập, tự chủ và quan trọng nhất là rèn luyện tư duy sáng tạo, tích
cực trong quá trình học. Người học được đặt trước không phải những bài giảng,
những kiến thức có sẵn mà là những vấn đề, những tình huống của thực tế cuộc
sống. Như vậy, để đào tạo ra một con người ưu tú trong sản phẩm giáo dục thì
phương pháp dạy học ( PPDH ) là hết sức quan trọng.
- Một số học giả đã đưa ra định nghĩa về PPDH là cách thức làm việc của thầy và
của trò trong sự phối hợp thống nhất dưới sự chỉ đạo của thầy nhằm làm cho trò

tự giác, tích cực, tự lực đạt tới mục đích học tập.
- Chúng ta đều biết có rất nhiều PPDH được áp dụng từ xưa đến nay. Mỗi PPDH
khác nhau đều có những cái ưu và cái khuyết riêng biệt. Vấn đề chúng ta đặt ra là
chỉ sử dụng 1 PPDH cho tất cả các môn học thì có hiệu quả hay không?
2. Phát triển và giải quyết vấn đề
- Để trả lời cho câu hỏi đặt ra chúng ta cần xét tới những ưu điểm và khuyết điểm
của từng PPDH rồi từ đó chúng ta sẽ biết có nên phối hợp nhiều phương pháp
hay không.
- Các PPDH đó là gì? Và chúng có những ưu điểm, khuyết điểm ra sao?
i.
PPDH dùng lời
a. Thuyết trình

11


GIÁO DỤC HỌC





SPT VB2 K5

Ưu điểm
Khuyết điểm
Trình bày được nội dung lý thuyết tương đối  Dễ làm người nghe thụ động, mệt
khó, phức tạp.
mỏi vì đơn điệu.
Trình bày mô hình mẫu của tư duy logic, lý  Ít phát triển tư duy độc lập, sáng

giải vấn đề khoa học.
tạo và kỹ năng.
Hình thành tư tưởng tình cảm tốt đẹp, niềm  Thông tin ngược không được
tin qua ngôn ngữ và nhân cách của GV.
đảm bảo.
Tạo điều kiện phát triển năng lực chú ý, tư
duy bằng khái niệm của học sinh.

b. Đàm thoại

Ưu điểm
 Kích thích tính tích cực hoạt động, nhận

Khuyết điểm
 Mất thời gian, ảnh hưởng đến kế

thức của học sinh.
hoạch dạy học
 Bồi dưỡng cho học sinh diễn đạt bằng lời.
 Chỉ thực hiện được một phần HS
 Giúp GV-HS thu được tín hiệu ngược từ đối
chứ không thực hiện được toàn
phương, dễ dàng điều chỉnh được quá trình
lớp.
dạy và học.
 Các câu hỏi dễ gây máy móc cho
HS.
c. Làm việc với SGK và tài liệu tham khảo
Ưu điểm
Khuyết điểm

 Thông tin phong phú, dễ tìm kiếm.
 Nếu không biết cách đọc tìm ý
 Giúp HS rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo sử dụng
chính sẽ mất nhiều thời gian.
sách.
 Thông tin đại trà, đọc không chọn
 Bổ sung, đào sâu những kiến thức tiếp thu
lọc sẽ không có hiệu quả.
hạn chế ở lớp.
ii.
PPDH trực quan: gồm phương pháp quan sát và phương pháp trình bày trực quan.
Ưu điểm
Khuyết điểm
 Giúp HS có thong tin đầy đủ và sâu sắc về  Nếu lạm dụng sẽ bị phân tán sự
đối tượng hoặc hiện tượng nghiên cứu bằng
chú ý, thiếu tập trung vào nội
nhiều giác quan.
dung bài học và hạn chế phát
 Làm cho tài liệu học tập vừa sức hơn cho
triển tư duy trừu tượng.
HS bằng tính trực quan thong qua PTDH.
 Nâng cao sự tiếp thu và hoạt động học của
HS.
iii.
PPDH thực hành
a. Phương pháp luyện tập: câu hỏi, bài tập, tình huống
Ưu điểm
Khuyết điểm
 Giúp HS phát triển kỹ năng làm bài, tư duy,  Cần nắm kỹ lý thuyết trước khi


12


GIÁO DỤC HỌC

tổ chức học tập một cách khoa học.
 Nhanh nắm bài và nhớ lâu.

