Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển giáo dục đại học ngoài công lập ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.81 KB, 89 trang )

1

Trờng Đại học kinh tế quốc dân

Khoa kế hoạch phát triển
----------------

Chuyên đề
thực tập tốt nghiệp
Đề tài:

THựC TRạNG Và GIảI PHáP PHáT TRIểN GIáO DụC ĐạI HọC
NGOàI CÔNG LậP ở VIệT NAM
Sinh viên thực hiện
Mã SV
Lớp
Giáo viên hớng dẫn

: vũ thị diệp
: 11120603
: kinh tế phát triển 54b
: ths. phí thị hồng linh

Hà nội, 2015


2

MỤC LỤC



3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.

ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CGCN: Chuyển giao công nghệ
GDĐH: Giáo dục đại học
HDI: Chỉ số phát triển con người
NCKH: Nghiên cứu khoa học
NCL : Ngoài công lập
NSNN: Ngân sách nhà nước
UNDP: Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc
UNESCO: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc
WB: Ngân hàng thế giới
WTO: Tổ chức thương mại thế giới


4


DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Bảng biểu:

Hình vẽ:


5

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Sự cần thiết.
Lịch sử nhân loại đã chỉ ra rằng, vào bất kỳ thời đại nào, ở bất cứ quốc
gia nào muốn hưng thịnh đều phải lấy giáo dục làm trọng. Giáo dục không chỉ
là phúc lợi xã hội mà thực sự là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế-xã
hội. Thế kỷ XXI là thế kỷ của tri thức, thông tin và giáo dục là chìa khóa để
bước vào lâu đài tri thức vô tận của con người. Trong đó, giáo dục đại học có
vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của mỗi
quốc gia, là con đường tất yếu góp phần quyết định vào phát triển đất nước.
Giáo dục đại học khác với các bậc giáo dục khác trong hệ thống giáo dục, đây
không chỉ là nơi lưu trữ, sáng tạo và truyền bá tri thức mà còn là nơi đào tạo
trực tiếp nguồn nhân lực cho xã hội, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ cho sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Nhận thức được
vai trò quan trọng đó, các quốc gia trong đó có Việt Nam đang ngày càng
dành nhiều sự quan tâm cho phát triển giáo dục đại học. Ngày 21/8/1997
Chính phủ đã có Nghị quyết số 90/CP về “Phương hướng và chủ trương xã
hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa” nhằm huy động tiềm năng của
các thành phần kinh tế cho giáo dục và đào tạo; khuyến khích, huy động và
tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia vào phát triển sự nghiệp giáo dục;
đa dạng hóa các loại hình nhà trường, các hình thức giáo dục: phát triển các

loại hình bán công, tư thục và dân lập, trường quốc tế cùng với hệ thống các
trường công lập; xây dựng xã hội học tập đáp ứng nhu cầu học thường xuyên,
học suốt đời của nhân dân. Nghị quyết đã tạo ra bối cảnh mới cho sự phát
triển của hệ thống giáo dục đào tào đặc biệt là giáo dục đại học ở Việt Nam.
Trong hệ thống giáo dục Việt Nam, song song với hệ thống giáo dục đại
học công lập là giáo dục đại học ngoài công lập. Trong hai thập kỷ qua, giáo
dục đại học ngoài công lập đã đạt được những thành tựu quan trọng và có bước
phát triển lớn về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, phát triển giáo dục đại học
ngoài công lập hiện nay còn nhiều bất cập về mạng lưới trường, cơ sở vật chất
giảng dạy, đội ngũ giảng viên, chất lượng giảng dạy,…Bối cảnh thế giới hiện
nay cho thấy, phát triển giáo dục đại học ngoài công lập (đại học tư) đang là xu
hướng phát triển mới của giáo dục đại học trên toàn thế giới. Từ đó đặt ra yêu


6

2.

3.

4.

