Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

Tác động tăng trưởng kinh tế tới giảm nghèo huyện anh sơn giai đoạn 2005 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.7 KB, 68 trang )

MỤC LỤC

1

1


LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài.
Đói nghèo là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Xóa đói giảm

1

nghèo hiện nay ở nước ta được coi là một trong những mục tiêu quan trọng trong
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đảng và nhà nước kêu gọi mọi
cấp, mọi ngành, mọi người trng xã hội tập trung giải quyết nhiệm vụ xóa đói giảm
nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giảm khoảng cách giàu nghèo trong các tầng
lớp xã hội và giữa các vùng khác nhau. Và tăng trưởng kinh tế cao, bền vững là yếu
tố quan trọng, tạo ra sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo
vươn lên thoát nghèo và ngươc lại, xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản để đảm bảo
công bằng xã hội, thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Anh Sơn là một huyện miền núi thuộc miền tây Nghệ An, có 102.902 người, gồm
dân tộc Kinh và Thái. Dân tộc thiểu số 1.821 hộ, 7.821 khẩu chiếm 7,37% dân số
trên toàn huyện. Có 8 xã có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, huyện Anh Sơn đã có những bước tiến dài và thu được
những thành tựu đáng ghi nhận, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đời sống nhân dân
ngày càng được cải thiện, an ninh quốc phòng được đảm bảo vững chắc, công bằng
xã hội được duy trì ổn định...Tuy nhiên trong quá trình phát triển kinh tế cũng đã
bộc lộ những hạn chế nhất định như: Nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, năng suất
lao động và hiệu quả kinh tế thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm,kinh tế phát
triển không đồng điều, tỷ lệ hộ nghèo còn cao...Xóa đói giảm nghèo đang là vấn đề


đặc biệt quan tâm của tất cả các cấp, các ngành của huyện. Huyện đang tập trung
nguồn lực vào các hoạt động nhằm cải thiện các cơ hội phát triển sản xuất,mở rộng
việc làm, tăng thu nhập, cải thiện điều kiện sống và thực hiện giảm nghèo bền vững.
Tuy nhiên để làm được điều đó thì huyện phải cần có những biện pháp cụ thể, thiết
thực hơn nữa, đặc biệt là phải khai thác những lợi thế, tiềm năng sẵn có của mình,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững – tạo tiền đề cho công cuộc xóa đói
giảm nghèo của huyện, từng bước đưa Anh Sơn thoát khỏi huyện nghèo và trở
thành trung tâp kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An nói riêng cũng như khu vực miền
Tây nói chung
Xuất phát từ tình hình thực tế như vậy, em chọn nghiên cứu đề tài: “ Tác động
của tăng trưởng kinh tế tới giảm nghèo ở huyện Anh Sơn – Tỉnh Nghệ An giai đoạn
2005 tới nay”.
2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo
2

2


Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nội dung: tác động của tăng trưởng kinh tế đến giảm nghèo
Phạm vi thời gian: chuyên đề tập trung nghiên cứu tăng trưởng kinh tế và xóa đói
giảm nghèo những năm đổi mới giai đoạn 2005 trên cơ sở đó đưa ra giải pháp để
tăng cường sự lan tỏa của tăng trưởng kinh tế tới giảm nghèo ở huyện Anh Sơn,
tỉnh Nghệ An tới năm 2020
Phạm vi không gian: chuyên đề nghiên cứu ở huyện Anh Sơn – Tỉnh Nghệ An
3 Mục đích nghiên cứu
Chuyên đề sẽ tập trung nghiên cứu, phân tích đánh giá thực trạng tăng trưởng kinh
tế và nghèo đói, đồng thời đánh giá những tác động tích cực và tiêu cực của quá
trình tăng trưởng kinh tế đến xóa đói giảm nghèo. Trên cơ sở đó, đề ra các giải

pháp, phương hướng nhằm thúc đẩy mặt tích cực và khắc phục mặt tiêu cực của
những tác động đó để tăng cường hiệu quả của tăng trưởng tới giảm nghèo. Và
dẫn tới mục tiêu cuối cùng là xóa đói giảm nghèo ở huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An
4 Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, em áp dụng các phương pháp cơ bản
sau: phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, logic, nghiên cứu báo cáo của các
bộ, ngành, địa phương để phân tích, tổng hợp.
5 Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, danh mục tài liêu tham khảo, đề tài nghiên cứu
gồm ba chương:
Chương 1: Khung lý thuyết nghiên cứu tác động của tăng trưởng kinh tế tới giảm
nghèo
Chương 2: Tác động của tăng trưởng kinh tế đến giảm nghèo ở huyện Anh Sơn, tỉnh
Nghệ An
Chương 3: Giải pháp để tăng cường sự lan tỏa của tăng trưởng kinh tế tới giảm
nghèo ở huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An tới năm 2020

3

3


4

4


CHƯƠNG 1: KHUNG LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ TỚI GIẢM NGHÈO.
1.1. Tăng trưởng kinh tế

1.1.1. Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Như vậy bản chất của tăng
trưởng kinh tế là sự phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế.
1.1.2. Các đại lượng đo lường tăng trưởng kinh tế
1.1.2.1. Mức tăng trưởng kinh tế
Mức tăng trưởng kinh tế hay mức tăng trưởng tuyệt đối GDP là mức chênh
lệch về quy mô kinh tế giữa hai thời kỳ cần so sánh. Được thể hiện qua công thức
sau:

Yt – Yt-1
Trong đó: Y: Mức tăng trưởng GDP, Y là GDP thực tế của thời kỳ t và t-1
1.2.1.2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa thời kỳ t và t-1: được tính bằng cách lấy
chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại t so với quy mô kinh tế kỳ trước t-1. Nó
được thể hiện bằng đơn vị %
gt= (Yt-Yt-1)/Yt-1 *100%
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cho thấy xu hướng của quy mô sản lượng tăng
lên hay giảm đi, và nếu tăng thì tăng nhanh hay chậm qua các thời kỳ khác nhau.
Trong đó yt-1 và yt là GDP thực tế của thời kỳ t-1 hay t, g là tốc độ tăng trưởng thời
kỳ t
1.2. Nghèo đói và giảm nghèo
1.2.1. Những khái niệm về nghèo đói
Theo nghĩa hẹp thì nghèo khổ được hiểu là sự thiếu thốn các điều khiện thiết
yếu của cuộc sống. Theo Nghĩa rộng, nghèo khổ cần được hiểu là sự phát triển toàn
diện của con người, tức là nghèo khổ xét theo góc độ là việc loại bỏ các cơ hội và sự
lựa chọn cơ bản nhất cho sự phát triển toàn diện con người. Việc nhận thức sự
thiếu thốn về khả năng lựa chọn và cơ hội gợi ý rằng cần phải giải quyết vấn đề
nghèo khổ không chỉ ở khía cạnh thu nhập.
* Nghèo khổ vật chất: Theo báo cáo Hội Nghị chống đói nghèo khu vực Chân

Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tạ Băng Cốc – Thái Lan 1993, nghèo khổ vật