SPT VB2 K5

luyện tập.
 Phải phù hợp với sức học và hoàn
cảnh của từng học sinh.

b. Phương pháp ôn tập

Ưu điểm
Khuyết điểm
 Giúp HS củng cố, hệ thống lại kiến thức  Phải có kế hoạch, nếu không sẽ
một cách tổng quát.
lan man không đúng trọng tâm.

c. Phương pháp thí nghiệm

Ưu điểm
Khuyết điểm
 Giúp HS củng cố, vận dụng được tri thức và  Tốn thời gian.
hình thành kỹ năng, kỹ xảo trong thực hành.  Tốn chi phí
 Giúp học sinh hiểu bài nhanh hơn và lâu  Phải thật cẩn thận.
hơn vì những kiến thức trừu tượng đã được

thực hiện cụ thể qua thí nghiệm.
iv.
PPDH hiện đại
a. Dạy học giải quyết vấn đề
Ưu điểm
 Giúp HS lĩnh hội tri thức, phát triển trí tuệ
vững chắc, phát triển năng lực tư duy sang
tạo.
 Nâng cao hứng thú học tập, rèn luyện kỹ
năng tìm tòi, phát hiện vấn đề.
 Bồi dưỡng phẩm chất, tác phong chủ động,
xử lý thong tin nhanh nhẹn.
b. Dạy học theo nhóm nhỏ






Khuyết điểm
Tốn nhiều thời gian nghiên cứu.
Phức tạp, khó thực hiện đối với
HS yếu.
Chi phí cao: tài liệu, công nghệ.
GV phải công phu, có kinh
nghiệm tổ chức.

Ưu điểm
Khuyết điểm
 Các thành viên cùng có cơ hội chia sẻ ý  HS giỏi sẽ giỏi hơn, yếu sẽ mặc

kiến.
cảm và dẫn tới ít tham gia hoạt
 Gắn kết nhiều mối quan hệ và giúp đỡ nhau
động.
cùng tiến.
 Tốn nhiều thời gian.
 Nhiều ý kiến thảo luận, bài học sinh động.
 Không phù hợp với lớp có đông
học sinh.
c. Dạy học theo dự án
Ưu điểm
Khuyết điểm
 Thiết lập mối quan hệ với cuộc sống ở bên  Cần nhiều phương tiện, điều kiện
ngoài môi trường.
dạy học.
 Hướng đến các vấn đề của thế giới thật.
 Tốn thời gian.

13


GIÁO DỤC HỌC
 Phát triển kỹ năng sống, kỹ năng làm việc.
 Tạo ra nhiều phong cách học khác nhau
v.

SPT VB2 K5
 Dự án có thể không gần gũi với

nội dung môn học.


được triển khai.
PPDH kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
a. Kiểm tra hỏi đáp
Ưu điểm
Khuyết điểm
 Thu được tín hiệu ngược nhanh chóng, kịp  Tốn thời gian
thời điều chỉnh việc giảng dạy.
 Chỉ kiểm tra được số ít HS.
 Phát triển kỹ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ
của học sinh.
b. Kiểm tra viết

Ưu điểm
Khuyết điểm
 Kiểm tra được toàn bộ HS, có thể đánh giá,  Nội dung không bao hàm được
đối chiếu so sánh được trình độ HS.
nhiều vấn đề, không phủ kín
 Giúp HS tự ôn tập, khái quát, trình bày bằng
được hết nội dung môn học.
ngôn ngữ nội dung bài học.
 HS dễ học vẹt, học tủ, học lệch..
c. Kiểm tra thực hành
Ưu điểm
Khuyết điểm
 Giúp HS rèn luyện được kỹ năng, kỹ xảo  Kiểm tra theo nhóm nên việc
thực hành.
đánh giá mang tính chất khách
 Vận dụng lý thuyết vào các tình huống khác
quan.