5.

cầu Nhà nước và toàn xã hội cần có cái nhìn sâu sắc hơn về giáo dục đại học
ngoài công lập để có những biện pháp, chính sách phát triển hợp lý hơn, thông
qua những câu hỏi: Giáo dục đại học ngoài công lập là gì? Vai trò của nó trong
hệ thống giáo dục Việt Nam và toàn xã hội? Sự phát triển của giáo dục đại học
ngoài công lập ở Việt Nam hiện nay? Những khó khăn, bất cập trong quá trình
phát triển? Nguyên nhân và giải pháp để phát triển một cách hợp lý đáp ứng nhu

cầu ngày càng cao về giáo dục đại học hiện nay. Xuất phát từ những suy nghĩ
trên, tôi đã chọn đề tài chuyên đề tốt nghiệp: “Thực trạng và giải pháp phát
triển giáo dục đại học ngoài công lập ở Việt Nam” .
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là trên cơ sở vận dụng những lý luận về phát triển
để phân tích sự phát triển của giáo dục đại học ngoài công lập ở Việt Nam,
những kết quả đạt được và những hạn chế, nhân tố ảnh hưởng từ đó đưa ra
giải pháp nhằm phát triển hơn nữa hệ thống giáo dục đại học ngoài công lập
đáp ứng vai trò và nhiệm vụ của nó trong giai đoạn tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự phát triển của hệ thống các
trường đại học ngoài công lập trên phạm vi cả nước.
Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương
pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để xem xét, đánh
giá và giúp cho vấn đề nghiên cứu sâu sắc hơn.
Kết cấu của chuyên đề.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, các bảng biểu, phụ lục, tài liệu
tham khảo chuyên đề được trình bày gồm có ba chương:
Chương 1: Khung lý thuyết nghiên cứu phát triển giáo dục đại học
ngoài công lập.
Chương 2: Thực trạng phát triển giáo dục đại học ngoài công lập ở Việt
Nam giai đoạn 2000-2014.
Chương 3: Phương hướng và Giải pháp phát triển giáo dục đại học
ngoài công lập ở Việt Nam đến năm 2020.


7

CHƯƠNG 1

KHUNG LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
NGOÀI CÔNG LẬP
1.1. Giáo dục đại học.
1.1.1. Khái niệm
Khái niệm giáo dục đại học đã xuất hiện từ lâu nhưng cho đến nay chưa
có một sự thống nhất nào về khái niệm này. Có thể kể đến một số khái niệm
như sau:
Theo Ronald Barnett (1992), có 4 khái niệm thông dụng nhất về giáo
dục đại học:
• Giáo dục đại học là một dây chuyền sản xuất mà đầu ra là nguồn nhân
lực đạt chuẩn. Theo quan điểm này, giáo dục đại học là một quá trình
trong đó người học được quan niệm như những sản phẩm được cung ứng
cho thị trường lao động. Như vậy, giáo dục đại học trở thành “đầu vào”
tạo nên sự phát triển và tăng trưởng của thương mại và công nghiệp.
• Giáo dục đại học là đào tạo để trở thành nhà nghiên cứu. Theo cách
nhìn này, giáo dục đại học là thời gian chuẩn bị để tạo ra những nhà
khoa học và nhà nghiên cứu thực thụ, những người sẽ không ngừng tìm
những chân trời kiến thức mới. Chất lượng ở đây hướng về việc tạo ra
các công bố khoa học và tinh thần làm việc nghiêm nhặt để thực hiện
các nghiên cứu có chất lượng.
• Giáo dục đại học là quản lý việc tổ chức giảng dạy một cách hiệu quả.
Rất nhiều người cho rằng giảng dạy là hoạt động cốt lõi của một cơ sở
giáo dục. Do vậy, các cơ sở giáo dục đại học thường chú trọng quản lý
một cách hiệu quả các hoạt động dạy và học bằng cách nâng cao chất
lượng giảng dạy và nâng cao tỷ lệ kết thúc khóa học của sinh viên.
• Giáo dục đại học là mở rộng cơ hội trong cuộc sống cho người học.
Theo cách tiếp cận này, giáo dục đại học được xem như một cơ hội để
người học được tham gia vào quá trình phát triển bản thân bằng các thể
thức học tập thường xuyên và linh hoạt.