5

5


chất là hiện tượng một người hoặc một nhóm người không được hoặc không đủ
khả năng thỏa mãn nhu cầu tối thiểu về vật chất cho sự phát triển của con người.
Nhu cầu vật chất tối thiểu: theo mức xã hội chấp nhận và tùy thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của đất nước.
* Nghèo khổ con người (nghèo khổ tổng hợp, nghèo khổ đa chiều): theo báo
cáo phát triển con người UNDP năm 1997, nghèo khổ con người là hiện tượng một
người hoặc một nhóm người không được hoặc không có khả năng thỏa mãn nhu
cầu cơ bản cho sự phát triển của con người
Đây chính là một khái niệm chung nhất về nghèo đói, một khái niệm mở, có
tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu, phổ biến
về nghèo.
1.2.2. Các phương pháp xác định nghèo đói
1.2.2.1. Phương pháp xác định nghèo đói của WB
Phương pháp mà WB đã sử dụng ở nhiều nước đang phát triển là dựa vào
ngưỡng chi tiêu tính bằng đô la mỗi ngày. Đây là ngưỡng chi tiêu có thể đảm bảo
cung cấp năng lượng tối thiểu cần thiết cho con người, mức chuẩn đó
2100kcal/người/ngày. Những người có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt
được 2100kcal/ngày gọi là “nghèo về lương thực, thực phẩm”.
Ngoài ra, WB còn sử dùng 2 thước đo cơ bản là nghèo khổ tuyệt đối và nghèo
khổ tương đối.
nghèo khổ tuyệt đối là những người mà 4/5 chi tiêu của họ là dành cho nhu
cầu về ăn mà chủ yếu là lương thực và một ít thực phẩm (thịt, cá...); tất cả đều thiếu
dinh dưỡng, chỉ khoảng 1/3 số người lớn biết chữ, và tuổi thọ trung bình của họ

vào khoảng 40 tuổi.
Nghèo khổ tương đối được hiểu như những người sống dưới mức tiêu chuẩn
có thể chấp nhận được trong những địa điểm và thời gian xác định. Do đó, chuẩn
mực để xem xét nghèo khổ tương đối thường khác nhau từ nước này sang nước
khác hoặc từ vùng này qua vùng khác.
1.2.2.2. Phương pháp của Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay, có hai phương pháp chủ yếu để đo lường nghèo. Đấy là
phương pháp của Bộ Lao động, Thương binh và Các Vấn đề Xã hội (gọi tắt là
phương pháp MOLISA) và phương pháp của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế
giới (gọi tắt là phương pháp GSO-WB) đề ra.
Phương pháp của bộ lao đông-thương binh-xã hội: Bộ LĐ - TB - XH có nhiệm
vụ đề xuất các chuẩn nghèo chính thức cho khu vực nông thôn và thành thị vào đầu
của mỗi Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội 5 năm (KH PTKT XH) và xác định tỷ lệ
6

6


nghèo của giai đoạn ban đầu. Các chuẩn nghèo của Bộ LĐ-TB-XH ban đầu được quy
đổi ra thóc, nhưng từ năm 2005 được tính theo phương pháp tiếp cận dựa vào Chi
phí cho những Nhu cầu Cơ bản (CBN) mà vốn tương tự với cách tiếp cận thứ hai
(được nêu dưới đây) của Tổng cục Thống kê (TCTK). Các chuẩn nghèo chính thức
không được điều chỉnh theo mức lạm phát, nhưng được xác định lại giá trị thực
năm năm một lần. Bộ LĐ-TB-XH sử dụng cách thức tiếp cận này để xác định việc
phân bổ ngân sách và đề ra điều kiện áp dụng cho các chương trình giảm nghèo
mục tiêu (ví dụ như Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Giảm Nghèo Bền
vững/NTP-SPR, Chương trình 30a).
Biểu 1.2. Chuẩn nghèo của Việt Nam qua các giai đoạn
(đơn vị tính: nghìn đồng/người/tháng)
Giai đoạn

2001-2005
2006-2010
2011- 2015
Khu vực nông thôn
80-100
200
400
Khu vực thành thị
150
260
500
Nguồn: Bộ LĐTBXH: chiến lược xóa đói giảm nghèo 2001-2010 và quyết định Số
09/2011/QĐ – TTg ngày 30/01/2011 ban hành chuẩn hộ nghèo, cận nghèo giai
đoạn 2011 - 2015
Người được coi là nghèo khổ về thu nhập là những người mà thu nhập của họ
nằm ở bên dưới các giới hạn đã được quy định
Phương pháp của tổng cục thống kê và ngân hàng thế giới: Phương pháp này
xác định 2 ngưỡng nghèo:
- Ngưỡng nghèo về lương thực, thực phẩm: (theo Demystifying Poverty
Measurement Vietnam 2015) là số tiền cần thiết để mua được một số lương thực
hàng ngày để đảm bảo mức độ dinh dưỡng, làm sao để đảm bảo lượng dinh dưỡng
tối thiểu cho một người là 2100kcal/ngày đêm. Đây là chuẩn nghèo tính theo thu
nhập bình quân đầu người/tháng.
- Ngưỡng nghèo chung: bao gồm cả phần chi tiêu cho hàng hóa phi lương
thực, tổng chi dùng cho cả giỏ hoàng tiêu dùng tối thiểu, được xác định bằng cách
ước lượng tỷ lệ: 70% chi dùng dành cho lương thực thực phẩm, 30% chi cho các
khoản còn lại. (theo Demystifying Poverty Measurement Vietnam 2015)
Mặc dù các xu hướng diễn biến nghèo đói của hai hệ thống theo dõi này là
tương tự nhau. Cả hai hệ thống này đều cho thấy tiến triển vượt bậc đạt được,
nhưng tỷ lệ nghèo đói lại rất khác nhau, điều này phản ánh những khác biệt trong

phương pháp tiếp cận cũng như những khác biệt về mục đích sử dụng. Phương
pháp MOLISA sử dụng thu nhập như là chi tiêu phúc lợi trong khi phương pháp
GSO-WB sử dụng tiêu dùng. Trong khi các thước đo nghèo dùng phương pháp của
7

7


GSO-WB được xác định trên cơ sở dữ liệu từ khảo sát hộ gia đình thì các thước đo
nghèo của MOLISA căn cứ vào Tổng Điều tra Nghèo Toàn Quốc được thực hiện 5
năm mỗi lần. Trong những năm không có Tổng điều tra, MOLISA sẽ thực hiện cập
nhật danh sách nghèo trên cơ sở tham vấn ở các thôn bản, tức là trong các cuộc
họp thôn/bản tại đó người dân sẽ bình bầu hộ nào nghèo và hộ nào không.
Hình dưới đây chỉ ra xu hướng thay đổi theo thời gian của các phương pháp
đo lường nghèo thường hay được sử dụng. Dễ thấy là dù áp dụng phương pháp
nào, chúng ta đều thấy được tiến trình giảm nghèo nhanh chóng ở Việt Nam.

Nguồn: Demystifying Poverty Measurement in Vietnam 2015
1.2.3. Các chỉ số đánh giá nghèo đói
8

8


1.2.3.1. Các chỉ số đánh giá nghèo khổ về thu nhập
Mức và tỷ lệ nghèo khổ (chỉ số và tỷ lệ đếm đầu):
HCR=HC/n,
Trong đó:
n là tổng số dân.
Mức nghèo khổ ( chỉ số đếm đầu –HC) được xác định trên cơ sở đếm đầu

những người sống dưới mức chuẩn nghèo, tức là những cá nhân hoặc hộ gia đình
(i) có mức thu nhập (y) dưới mức chỉ tiêu tối thiểu (C).
Tỷ số khoảng cách nghèo và tỷ số khoảng cách thu nhập
Tỷ số khoảng cách nghèo (PGR) tính theo công thức:
PGR = Ʃ(C - yi)/n×m
Trong đó: m là thu nhập trung bình của toàn xã hội và i chỉ tính đối với những
người có thu nhập (yi) Theo PGS. TS. Ngô Thắng Lợi, tỷ số khoảng cách nghèo đo lường mức độ trầm
trọng của tình trạng nghèo khổ vật chất so với thu nhập toàn xã hội.
Tỷ lệ khoảng cách thu nhập (IGR)
HC

