Tải bản đầy đủ (.pdf) (208 trang)

ÁP DỤNG CÔNG CỤ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TOÀN DIỆN (TQM) TRONG HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN – THƯ VIỆN Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 208 trang )

1

ÁP DỤNG CÔNG CỤ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TOÀN DIỆN (TQM)
TRONG HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN – THƯ VIỆN Ở VIỆT NAM
ThS. Nguyễn Thị Lan

Khoa Thư viện – Thông tin học
Trường ĐH KHXH & NV TP. HCM
1. Đặt vấn đề
Hoạt động thông tin - thư viện Việt Nam đang trong quá trình phát triển mạnh
mẽ, hoàn thiện và nâng cao chất lượng để hòa nhập với thế giới. Vì vậy, việc hoàn
thiện và nâng cao chất lượng trong toàn bộ hoạt động thông tin – thư viện đòi hỏi các
thư viện Việt Nam phải thực hiện đồng bộ, thống nhất các giải pháp nhằm hướng đến
việc phát triển toàn diện. Bên cạnh đó, chuẩn hóa hoạt động thư viện cũng giữ vai trò
quan trọng và mang tính chiến lược trong quá trình phát triển và hội nhập. Điều này
đòi hỏi các thư viện phải tiến hành cải tiến đồng bộ, thống nhất trong các khâu hoạt
động thông qua việc áp dụng các công cụ quản lý chất lượng để đo lường hiệu quả
hoạt động thư viện, qua đó có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế và phát huy
những thành tựu trong thư viện.
Quản lý chất lượng là một khâu không thể thiếu trong toàn bộ hoạt động của
thư viện. Việc áp dụng các công cụ quản lý chất lượng sẽ giúp cho các hoạt động trong
thư viện đảm bảo được thực hiện theo một tiến trình hoàn chỉnh, các khâu được tổ
chức, kiểm soát và quản lý chặt chẽ, hiệu quả. Bên cạnh đó, quản lý chất lượng sẽ giúp
nhân viên ý thức và có trách nhiệm hơn trong việc hoàn thành công việc của mình và
giúp nhà quản lý kiểm soát, theo dõi được quá trình vận hành của thư viện, từ đó có
biện pháp cải tiến, bổ sung, điều chỉnh và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức.
Công cụ quản lý chất lượng toàn diện (TQM) đã được sử dụng trong nhiều lĩnh
vực khác nhau [1] như kinh doanh, hàng không, ngân hàng, marketing, quản lý khách
sạn, giáo dục… Tuy nhiên, trong lĩnh vực thông tin – thư viện, công cụ TQM được áp
dụng muộn hơn so với các lĩnh vực khác. Đặc biệt, ở Việt Nam công cụ TQM vẫn còn
mới mẻ và chưa được áp dụng rộng rãi trong hoạt động thông tin – thư viện để cải tiến,


nâng cao chất lượng hoạt động thông tin – thư viện và kiểm soát quy trình trong thư


2

viện cũng như nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên thư viện, tiến tới việc thỏa mãn
nhu cầu của người sử dụng. Xét thấy rằng, TQM là công cụ quản lý có hiệu quả để
nâng cao chất lượng hoạt động thư viện thông tin nên việc áp dụng công cụ này vào tất
cả các khâu trong hoạt động thư viện thông tin là vấn đề cần thiết của các thư viện Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. Khái quát về công cụ quản lý chất lượng toàn diện (TQM)
Việc sử dụng công cụ quản lý chất lượng toàn diện trong nhiều lĩnh vực khác
nhau đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy các hoạt động trong cơ quan tổ chức đi
đúng hướng, ngày càng hoàn thiện và hiệu quả hơn. Quản lý chất lượng toàn diện là
phương pháp quản lý chất lượng tập trung vào mọi công đoạn, quy đình để nâng cao
năng suất và hiệu quả của cơ quan, tổ chức hay doanh nghiệp [2]. Có nhiều quan điểm
khác nhau về TQM như:
TQM là một phương pháp tiếp cận có hệ thống để thực hành quản lý, đòi hỏi
phải có những thay đổi trong quá trình tổ chức, có chiến lược ưu tiên, niềm tin, thái độ
và hành vi của cá nhân [3]. Quan điểm khác cho rằng TQM là việc áp dụng một số
hoạt động với sức mạnh tổng hợp [4]. Các yếu tố quan trọng của TQM bao gồm:
 Chất lượng định hướng vào khách hàng
 Cam kết và lãnh đạo việc quản lý phải đưa lên hàng đầu
 Cải tiến liên tục;
 Phản ứng nhanh;
 Sự tham gia của nhân viên;
 Có văn hóa quản lý chất lượng toàn diện.
Tuy nhiên theo Gilbert Stora và Jean Montaigne [5], TQM là sự kết hợp giữa 3 từ:
- T (Total): Bao gồm tất cả các công việc trong toàn bộ quy trình, quản trị từ
việc nhỏ đến việc lớn, mỗi cá nhân trong hệ thống này đều có vai trò nhất định. TQM

chú trọng đến sự cam kết và tham gia của tất cả các thành viên trong tổ chức để đảm
bảo chất lượng công việc.
- Q (Quality): chất lượng quản lý quyết định chất lượng sản phẩm. Chất lượng
được thể hiện qua 3 khía cạnh: hiệu năng, độ tin cậy, an toàn; giá cả hợp lý (hiệu quả
tương xứng với chi phí đầu tư); đáp ứng mong đợi của khách hàng.


3

- M (Management): quản lý với 4 chức năng cơ bản là lập kế hoạch; tổ chức
thực hiện; lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm soát, điều khiển quá trình. TQM chú trọng đến
phương pháp quản lý theo quá trình, tất cả các hoạt động từ đầu vào đến đầu ra đều
phải thông qua tiêu chuẩn hóa chất lượng và quy trình hóa hoạt động đảm bảo chất
lượng.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về TQM, nhưng nhìn chung các tác giả
đều cho rằng TQM là sự lưu tâm đến chất lượng trong tất cả các hoạt động, là sự hiểu
biết, sự cam kết, hợp tác của mọi thành viên trong tổ chức, nhất là ở cấp lãnh đạo [6].
Mô hình TQM dựa trên phương pháp và công cụ quản lý chất lượng do E.W. Deming
đề xuất và gồm các bước tổng quát sau [7]:
- Lựa chọn quá trình ưu tiên để phân tích
- Phân tích quá trình
- Kiểm tra, đánh giá quá trình
- Lập và thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng.
TQM dựa trên cách quản lý tập trung vào chất lượng, thông qua việc thiết lập
một hệ thống quản lý chất lượng có thể kiểm soát mọi khâu của quá trình thực hiện.
Có thể thấy TQM có các vai trò cơ bản như sau [8]:
Nâng cao sự hiểu biết: Khi áp dụng TQM thì tất cả các thành viên của tổ chức
sẽ có thêm kiến thức về vai trò, vị trí, kỹ năng và phương pháp sử dụng TQM hiệu quả
trong các quy trình hoạt động của tổ chức. Hơn nữa, việc đào tạo và huấn luyện cho
mọi thành viên được tiến hành thường xuyên hơn để nâng cao trình độ, nhận thức cũng

như kỹ năng thực hiện công việc.
Đảm bảo tính tổ chức: TQM sẽ giúp đặt các nhân viên vào đúng vị trí công việc
của mình, phân định rõ trách nhiệm của từng người, từ đó nâng cao tính tổ chức, kỷ
luật và ý thức của từng thành viên. Bên cạnh đó, từ cấp lãnh đạo đến cấp quản lý và
toàn bộ nhân viên sẽ phải cam kết theo đuổi và thực hiện các chương trình, mục tiêu
về chất lượng.
Đo lường hiệu quả: Thông qua việc xây dựng kế hoạch thực hiện, thiết lập các
mục tiêu, yêu cầu cụ thể về chất lượng được triển khai thực hiện một cách rõ ràng, cụ
thể và có hệ thống sẽ đảm bảo cho việc đo lường, đánh giá được những kết quả đạt
được, đồng thời có cơ sở để cải tiến, hoàn thiện, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng


4

như tiết kiệm chi phí do các hoạt động không chất lượng gây ra.Bên cạnh đó, TQM sẽ
tạo cơ hội cho các thành viên trong nhóm trao đổi ý kiến, chia sẻ, thông cảm và hình
thành lòng tin cậy để đạt được mục tiêu chung, từ đó tăng cường sự hợp tác, tinh thần
đoàn kết của mọi thành viên trong tổ chức.
3. Áp dụng quản lý chất lượng toàn diện trong hoạt động thông tin - thư viện
ở Việt Nam
Nhu cầu và mong muốn của người sử dụng ngày càng gia tăng đã tạo ra những
thách thức lớn đối với thư viện trong việc cải tiến và nâng cao chất lượng các sản
phẩm, dịch vụ thông tin – thư viện. Quản lý chất lượng trong hoạt động thông tin – thư
viện đã nhận được sự chú ý đáng kể, do đó việc áp dụng các chương trình quản lý chất
lượng làm gia tăng hiệu quả hoạt động thư viện và đáp ứng ngày càng cao mong đợi
của khách hàng là một yêu cầu thiết yếu. Tuy nhiên, thực hiện quản lý chất lượng hiệu
quả trong hoạt động thông tin – thư viện đòi hỏi phải có sự hiểu biết về [9]:
-

Các đặc trưng riêng của hoạt động thông tin – thư viện;


-

Bản chất sự tương tác, mối quan hệ giữa cán bộ thư viện và người sử dụng;

-

Xây dựng các khuyến nghị về việc áp dụng công cụ quản lý chất lượng một
cách phù hợp.
TQM là một phương pháp tiếp cận toàn diện và cấu trúc để quản lý các hoạt

động của thư viện đang tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ thông qua
việc cải tiến liên tục để đáp ứng mong đợi của người sử dụng. Sự hài lòng của người
sử dụng là mục đích chính hoặc cơ bản của thư viện và cung cấp các sản phẩm, dịch
vụ tốt hơn. Tất cả các khâu trong toàn bộ hoạt động của thư viện bao gồm bổ sung, xử
lý nghiệp vụ, lưu trữ, phục vụ bạn đọc… phải được áp dụng công cụ TQM một cách
đồng bộ để đạt được mục tiêu của thư viện.
Để áp dụng TQM trong thư viện thì cần thực hiện thống nhất quy trình gồm các
bước sau [10]:
Đầu vào (Input): Việc áp dụng TQM vào việc kiểm soát, quản lý chất lượng
đầu vào bao gồm việc xây dựng kế hoạch và chuẩn bị các nguồn lực. Trong giai đoạn
này, cán bộ thư viện cần xây dựng và xác định các mục tiêu cụ thể, khả thi cho các
hoạt động thư viện; chuẩn bị và đảm bảo các nguồn lực để thực hiện mục tiêu; xây
dựng kế hoạch hành động và lựa chọn, sắp xếp các hoạt động theo thứ tự ưu tiên để đạt


5

được mục tiêu một cách tốt nhất. Chẳng hạn, cán bộ thư viện thực hiện công tác bổ
sung có một vai trò quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch bổ sung để phát triển bộ

sưu tập tài liệu, thông tin có ý nghĩa trên cơ sở tính toán và kiểm soát ngân sách phù
hợp. Tương tự như vậy, bộ phận nghiệp vụ cũng phải xây dựng kế hoạch xử lý kỹ
thuật cho tài liệu, dự toán và phân bổ nhân lực cho phù hợp với từng vị trí công việc cụ
thể để đảm bảo việc xử lý tài liệu được thực hiện một cách nhanh chóng và chính xác.
Quy trình (Process): Giai đoạn này đòi hỏi việc quản lý môi trường làm việc
của toàn bộ nhân viên trong thư viện; quản lý tiến độ thực hiện, chất lượng và mức độ
đạt được công việc so với mục tiêu đã đề ra trong các khâu hoạt động; đánh giá quá
trình làm việc của nhân viên và kịp thời điều chỉnh, hỗ trợ và thúc đẩy tiến trình để đạt
được hiệu quả công việc cao nhất nhằm tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí thực
hiện.
Đầu ra (Output): Quản lý chất lượng trong giai đoạn này phải thực hiện việc so
sánh, đánh giá số lượng và chất lượng của các sản phẩm do cán bộ thư viện làm ra so
với các tiêu chuẩn, quy định của ngành và với mục tiêu đã đề ra. Hơn nữa, việc đánh
giá các sản phẩm và dịch vụ của thư viện phải đảm bảo độ tin cậy và tính chính xác
cao.
Hiệu quả (Outcome): Việc đánh giá hiệu quả của hoạt động thông tin – thư viện
phải thông qua đánh giá mức độ hài lòng của người sử dụng đối với các sản phẩm và
dịch vụ mà thư viện cung cấp bằng thông tin phản hồi (feedback). Hơn nữa, bước này
cũng đòi hỏi người quản lý chất lượng phải xem xét các yếu tố như các sản phẩm, dịch
vụ được làm ra và cung cấp cho người sử dụng nhanh nhất với nguồn chi phí thấp nhất
nhưng hiệu quả sử dụng cao nhất. Ngoài ra, phải đảm bảo việc tiết kiệm được nguồn
nhân lực thực hiện nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm, dịch vụ.
Để áp dụng TQM trong thư viện đạt hiệu quả, các yếu tố sau nên được chú
trọng phát triển [11]:
 Xác định chất lượng công việc cụ thể của từng cá nhân và nhóm trong thư
viện bao gồm nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn và mối quan hệ về chất
lượng của từng cá nhân chủ chốt và nhóm trong thư viện.
 Quy định các bộ phận khác nhau thực hiện chức năng kiểm soát riêng của
mình để giúp thư viện đạt được mục tiêu chất lượng.



6

 Thành lập và duy trì liên tục hệ thống quản lý chất lượng thư viện.
Việc xem xét quản lý chất lượng hiệu quả trong thư viện nên tiến hành theo các
bước sau [12]:
-

Nội dung công việc: Các thành viên trong thư viện phải được cung cấp các kiến

thức về chuyên môn, yêu cầu các công việc cụ thể và trách nhiệm cũng như các
phương pháp để điều chỉnh công việc trong trường hợp không đáp ứng được các mục
tiêu đề ra của thư viện. Lãnh đạo có trách nhiệm thiết kế công việc cụ thể cho nhân
viên của mình bao gồm việc giao nhiệm vụ và các nguồn lực để tạo ra một hệ thống có
hiệu quả, hoàn thành nhiệm vụ của thư viện thông qua những đóng góp hàng ngày của
các cá nhân. Lãnh đạo thư viện phải cung cấp các công việc có ý nghĩa và phù hợp cho
từng nhân viên của mình bởi vì thiết kế công việc thích hợp sẽ quyết định đến việc ai
sẽ thực hiện, làm thế nào để mỗi nhân viên hoàn thành tốt công việc của mình và công
việc được thực hiện ở đâu? vào thời điểm nào? Ngoài ra, lãnh đạo thư viện phải luôn
đặt nhân viên của mình trong tình trạng phải tự kiểm soát bản thân để thúc đẩy họ thực
hiện nhiệm vụ.
-

Trao quyền: Trao quyền là quá trình ra quyết định ủy quyền cho các cấp thấp

hơn. Việc trao quyền phải được thực hiện trong tất cả các bộ phận và các nhân viên
của thư viện, bởi việc trao quyền sẽ giúp nhân viên có ý thức sâu sắc về thực hiện
nhiệm vụ được giao, cảm thấy quyền và trách nhiệm trở nên có ý nghĩa hơn. Khi
quyền lực được giao thì nhân viên thư viện phải có trách nhiệm cung cấp các sản
phẩm, dịch vụ có chất lượng; có thẩm quyền để xác định các vấn đề đang tồn tại, sau