8

Theo Luật Giáo dục Việt Nam năm 2005, xét về cấp bậc, giáo đục đại
học bao gồm việc giảng dạy và học tập ở cao đẳng và đại học nhằm giúp sinh
viên đạt được một tấm bằng của bậc đại học. Giáo dục đại học truyền cho
người học những kiến thức và hiểu biết sâu sắc nhằm giúp họ đạt tới những
giới hạn mới của tri thức trong từng lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống – các
lĩnh vực chuyên sâu. Có thể nói vắn tắt rằng đại học là “sự hiểu biết ngày
càng nhiều hơn về một lĩnh vực ngày càng hẹp hơn”. Sinh viên được phát
triển khả năng tự đặt ra những câu hỏi và tìm kiếm sự thật; khả năng phân tích
và phản biện về những vấn đề đương đại. Đại học không chỉ mở rộng năng
lực trí tuệ của từng cá nhân trong lĩnh vực chuyên môn của họ, mà còn giúp
họ mở rộng tầm nhìn và hiểu biết đối với thế giới xung quanh. Giáo dục đại
học bao gồm:




Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tùy theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông
hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành;
Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy
theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học
phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ hai năm rưỡi đến bốn năm
học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ
một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp cao
đẳng cùng chuyên ngành;


Từ những khái niệm trên có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của Giáo dục
đại học, những đặc điểm khác biệt của GDĐH so với các cấp bậc khác:


GDĐH đào tạo đa dạng ngành nghề, mỗi trình độ và ngành đào tạo sẽ
có quy định về chương trình đào tạo, thời gian đào tạo khác nhau,
phương pháp giảng dạy hiện đại, chủ động, thời gian linh hoạt.

GDĐH đào tạo đa dạng ngành nghề thuộc mọi lĩnh vực trong đời sống
trong đó có các nhóm ngành nghề cơ bản như: nhóm ngành kinh tế-pháp lý,
kỹ thuật-công nghệ, khối sư phạm, khối khoa học xã hội, nhóm ngành nông –
lâm – ngư, khối khoa học tự nhiên, nhóm ngành văn hoá – nghệ thuật – thể


9

dục thể thao… Cơ cấu, tỷ trọng của các nhóm nghề được Nhà nước định
hướng, điều tiết theo định hướng phát triển kinh tế xã hội và thay đổi theo nhu
cầu nguồn nhân lực của xã hội. Khung chương trình đào tạo, thời gian đào tạo
cũng được Nhà nước quy định cụ thể trong luật giáo dục, tuy nhiên bản thân
các trường có sự thay đổi điều chỉnh theo hướng phát triển, điều kiện cơ sở
vật chất cũng như tạo sự khác biệt về thương hiệu, chất lượng các trường. Đặc
biệt, trong thời đại công nghệ thông tin các phương pháp giảng dạy ngày càng
hiện đại, áp dụng các công cụ máy tính, công nghệ kỹ thuật mới vào giảng
dạy góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, các phương pháp hình thức đào
tạo như đào tạo tín chỉ, đào tạo từ xa, liên kết đào tạo, đào tạo chính quy, đào
tạo vừa học vừa làm,…Do đó thời gian học của sinh viên thường linh hoạt,
chủ động, sinh viên có thể không cần lên lớp, ở bậc học này phần lớn huy
động tinh thần tự học của sinh viên.
• GDĐH được xem là một loại dịch vụ, một loại hàng hóa vừa có tính chất