nhau trong thực tiễn.
 Cần có sự phối hợp nhịp nhàng.
d. Trắc nghiệm khách quan
Ưu điểm
Khuyết điểm
 Đánh giá được HS ở nhiều nội dung kiến  Chỉ nêu được kết quả, không nêu
thức trong thời gian ngắn.
được quá trình đi đến kết quả.
 Kết bài làm phụ thuộc hoàn toàn vào khả
năng của học sinh.
 Việc đánh giá kết quả nhanh hoặc có thể
chấm bằng máy.
e. Đánh giá tri thức kỹ năng, kỹ xảo của HS
Ưu điểm
Khuyết điểm
 Kịp thời đánh giá được năng lực của HS để  Mang tính chất khách quan, định
có hướng điều chỉnh thích hợp.
tính, toàn diện.
 Cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao
chất lượng.
- Qua những ưu điểm và khuyết điểm của từng phương pháp chúng ta thấy rằng các
phương pháp ấy thống nhất biện chứng với nhau.Các phương pháp dạy học biệt lập chỉ tồn

14


GIÁO DỤC HỌC

SPT VB2 K5


tại trên lý thuyết, hay nói cách khác chúng chỉ tồn tại về mặt lí luận, còn trong thực tiễn dạy
học các phương pháp dạy học khác nhau luôn được phối hợp, đan xen vào nhau và rất khó
tách biệt. Sở dĩ có hiện tượng như vậy vì giáo viên là người chủ động sáng tạo trong việc sử
dụng các phương pháp dạy học và luôn sử dụng phối hợp nhiều phương pháp dạy học để
mang lại hiệu quả dạy học cao nhất.
-

Để thực hiện mỗi một nhiệm vụ dạy học thường có những PPDH đặc trưng, chẳng hạn khi
hình thành kiến thức mới thường phải sử dụng các phương pháp như quan sát, hỏi đáp,
truyền đạt... đối với việc củng cố kiến thức thì các phương pháp như thực hành, đóng vai...
lại mang lại hiệu quả, khi hình thành kĩ năng cho học sinh thì các phương pháp dạy học hiệu
quả hơn cả lại là dạy học giải quyết vấn đề, điều tra, thảo luận ...v.v. Từng môn học khác
nhau cũng có những phương pháp dạy học đặc trưng, ví dụ khi ta cung cấp cho học sinh các
kiến thức của môn khoa học tự nhiên ta thường tiến hành thí nghiệm, luyện tập, khi học
môn về xã hội thì thuyết trình, hỏi đáp, khi học những nội dung về địa phương thì phương
pháp điều tra lại có hiệu quả hơn cả... Cho nên để dạy tốt một môn học được tích hợp kiến
thức từ nhiều lĩnh vực khoa học thì lại càng cần phải sử dụng phối hợp các phương pháp
dạy học. Ngoài ra, việc sử dung phối hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau còn dễ
đảm bảo thực hiện đúng thời lượng theo chương trình quy định.

-

Chẳng hạn như phương pháp thuyết trình ta thấy được ưu điểm của nó là cho phép trình bày
nội dung chứa đựng nhiều thông tin mà người học không tìm được nhưng nếu nội dung hay
thông tin quá nhiều quá lan man thì dễ làm cho người học mệt mỏi vì tính đơn điệu, ít phát
triển được tư duy độc lập, sáng tạo,thay vào đó mình sẽ kết hợp phương pháp thuyết trình
với phương pháp đàm thoại sẽ giúp cho người học vừa được nghe vừa nêu lên câu hỏi vừa
được trả lời câu hỏi giúp cho người học kích thích tính tích cực của hoạt động nhận thức,và
có thể bồi dưỡng cho người học có khả năng diễn đạt bằng lời một cách chính xác, đầy đủ
và súc tích.Ngoài ra ta còn có thể kết hợp với phương pháp trực quan bằng cách trong bài

thuyết trình còn có những hình ảnh minh họa thực tế sẽ giúp cho người học huy động nhiều
giác quan tham gia vào quá trình nhận thức, từ đó phát triển tư duy trừu tượng, làm thỏa
mãn và phát triển hứng thú của người học.