đó có kế hoạch xây dựng và thực hiện các giải pháp phù hợp để tiến tới việc cải tiến,
bổ sung, điều chỉnh những mặt còn hạn chế trong tất cả các hoạt động của thư viện.
-

Sự cam kết của các thành viên: tất cả các thành viên trong thư viện phải thực

hiện việc cam kết hoàn thành tốt công việc và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ có chất
lượng cho người sử dụng. Thực hiện việc cam kết giữ vai trò quan trọng và là điều cần
thiết cho thành công của TQM.
-

Lựa chọn và đào tạo: Việc lựa chọn và đào tạo nhân viên có ảnh hưởng quan

trọng đến sự phát triển của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào. Các nhân viên phải luôn được
đào tạo, nâng cao chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng để đảm bảo đáp ứng tốt


7

nhu cầu của tổ chức. Việc đào tạo này phải được tiến hành thường xuyên và có định
hướng, mục tiêu rõ ràng và phù hợp với đặc điểm của tổ chức.
-

Công nhận và khen thưởng: Những cá nhân đạt thành tích tốt, hiệu suất cao

trong hoạt động thư viện phải được thừa nhận và có chế độ khen thưởng phù hợp nhằm
khuyến khích, động viên nhân viên phát huy tối đa năng lực của bản thân và nâng cao
ý thức trách nhiệm trong các công việc của thư viện.
4. Kết luận
Áp dụng TQM trong hoạt động thông tin – thư viện là việc làm có ý nghĩa quan

trọng trong việc cải thiện các quy trình hoạt động của thư viện để hướng đến thư viện
hoạt động có hệ thống, kiểm soát chặt chẽ các nguồn lực, tiết kiệm thời gian và chi phí
cũng như gia tăng sự hài lòng của khách hàng đối với các dịch vụ được cung cấp. Bên
cạnh đó, TQM cũng khuyến khích kỹ năng làm việc nhóm và sự tham gia của tất cả
các thành viên để đảm bảo rằng việc thiết kế các sản phẩm, dịch vụ phải theo định
hướng của người sử dụng. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ TQM trong hoạt động
thông – tin thư viện đòi hỏi sự kiên nhẫn của người thực hiện bởi vì nó là một quá
trình tốn nhiều thời gian, công sức và không dễ dàng thực hiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bhatt, S. (2012). Total Quality Management: An Effective Approach for
Library System. International Journal of Information Dissemination and Technology,
2(4), 266-269.
[2] Sivankalai, S. & Yadav, S.K.T. (2012). Total Quality Management in
Academic Libraries: A Study. International Journal of Educational Research and
Technology, 66–72.
[3], [4] Sharma. C. (2014). Measurement Of Total Quality Management In
Libraries. International Journal of Contemporary Practices, Vol.2, Issue 3.
[5], [6], [7] [10] Lê, Yên Dung. (2009). Vận dụng thuyết quản lý chất lượng
tổng thể (TQM) trong quản lý chất lượng nghiên cứu khoa học ở Đại học Quốc gia Hà
Nội. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, 20–25.
[8] Hệ thống quản lý chất lượng toàn diện. Truy cập ngày 25/9/2014 từ:
.


8

[9] Hsieh, P.N, Chang P.L & Lu K.H. (2000). Quality Management Approaches
in Libraries and Information Services. Libri Journal, 191–201.
[11], [12] Bhatt, S. (2012). Total Quality Management: An Effective Approach

for Library System. International Journal of Information Dissemination and
Technology, 2(4), 266-269.


9

“CONSORTIUM” – HÌNH THỨC HỢP TÁC PHÁT TRIỂN
NGUỒN HỌC LIỆU NGÀNH/ CHUYÊN NGÀNH HIỆU QUẢ
CHO CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM
PGS.TS. Trần Thị Quý
Khoa Thông tin - Thư viện
Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN

1.Đặt vấn đề
Từ những thập kỷ cuối của thế kỷ XX đến nay, nền kinh tế thế giới đã và đang
dịch chuyển mạnh theo xu hướng của nền kinh tế tri thức và toàn cầu hóa dưới sự tác
động sâu, rộng của thành tựu công nghệ thông tin và truyền thông. Trong nền kinh tế
này, thông tin/ tri thức có vai trò quyết định đến sự tồn tại, phát triển và cạnh tranh của
mọi tổ chức/ quốc gia/ dân tộc. Tổ chức nào/ quốc gia nào/ dân tộc nào nắm được
thông tin có chất lượng một cách đầy đủ, chính xác, nhanh chóng và biết xử lý các
thông tin một cách hiệu quả thì sẽ chiến thắng trong cuộc cạnh tranh trong bối cảnh
hội nhập toàn cầu hóa. Do vậy, thông tin/ tri thức có ý nghĩa quan trọng sống còn với
sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia/ tổ chức/ dân tộc. Vậy làm thế nào để có
được nguồn lực thông tin đủ mạnh, nguồn lực thông tin/ tri thức có giá trị gia tăng
cao? Đây là bài toán cần có lời giải của mọi cấp quản lý khác nhau của mọi ngành,
nghề trong đó có ngành Thông tin – Thư viện (TT-TV).
Ở Việt Nam, trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lời giải có
tính quốc sách hàng đầu là phát triển khoa học & công nghệ và giáo dục & đào tạo,
đặc biệt là giáo dục đại học. Trong giai đoạn phát triển này, giáo dục đại học có vai trò
quan trọng, bởi đầu ra của hệ thống này là nguồn nhân lực có chất lượng cao, có khả

năng nhanh chóng tiếp cận khoa học & công nghệ hiện đại trên thế giới để ứng dụng
vào hoạt động thực tiễn ở Việt Nam. Đồng thời nguồn nhân lực này cũng là đội quân
chủ chốt để sản sinh ra các tri thức mới/ thành tựu khoa học & công nghệ mới, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, chất lượng đào tạo của các trường đại học là
vấn đề được đặt ra hàng đầu và mọi nguồn lực đều được tập trung vào đây. Một trong
những nguồn lực ấy là nguồn lực thông tin/tài liệu cần phải đáp ứng tối đa nhu cầu của


10

người dùng tin là cán bộ quản lý; cán bộ nghiên cứu; cán bộ giảng dạy; nghiên cứu
sinh, học viên cao học, sinh viên...
Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề trên, trong giai đoạn đổi mới đất nước, để
thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH), nhiều
văn bản của Đảng và Nhà nước đã cụ thể hóa chủ trương này. Gần đây nhất là ngày
04/11/2013, tại Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành TW khóa XI, Tổng bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã ký ban hành NQ số 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
& đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế.”. Trước đó, để cập nhật nội dung cho QĐ số
121/2007/QĐ-TTg, ngày 27/07/2007, Thủ tưởng Chính phủ đã ký QĐ số 37 ngày
26/06/2013 về việc “Điều chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng
giai đoạn 2006 đến 2020”. Trong quyết định đã chỉ rõ cần “Tăng cường năng lực và
nâng cao chất lượng hoạt động của thư viện ở các trường; hình thành Hệ thống thư
viện điện tử kết nối các trường trên cùng địa bàn, cùng một vùng và trên phạm vi toàn
quốc; Thiết lập mạng thông tin toàn cầu và mở rộng giao lưu Quốc tế cho tất cả các
trường đại học, cao đẳng trong nước; Quy hoạch, sắp xếp lại công tác xuất bản giáo
trình, sách và tài liệu tham khảo; Tập trung đầu tư hiện đại hóa trang thiết bị phòng
học,giảng đường; nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ cho sinh viên”. Thực tế,
năng lực và chất lượng các cơ quan TT-TV đại học hiện chưa đáp ứng được tốt nhu
cầu tin trong học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Cũng như kiến thức thông tin

của người dùng tin còn nhiều hạn chế dẫn đến mức độ thỏa mãn nhu cầu thông tin/ tài
liệu cho người dùng tin trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay còn rất khiêm
tốn và việc liên kết chia sẻ, nâng cao năng lực phục vụ đã được đặt ra từ lâu nhưng vẫn
chưa được triển khai hiệu quả như mong muốn. Vì vậy, vấn đề đặt ra có tính cấp thiết
là các cơ quan TT, TV đại học cần khởi động, thúc đẩy nhanh và hiệu quả hơn nữa để
liên kết chía sẻ nguồn lực thông tin. Trước hết, chưa cần đặt ra mục tiêu xây dựng mô
hình chia sẻ thông tin với quy mô rộng lớn toàn bộ mạng lưới cơ quan TT, TV trên
toàn quốc hay cho từng hệ thống cơ quan thông tin, thư viện. Chúng ta hãy bắt đầu
khởi động từ bước đi “vừa sức” là xây dựng “Consortium” cho tài liệu của các ngành/
chuyên ngành đào tạo (như khối ngành Khoa học Xã hội và Nhân văn; Khối ngành
Khoa học tự nhiên; Khoa học ứng dụng nói chung hay từng ngành/chuyên ngành nói