tập thể (do Nhà nước và công chúng quyết định) vừa có tính chất thị
trường (do thị trường quyết định). GDĐH ngày càng phát triển, thay đổi
linh hoạt theo nhu cầu của xã hội. GDĐH vừa là một ngành kinh tế vừa là
nơi giáo dục và đào tạo nhân lực cho phần còn lại của nền kinh tế.
Tính chất tập thể: dịch vụ GDĐH được coi là một hàng hóa công không
thuần túy bởi việc tiêu dùng nó bị loại trừ bằng giá (học phí), việc sử dụng là
có điều kiện (ví dụ, thi đỗ mới được học), mặt khác, là loại có chất lượng biến
thiên rất cao và rất khó đánh giá/kiểm soát, người sử dụng rất dễ bị đánh lừa.
Ở phần lớn các quốc gia đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, dịch vụ
GDĐH do Nhà nước cung cấp là chủ yếu. Nhà nước ban hành các quy định,
chính sách về việc thành lập cơ cấu tổ chức các cơ sở giáo dục đại học,
chương trình đào tạo, ngành nghề đào tạo, các quy định về chất lượng… Hiện
nay, khi mà có sự tham gia của khu vực tư nhân trong việc cung cấp dịch vụ
GDĐH thì Nhà nước không chỉ đóng vai trò cung cấp dịch vụ mà còn phải
điều tiết, can thiệp tạo sự phát triển đồng đều giữa khu vực công và khu vực
tư. Những can thiệp đó có thể là chống cạnh tranh không hoàn hảo liên quan
chủ yếu đến vấn đề độc quyền, độc quyền sẽ làm giảm thấp hiệu quả giáo dục
và người tiêu dùng chỉ được phục vụ tồi.


10

Tính chất thị trường: GDĐH tạo ra cung về môi trường học tập và cung
về nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, nhu
cầu nguồn nhân lực của xã hội. Ở Việt Nam, GDĐH có cung thấp – cầu cao,
số tổ chức đào tạo ít mà dịch vụ của họ lại không giống nhau (tính chất và
chất lượng khác nhau), nghĩa là dễ có biểu hiện độc quyền ở dạng chỉ có một
số ít người bán sản phẩm mà đặc trưng sản phẩm lại khác nhau. Hiện nay, do
ảnh hưởng của xu thế thị trường hóa, toàn cầu hóa, tư nhân hóa GDĐH dần
mang tính chất thị trường, không chỉ được cung cấp bởi Nhà nước mà còn có

sự tham gia đóng góp của các cá nhân, tổ chức khác nhau trong xã hội và có
sự liên kết, đầu tư của nước ngoài. Chính vì thế đã tạo ra một thị trường cạnh
tranh lớn giữa các trường công và trường tư. Do tính cạnh tranh cao đòi hỏi
các trường phải có những chiến lược phát triển phù hợp, nâng cao chất lượng
đào tạo hơn nữa,…nếu không sẽ dẫn đến tình trạng không tuyển sinh được,
thậm chí có nguy cơ tan rã. Mặt khác, GDĐH chịu ảnh hưởng lớn bởi thị
trường về nhu cầu nguồn nhân lực của xã hội. Bởi GDĐH trực tiếp đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội ở tất cả các ngành nghề, lĩnh vực,
khi xã hội có sự chuyển dịch về cơ cấu ngành nghề phát triển, nhu cầu tăng
giảm về nguồn nhân lực thì GDĐH cũng có sự chuyển mình, thay đổi theo sự
biến động của thị trường.
1.1.2. Vai trò của giáo dục đại học.


Trong hệ thống giáo dục

Tổ chức UNESCO đã tổng kết hệ thống giáo dục các nước đều có các
bậc học cơ bản sau:


Giáo dục mầm non (bậc 0).

Giáo dục mầm non có vai trò quan trọng trong quá trình học tập và phát
triển của một đứa trẻ. Giáo dục mầm non khuyến khích sự phát triển về tình
cảm, thúc đẩy sự quan tâm và trí tưởng tượng của trẻ em. Nó giúp trẻ em giao
tiếp một cách tốt hơn, tự tin hơn, nhiệt tình và mong muốn sau này trở thành
người thành công trong cuộc sống. Thái độ và năng khiếu của trẻ sẽ được phát
triển trong những năm này để có thể đạt được thành công trong giai đoạn sau
của cuộc đời mình.