IGR = [∑ (C − Yi)] /( HC × C )
i =1

Trong đó:
C: chuẩn nghèo.
HC: số người nghèo.
Yi: thu nhập thực tế của người nghèo.
Tỷ lệ khoảng cách thu nhập tính toán theo công thức trên phản ánh mức độ
nghèo đói bởi vì nó đo lường thu nhập cần thiết để xóa đói giảm nghèo
1.2.3.2. Các chỉ số đánh giá nghèo khổ con người (nghèo khổ tổng hợp)
Chỉ số nghèo khổ đa chiều – MPI
Chỉ số nghèo khổ đa chiều phản ảnh tất cả phạm vi tác động của nghèo đói.
Chỉ số này được tính toán bằng việc nhân phạm vi ảnh hưởng của đói nghèo và
cường độ trung bình tác động lên người nghèo. Một người được xác định là nghèo
nếu anh hoặc chị ta thiếu ít nhất 30% các chỉ báo đã được gia trọng.
Về cơ bản ý nghĩa và các tiêu chí cấu thành MPI vẫn không thay đổi, phản ánh
mức độ thiếu hụt của mỗi cá nhân theo 3 phương diện: sức khỏe, giáo dục và chất
lượng cuộc sống. Tuy vậy chỉ số này có hoàn thiện hơn về nội dung và cách tính

toán. Tuy nhiên trong phạm vi chuyên đề này chỉ nhấn mạnh vào vấn đề giảm
nghèo vật chất.
1.3. Tác động của tăng trưởng tới giảm nghèo
9

9


1.3.1. Nội dung tác động
1.3.1.1. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện để giải quyết việc làm
Tăng trưởng kinh tế sẽ là động lực để tạo thêm việc làm ổn định và bền vững
cho người lao động. Xét góc độ toàn nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế càng cao thì
khả năng tạo việc làm càng nhiều. Nhưng với mỗi trình độ phát triển của nền kinh
tế khác nhau thì số lượng việc làm tạo ra của mỗi quốc gia là khác nhau. Khi nền
kinh tế đạt được trình độ phát triển cao, dựa trên những điều kiện ưu thế của quốc
gia đó thì sẽ tạo việc làm nhiều cho người lao động. Còn nếu như nền kinh tế phát
triển chỉ ở mức độ mà sự phát triển chưa dựa trên những sự ưu thế về lao động, tự
nhiên, tài nguyên…thì tuy tốc độ tăng GDP có tăng nhưng vấn đề giải quyết việc làm
thì chưa đạt kết quả như mong muốn. Xét các ngành khác nhau khả năng tạo thêm
việc làm trong các ngành cũng khác nhau. Đặc điểm của ngành công nghiệp nặng là
cần vốn đầu tư lớn, năng suất lao động cao đóng góp phần lớn vào tổng thu nhập
quốc dân nhưng lại không thu hút và giải quyết đươc nhiều việc làm cho người lao
động. Trong khi đó, những ngành công nghiệp nhẹ hoặc những ngành tiểu thủ công
nghiệp, làng nghề truyền thống thì lại cần nguồn vốn đầu tư ban đầu ít, có đóng
góp tương đối vào thu nhập quốc dân nhưng lại có tác dụng rất hiệu quả trong việc
giải quyết việc làm cho người lao động.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói là do ngườ dân không có
vệc làm, không có việc đồng nghĩa với không có thu nhập và không có điều kiện
thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu về vật chất và tinh thần của người lao động, chất
lượng cuộc sống giảm sút, nảy sinh những hành động, suy nghĩ tiêu cực, gia tăng

các tệ nạn xã hội, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Ngược lại, có việc làm đồng
nghĩa với có thu nhập, từ đó nâng cao vị thế của người lao động trong gia đình và
xã hội. Do đó, tạo việc làm cho người dân là rất cần thiết, nhất là người nông dân bị
mất đất canh tác. Tạo việc làm cho người lao động để hạn chế thất nghiệp, nâng
cao chất lượng cuộc sống, hạn chế tiêu cực xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo và
bình ổn xã hội.
1.3.1.2. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện để phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở
cho người nghèo
Tăng trưởng kinh tế sẽ là điều kiện rất tốt để phát triển cơ sở hạ tầng. Với một
mức tăng trưởng kinh tế bền vững, ngân sách nhà nước ngày càng lớn mạnh, thu
nhập của dân cư được nâng cao, nhờ vào hệ thống tín dụng sẽ huy động được một
lượng lớn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Bên cạnh đó, dấu hiệu tăng trưởng kinh tế
cao, ổn định sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Từ đó, hình thành nên
10

10


một nền kinh tế nhộn nhịp, sôi động hơn. Nhà nước sẽ dành được nhiều vốn hơn
cho phát triển cơ sở hạ tầng. Theo thống kê, hằng năm Nhà nước luôn dành một
phần lớn nguồn vốn cho đầu tư đặc biệt là vốn ngân sách xây dựng cơ bản cho các
dự án hạ tầng. Vì thế mà đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng nghèo sẽ ngày càng được
phát triển hơn.
Phát triển kết cấu hạ tầng cho vùng nghèo mà chủ yếu là nông thôn là một
trong những nội dung quan trọng trong chiến lược xóa đói giảm nghèo. Một hệ
thống kết cấu hạ tầng hiện đại, khang trang trước tiên sẽ giúp cuộc sống của người
nghèo được tiện ích, thuận lợi hơn. Cơ sở hạ tầng giao thông tốt hơn góp phần cải
thiện và nâng cao đời sống của người nghèo thông qua các nội dung sau:
+ Góp phần thúc đẩy hoạt động văn hoá xã hội, tôn tạo và phát triển những
công trình và giá trị văn hóa truyền thống, nâng cao dân trí đời sống tinh thần của

dân cư.
+ Đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ công cộng như giao
lưu đi lại, thông tin liên lạc… và các loại hàng hoá khác.
+ Cung cấp cho dân cư nguồn nước sạch sinh hoạt và đảm bảo tốt hơn các
điều kiện vệ sinh môi trường.
Việc giải quyết những vấn đề trên và những tiến bộ trong đời sống văn hóa xã hội nói chung ở vùng nghèo, người nghèo phụ thuộc rất lớn vào tình trạng và
khả năng phát triển các yếu tố cơ sở hạ tầng giao thông nói chung và cơ sở hạ tầng
của vùng nói riêng. Sự mở rộng mạng lưới giao thông, cải tạo hệ thống điện nước
sinh hoạt… cho dân cư có thể làm thay đổi và nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của cá nhân trong mỗi cộng đồng dân cư nghèo.
Nói cách khác, sự phát triển cơ sở hạ tầng giao thông ở vùng nghèo mà chủ
yếu là vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện
điều kiện lao động, điều kiện sinh hoạt, làm tăng phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc
sống của khối dân cư. Từ đó, tạo khả năng giảm bớt chênh lệch, khác biệt về thu
nhập và hưởng thụ vật chất, văn hoá giữa các tầng lớp, các nhóm dân cư, giữa
người giàu và người nghèo, giữa các vùng dân cư như miền núi và đồng bằng hay
nông thôn và thành thị.
11