11

riêng như Luật học, Kinh tế học, Lịch sử; Văn học; Xã hội học; Công tác xã hội... như
Toán học; Sinh học; Y - Dược học....) tại các trường đại học trong từng khu vực địa lý
với phạm vi từ nhỏ đến lớn. Mô hình liên kết, chia sẻ thông tin ngành/ chuyên ngành
có lợi ích to lớn là giúp nâng cao năng lực, chất lượng hoạt động thông tin, thư viện
của mỗi trường đại học.
2. Vai trò của Consortium trong chia sẻ nguồn lực thông tin giữa các cơ
quan thông tin, thư viện đại học
Trước hết, chia sẻ nguồn lực thông tin sẽ giúp đảm bảo tiêu chí đánh giá chất
lượng giáo dục đại học của mỗi trường đại học vì thư viện và vốn tài liệu trong thư
viện đã là một trong những tiêu chuẩn của kiểm định chất lượng đào tạo. Cụ thể, Tiêu
chuẩn 9.1 của Bộ Tiêu chuẩn kiểm định chất lượng đào tạo của Bộ Giáo dục & Đào
tạo ban hành ngày 02/12/2004 đã đưa ra hai mức đánh giá là “Mức 1: có thư viện,
phòng đọc, sách báo, tài liệu để phục vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Đảm bảo
đạt 60-105 số đầu sách cho một ngành đào tạo (đối với các đơn vị đào tạo ký thuật,
kinh tế) và 7—122 đầu sách đối với ngành khác”. “Mức 2: Hệ thống thư viện được

tin học hóa và có các tài liệu điện tử. Thư viện của trường được nối mạng, liên kết
khai thác tài liệu với các trường đại học khác; thường xuyên cập nhật các tài liệu mới;
có biện pháp khuyến khích người học, giáo viên, cán bộ quản lý khai thác có hiệu quả
các tài liệu thư viện. Tỷ lệ đọc giả đến thư viện hàng năm trên tổng số người học và
giảng viên của trường phải cao”. Như vậy, việc đảm bảo nguồn học liệu, liên kết khai
thác tài liệu giữa các trường đại học đã được đặc biệt chú trọng, là yếu tố không thể
thiếu của bất cứ trường đại học nào.
Thứ hai, liên kết chia sẻ nguồn lực thông tin ngành/chuyên ngành theo mô hình
Consortium đảm bảo sức mạnh nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Bởi thực tế, không có một cơ quan TT, TV đại học nào có đủ khả năng đáp ứng nhu
cầu thông tin/ tài liệu theo ngành/ chuyên ngành cho người dùng tin đang biến đổi
ngày càng nhanh chóng cả về nội dung và phương thức truy cập nguồn lực thông tin.
Nhu cầu tin theo ngành/ chuyên ngành đòi hỏi nguồn lực thông tin không chỉ bào quát
mà đặc biệt là phải chuyên sâu. Mặt khác, với phương thức đào tạo theo tín chỉ, đòi hỏi
người học cần phải tự học, tự nghiên cứu là chủ yếu. Vì vậy, nhu cầu sử dụng, khai
thác thông tin/tài liệu là rất lớn và không ngừng phát triển. Phương thức khai thác truy


12

cập thông tin/tài liệu không chỉ còn ở cơ quan thông tin, thư viện mà có thể ở bất cứ
đâu thông qua mạng máy tính. Vì vậy, tham gia và phát triển hiện đại hóa hệ thống
Consortium giữa các cơ quan có nguồn lực thông tin cùng ngành/chuyên ngành sẽ là
giải pháp hữu hiệu để nâng cao năng lực đảm bảo chất lượng đầu ra của các trường đại
học.
Thứ ba, liên kết chia sẻ nguồn lực thông tin ngành/ chuyên ngành giúp khắc
phục khó khăn về tài chính trong việc bổ sung vốn tài liệu/ thông tin còn hết sức hạn
hẹp hiện nay, nhưng lại làm phong phú thêm vốn tài liệu của cơ quan TT, TV. Ví dụ,
Công ty IGroup giao bán sản phẩm Academic Onefile với số lượng 6.500 tạp chí và
Tạp chí toàn văn trong tổng số 10.000 tạp chí chuyên ngành có giá niêm yết là 35.000

USD/đơn vị/năm nhưng có giá ưu đãi cho một đơn vị có 10 thành viên 3.500
USD/năm; 20 thành viên chỉ còn 1.800 USD/năm và 30 thành viên chỉ còn 1.200
USD/năm... Đồng thời, liên kết chia sẻ nguồn lực còn giảm thiểu sức người, sức của
trong việc xử lý tài liệu. Tài liệu/ thông tin chỉ cần mua tài liệu một lần, xử lý một lần
từ một đơn vị bất kỳ nào tham gia trong hệ thống chia sẻ, nhưng lại được sử dụng
nhiều lần cho bất cứ người dùng tin nào có nhu cầu. Mỗi đơn vị thành viên đều có
quyền sử dụng nguồn lực thông tin/ tài liệu của các đơn vị thành viên khác và có nghĩa
vụ phục vụ người dùng tin của bất kỳ đơn vị nào tham gia trong hệ thống với hình thức
mượn liên thư viện. Chỉ có như vậy, các cơ quan TT, TV đại học mới đáp ứng được
nhu cầu tin cho người dùng tin của mình cả về nội dung và hình thức tài liệu/ thông tin
nhanh chóng, chính xác, đầy đủ.
Thứ tư, liên kết và chia sẻ nguồn lực thông tin giúp đảm bảo hoạt động TT, TV
trong các trường đại học thực sự hướng đến người dùng tin. Một khi Consortium được
vận hành với lợi ích của Mục lục liên hợp trực tuyến, người dùng tin có thể truy cập
nguồn lực thông tin/ tài liệu chuyên ngành ở trong và ngoài trường ở mọi lúc, mọi nơi
thông qua một điểm truy cập duy nhất trong cổng thông của đơn vị thành viên, đồng
thời được hỗ trợ nhanh chóng khi muốn tiếp cận tài liệu gốc. Hiệu quả/ kết quả tra cứu
tìm kiếm thông tin/ tài liệu được cải thiện đáng kể và giảm thiểu tối đa thời gian, sức
lực, tài chính trong việc tập hợp tài liệu nâng cao chất lượng học tập, chất lượng công
trình nghiên cứu khoa học.