11



Tiểu học (bậc 1).

Giáo dục tiểu học có vai trò đặt nền tảng cho việc học tập các kiến thức
khó hơn của các bậc học sau. Ở hầu hết các quốc gia, đây là hình thức giáo
dục bắt buộc với trẻ vị thành niên. Ở bậc học này học sinh được trang bị các
kỹ năng cơ bản về đọc, viết và toán cần thiết.


Giáo dục trung học gồm: Trung học cơ sở ( bậc 2) và trung học phổ
thông ( bậc 3).

Giáo dục trung học là giai đoạn giáo dục sau tiểu học. Giáo dục trung
học thường là giai đoạn cuối cùng của giáo dục bắt buộc. Giáo dục trung
học được đặc trưng bởi sự chuyển đổi từ giáo dục bắt buộc toàn diện cho
trẻ vị thành niên sang giai đoạn tùy chọn, chọn lọc, hậu trung học hay cao
hơn. Chương trình giảng dạy của giáo dục trung học chủ yếu tập trung phát
triển các kỹ năng học tập trong nghệ thuật ngôn ngữ, khoa học, toán học và
nhân văn.


Sau trung học ( bậc 4).

Tầm quan trọng của giáo dục sau trung học đã tăng đáng kể trong thập
kỷ qua. Chương trình học ở cấp này được mở rộng hơn so với giáo dục trung
học nhưng lại chưa đạt đến trình độ giáo dục đại học. Thông thường chương

trình giáo dục này được thiết kế để chuẩn bị cho học sinh nền tảng để tiếp tục
học tập cao đẳng, đại học hoặc các chương trình tập trung đào tạo năng lực
hoạt động nghề nghiệp.


Giai đoạn đầu của giáo dục đại học ( bậc 5).

Mục tiêu của bậc giáo dục này chủ yếu theo hướng giáo dục thực hành,
kỹ thuật công nghệ.


Giai đoạn hai của giáo dục đại học (bậc 6).

Mục tiêu của bậc giáo dục này chủ yếu là đào tạo chuyên gia có độ cao
theo hướng nghiên cứu.


12

Theo luật Giáo dục 2005 ta có sơ đồ hệ thống giáo dục Việt Nam:
4. GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
SAU ĐẠI HỌC

Đào tạo tiến sĩ
2-3 năm

Cao học
2 năm

- Cao đẳng

(3 năm)
- Cao đẳng nghề
( 2 năm)

Đại học
(4-6 years)

18 tuổi

Giáo

Dục
2. GD PHỔ THÔNG

3. GD NGHỀ NGHIỆP
không

18 tuổi
15 tuổi

Trung cấp chuyên nghiệp - Trung cấp nghề
- Sơ cấp nghề
(2-4 năm)

Trung học
phổ thông
( phân ban )

15 tuổi
11 tuổi

11 tuổi
6 tuổi

chính

(3 năm)
quy

6 tuổi
3 tuổi
3 tuổi
3-4 thán

Trung học cơ sở
(4 năm)
Tiểu học (5 năm)

1. GIÁO DỤC MẦM NON

Mẫu giáo (3 năm)

Nhà trẻ (1 năm)

Hình 1.1: Cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam
(Luật GD 2005)