-

Do đó mà dạy học không thể chỉ sử dụng một PPDH duy nhất.

-

Lúc trước dạy học thường rất ít khi phối hợp nhiều phương pháp, Thầy là người nói, trò là
người nghe, chỉ có một chiều sẽ không nắm bắt được tình trạng học sinh có nắm bài và hiểu
bài được. Do vậy mà chưa mang lại hiệu quả cao trong giáo dục. Ngày nay, thời đại công
nghiệp hóa hiện đại hóa, giáo dục được đưa lên hàng đầu.nên hiệu quả trong giáo dục rất
được chú trọng. Mà để đạt được những hiệu quả đó chúng ta cần cải cách giáo dục, cần sử
dụng các PPDH một cách hợp lý và khéo léo.Một buổi học đạt hiệu quả là buổi học cung
cấp đầy đủ kiến thức cơ bản cho học sinh nắm, hiểu, vận dụng, ứng dụng vào thực tế, và đặc
biệt là học sinh phải có hứng thú lắng nghe và ghi nhớ thì những cái giáo viên truyền đạt
mới thật sự hữu ích.

15


GIÁO DỤC HỌC
SPT VB2 K5
- Chúng ta cần đổi mới PPDH, nó không có nghĩa là từ bỏ hoàn toàn các PPDH truyền thống

mà phải biết vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo giữa các phương pháp đó trong quá trình
dạy học nhằm đạt được mục đích cao nhất mà giáo viên đề ra.
- Chúng ta đang hướng tới các PPDH tích cực, nghĩa là vận dụng những PPDH theo hướng

phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Dạy học tích cực là sự kết hợp linh
hoạt nhiều PPDH phù hợp với nội dung, trình độ nhận thức của học sinh và điều kiện thực
tế để đạt được mục tiêu bài học. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế của
nó, không có PPDH nào là tối ưu cả. Dạy học tích cực đòi hỏi cần có sự kết hợp giữa lý
thuyết với thực hành và tăng cường liên hệ với thực tiễn cuộc sống. Tuy nhiên, việc vận
dụng các PPDH đạt hiệu quả cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào tài năng sư phạm và khả năng
sáng tạo của giáo viên.
- Những điều mà học sinh học được nhiều hơn không chỉ là kiến thức mà quan trọng là các
em được trang bị cả kỹ năng sống, như kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng sống hoà nhập
với cộng đồng, kỹ năng quản lý, điều hành công việc, kỹ năng hùng biện, diễn thuyết trước
đám đông, kỹ năng xử lý tình huống…đó là những kỹ năng cần thiết của con người trong
thời đại ngày nay.
- Kết quả vận dụng sáng tạo các PPDH và phương tiện dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt
động học tập của học sinh, người ta đã rút ra một phương châm về dạy học rất hay như sau:
“Tôi nghe, tôi sẽ quên. Tôi nhìn, tôi sẽ nhớ.Tôi làm, tôi sẽ hiểu”. Có nghĩa là, trong mỗi giờ
học, nếu giáo viên biết kết hợp vận dụng linh hoạt các phương pháp vừa thuyết trình, sử
dụng các học cụ trực quan và học sinh được thực hành ứng dụng thì giờ học đó chắc chắn
sẽ có hiệu quả tốt.
-

Tuy nhiên không chỉ đơn thuần phối hợp nhiều PPDH là đủ, chúng ta cần các cơ sở sau:

 Chọn những PPDH có khả năng cao nhất đối với việc thực hiện mục tiêu dạy học.
-

Mỗi mô hình lí luận dạy học, PPDH đều có những điểm mạnh, điểm hạn chế nhất
định.Nhưng khi xem xét việc thực hiện một mục tiêu dạy học nhất định thì có một số PPDH
có khả năng cao hơn các PPDH khác. Chẳng hạn nếu đặt mục tiêu nhanh chóng truyền thụ
cho xong nội dung quy định thì PPDH thuyết trình có vị trí quan trọng. Nhưng nếu đặt mục
tiêu phát triển năng lực tìm tòi sáng tạo của học sinh thì vấn đề sẽ khác đi.