13

Thư năm, liên kết chia sẻ tài nguyên thông tin sẽ giúp đám bảo chất lượng và
khả năng phát triển phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức của các sản phẩm và
dịch vụ TT, TV của mỗi đơn vị thành viên trong hệ thống. Với nguồn lực thông tin/ tài
liệu phong phú của Consortium, các chuyên gia TT, TV sẽ xây dựng, “chế biến” thành
nhiều các sản phẩm và tổ chức nhiều dịch vụ đa dạng khác nhau. Như vậy, hợp tác
chia sẻ nguồn lực sẽ tối ưu hóa hiệu quả hoạt động và năng lực của mỗi cơ quan

TTTV.
Thứ sáu, việc tham gia hệ thống Consortium tài liệu ngành/ chuyên ngành là
điều kiện để mở rộng mối giao lưu, hợp tác với các đơn vị khác trong và ngoài nước.
Chỉ có tham gia cùng hệ thống để chia sẻ, mới tạo sức mạnh tổng hợp, cộng hưởng
thuận lợi để giao lưu, hợp tác với các đơn vị ngoài hệ thống. Một khi đã tham gia hệ
thống thì sự sẵn sàng sẻ chia không chỉ là nguồn lực thông tin mà còn đối với cả
những tiềm lực sẵn có khác của mỗi đơn vị như kinh nghiệm, hạ tầng công nghệ thông
tin, trình độ nguồn nhân lực...
Thứ bảy, việc tham gia hệ thống Consortium tài liệu ngành/ chuyên ngành sẽ là
cơ hội tốt để các đơn vị thành viên chia sẻ kinh nghiệm trong quá trình hiện đại hóa
hoạt động TT-TV. Quá trình tham gia hệ thống là quá trình được nâng cao trình độ từ
các lớp học thực tế tác nghiệp trong quản lý và điều hành thư viện điện tử/ thư viện số.
Vì vậy, vấn đề quan trọng có tính cấp thiết cần phải được nghiên cứu triển khai là xây
dưng và phát triển Consortium tài liệu/thông tin theo ngành/ chuyên ngành đang được
đào tạo tại các trường đại học.
3. Thực trạng mức độ đáp ứng nhu cầu thông tin cho người dùng tin và sự
hợp tác chia sẻ giữa các cơ quan thông tin – thư viện đại học Việt Nam
3.1. Mức độ đáp ứng nhu cầu thông tin/ tài liệu cho người dùng tin
Thực tiễn cho thấy, để đảm bảo nguồn học liệu thỏa mãn tối đa nhu cầu tin của
ngươi dùng tin, không có một tổ chức nào, quốc gia nào (kế cả hệ thống TT, TV đại
học Mỹ) có đủ tài chính để có thể phát triển nguồn lực thông tin của mình một cách
đầy đủ, cập nhật... Các trường đại học luôn luôn ở tình trạng khan hiếm nguồn lực
thông tin, hay nói cách khác chưa đáp ứng tốt nhu cầu tin của người dùng tin trong và
ngoài trường trong việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học. Có thể lấy minh
chứng từ một cuộc điều tra nghiên cứu vào đầu năm 2014, chúng tôi đã có cuộc khảo


14

sát 560 người dùng tin của 35 cơ quan TT, TV của các trường đại học trên địa bàn Hà

Nội. Chúng tôi đã có kết quả đánh giá về mức độ thỏa mãn nhu cầu của người dùng
vẫn còn rất khiêm tốn. Khi được hỏi lý do anh/ chị đến thư viện trường chỉ có 42%
người được hỏi cho là đủ tài liệu, còn lại là các lý do khác như hiện đại, gần nhà, môi
trường tốt, công tác phục vụ tốt....Nhận xét người dùng tin về vốn tài liệu của cơ quan
TT, TV của trường thì 67% trả lời là đầy đủ (56%) và rất đầy đủ (11%). Như vậy còn
tới 44 % đánh giá là chưa đầy đủ và rất thiếu.

1.00%

11%

Rất đầy đủ

32%

Đầy đủ
Chưa đầy đủ
Rất thiếu
56%

Đánh giá về mức độ rất thỏa mãn nhu cầu tin của cán bộ/giảng viên và người
học cũng còn rất khiêm tốn. Đối với cán bộ/ giảng viên chỉ có 21% và người học chỉ
có 25% cho rằng rất thỏa mãn nhu cầu tin của mình trong nghiên cứu, học tập và giảng
dạy. Khi hỏi người dùng tin về hiện tượng “có bị từ chối khi mượn tài liệu hay không
và lý do bị từ chối nếu có”, kết quả thu về có tới 45% người được hỏi trả lời là đã bị từ
chối, chỉ có 55% trả lời là không bị từ chối.

7.30%

6.10%


1h-2h

2h-3h

3h-4h

4h-5h

Trên 5h

Khác

32%

8%
20%
26%


15

Lý do thì có nhiều nguyên nhân như đã có người mượn 55%; Có nhưng chưa
xử lý nghiệp vụ 15%; Tài liệu bị mất 12,5% và không có tài liệu chiếm tới tỷ lệ khá
cao 36,3%.

Tìm hiểu về thói quen và mức độ truy cập khai thác thông tin/tài liệu ở đâu thì
số người trả lời cao nhất ở mức thường xuyên 70,6% và ở nhà, tiếp đến là từ tủ sách
cá nhân 54,9%; chỉ có 27%... số người tham gia trả lời là ở Trung tâm TT-TV. Đây là
những con số biết nói, thể hiện yêu cầu cấp thiết sự quan tâm của các cấp trong việc

hiện đại hóa, phát triển nguồn học liệu số và hợp tác bổ sung, chia sẻ nguồn học liệu số
để đáp ừng tốt nhu cầu tin cho thầy và trò của các trường đại học khi nhu cầu và thói
quen sử dụng thư viện đang thay đổi.


16

3.2. Thực trạng về sự hợp tác chia sẻ giữa các cơ quan thông tin – thư viện đại
học
Ở Việt Nam, phối hợp bổ sung, chia sẻ nguồn lực thông tin/ tài liệu không còn
là vấn đề mới, song sự nghiên cứu tiếp tục triển khai vẫn rất cần thiết. Vì thực tế, nhiều
dự án đã được triển khai như “Liên hợp thư viện Việt Nam về nguồn tin điện tử Vietnam Library Consortium on e-resources”; Dự án về hình thức và mục đích như
các Consortium của 10 thư viện đại học thành phố Hồ Chí Minh “Hệ thống thông tin thư viện điện tử liên kết các trường đại học”; Dự án chia sẻ nguồn lực thông tin của
một số cơ quan cùng ngành/ chuyên ngành Luật, Kinh tế, khối Y - Dược... Cho đến
nay, mô hình liên kết lớn nhất và cũng đang đạt hiệu quả cao phải kể đến là hoạt động
của “Liên hợp thư viện Việt Nam về nguồn tin điện tử”, do Cục Thông tin Khoa học
và Công nghệ Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ, làm đầu mối điều phối. Liên hợp
được thành lập tháng 12 năm 2004, lúc đầu chỉ có 26 thành viên và đến 2006 đã lên
đến 40 thành viên. Trong năm năm đầu, “Liên hợp thư viện Việt Nam về nguồn tin
điện tử” được tài trợ kinh phí từ tổ chức INASP; Từ 2010 đến nay, Liên hợp tự đóng
góp kinh phí để hoạt động. Các thành viên của Liên hợp đến từ nhiều hệ thống khác
nhau (các thư viện thuộc hệ thống thư viện công cộng; Trung tâm TT, TV của các viện
nghiên cứu; Trung tâm TT, TV của các trường đại học). Hiện nay, số lượng các thành
viên ngày một tăng. Đặc biệt, nguồn lực thông tin điện tử được đầu tư ngày một “giàu
lên” với nhiều gói thông tin/ CSDL có chất lượng cao, tính hiệu quả hoạt động của
nguồn tin điện tử đã thu hút số lượng người dùng truy cập ngày một tăng (số lượng
truy cập CSDL ProQuest năm 2011 1.355.503 lượt, đến 2013 đã lên đến 9.348.692
lượt); Số bài tải về cũng tăng (năm 2011 là 34.337 bài; năm 2013 tăng lên 250.969
bài); Chi phí bình quân cho một bài tải xuống lại giảm đáng kể (năm 2011 giá 3,5
USD/bài tải xuống đến 2013 chỉ còn gần 0,4 USD/bài tải xuống) ; Mặt khác đội ngũ

chuyên gia (hơn 300 lượt người) là các thành viên đã được đầu tư nâng cao trình độ,
kỹ năng truy cập nguồn tin điện tử, đàm phán, marketing các dịch vụ thông tin thư
viện... Có thể nói rằng, sau 10 năm hoạt động Mô hình Liên hợp các thư viện Việt
Nam về nguồn tin điện tử đã và đang phát huy tốt hiệu quả của Consortium trong việc
chia sẻ nguồn lực thông tin/ tài liệu. Đây là mô hình rất cần để chúng ta tham khảo,
hợp tác bổ sung, chia sẻ cho nguồn tài liệu ngành/ chuyên ngành.