13

Từ đó cho thấy GDĐH là một phần của hệ thống liên tục bắt đầu từ

giáo dục mẫu giáo tiểu học và giáo dục thường xuyên suốt đời. GDĐH là bậc
học cao nhất trong hệ thống giáo dục của mỗi quốc gia có vai trò hoàn thiện
tri thức và kỹ năng cho người học. Nếu coi việc giáo dục con người là việc
xây một tòa nhà, giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học giống như việc xây
dựng nền móng đặt nền tảng cho việc học tập các kiến thức khó hơn, hình
thành nhân cách; các bậc học giáo dục trung học là việc xây dựng các tầng
cao hơn, giúp phát triển các kỹ năng học tập trong nghệ thuật ngôn ngữ, khoa
học, toán học. Và cuối cùng giáo dục đại học là việc xây dựng tầng cao nhất,
là cái mái của tòa nhà. GDĐH không chỉ giúp người học hoàn thiện củng cố
kiến thức của các cấp học trước mà còn mở mang tri thức, tiếp thu những
không ngừng những tri thức mới của nhân loại, rèn luyện các kỹ năng thực
hành, kỹ năng công nghệ, nghiên cứu và nhiều kỹ năng thực tế khác, tạo hành
trang đầy đủ cho người học để có thể bước vào cuộc sống tự lập, góp phần
xây dựng kinh tế- xã hội đất nước.


GDĐH tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần nâng cao năng
suất lao động, tăng thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo.

Mục tiêu của bậc GDĐH chủ yếu là theo hướng giáo dục thực hành, kỹ
thuật công nghệ, GDĐH tạo ra các cơ hội cho học tập suốt đời, cho phép con
người cập nhập các kiến thức và kỹ năng thường xuyên theo nhu cầu của xã
hội. Do đó GDĐH đóng vai trò là “hệ thống nuôi dưỡng” (feeder system),
“một xí nghiệp tri thức” của mọi lĩnh vực trong đời sống, là nguồn cung cấp
nhân lực tối cần thiết để phục vụ các công tác quản lý, quy hoạch, thiết kế,
giảng dạy và nghiên cứu. GDĐH tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao có kỹ
năng thực hành nghề nghiệp, khả năng tư duy logic, sáng tạo, có ý thức trách
nhiệm cao, có khả năng tiếp thu công nghệ mới từ đó nâng cao năng suất lao
động, thúc đẩy tăng trường kinh tế. GDĐH tạo ra môi trường học tập, nghiên
cứu, sáng tạo tạo điều kiện cho sinh viên, giảng viên phát triển năng lực của

bản thân, sáng tạo ra khoa học công nghệ, ứng dụng vào thực tế đời sống sản
xuất. Năng suất lao động tăng tạo tiền đề tăng thu nhập cho doanh nghiệp và
bản thân người lao động.


14

Mặt khác, một thực tế thường thấy là những người đi học nhiều thường
có thu nhập cao hơn những người đi học ít. Người đã tốt nghiệp tiểu học
thường kiếm sống tốt hơn người thất học; người được học hết trung học
thường có thu nhập cao hơn những người khác mới chỉ học xong tiểu học; và
những người học đại học thì kiếm sống tốt hơn những người chỉ tốt nghiệp
trung học. Tuy xu hướng này không phải lúc nào cũng đúng trong thực tế
nhưng nhìn chung nếu tính trung bình, xu hướng này vẫn luôn đúng. Người
tuyển dụng lao động luôn có sự phân biệt về mức đãi ngộ, mức lương của
người lao động. Trình độ giáo dục chính là tiêu chuẩn và căn cứ để doanh
nghiệp lựa chọn, tuyển dụng và trả lương cho người lao động. Các cá nhân có
trình độ giáo dục cao thường được doanh nghiệp trả mức lương cao hơn, vì
khi sử dụng lao động có trình độ cao hơn doanh nghiệp có thể giảm được
phần nào chi phí đào tạo lại lao động đồng thời năng suất lao động của họ
cũng cao hơn. GDĐH là bậc giáo dục cao nhất trong hệ thống giáo dục, do đó
lao động có trình độ đại học thường sẽ được trả lương cao hơn do đó thu nhập
của bản thân được nâng cao, góp phần nâng cao thu nhập cho toàn xã hội.
GDĐH góp phần nâng cao thu nhập của người lao động do đó góp
phần xóa đói giảm nghèo. Mặt khác, sinh viên khi tốt nghiệp giáo dục đại
học sẽ có đủ kiến thức, năng lực tư duy, khả năng dự báo, thích ứng với
những thay đổi của nền kinh tế…ngoài việc lao động trong các doanh
nghiệp, cơ quan còn có thể tự tạo ra con đường phát triển của riêng mình,
làm giàu tại chính quê hương mình, không chỉ nâng cao thu nhập cho bản
thân và gia đình còn tạo công ăn việc làm nâng cao thu nhập mức sống cho

người dân địa phương…


GDĐH góp phần nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế.