 Lựa chọn các PPDH tương thích với nội dung học tập
-

Giữa nội dung và PPDH có mối quan hệ tác động lẫn nhau, trong nhiều trường hợp quy
định lẫn nhau. Ở bình diện kĩ thuật dạy học, PPDH cần tương thích với nội dung dạy học.
Mỗi nội dung dạy học đều liên hệ mật thiết với những hoạt động nhất định.

 Lựa chọn PPDH cần chú ý đến hứng thú, thói quen của học sinh, kinh nghiệm sư phạm

của giáo viên
• Cần chuẩn đoán nhu cầu, hứng thú của học sinh khi lựa chọn các PPDH.
• Chú ý thay đổi PPDH và hình thức tổ chức dạy học tránh nhàm chán, gây hứng thú
cho học sinh. Cần thay đổi PPDH sau 15, 20 phút.

16


GIÁO DỤC HỌC
SPT VB2 K5
• Ưu tiên lựa chọn các PPDH mà học sinh, giáo viên đã thành thạo.
 Lựa chọn PPDH phù hợp với điều kiện dạy học
• Cần phải lựa chọn PPDH phù hợp với điều kiện của nhà trường, của phòng thí

nghiệm, của tình trạng đang có.
• Trong khuôn khổ điều kiện cho phép, cần chọn thứ tự ưu tiên khả năng tốt nhất.
• Đây là 4 cơ sở quan trọng nhất, là căn cứ xuất phát khi tiến hành lựa chọn, lập kế
hoạch các PPDH. Điều quan trọng nhất là cần xác định lựa chọn phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học có thể giúp học sinh:
 Học tập với niềm say mê, hứng thú, khát khao tìm tòi khám phá.

 Lĩnh hội tri thức trong các hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, theo phương pháp
khoa học.Học trong tương tác, trong việc hình thành các quan hệ hợp tác, thân thiện, cùng
nhau giải quyết các nhiệm vụ học tập.
3. Kết luận
- Nhìn chung dù là phương pháp dạy học truyền thống hay phương pháp dạy học hiện đại,

hay dù là phương pháp dạy học thụ động hay các phương pháp dạy học tích cực thì phương
pháp dạy học nào cũng có những điểm mạnh và điểm yếu riêng. Việc sử dụng phối hợp các
phương pháp dạy học khác nhau là để phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm của từng
phương pháp dạy học riêng lẻ.Vì vậy người giáo viên dạy giỏi phải biết lựa chọn phương
pháp thích hợp, đúng với hoàn cảnh, đúng đối tượng, đúng với từng bài dạy đó là phương
-

pháp tối ưu nhất.
Đặc biệt hơn chính là đổi mới PPDH.Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện
Nhân đã nói: “đã đến lúc chúng ta không thể để giáo viên đơn độc và tự bơi trong quá trình
đổi mới. Phải cụ thể hoá khái niệm “dạy tốt” và xem lại việc công nhận giáo viên dạy giỏi
như hiện nay.Không thể đạt danh hiệu “giáo viên dạy giỏi” chỉ qua giờ lên lớp của một
cuộc thi nào đó.Giáo viên giỏi trong cách nhìn nhận mới chắc chắn phải là tấm gương về

-

đổi mới phương pháp dạy học.”
Trong Điều 28 của Luật giáo dục năm 2005 “Phương pháp giáo dục phổ thông, phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học; Bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện
kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng

-


thú học tập cho học sinh”.
Tóm lại, đổi mới, vận dụng, phối hợp nhiều PPDH trong tiến trình dạy học là điều tất yếu để
nền giáo dục Việt Nam tiến bộ, vững chắc và đạt hiệu quả cao trong công cuộc trồng người.
Hết

17


GIÁO DỤC HỌC

SPT VB2 K5

Đề tài: Phân tích cơ sở của việc chọn lựa phương pháp dạy học trong 1 tiết lên lớp
-