17

4. Các hình thức của Consortium giữa các cơ quan thông tin, thư viện đại học
Sự hợp tác liên thông chia sẻ giữa các cơ quan thông tin, thư viện đại học đã xuất
hiện và tồn tại khá lâu trên thế giới với các hình thức như: Liên kết các trường đại học
theo khu vực tỉnh thành, quốc gia, quốc tế. Liên kết theo từng hệ thống cơ quan TTTV
(Thư viện đại học; Thư viện trường học; Thư viện công cộng; Thư viện thiếu nhi...); Liên
kết theo chủ đề các nguồn tin/Liên kết theo ngành, chuyên ngành đào tạo... Nội dung hợp
tác liên thông trong mỗi hình thức có nhiều dạng như: Hợp tác bổ sung dùng chung tài
liệu để phát triển nguồn tin; Xây dựng mục lục liên hợp; Chia sẻ hợp tác mượn liên thư
viện nguồn tài liệu...
Hợp tác bổ sung chia sẻ nguồn lực thông tin là hình thức phân công cụ thể cho
từng đơn vị thành viên có trách nhiệm đặt mua tài liệu nhất định trên cơ sở chính sách
bổ sung dài hạn và hàng năm của mỗi đơn vị (thường là gói tài liệu/ CSDL ngoại văn,
CSDL trực tuyến...). Nội dung hợp tác này giúp giảm thiểu kinh phí bổ sung nhưng lại
đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của người dùng tin.
Xây dựng mục lục liên hợp nhằm tạo thành ngân hàng dữ liệu chung của cả hệ
thống giúp người dùng tin của mỗi đơn vị thành viên đều có thể truy cập vào mục lục
trực tuyến thống nhất nhưng đa dạng về nội dung và phong phú về loại hình tài liệu/
thông tin. Vốn thông tin của mục lục này là từ sự đóng góp nguồn dữ liệu đặc thù của
mỗi đơn vị thành viên hoặc có thể từ một trung tâm xử lý tài liệu theo hình thức biên
mục tập trung; hoặc mua từ nhà cung cấp...

Hợp tác trao đổi tài liệu và cho mượn liên thư viện là hình thức phối hợp phục
vụ nguồn tài liệu cho bất cứ người dùng tin nào trong cùng hệ thống khi họ có yêu cầu.
Việc phục vụ người dùng tin hay trao đổi tài liệu giữa các đơn vị thành viên có thể
thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua bưu điện, Email, Fax... Với hình thức này,
số lượng người dùng tin cũng như vòng quay tài liệu của mỗi đơn vị thành viên sẽ tăng
lên rất nhiều, nhờ đó giá trị thông tin/hiệu quả phục vụ cũng được tăng lên.
Mỗi nội dung hình thức hợp tác liên thông đều có những mặt tích cực và hạn
chế nhất định. Vì vậy, thùy theo nhu cầu, tình hình, điều kiện thực tiễn... mà quyết
đinh lựa chọn hình thức phù hợp, khả thi nhằm từng bước xây dựng hệ thống liên
thông thống nhất giữa các cơ quan thông tin, thư viện đại học.


18

5. Những yếu tố cần và đủ để đảm bảo liên kết, chia sẻ nguồn lực thông tin
Trước hết, cần có sự quyết tâm, hiệp lực nhằm thực hiện kế hoạch dưới sự chỉ
đạo của ban điều hành. Khi triển khai Consortium cần có sự nhất trí, ký kết hợp tác
của lãnh đạo các cơ quan chủ quản – các trường đại học trong việc triển khai toàn bộ
kế hoạch: thống nhất trong việc xác định muc tiêu, nghĩa vụ, quyền lợi, thời gian, kế
hoạch cho từng giai đoạn; Khả năng và mức độ tham gia hợp tác giữa các thành viên
khi tham gia hệ thống. Xây dựng, phát triển Consortium chỉ có thể triển khai khi được
sự quan tâm, đánh giá đúng tầm quan trọng của việc hợp tác chia sẻ nguồn lực thông
tin của Hiệu trưởng các trường thành viên và sự quyết tâm của lãnh đạo và nhân viên
mỗi cơ quan TTTV. Để triển khai và duy trì tốt kế hoạch Consortium chia sẻ nguồn
lực thông tin, các đơn vị thành viên phải bầu ra một Ban điều hành có năng lực quản lý
và chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có trách nhiệm với người dùng của hệ thống
Thứ hai, các đơn vị thành viên cần được trang bị hạ tầng công nghệ thông tin
hiện đại và thực hiện thống nhất các chuẩn nghiệp vụ. Để đạt được mục tiêu chia sẻ
nguồn lực thông tin, hợp tác bổ sung, phát huy mượn liên thư viện, xây dựng mục lục
liên hợp trực tuyến thống nhất, sử dụng được các dịch vụ thông tin hiện đại với chất

lượng cao... cho mỗi đơn vị khi tham gia hệ thống, các cơ quan TTTV đại học cần phải
được trang bị hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ, đủ mạnh về dung lượng lưu trữ, băng
thông rộng để truy cập nhanh, các chuẩn nghiệp vụ đồng bộ. Hệ thống máy chủ và máy
tính con được kết nối Internet để quản lý, trao đổi, khai thác thông tin thông qua Website
chung cho toàn hệ thống – cổng thông tin tích hợp các phần mềm ứng dụng khác nhau của
hệ thống.
Mặt khác, để hệ thống Consortium vận hành đồng bộ, các cơ quan TTTV đại học
cần đảm bảo thống nhất các chuẩn kỹ thuật hiện đại, trong tổ chức bổ sung, xử lý, lưu giữ,
phục vụ tra cứu, chia sẻ nguồn tài nguyên thông tin như: Chuẩn biên mục ISBD, AACR2;
Khổ mẫu mô tả tài liệu MARC 21, Dublin Core...); Chuẩn tra cứu liên thư viện Z39.50;
Chuẩn khuôn dạng trao đổi dữ liệu dưới dạng File điện tử ISO 2709...Ngoài ra còn thống
nhất trong việc lựa chọn công cụ xử lý tài liệu như Bảng từ khóa, Bảng phân loại, Bảng
định chủ đề... mức độ tóm tắt, chú giải tổng luận các sản phẩm thông tin...
Thứ ba, cần xây dựng một Website chung cho toàn Hệ thống để có địa chỉ trao
đổi thông tin giữa các cơ quan TTTV đại học với nhau và với các đối tác khác (các nhà