11


Cơ sở hạ tầng tốt sẽ giúp giảm giá thành sản xuất, giảm rủi ro, thúc đẩy lưu
thông hàng hóa trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp và các ngành liên quan
trực tiếp tới nông nghiệp – khu vực phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Cơ sở hạ
tầng phát triển sẽ tác động nhanh tới khu vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn,
tạo ra điều kiện cạnh tranh lành mạnh, tăng sức thu hút vốn đầu tư nước ngoài và
sức huy động nguồn vốn trong nước vào thị trường nông nghiệp, nông thôn. Những
vùng có cơ sở hạ tầng đảm bảo sẽ là một nhân tố để thu hút nguồn lao động, hạ giá
thành trong sản xuất và mở rộng thị trường nông thôn. Cơ sở hạ tầng nông thôn

phát triển sẽ tăng cường được khả năng giao lưu hàng hóa, thị trường nông thôn
được mở rộng, kích thích hộ gia đình tăng gia sản xuất, làm thay đổi bộ mặt nông
thôn, thu nhập các hộ nông dân tăng, đời sống nông dân được tăng cao, thực hiện
mục tiêu xóa đói giảm nghèo, giảm sự phân hóa giàu nghèo giữa thành thị và nông
thôn.....
Nói tóm lại tăng trưởng kinh tế là điều kiện để phát triển kết cấu hạ tầng cho
vùng nghèo, và phát triển kết cấu hạ tầng cho vùng nghèo mà cơ bản là nông thôn
có tác động tích cực tới giảm nghèo.
1.3.1.3. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện để phát triển các dịch vụ xã hội cơ
bản phục vụ người nghèo
1.3.1.3.1. Chính sách giáo dục
Tăng trưởng kinh tế sẽ làm tăng ngân sách nhà nước khi đó nó sẽ tác động
tới giáo dục trên một số khía cạnh:
-

Cơ sở vật chất: Tăng ngân sách thì cơ sở vật chất sẽ được đầu tư hoàn thiện và
đồng bộ giữa các trường, các cơ sở vật chất như máy chiếu, bảng, bàn học sẽ được
đầu tư nhiều hơn, đầy đủ hơn.... xây dựng được nhiều trường học đạt tiêu chuẩn

-

quốc tế.
Chương trình giáo dục: Nguồn ngân sách tăng kéo theo ngân sách đầu tư cho cơ sở
vật chất giáo dục ngày một tăng. Khi cơ sở vật chất hiện đại phục vụ mọi yêu cầu
của người dạy và người học thì chương trình học sẽ được nâng cao, phương pháp
học và phương pháp giảng dạy sẽ được mở rộng. Ngoài ra nhà nước sẽ cung cấp
các học bổng, các khoản trợ cập cho học sinh giỏi có hoàn cảnh khó khăn....Chương
trình học sẽ được thay đổi để phù hợp với sự phát triển nền kinh tế, và xứng tầm
với các nước trên thế giới.
- Đội ngũ giáo viên: Đội ngũ giáo viên sẽ được đào tạo chuyên sâu hơn, phù

hợp hơn để đáp ứng được yêu cầu của xã hội

12

12


Giáo dục phát triển làm trình độ người nghèo được nâng cao, tăng cơ hội việc
làm, góp phần cải thiện tình trạng nghèo đói. Thực tế cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo giảm
khi trình độ học vấn tăng. Đầu tư cho giáo dục có tác dụng nâng cao chất lượng lao
động, phát triển nguồn nhân lực, tăng năng suất lao động nhờ trình độ tay nghề,
trình độ kỹ thuật được cải thiện. Mặt khác khả năng tiếp cận của người dân với các
chính sách, pháp luật quan trọng của nhà nước được nâng cao, tránh được các vấn
đề về an sinh xã hội, tệ nạn xã hội, an ninh quốc gia đặc biệt là vùng núi. Tạo sự
phát triển bền vững cho quốc gia. Vì vậy chính sách giáo dục phải hướng tới ưu tiên
người nghèo, vùng nghèo. Đầu tư cho giáo dục, đào tạo nghề để tăng khả năng tìm
kiếm việc làm, tạo việc làm cho người nghèo, tăng thu nhập, từ đấy làm giảm tỷ lệ
nghèo.
1.3.1.3.2. Chính sách y tế
Khi nền kinh tế tăng trưởng, phát triển vững mạnh đồng nghĩa với việc nguồn
thu của ngân sách nhà nước tương đối lớn, thì nguồn lực này sẽ được phân phối
cho các lĩnh vực trong đó có đầu tư phát triển dịch vụ y tế cho người nghèo. Nhà
nước sẽ dựa vào các nhu cầu sẵn có của trạm y tế để bổ sung các trang thiết bị, lực
lượng cần thiết như khoa học công nghệ, đào tạo cán bộ y tế về chuyên môn... hay
xây mới hoàn toàn.
Người dân có thu nhập thấp sẽ giảm khả năng cải thiện sức khỏe, dễ ốm đau,
ít có cơ hội điều trị bệnh tật. Ngược lại sức khỏe không tốt gây ảnh hưởng tiêu cực
tới việc làm, thu nhập. Họ phải chịu hai gánh nặng, một là mất đi thu nhập từ lao
động do bệnh tật không có khả năng lao động. Hai là họ không có tiền để khám
chữa bệnh. Trong khi đó khả năng tiếp cận với các dịch vụ phòng chống bệnh (nước

sạch…) còn hạn chế, điều đó lại càng làm tăng khả năng mắc bệnh cho người
nghèo. Vì thế khi đầu tư phát triển cho dịch vụ y tế sẽ làm chất lượng sức khỏe cuộc
sống của người dân nói chung và người nghèo được cải thiện tốt hơn. Người dân
được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần; giảm tỷ
lệ mắc bệnh tật, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ, nâng cao chất lượng dân số. Vì thế
năng suất lao động sẽ tốt hơn, thu nhập tăng, chất lượng cuộc sống được cải thiện,
xã hội sẽ phát triển tốt hơn.Vì vậy, cải thiện đời sống sức khỏe cho người nghèo là
một trong những yếu tố cơ bản để họ tự thoát nghèo.

13

13


1.3.2. Các tiêu chí đánh giá
Tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Để đánh
giá được tác động của tăng trưởng kinh tế tới giảm nghèo có thể dựa trên một số
tiêu chí cụ thể sau:
1.3.2.1. Động thái thay đổi tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân và tỷ lệ
nghèo
So sánh tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người với tốc độ giảm tỷ
lệ nghèo sẽ cho biết chiều hướng và mức độ tác động của tăng trưởng tới giảm
nghèo
-

Nếu tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người nhỏ hơn tốc độ giảm nghèo
thì tăng trưởng là “vì người nghèo”, tăng trưởng có lợi hơn cho người nghèo, tức là

-


tác động đồng thuận tới giảm nghèo là mạnh.
Nếu tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người lớn hơn tốc độ giảm nghèo
thì tăng trưởng có làm cho tỷ lệ nghèo giảm nhưng ít hơn, tăng trưởng có lợi hơn

-

cho người giàu.
Nếu tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người bằng tốc độ giảm nghèo thì
tăng trưởng có tác động tới giảm nghèo ở mức trung bình, thu nhập được phân

-

phối đồng đều cho cả người giàu và người nghèo.
Nếu tỷ lệ nghèo tăng, tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người ở mức
thấp thì tăng trưởng kinh tế đã “bần cùng hóa” thêm người nghèo.
Ưu điểm của tiêu chí này là cho biết được bức tranh tổng quan về tăng trưởng
và tỷ lệ nghèo; hơn nữa nó thể hiện được xu hướng tác động của tăng trưởng tới
giảm nghèo. Mặc dù vậy nhưng tiêu chí này cũng có những hạn chế nhất định, đó là
chưa định lượng được tác động của tăng trưởng tới giảm nghèo. Vì vậy, những tiêu
chí sau sẽ khắc phục được hạn chế của tiêu chí này.
1.3.2.2. Tương quan giữa mức thu nhập bình quân chung và mức thu nhập
bình quân của người nghèo
Tỷ số thu nhập (IR) là chỉ số đo sự tương quan giữa mức thu nhập bình quân
chung và mức thu nhập bình quân của người nghèo. Công thức cụ thể:
IR = 100
IR cho biết ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến đời sống của những hộ
nghèo. IR càng cao, chứng tỏ thu nhập của người nghèo càng gần với thu nhập bình
quân chung của tòa xã hội; hay nói cách khác tác động của tăng trưởng kinh tế đến
giảm nghèo là tích cực. Ngược lại, IR càng thấp cho thấy tác động yếu của tăng
trưởng kinh tế đến người nghèo.