I.
-

Dạy học là một công việc đòi hỏi người giáo viên phải sáng tạo, phải luôn trau dồi và
tiếp thu những kiến thức mới, những phương pháp mới cho phù hợp với yêu cầu đào
tạo nguồn nhân lực mới của xã hội. Dạy học hướng vào người học, lấy người học làm
trung tâm là bản chất của đổi mới phương pháp dạy học, qua đó rèn luyện cho học
sinh sự tự tin, phát huy tính độc lập, tự chủ và quan trọng nhất là rèn luyện tư duy
sáng tạo, tích cực trong quá trình học. Người học được đặt trước không phải những
bài giảng, những kiến thức có sẵn mà là những vấn đề, những tình huống của thực tế
cuộc sống. Người học phải được rèn luyện cách tự lực giải quyết vấn đề, tự tìm ra cái
chưa biết, tự tìm ra chân lý, còn người dạy chủ yếu dạy cách tìm ra chân lý chứ
không phải là chỉ biết truyền đạt chân lý.
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
1.

Khái niệm phương pháp dạy học
Quá trình dạy học không chỉ quan trọng ở khâu truyền thụ kiến thức mới. Ðể học sinh
nắm vững kiến thức và có thể vận dụng những hiểu biết về môn học vào trong hoạt
động sống của bản thân, phục vụ cộng đồng; khâu ôn tập củng cố cũng như kiểm tra
đánh giá chất lượng học tập của học sinh không thể thiếu. Bằng sự lựa chọn các
phương pháp một cách hợp lý, năng động dựa vào nội dung kiến thức môn học, đối
tượng học sinh; người giáo viên sẽ đạt được mục đích dạy học.



Phương pháp: là cách thức hoạt động nhằm đạt được mục đích nhất định



Dạy học: gồm hoạt động dạy và hoạt động học, cùng phối hợp, tương tác và hướng
đến mục đích chung của hoạt động dạy học

18


GIÁO DỤC HỌC

SPT VB2 K5

Phương pháp dạy học là hoạt động tương tác, phối hợp, thống nhất của giáo
viên và học sinh trong hoạt động dạy học, được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của
giáo viên nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học.
-

Phương pháp dạy chi phối phương pháp học


-

Phương pháp học ảnh hưởng phương pháp dạy

-

Thay đổi phương pháp dạy học cần thay đổi phương pháp dạy và phương pháp học.
2.

19


GIÁO DỤC HỌC
2. Phân

SPT VB2 K5

loại các phương pháp dạy học

20


21

























Phương pháp dạy học thông báo - thu nhận, làm mẫu, tái tạo
Phương pháp dạy học kiến tạo - tìm tòi
Phương pháp dạy học khuyến khích - tham gia
Phương pháp dạy học tình huống - nghiên cứu
Phương pháp hỗn hợp các phương pháp trên.

Phương pháp tổ chức và thực hiện hoạt động học tập nhận thức

Phương pháp kiểm tra và tự kiểm tra kết quả hoạt động nhận thức

động tư duy và cấu trúc của






tập của con người
Phân loại theo quá trình học
lao động
Phân loại theo lý thuyết hoạt

Phương pháp kích thích và xây dựng động cơ học tập nhận thức

Phương pháp giải thích - minh hoạ
Phương pháp tái hiện
Phương pháp trình bày nêu vấn đề
Phương pháp tìm tòi - ơ rix tic

học
động nhận thức của người
Phân loại theo đặc điểm hoạt

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp tiếp nhận tri thức
Phương pháp hình thành kĩ năng, kĩ xảo
Phương pháp ứng dụng tri thức
Phương pháp hoạt động sáng tạo

học
Phân loại theo mục đích dạy


Phương pháp dánh giá

Phương pháp dùng lời
Phương pháp trực quan
Phương pháp thực hành

và đặc điểm tri giác thông tin
Phân loại theo nguồn tri thức
GIÁO DỤC HỌC

SPT VB2 K5


GIÁO DỤC HỌC
SPT VB2 K5
II.
HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
1. Nhóm phương pháp dạy học dùng lời
- Phương pháp dạy học thuyết trình (lecturing)
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp làm việc với sách giáo khoa và tài liệu tham khảo
2. Phương pháp dạy học trực quan
3. Phương pháp dạy học thực hành
- Phương pháp luyện tập
- Phương pháp ôn tập
- Phương pháp thí nghiệm
4. Nhóm phương pháp dạy học hiện đại
- Dạy học giải quyết vấn đề
- Dạy học theo nhóm nhỏ
- Dạy học theo dự án