19

cung cấp gói thông tin, người dùng tin, các đơn vị khác ngoài hệ thống ở trong và
ngoài nước). Đây chính là diễn đàn trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ giữa các thành
viên và các nhà khoa học, giữa người dùng tin với nhà cung cấp dịch vụ để thực hiện
các dịch vụ phổ biến thông tin, tư vấn NDT...Đây còn là địa chỉ giao tiếp của hệ thống
với các hệ thống khác như OCLC, OPAC...
Thứ tư, cần phải có đội ngũ chuyên gia tinh thông nghề nghiệp. Hiệu quả hoạt
động của Consortium phục thuộc rất lớn vào nguồn nhân lực tham gia điều hành. Họ
phải là những chuyên gia TTTV có kiến thức vững vàng, kỹ năng thành thạo, trình độ
tin học và ngoại ngữ đáp ứng tốt yêu cầu của hệ thống. Vốn kiến thức cần vừa chuyên
sâu, vừa rộng để có thể lựa chọn tài liệu bổ sung phù hợp, định giá được các nguồn tin
điện tử. Thực hiện hướng dẫn người dùng tin, thực hiện nghiêm túc vấn đề bản quyền

vì hệ thống Consortium có tính mở rất lớn. Họ còn cần có đức tính cẩn thận, thường
xuyên kiểm tra, đo lường được hiệu quả của hệ thống và luôn nắm bắt được nhu cầu
tin của người dung tin mỗi khi thay đổi.
6. Một số kiến nghị và giải pháp xây dựng và phát triển Consortium giữa
các cơ quan TTTV đại học ở Việt Nam
Thứ nhất, Đơn vị nào lớn nhất, có năng lực nhất về mọi nguồn lực trong số các
đơn vị có chung ngành/ chuyên ngành đào tạo như đã trình bày ở phần trên nên là
người khởi xướng tập hợp thành viên. Đơn vị này là đầu tàu chỉ đạo triển khai, duy trì
và phát triển Consortium. Sau khi đã tập hợp được các thành viên rồi, sẽ bầu ra thành
viên đại diện và thống nhất giao nhiệm chính thức cho đơn vị mà tập thể tin tưởng. Khi
xây dựng Consortium cần phải có bước đi cụ thể phù hợp với điều kiện mặt bằng
chung về nguồn lực giữa các đơn vị thành viên. Khi mới bắt đầu triển khai cần thực
nghiệm chia sẻ từng phần CSDL, hay từng nội dung, hình thức hợp tác liên thông.
Thứ hai, tiến hành khảo sát năng lực của các thành viên tham gia Consortium
về nguồn nhân lực, nguồn lực thông tin, kinh phí đầu tư, hạ tầng công nghệ thông tin,
chuẩn nghiệp vụ, người dùng tin, mức độ tin học hóa... Sau khi hệ thống liên kết ban
đầu đã hoạt động ổn định, có thể mở rộng dần kết nạp thành viên mới.
Thứ ba, các thành viên cần xây dựng và thống nhất chính sách liên thông cho hệ
thống. Sau khi khảo sát và trên cơ sở khẳng định về quy mô, mục tiêu, chức năng, yêu
cầu của hệ thống, cần xây dựng các bước triển khai cụ thể cho việc hợp tác bổ sung


20

phát triển nguồn lực thông tin, xây dựng mục lục liên hợp, chia sẻ hợp tác cho mượn
liên thư viện nguồn tài liệu và cùng nhau ký kết thực hiện chương trình hành động.
Cần quy định rõ vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi từng thành viên, chú trọng
đến vai trò của đơn vị chịu trách nhiệm đầu tàu – đơn vị có trách nhiệm quản lý cổng
thông tin – Website chung của toàn hệ thống - có trách nhiệm tiếp nhận CSDL, hiệu
đính (nếu cần) trước khi đưa vào hệ thống; tiếp nhận thông tin phản hồi, xử lý thông

tin từ NDT, định kỳ tổ chức đánh giá hiệu quả, rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng
cho Consortium và các vấn đề khác có liên quan.
Thứ tư, thống nhất chuẩn dạng dữ liệu, tài liệu cần chia sẻ, trao đổi dạng thông
tin thư mục, hay toàn văn, dạng gốc...cũng như phương thức trao đổi trực tuyến qua
Internet thông qua File bằng đường thư điện tử, hay qua bưu điện, trực tiếp... Thống
nhất thực hiện chuẩn nghiệp vụ AACR2; MARC 21; Chuẩn tra cứu Z39.50; Chuẩn
trao đổi dữ liệu dạng File điện tử ISO 2709, chuẩn phân loại chủ đề, từ khóa... Đồng
thời, thống nhất định danh ngay từ đầu các cơ quan TTTV đại học/ các đơn vị tham gia
Consortium. Thống nhất thiết lập dữ liệu ban đầu, phương thức hiệu chỉnh dữ liệu từ
nguồn dữ liệu đã có của các đơn vị thành viên; loại bỏ biểu ghi thừa, trùng lặp....
Thứ năm, cần chuẩn bị hạ tầng công nghệ thông tin đủ mạnh cùng vận hành
trong hệ thống và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu duy trì và phát triển
Consortium. Cụ thể, sau khi xây dựng được mô hình liên kết và trên cơ sở thực tế khả
năng của mình, mỗi đơn vị thành viên cần trang bị hạ tầng công nghệ thông tin hiện
đại đáp ứng yêu cầu hệ thống; Chuẩn bị CSDL ban đầu đã được chuẩn hóa; Triển khai
nguồn nhân lực, đội ngũ chuyên gia quản trị hệ thống; Đào tạo người dùng tin thành
thạo trong truy cập nguồn tin điện tử.
7. Kết luận
Xây dựng và phát triển Consortium là vấn đề luôn luôn mới và cấp thiết đối
với hoạt động thông tin, thư viện nói chung và hợp tác chia sẻ nguồn lực thông tin nói
riêng, nhất là trong bối cảnh ngành TTTV đang được hưởng nhiều nhất và chịu tác
động mạnh nhất từ thành tựu phát triển không ngừng của công nghệ thông tin và
truyền thông. Hơn nữa với lợi ích từ việc tham gia Consortium, chắc chắn các cơ quan
TTTV đại học Việt Nam đáp ứng tốt nhu cầu thông tin/ tài liệu phục vụ giảng dạy,
học tập và nghiên cứu khoa học cho cán bộ, giảng viên và sinh viên của các trường,


21

góp phần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học, nâng cao chất lượng đào tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nghị quyết số 44/NQ-CP, ngày 09-6-2014 của Thủ tướng chính phủ về đổi
mới cơ bản và phát triển toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam.
[2] Hoàng Đức Liên, Phạm Thị Thanh Mai. Vấn đề hợp tác, hội nhập và chia sẻ
trong hoạt động thông tin - thư viện ở các trường đại học và viện nghiên cứu. Tạp chí
Thư viện Việt Nam, số 2 (34), 3-2012.
[3] Trần Thị Quý. Số hóa tài liệu từ nhận thức đến triển khai đào tạo tại Khoa
TT-TV, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN//Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Xây dựng
và chia sẻ nguồn lực thông tin địa phương dạng số phục vụ bảo tồn di sản và phát triển
kinh tế - xã hội”.-H.: Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch.- 2011
[4] Trần Thị Quý. Liên thông chia sẻ nguồn lực thông tin - Yếu tố quan trọng
đẻ các cơ quan TT-TV đại học Việt Nam phát triển bền vững// Kỷ yếu Hội thảo kỷ
niệm 15 năm Trung tâm TT-TV ĐHQGHN.- 2010
[5] Barbara Preece & Joan Thompson. Union Catalogs and Virtual Union
Catalog - Repositioning Interlibrary Loan, a report at IFLA Boston 2001.
[6] Ching-Chih Chen, ed. NIT'98 Proceeding.
[7] Evans G. Edward (1995). Developing Library and information center
collections, 3rd. ed. Library Unlimited, INC. Englewood, Colorado.