14

14


Trong khi tỷ số thu nhập cho biết tác động của tăng trưởng kinh tế đến nghèo
đói là tích cực hay tiêu cực thì so sánh tốc độ tăng mức thu nhập bình quân của
người nghèo với tốc độ tăng mức thu nhập bình quân chung của toàn xã hội sẽ cho
biết xu hướng tác động mạnh dần hay yếu đi. Nếu tốc độ tăng mức thu nhập bình
quân của người nghèo ngày càng nhanh hơn tốc độ tăng mức thu nhập bình quân
chung của toàn xã hội, cho thấy tác động ngày càng tích cực của tăng trưởng kinh
tế đến giảm nghèo và ngược lại sẽ cho thấy tác động ngày càng yếu đi của tăng
trưởng kinh tế đối với nghèo đói.
1.3.2.3. Hệ số co giãn của giảm nghèo đối với tăng trưởng kinh tế.
Độ co giãn này thể hiện bằng phần trăm thay đổi tỷ lệ nghèo khi có 1% tăng
trưởng thu nhập bình quân đầu người. Công thức tính độ co giãn:
GEP =
Từ biểu thức trên nhận thấy rằng:độ co giãn có thể âm cũng có thể dương.
-

Độ co giãn dương cho thấy tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ nghèo cùng chiều. Có nghĩa
là tốc độ tăng trưởng tăng làm đói nghèo gia tăng, và ngược lại tốc độ tăng trưởng

-

giảm làm giảm đói nghèo.
Độ co giãn âm cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia có lan tỏa tốt cho

-


xóa đói giảm nghèo.
Tốc độ giảm nghèo vượt quá tốc độ tăng trưởng (độ co giãn vượt quá -1), thể hiện

-

tăng trưởng thay đổi ngày càng tích cực tới giảm nghèo.
Tốc độ giảm tỷ lệ nghèo và tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân ngang nhau (độ

-

co giãn bằng -1)
Độ co giãn bằng 0 tức là tỷ lệ nghèo không co giãn theo tốc độ tăng, tốc độ tăng

-

trưởng không ảnh hưởng đến tỷ lệ nghèo.
Độ giảm nghèo thấp hơn tốc độ tăng trưởng, tăng trưởng làm thay đổi phân phối
thu nhập theo hướng bất bình đẳng hơn, nên tỷ lệ nghèo có giả nhưng ít hơn (độ co
giãn ở giữa 0 và -1)
Đây là thước đo tốt nhất để thấy được mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và giảm nghèo chặt chẽ thế. Chỉ tiêu này có thể định lượng được tác động và cho
biết được xu hướng tác động của tăng trưởng tới giảm nghèo là tích cực hay tiêu
cực. Nhưng chỉ tiêu này cũng có hạn chế là với tỷ lệ nghèo thấp (dưới 3%) thì chỉ
tiêu này phản ánh không chính xác được tác động của tăng trưởng kinh tế tới giảm
nghèo, gây ra những tác động nhiễu trong phân tích và so sánh.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới tác động của tăng trưởng tới giảm nghèo
1.4.1. Lựa chọn mô hình tăng trưởng

15


15


Trên con đường tìm kiếm phát triển, mỗi quốc gia sẽ có những con đường đi
khác nhau. Nhưng tổng chung của những con đường này vẫn là vấn đề giải quyết
mối quan hệ giữa mặt kinh tế (tăng trưởng) và mặt xã hội (tiến bộ và công bằng xã
hội) trên con đường phát triển. Từ đó, đúc kết thành 3 mô hình cụ thể, mỗi mô hình
có những đặc trưng riêng, và có những kết cục riêng của nó.
 Mô hình ”công bằng xã hội trước và tăng trưởng kinh tế sau”
Mô hình này nhấn mạnh và đặt công bằng lên trên, đi trước và là cơ sở vì cho
rằng mục tiêu của phát triển là nâng cao đời sống dân cư, xóa bỏ khoảng cách giàu
nghèo và bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
Kết quả bước đầu là quốc gia đạt tới những chỉ tiêu tiến bộ xã hội khá tốt,
nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao vì cơ chế phân phối bình quân đã làm
hạn chế động lực của tăng trưởng. “Công bằng” được thực hiện nhưng không thúc
đẩy được tăng trưởng bền vững, thu nhập và mức sống dân cư thấp. Vân dụng mô
hình này khi điều kiện vật chất, trình độ văn minh chưa đủ độ chín muồi, có thể tạo
nguy cơ hủy hoại động lực phát triển kinh tế, kiềm chế, đẩy lùi sự phát triển của lịch
sử. Thực tế cho thấy nếu chỉ giải quyết công bằng xã hội mà không dựa trên những
thành quả của tăng trưởng kinh tế không những không tạo ra động lực trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn dẫn đến suy giảm kinh tế và mất ổn định
chính trị và ngược lại công bằng xã hội nếu không có tăng trưởng kinh tế, hoặc chỉ
có tăng trưởng thấp thì đó chỉ là sự công bằng trong nghèo khổ và mong manh.
 Mô hình tăng trưởng trước - công bằng xã hội sau
Theo Arthur Lewis (1915 – 1991), sở dĩ bất bình đẳng tăng lên ở giai
đoạn đầu là vì thu nhập của các nhà tư bản sẽ tăng do qui mô mở rộng, trong
khi tiền lương của công nhân không thay đổi; ở giai đoạn sau bất bình đẳng sẽ
giảm khi lao động dư thừa được thu hút hết vào khu vực thành thị (sản xuất
công nghiệp và dịch vụ) nên lao động sẽ trở nên khan hiếm và tiền lương sẽ
tăng lên dẫn đến giảm bớt sự bất bình đẳng.

Tăng trưởng kinh tế tự nó không thể đem đến công bằng xã hội được .
Cùng với quá trình tăng trưởng nhanh, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội
ngày càng gay gắt, các nội dung về nâng cao chất lượng cuộc sống thường ít được
quan tâm, một số giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống của dân tộc và đạo đức,
thuần phong mỹ tục tốt đẹp của nhân dân bị phá hủy. Mặt khác việc chạy theo mục
tiêu tăng trưởng nhanh trước mắt đã dẫn đến sự cạn kiệt nhanh chóng của nguồn
tài nguyên quốc gia, hủy hoại môi trường sinh thái, chất lượng tăng trưởng kinh tế
không đảm bảo và vi phạm yêu cầu phát triển bền vững. Chính những bất bình

16

16


đẳng ấy trở nên là một rào cản cho thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong
những giai đoạn gần đây.

 Mô hình tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội giải quyết đồng thời

Nhìn chung, mô hình “Tăng trưởng đi đôi với Công bằng” là mô hình có
tính khả thi. Theo mô hình này, Chính phủ của các nước đã đưa ra các chính
sách thúc đẩy tăng trưởng nhanh, đồng thời đặt ra vấn đề bình đẳng, công bằng
xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư dựa trên cơ sở phát triển kinh
tế tư nhân, khuyến khích dân cư làm giàu và thực hiện phân phối thu nhập theo
sự đóng góp của các nguồn lực.
Rõ ràng với mỗi mục tiêu, sứ mệnh đặt ra khác nhau, mỗi quốc gia sẽ lựa chọn
và theo đuổi mô hình phát triển kinh tế khác nhau. Mỗi một mô hình chỉ ra sự tác
động của tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội khác nhau nhưng không thể phủ
nhận tác động qua lại biện chứng giữa chúng. Qua đây ta thấy, việc lựa chọn mô
hình phát triển kinh tế có tầm ảnh hưởng quan trọng đến quá trình giảm nghẻo của

mỗi quốc gia.
1.4.2. Chính sách đầu tư công vào cơ sở hạ tầng
Đầu tư công gồm:
 Chương trình mục tiêu, dự án phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế, xã hội,

môi trường, quốc phòng, an ninh; các dự án đầu tư không có điều kiện xã hội hoá
thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, y tế, khoa học, giáo dục, đào tạo và các
lĩnh vực khác.
 Chương trình mục tiêu, dự án phục vụ hoạt động của các cơ quan nhà nước, đơn vị

sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, kể cả việc mua sắm, sửa chữa
tài sản cố định bằng vốn sự nghiệp.
 Các dự án đầu tư của cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ

chức xã hội - nghề nghiệp được hỗ trợ từ vốn nhà nước theo quy định của pháp
luật.
 Chương trình mục tiêu, dự án đầu tư công khác theo quyết định của Chính phủ.