5. Nhóm phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
- Phương pháp kiểm tra “hỏi – đáp”
- Phương pháp kiểm tra viết
- Phương pháp kiểm tra thực hành
- Phương pháp trắc nghiệm khách quan
- Đánh giá tri thức, kĩ năng, kĩ xảo của học sinh
III.
CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
-

-

-

-

Trong thực tiễn lập kế hoạch và tiến hành dạy học, người thầy giáo thường xuyên đối
diện với câu hỏi: làm thế nào để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp và có hiệu
quả ? Các nhà lí luận dạy học, các nhà giáo học pháp bộ môn thường đưa ra lời
khuyên: Mỗi phương pháp dạy học có một giá trị riêng, không có phương pháp dạy
học nào là vạn năng, giữ vị trí độc tôn trong dạy học, cần phối hợp sử dụng các
phương pháp dạy học…
Lời khuyên này không sai nhưng gần như không có tác dụng thao tác hoá; giá trị
giúp đỡ đối với giáo viên quá ít nếu như không chỉ ra được các yếu tố ảnh hưởng đến
việc lựa chọn phương pháp dạy học. Đặc biệt trong bối cảnh đang có sự đấu tranh
(lúc công khai, lúc ngấm ngầm) giữa xu hướng muốn giữ nguyên trạng thái dạy học
truyền thụ một chiều hiện hành, với xu hướng chủ trương đổi mới thì lời khuyên
chung chung ở trên là một vị thuốc an thần, an ủi những người giữ nguyên lối dạy
học cổ truyền.
Như vậy, cần phải góp phần trả lời câu hỏi: Việc lựa chọn phương pháp dạy học

được tiến hành một cách tuỳ tiện, bất kì, hay bị rằng buộc bởi những tiêu chuẩn khoa
học nào?
Câu trả lời cần được tìm kiếm ở các mối quan hệ của phương pháp dạy học (hiểu

22


GIÁO DỤC HỌC

theo cả 3 tầng nghĩa của nó) với các yếu tố liên quan, đó là: Với mục tiêu dạy học;
với nội dung dạy học; với nhu cầu, hứng thú, thói quen học tập của học sinh; năng
lực, sở trường, kinh nghiệm sư phạm của giáo viên; với điều kiện giảng dạy và học
tập.
Dưới đây là mấy cơ sở căn bản cần quan tâm khi lựa chọn phương pháp dạy học.

1.
-

-

-

SPT VB2 K5

Chọn những phương pháp dạy học có khả năng cao nhất đối với việc thực hiện
mục tiêu dạy học
Mỗi mô hình lí luận dạy học, PPDH đều có những điểm mạnh, điểm hạn chế nhất
định. Nhưng khi xem xét việc thực hiện một mục tiêu dạy học nhất định thì có một số
PPDH có khả năng cao hơn các PPDH khác. Chẳng hạn nếu đặt mục tiêu nhanh
chóng truyền thụ cho xong nội dung quy định thì PPDH thuyết trình có vị trí quan

trọng. Nhưng nếu đặt mục tiêu phát triển năng lực tìm tòi sáng tạo của học sinh thì
vấn đề sẽ khác đi.
Sau đây là kết quả nghiên cứu về khả năng của các PPDH trong việc thực hiện các
mục tiêu (theo phân loại của Bloom và các tác giả khác):

Nh
ìn

vào ma trận, ta có thể thấy rõ điểm mạnh, điểm yếu của các nhóm PPDH với việc

23


GIÁO DỤC HỌC

SPT VB2 K5

thực hiện mục tiêu, đặc biệt là sự hạn chế của PP thuyết trình đối với việc thực hiện
các mục tiêu quan trọng của phát triển nhân cách.
Một kết quả nghiên cứu khác cũng cho thấy sự hạn chế của các PP dùng lời nói và
đồng thời khuyến khích tổ chức các hoạt động tự lập của học sinh phối hợp các PP
nhằm huy động đồng thời nhiều giác quan của học sinh tham gia vào quá trình tri
giác các đối tượng lĩnh hội.