22

CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC THƯ VIỆN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
TS. Vũ Dương Thúy Ngà
Vụ Thư viện- Bộ VHTTDL
1. Nhận dạng về nghề thư viện trong kỷ nguyên thông tin

Trong mấy thập kỷ gần đây, với việc ứng dụng công nghệ thông tin, nghề thư viện
đã có sự thay đổi trên nhiều phương diện. Mặc dù có hình dạng có sự thay đổi, nhưng
cốt lõi của nghề thư viện vẫn có những điểm giống nhau. Dù ở trong môi trường thư
viện truyền thống hay thư viện số/ thư viện điện tử, cán bộ thư viện vẫn phải nỗ lực và
tìm ra phương cách để làm cho thông tin trở nên hữu ích. Họ vẫn là người hướng dẫn
cho người sử dụng phương pháp đánh giá nguồn tài nguyên thông tin và giới thiệu
sách cũng như nguồn lực thông tin của thư viện cho trẻ em đọc sách và người đọc
nghiên cứu. Nhưng trong điều kiện hiện nay, với sự hỗ trợ của công nghệ, cán bộ thư
viện đã và đang sử dụng những công cụ mới và đảm nhiệm các trách nhiệm đa dạng
hơn.
Theo Olivia Crosby, trong kỷ nguyên thông tin người cán bộ thư viện được được
nhìn nhận là các chuyên gia thông tin, cung cấp các dịch vụ cho người đọc, tra cứu, tư
vấn, đào tạo, phát triển bộ sưu tập; thực hiện các dịch vụ kỹ thuật, tổ chức thông tin,
biên mục; quản trị thư viện với các nội dung như: quản trị nguồn lực, quản trị con
người, quản trị các mối quan hệ cộng đồng. Trong kỷ nguyên thông tin, người cán bộ
thư viện có thêm nhiều cơ hội để tiếp cận và công việc của họ vượt ra ngoài bức tường
thư viện [1].
Trong môi trường thư viện điện tử/ thư viện số, người đọc vẫn tiếp tục cần đến
những thông tin đáng tin cậy, dễ dàng truy cập, tuy nhiên tính chất toàn vẹn của thông
tin là một yêu cầu đặt ra. Thư viện từ chỗ là một cơ quan đã trở thành nhà cung cấp
thông tin, sử dụng công nghệ để tăng cường khả năng tiếp cận thông tin và cung cấp
thông tin cho người đọc. Nhiệm vụ của cán bộ thư viện là cung cấp các truy cập vào
các nguồn thông tin được lựa chọn theo nhu cầu của người sử dụng, thu thập và bảo
quản tài liệu, tổ chức, và cung cấp cho người yêu cầu. [4]


23

Những yêu cầu đối với người làm công tác thư viện đã được đặt ra nhiều hơn. Ví
dụ, cán bộ thư viện công cộng đòi hỏi phải có một loạt các kỹ năng và phẩm chất, bao

gồm kỹ năng giao tiếp, nhận thức xã hội, kỹ năng làm việc nhóm, tố chất lãnh đạo và
năng lực cạnh tranh liên quan đến thực tiễn và các chu trình làm việc của tổ chức. Các
tố chất và kỹ năng cần có của cán bộ thư viện có thể bao gồm:
-

Khả năng trao đổi thông tin một cách chủ động với mọi người

-

Khả năng nắm bắt nhu cầu của người sử dụng

-

Khả năng hợp tác với từng cá nhân và với nhóm trong cộng đồng

-

Có kiến thức và hiểu biết về sự đa dạng văn hóa

-

Có kiến thức về các dạng thức của tài liệu thư viện và cách tiếp cận chúng

-

Nắm được và đồng thuận với các nguyên tắc của dịch vụ thư viện

-

Khả năng làm việc với mọi người để cùng có được các dịch vụ thư viện hiệu


quả
-

Các kỹ năng tổ chức, với sự linh hoạt, năng động trong việc xác định và thực

hiện các thay đổi
-

Trí tưởng tượng, tầm nhìn và tính cởi mở với các vấn đề mới, tình hình mới

-

Sẵn sàng thay đổi phương pháp làm việc để đáp ứng yêu cầu của tình hình

-

Kiến thức về công nghệ thông tin và truyền thông… [3]
Trước thực tế đó, đòi hỏi công tác đào tạo nguồn nhân lực thư viện phải có sự điều

chỉnh để đáp ứng các yêu cầu đặt ra.
2. Cơ hội và thách thức đặt ra đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực thư
viện thông tin ở Việt Nam hiện nay
Công tác đào tạo nguồn nhân lực thư viện thông tin ở Việt Nam đang có một số cơ
hội, điều kiện thuận lợi.
Thứ nhất, cũng như các ngành khác, đào tạo nhân lực thư viện thông tin có thuận
lợi đáng kể là Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến đổi mới giáo dục.
Ngày 4/11/2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại

hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế.


24

Tiếp đó, ngày 9/06/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 44/NQ-CP năm 2014
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Đây là những văn bản quan trọng các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực thư viện thông
tin ở Việt Nam có thể căn cứ để thực hiện việc đổi mới căn bản và toàn diện việc giáo
dục và đào tạo gắn với lĩnh vực mà mình đảm nhiệm.
Thứ hai, việc xã hội hóa giáo dục và đào tạo đã được đẩy mạnh. Nhiều dự án/ hợp
phần dự án liên quan đến đào tạo nguồn nhân lực thư viện thông tin đã được triển khai.
Nhiều cơ sở đào tạo đã có cơ hội đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ giảng viên.
Thứ ba, công tác thư viện đã được Đảng và Nhà nước quan tâm. Đặc biệt trong
thời gian gần đây, xã hội đã có một số động thái thể hiện sự quan tâm nhiều hơn đến
việc đọc sách và nghề thư viện.
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Đẩy mạnh các hoạt động học tập
suốt đời trong các thư viện, bảo tàng, nhà văn hoá, câu lạc bộ giai đoạn 2012-2020
theo Quyết định số 208/QĐ-TTg ngày 27/01/2014. Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ đã
ký Quyết định số 284/QĐ-TTg ngày 24/2/2014 về Ngày sách Việt Nam, nhằm khuyến
khích và phát triển phong trào đọc trong cộng đồng, nâng cao nhận thức của người dân
về ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng của việc đọc sách đối với việc nâng cao kiến thức
và kỹ năng, phát triển tư duy, giáo dục và rèn luyện nhân cách con người.
Những văn bản này giúp cho nghề thư viện được nhìn nhận đúng mức hơn, từ đó
việc thu hút đầu tư cho hoạt động này sẽ được nâng cao hơn, những người làm công
tác thư viện sẽ có thêm căn cứ và động lực để thực hiện các nhiệm vụ và chức trách

của mình.
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, công tác đào tạo nguồn nhân lực thư viện
thông tin ở Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Thách thức lớn nhất là trong công tác đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực thư viện
thông tin hiện nay là tình trạng cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ giảng dạy còn chưa
được đảm bảo. Tình trạng phổ biến ở các trường đạo tạo ngành thư viện hiện nay là
thiếu giảng viên cơ hữu trong các cơ sở giáo dục và đào tạo ngành thư viện.


25

Theo kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch năm 2013 đối với 24 cơ sở đào tạo, tình trạng thiếu giảng viên là hết sức trầm
trọng. Trường đông nhất chỉ có 13 giảng viên, có một số trường không có giảng viên,
hoàn toàn phải thỉnh giảng. Trong các trường trung học văn hóa nghệ thuật ở các địa
phương, chỉ có hai trường có từ hai cán bộ giảng dạy ngành thư viện trở lên (Trường
Văn hóa nghệ thuật Hải Phòng và Cần Thơ), còn hầu hết chỉ có một giảng viên, hoặc
kiêm nhiệm. Kết quả điều tra về thực trạng đội ngũ cán bộ giảng dạy từ năm cơ sở đào
tạo lớn ngành thư viện được tổng hợp trong bảng 1 sẽ chứng minh cho điều đó.

Trường Đại học

Số lượng giảng
viên

Học vị

Số môn đảm
nhiệm với
trình độ đại

học

Số lượng
người học

Văn hoá
Hà Nội

Văn
KHXH &
hoá TP.
NV Hà Nội
HCM

KHXH &
NV TP.
HCM

ĐH Cần
Thơ

Tổng số

13

13

9

12


9

Đang đi
học

1

3

1

1

1

Cử nhân

0

1

0

0

0

Thạc sỹ


11

9

8

5

8

Tiến sỹ

1

3

1

4

1

Dưới 3
môn

9

3

5


7

5

3 môn

3

4

1

2

1

Trên 3
môn

0

7

2

1

0


Chính quy

> 900

> 200

> 200

> 800

> 540

> 1.100

Vừa học
vừa làm

> 300
0

>200
0

Bảng 1: Thực trạng đội ngũ cán bộ giảng dạy ngành thư viện ở Việt Nam [5]
Qua bảng tổng hợp trên, có thể nhận thấy: Nơi nhiều nhất cũng chỉ có 13 giảng
viên, trong đó có đến ba giảng viên hiện không trực tiếp tham gia giảng dạy vì đang


×