Đầu tư công vào cơ sở hạ tầng được coi là một trong những chương trình và
dự án điển hình của Chính phủ hằng năm. Đầu tư công vào cơ sở hạ tầng, vật chất
kĩ thuật được hiểu là việc sử dụng vốn Nhà nước (bao gồm cả vốn ngân sách nhà
nước, vốn tín dụng của nhà nước và vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước) để
17

17


đầu tư vào các chương trình, dự án nhằm xây dựng và nâng cao cơ sở hạ tầng vật
chất kĩ thuật như: điện, đường, trường, trạm…mà không vì mục tiêu lợi nhuận và
hoặc không có khả năng hoàn vốn. Đầu tư công vào cơ sở hạ tầng vật chất kĩ thuật

tác động trực tiếp và gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Với việc tăng nguồn vốn
đầu tư (I) đã tác động đến tăng trưởng kinh tế theo yếu tố đầu vào: thuê thêm nhân
công tạo công ăn việc làm, tiêu dùng nguyên vật liệu sản xuất..vv.. và yếu tố này lại
tiếp tục tác động đến các ngành giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, ngành công
nghiệp sản xuất nguyên vật liệu.. Ngoài ra đầu tư công còn tác động một cách gián
tiếp lên tăng trưởng kinh tế bằng việc cung cấp một nền tảng, một môi trường
thuận lợi về cơ sở hạ tầng để các doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh từ
đó thúc đầy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, việc phát triển cơ sở hạ tầng cũng
làm cho con người được sống trong môi trường đầy đủ vật chất hơn, nâng cao đời
sống nhân dân. Chưa kể đến việc Chính phủ sẽ dùng các biện pháp đầu tư vào cơ sở
hạ tầng để hướng các sự đầu tư hay thực hiện mục tiêu phát triển cân đối đến các
vùng muốn thu hút đầu tư hay các vùng khó khăn. Gần đầy, việc Chính phủ tăng
cường đầu tư cơ sở hạ tầng vào các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên là một minh chứng
cho sự thu hút đầu tư. Qua đó ta thấy, đầu tư công góp phần đáng kể vào tăng
trưởng kinh tế, và từ tăng trưởng kinh tế sẽ tác động đến giảm nghèo thông qua
việc mỗi quốc gia sẽ theo đuổi mô hình phát triển kinh tế nào.
Ngoài ra, đầu tư công vào cơ sở hạ tầng còn tác động một cách trực tiếp đến
giảm nghèo. Việc thiếu cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu vùng xa hay các quốc gia có
địa hình khó khăn, nằm sâu trong lục địa, có thể nói là nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến tỷ lệ nghèo đói cao ở các khu vực này. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật
được coi là khâu trọng tâm cần giải quyết và là biện pháp hỗ trợ trực tiếp cho
người nghèo, hộ nghèo, các địa phương và các quốc gia nghèo..
1.4.3. Chính sách phân phối lại thu nhập
Theo quan điểm của Ngân hàng Thế giới, nếu thực hiện chính sách phân phối
lại tài sản và định giá lại nguồn lực thì về cơ bản hình thức phân phối thu nhập theo
chức năng sẽ đảm bảo sự công bằng xã hội. Tuy vậy, một số vấn đề đặt ra, do điều
kiện lịch sử, xã hội, đại lí hay cá nhân.v.v.. khác nhau nên các thành viên trong xã hội
sẽ có những cơ hội phát triển không giống nhau, các cơ hội phát triển không giống
nhau này có thể ngày càng đa dạng hơn khi vận hành trong cơ chế thị trường, và
đến lượt nó lại nảy sinh trở lại vấn đề phân hóa tài sản sở hữu của các thành viên

trong xã hội và hình thành nên vị thế khác nhau của các nhóm dân cư. Cuối cùng, xã
18

18


hội tồn tại các vùng nghèo, người nghèo và tầng lớp dân cư khó khăn không có điều
kiện phát triển. Vì vậy, hình thức phân phối theo thu nhập vẫn rất cần thiết, nó là
hình thức bổ trợ, đi kèm với phần phối theo chức năng để đảm bảo giải quyết ngay
từ đầu vấn đề xóa đói giảm nghèo và công bằng xã hội. Phân phối theo thu nhập
thực chất là phân phối lại nguồn thu giữa các thành viên trong xã hội trên cơ sở kết
quả phân phối lần đầu theo chức năng nhằm tạo ra công bằng giữa các tầng lớp
dân cư trong xã hội. Phân phối lại được tiến hành dưới hai hình thức: trực tiếp và
gián tiếp.
 Phân phối lại trực tiếp tức là: Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập (như
thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cao, thuế thu nhập cá nhân, hộ gia
đình) để điều chỉnh bớt thu nhập của doanh nghiệp hoặc cá nhân hộ gia đình có thu
nhập cao hơn mức quy định không phải nộp thuế. Phân thu nhập nhận được, nhà
nước sử dụng để cấp lại cho những hộ gia đình nghèo, những cá nhân, địa phương
hay tập thể có mức thu nhập thấp do thiếu cơ hội phát triển hoặc gặp rủi ro trong
cuộc sống dưới hình thức trợ cấp thường xuyên hay đột xuất. Cơ chế thuế và trợ
cấp nói trên gọi là nội dung chính của chính sách phân phối lại trực tiếp.
 Phân phối lại gián tiếp thực chất là: chính sách ưu tiên trong việc tiếp cận dịch vụ
công cho người nghèo, vùng nghèo, hay những thành viên trong xã hội không có
hoặc thiếu cơ hội phát triển, thông qua chính sách giá. Họ sẽ được tham gia các
dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nước sạch.v.v.. theo giá rẻ hoặc miễn phí,
được nhà nước bỏ vốn đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, nhà
cửa, trường học, trạm y tế.v.v… nhằm cải thiện cơ hội phát triển. Phương thức thực
hiện của những hoạt động trên là Chính phủ ban hành các cơ chế, chính sách trợ
giúp người có thu nhập thấp một cách ổn định, thường xuyên (ví dụ như chính sách

trợ cấp thường xuyên cho các đối tượng nghèo hoặc các tầng lớp yếu thế trong xã
hội, chính sách cấp thẻ vảo hiểm y tế miễn phí .v.v..) hoặc xây dựng các chương trình
dự án giải quyết một lĩnh vực cụ thể trong khoảng thời gian dự kiến (ví dụ, chương
trình xóa đói giảm nghèo, chương trình nước sạch nông thôn, chương trình xây
dựng cơ sở hạ tầng cho vùng nghèo, chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng
v.v..)
1.4.4. Chính sách hỗ trợ người nghèo trong sản xuất và tiếp cận dịch vụ
công
Nhân tố đầu tiên dẫn tới tình trạng nghèo đói là tiềm lực kinh tế, khả năng
kinh doanh của hộ nghèo còn thấp. Lao động nghèo thường là những lao động có
trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kĩ thuật kém, tay nghề thấp sẽ làm cho họ ít
19