-

Lựa
chọn các
PPDH
tương

thích với
nội dung
học tập
Giữa nội
dung và
PPDH có
mối quan
hệ
tác
động lẫn
nhau,
trong
nhiều trường hợp quy định lẫn nhau. Ở bình diện kĩ thuật dạy học, PPDH cần tương
thích với nội dung dạy học. Mỗi nội dung dạy học đều liên hệ mật thiết với những
hoạt động nhất định.
3. Lựa chọn PPDH cần chú ý đến hứng thú, thói quen của học sinh, kinh nghiệm
sư phạm của giáo viên
Cần chuẩn đoán nhu cầu, hứng thú của học sinh khi lựa chọn các PPDH.Đối với việc
trình bày thông tin cần ưu tiên lựa chọn các PP sử dụng phương tiện nghe nhìn, sử
dụng truyền thông đa phương tiện càng tốt.Đối với các hoạt động chế biến thông tin
cần tổ chức các hoạt động tự phát hiện, phối hợp với làm việc theo nhóm, phát huy
càng tối đa tính tích cực, sáng tạo của học sinh càng tốt.
- Chú ý thay đổi PPDH và hình thức tổ chức dạy học tránh nhàm chán, gây hứng
thú cho học sinh. Cần thay đổi PPDH sau 15, 20 phút.
Ưu tiên lựa chọn các PPDH mà học sinh, giáo viên đã thành thạo.
2.

-

-


-

24


GIÁO DỤC HỌC
- Với các phương

pháp dạy học có ưu điểm tương đương, cần ưu tiên lựa chọn phương
pháp dạy học mà giáo viên và học sinh đã thành thạo, bởi thực hiện dễ dàng hơn.
Không vì tiêu chí này mà quay trở lại vớ PP truyền thụ một chiều. Hiện nay, rất cần
thiết phải cho GV và HS trở nên quen thuộc với các kĩ thuật dạy học mới có hiệu quả
cao trong việc thực hiện các mục tiêu giáo dục. Để nâng cao tay nghề cần:

-



Nghiên cứu các vấn đề đổi mới PPDH qua sách, vở, giáo trình, tạp chí chuyên môn,
các lớp tập huấn...



Rút kinh nghiệm các giờ dạy của bản than kết hợp với tiến hành dự giờ, trao đổi
chuyên môn với đồng nghiệp...

4.
-


-

IV.
-

SPT VB2 K5

Lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với điều kiện dạy học
Ở đây đề cập đến phương pháp dạy học diễn ra trong mối quan hệ với các điều kiện
vật chất, đặc biệt là thiết bị dạy học. Đương nhiên là cần phải lựa chọn phương pháp
dạy học phù hợp với điều kiện của nhà trường, của phòng thí nghiệm, của tình trạng
đang có.
Trong khuôn khổ điều kiện cho phép, cần chọn thứ tự ưu tiên khả năng tốt nhất.
Các thiết bị dạy học hiện đại không luôn đồng nghĩa với các thiết bị dạy học đắt tiền.
Tính hiện đại của thiết bị dạy học thể hiện ở việc sử dụng các thiết bị sao cho đạt yêu
cầu cao nhất trong việc thực hiện các mục tiêu dạy học, thể hiện rõ tư tưởng sư phạm
hiện đại.

KẾT LUẬN
Tóm lại, trên đây là những cơ sở quan trọng nhất, là căn cứ xuất phát khi tiến hành lựa
chọn, lập các phương pháp giáo dục. Điều quan trọng nhất là cần xác định lựa chọn
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học có thể giúp cho học sinh:
- Học tập với niềm say mê, hứng thú, khát khao tìm tòi khám phá.
- Lĩnh hội tri thức trong các hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, theo
phương pháp khoa học.
- Học trong tương tác, trong việc hình thành các quan hệ hợp tác, thân thiện, cùng
nhau giải quyết các nhiệm vụ học tập

25



×