19


có cơ hội kiếm được việc làm trong những ngành phi nông nghiệp, những công việc
mang lại thu nhập cao và ổn định. Đa số người nghèo không có cơ hội tiếp cận với
các dịch vụ sản xuất, người nghèo thiếu khả năng tiếp cận với các nguồn vốn tín
dụng. Họ không có tài sản để thế chấp, họ phải đưa tín chấp những món vay nhỏ,
hiệu quả thấp, và khi có được nguồn vay thì họ lại sử dụng không đúng mục đích, vì
thế họ vẫn luẩn quẩn trong vòng nghèo đói.
Trên thực tế người nghèo thiếu nhiều điều kiện cần thiết cho việc tự vươn lên
làm kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Vì vậy sự hỗ trợ của nhà nước để bù đắp sự thiếu
hụt của họ là cần thiết.
 Hỗ trợ về vốn: ở các nước đang phát triển, cần có các tổ chức tín dụng cho người

nghèo, ví dụ như Ngân hàng người nghèo, Quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng chính
sách v.v.. Trong quá trình thực hiện sự hỗ trợ của mình, các tổ chức này cần nghiên
cứu để nới lỏng các điều kiện cho người nghèo vay vốn, quan trọng hơn là đưa ra

các điều kiện vay, hướng dẫn họ cách sử dụng và quản lí vốn tức là giúp người
nghèo vừa có vốn lại vừa biết cách làm ăn. Phương thức tiếp cận vốn vay của người
nghèo cũng cần được cải thiện. Có thể áp dụng kiểu cho vay hiện vật như: cho vay
cây con giống, mở rộng mô hình “cho vay bò mẹ trả bò con”. Cũng cần đa dạng hóa
các kênh thu hút vốn tín dụng: ngoài nguồn vốn từ khu vực nhà nước thông qua
ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng người nghèo, cần mở rộng hình thức ngân
hàng cổ phần tư nhân nông thôn, tăng cường hoạt động tài chính vĩ mô theo các dự
án của các tổ chức quốc tế.
 Hướng dẫn người nghèo làm kinh tế và thực hiện hiệu quả công tác khuyến nông.
Người nông dân biết rõ những diễn biến về đất, nước, cây trồng, mưa, gió nơi mình
sinh sống nhưng không có kiến thức của các nhà chuyên môn về trồng trọt, chăn
nuôi, thủy sản, chế biến, kinh tế nên đã không tận dụng hữu hiệu các tài nguyên
thiên nhiên và lao động của nông hộ mình để làm giàu. Vì vậy các nhà lãnh đạo, các
nhà khoa học không thể tiếp tục suy nghĩ dùm và đặt chỉ tiêu cho nông dân sản xuất
theo cảm tính mà cần phải đi thẳng vào nông hộ, cùng với nông dân xác định
hướng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp hợp lí nhất (trồng thêm cây gì?
Nuôi thêm con gì? Trong thời gian nào? Trên địa bàn nào?). Từ đó xác định hướng
chuyển dịch cơ cấu nông thôn (công nghệ gì? Chế biến ra sao? Ngành nghề phụ
nào? Những dịch vụ nông thôn nào?). Tín dụng nhà nước và các chương trình tài
chính vi mô sẽ căn cứ vào những định hướng này mà cho vay. Đi đôi với hỗ trợ xác
định hướng sản xuất kinh doanh cho nông dân nghèo cần tăng cường hơn nữa
công tác khuyến nông, và tổ chức tốt mạng lưới khuyến nông tùy theo hoàn cảnh
20

20


của từng địa phương, khả năng kinh phí và sáng kiến của họ. Cần nhấn mạnh vai
trò tích cực của việc khuyến nông tại các thôn xã, bộ phận này sẽ đóng góp vai trò
tích cực trong việc hướng nông dân sử dụng đúng mục tiêu và áp dụng kỹ thuật

đúng phương pháp, mỗi địa phương cần tổ chức chương trình khuyến nông của
mình gắn chặt với chương trình xóa đói giảm nghèo, coi đây là hai bộ phân trong
một chương trình phát triển nông thôn.

21

21


CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TỚI GIẢM NGHÈO
CỦA HUYỆN ANH SƠN TỈNH NGHỆ AN
2.1. Tổng quan về tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo huyện Anh Sơn.
2.1.1. Tăng trưởng kinh tế.
Giai đoạn 2005-2015, cùng với nhịp đập phát triển chung của cả nước, của
tỉnh, huyện Anh Sơn cũng đã có những bước chuyển mình đáng kể trong phát triển
kinh tế địa phương. Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng bằng cách tận dụng được
những lợi thế của địa phương, huyện đã có những bước đi đáng kể trong tăng
trưởng kinh tế.
Hình 3.1 Tốc độ tăng trưởng kinh tế huyện Anh Sơn giai đoạn 2005-2015

Nguồn: Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội huyện Anh Sơn đến
năm 2010 và 2020.
Số liệu trên cho thấy tốc độ tăng trưởng của huyện Anh Sơn giai đoạn 20052015 đã có những bước phát triển khá. Giá trị tăng thêm năm sau hầu như cao hơn
năm trước, phù hợp với xu thế phát triển chung của tỉnh, nền kinh tế của huyện
phát triển tương đối ổn định. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2005-2009 là
13,24%. Tốc độ tăng trưởng năm 2010 là 13.29% tăng lên đến 14,56% năm 2014
và có giảm không đáng kể xuống 14.47% trong 6 tháng đầu năm 2015. Với tình
hình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến chuyển thì tốc độ tăng trưởng
kinh tế của huyện như vậy là một con số ổn định và khá ấn tượng.
Hiệu quả kinh tế được nâng lên rõ rệt, giá trị gia tăng sản phẩm tăng đều

đặn qua các năm, năm 2010 tổng sản phẩm của huyện đạt 789,91 tỷ đồng, tăng lên
801,54 tỷ đồng năm 2012 và đạt 1178,9 tỷ đồng cuối năm 2014.
Bảng: Kết quả gia tăng kinh tế qua các chỉ tiêu tăng trưởng giai đoạn
2005-2015(tính theo giá hiện hành).
Đơn vị: tỷ đồng.

Năm
2005
2006
2007
2008
2009
22

GTSX
570.34
698.45
798.45
678.86
870.1

GTGT
13.5
14.5
15.78
14.54
16.56

Tốc độ tăng GTSX
0.22462

0.143174
-0.14978
0.281708
22

Tốc độ tăng GTGT
0.074074
0.088276
-0.07858
0.138927


2010
2011
2012
2013
2014
2015

890.35
1368.15
2001.49
2550.12
3058.45
3204.29

17.91
19.54
18.79
21.24

20.19
22.25

0.023273
0.536643
0.462917
0.274111
0.199336
0.047684

0.081522
0.091011
-0.03838
0.130389
-0.04944
0.102031

Nguồn: Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội huyện Anh Sơn đến
năm 2010 và 2020.
Từ số liệu trên ta có đồ thị sau:

Thống kê cho thấy, tình hình tăng trưởng của huyện Anh Sơn qua các chỉ tiêu
cũng tương đối ổn định. Giá trị sản xuất của năm sau hầu như cao hơn năm trước,
giá trị sản xuất cũng tăng khá nhanh trong giai đoạn 2005-2015, bằng chứng là giá
trị sản xuất 6 tháng đầu năm 2015 cao gần gấp 6 lần giá trị sản xuất năm 2005
(tính theo giá hiện hành). Theo đó, giá trị gia tăng giai đoạn 2005-2015 cũng luôn
dương và cũng tăng khá nhanh, năm 2005 chỉ mới 13,5 tỷ đồng, đã tăng lên đến
22,25 tỷ đồng năm 2015. Tốc độ gia tăng giá trị sản xuất và giá trị gia tăng của
huyện cũng khá ổn định qua các năm. Tuy nhiên, không năm ngoài biến động kinh
tế cả nước cũng như thế giới, năm 2008, cả tốc độ tăng giá trị sản xuất và giá trị

gia tăng của huyện đạt giá trị âm.
Tốc độ gia tăng giá trị sản xuất giai đoạn 2005-2010 là 10,46%, trong khi
giai đoạn 2011-2015 đạt 30,41%, cao gần gấp 3 lần, điều này được lí giải bởi nhiều
lí do: giai đoạn 2005-2010, tuy nền kinh tế cả nước bước vào thời kì tăng trưởng
nóng năm 2006, 2007 nhưng lại nhanh chóng rơi vào khủng hoảng và gặp nhiều
khó khăn năm 2008, điều này làm cho kinh tế của huyện cũng không nằm ngoài
tầm ảnh hưởng vì huyện được tài trợ khá nhiều dự án bởi ngân sách nhà nước. Bên
cạnh đó, giai đoạn 2005-2010, là giai đoạn mà huyện mới bắt đầu thực hiện các
chính sách quy hoạch, phát triển kinh tế nên chưa thật sự đồng bộ và đạt được hiệu
quả. Giai đoạn 2011-2015, cùng với sự phục hồi của nền kinh tế cả nước nói chung
và của tỉnh nói riêng, nền kinh tế của huyện cũng đã có những dấu hiệu tích cực,
hơn nữa các chính sách kinh tế của huyện đã thật sự phần nào phát huy được tác
dụng của mình, và đóng góp 1 phần không nhỏ vào con số tốc độ gia tăng giá trị
sản xuất ấn tượng của huyện giai đoạn 2011-2015. Từ đó, nhận thấy, xu thế tăng
trưởng kinh tế của huyện là rất tích cực và khả quan cho đến 2020.
23

23


Giai đoạn 2005 – 2015, so mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
huyện Anh Sơn lần thứ XIX đề ra thì đã có 31/33 chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt mục
tiêu nghị quyết đại hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của huyện đã đạt
15,21%; giá trị sản xuất năm 2015 ước đạt 3.204.292 triệu đồng; giá trị gia tăng
bình quân đầu người năm 2015 ước đạt 22,245 triệu đồng. Giai đoạn 2005-2010,
mục tiêu tăng trưởng sản xuất của huyện là 10,5-11%/ năm; ở giai đoạn này,
huyện đã gần đạt được chỉ tiêu mà đại hội đề ra khi đạt mức tăng trưởng bình
quân 10,46%. Giai đoạn 2011-2015, với mức tăng trưởng 30,41% tại tốc độ tăng
giá trị sản xuất, huyện đã vượt mức kế hoạch đề ra là 17,5%-18% (nguồn: báo cáo
tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế huyện Anh Sơn năm 2010, 2015).

Về cơ cấu kinh tế, giai đoạn 2010-2015, kinh tế nông- lâm nghiệp vẫn
chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế của huyện, tỷ trọng công nghiệp đạt ở mức
tương đối thấp, tỷ trọng dịch vụ có tăng trương chậm. Trong những năm gần đây
có sự chuyển biến trong cơ cấu, khắc phục dần tình trạng sản xuất tự túc, tự cấp, đi
vào sản xuất hàng hóa bằng việc thâm canh thâm cư, dồn điền đổi thửa, tăng năng
suất cây lương thực, phát triển cây công nghiệp và chăn nuôi..do vậy tỷ trọng GDP
nông- lâm nghiệp giảm từ 55,59%, năm 2011 giảm xuống còn 51,45%, năm 2012 là
39,59%; công nghiệp, xây dựng tăng từ 23,16% năm 2011 lên 23,63% năm 2013 và
28,8% năm 2014; dịch vụ tăng từ 21,26% năm 2011 lên 24,92% năm 2013 và
31,62% năm 2014.
Hình 3.2: Cơ cấu kinh tế huyện Anh Sơn giai đoạn 2010-2015
Đơn vị: %

6T201
Nhóm ngành
Dịch vụ
Công nghiệp-xây

2010
20.9

2011
25.39

2012
36.31

2013
24.92


2014
31.62

5
32.4

dựng
Nông nghiệp

23.51
55.59

23.16
51.45

24.1
39.59

23.63
51.45

28.8
39.58

28.9
38.7

Nguồn: Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội huyện Anh Sơn
đến năm 2010 và 2020.
Cơ cấu kinh tế của huyện đã chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng

trong công nghiệp và dịch vụ- du lịch, giảm dần tỷ trọng nông, lâm nghiệp, tuy
24

24


nhiên, tốc độ chuyển dịch khá chậm. Sự chuyển dịch kinh tế trong những năm qua
đã tạo tiền đề cho sự phát triển, đã có sự chuyển dịch từ kinh tế thuần nông tự cung
tự cấp sang sản xuất hàng hóa thị trường, nông- lâm nghiệp phát triển theo hướng
dần cơ giới hóa, áp dụng máy mọc giảm lao động thủ công. So sánh với các chỉ tiêu
đã quy hoạch thì tốc độ tăng trường GDP và mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
huyện hầu hết đạt được các chỉ tiêu đã đề ra. Nguyên nhân là do kết quả thực hiện
về tổng mức đầu tư toàn xã hội trong những năm qua đạt được mức quy hoạch đề
ra, một số chương trình, dự án ưu tiên đã được triển khai khá đồng bộ, và có sự
quan tâm, sát sao của chính quyền, đảng ủy huyện cũng như tỉnh.
So sánh với tốc độ phát triển chung và hướng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của tỉnh
Tốc độ phát triển chung: thực tế trong 6 năm 2005-2010, tình hình kinh tế
của tỉnh cũng đã diễn ra không thuận lợi như dự báo: do tình hình kinh tế gặp
nhiều khó khăn (ban đầu là lạm phát, sau đó lại suy thoái); thời tiết, dịch bệnh diễn
biến phức tạp, ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất và đời sống của nhân dân.
Tuy nhiên, nhìn chung tỉnh vẫn giữ được mức tăng trưởng khá ổn định, trong đó có
những lĩnh vực tiếp tục phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao.
Trong hai năm đầu (2006, 2007) kinh tế tăng trưởng khá cao (trên 10,5%).
Từ cuối năm 2007 chịu ảnh hướng lớn của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh diễn biến rất phức tạp và gây hậu quả nặng
nề, song tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong 6 năm 2005-2010 đạt 9,7%. GDP
bình quân đạt 14,16 triệu đồng/người/năm, tăng 2,5 lần so với đầu nhiệm kỳ.
Từ đó, nhận thấy, thời kì này, tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện là khả
quan hơn so với của tỉnh khi mà huyện đã đạt được mức tăng trưởng bình quân

13,44%.
Giai đoạn 2011-2015, cùng với sự phục hồi của nền kinh tế trong nước cũng
như thế giới, tỉnh Nghệ An cũng đã đạt được những con số tăng trưởng ấn tượng
khi mà tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 15.67%/ năm; trong khi giai đoạn này, huyện
chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân 14,26%/ năm.
Hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh: Theo báo cáo kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội Nghệ An 5 năm giai đoạn 2011-2015, cho thấy tỷ trọng nông
nghiệp của tỉnh đã giảm từ 34,41% năm 2011 xuống còn 28,46% năm 2015; tỷ
trọng ngành công nghiệp-xây dựng tăng từ 29,30% lên 33,46%; tỷ trọng ngành
dịch vụ tăng từ 36,29% lên 38,08% năm 2015. Theo đó, cơ cấu kinh tế của tỉnh
cũng đã chuyển dịch đúng hướng với tăng tỷ trọng khối ngành công nghiệp-dịch vụ,
giảm tỷ trọng nông- lâm- ngư nghiệp.
25

25


×