Vào thời kỳ của những thế kỷ trước, khi lao động thủ công đóng vai trò
chủ yếu, thì các yếu tố lao động và đất đai đóng vai trò động lực. Nếu biết kết
hợp đúng đắn lao động và đất đai thì của cải sẽ sinh sôi, nảy nở. Chính vì vậy
mà nhà kinh tế học Adam Smit đã nhận định: Đất đai là mẹ, lao động là cha.
Đến thời kỳ cách mạng công nghiệp, lao động, vốn, kĩ thuật và phương pháp
quản lý được xem là những yếu tố chủ chốt của tăng trưởng kinh tế. Trong


15

thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại với sự tiến đến
nền văn minh trí tuệ, đến các xã hội thông tin, trong đó thông tin trở thành
nguồn tài nguyên quan trọng của mọi quốc gia, việc tin học hóa tạo nên
những chuyển biến nhanh chống về lượng cũng như về chất của nền kinh tế
thế giới, thì con người được vũ trang bằng tri thức hiện đại sẽ là động lực cơ
bản của sự phát triển. Trí tuệ trở thành yếu tố hàng đầu thể hiên quyền lực và
sức mạnh của một quốc gia.
Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, các ngành sản xuất chủ yếu như:
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học mới, công nghệ năng lượng mới,
công nghệ vật liệu mới, khoa học công nghệ không gian (hay còn gọi là khoa
học công nghệ vũ trụ), khoa học kỹ thuật hải dương, công nghệ phần mềm,…
sẽ ra đời và phát triển để dần dần trở thành những ngành sản xuất chủ yếu, tạo
ra những sản phẩm mang hàm lượng trí tuệ cao để đáp ứng cho việc thỏa mãn
nhu cầu ngày càng cao của con người. Đây là những ngành đòi hỏi nguồn lao
động chất lượng cao, mà chỉ có giáo dục đại học mới có thể đào tạo ra những

con người năng động, sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh, có khả
năng cao trong vận dụng tri thức, nhanh chóng biến tri thức thành giá trị, biến
tri thức thành của cải vật chất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do kinh tế tri thức
đặc biệt cần những con người có năng lực tạo ra tri thức mới để đóng góp cho
việc phát triển con người và phát triển xã hội theo chiều hướng tiến bộ, nên
giáo dục đại học đóng vai trò tạo ra tri thức mới chứ không dừng lại ở việc
truyền đạt những tri thức đã tích lũy được.
Như vậy, trong nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực chất lượng cao tạo
ra lợi thế cạnh tranh giữa các quốc gia, các nền kinh tế. Quốc gia nào càng có
nguồn lực lớn về lao động chất lượng cao thì quốc gia đó càng có tiềm lực
phát triển kinh tế, khoa học công nghệ, tạo ra những giá trị tri thức mới, tạo ra
thế mạnh cho quốc gia. Đặc biệt trong chỉ số kinh tế tri thức (KEI) được WB
xác lập để có thể định lượng được trình độ phát triển kinh tế tri thức của các
quốc gia, GDĐH có đóng góp không nhỏ trong bốn tiêu chí đánh giá, GDĐH
phát triển góp phần nâng cao tiêu chí giáo dục và nguồn nhân lực và ICT
(công nghệ thông tin và truyền thông). Do đó, GDĐH phát triển góp phần


16

nâng cao chỉ số kinh tế tri thức của các quốc gia, chỉ số này càng cao chứng tỏ
nền kinh tế tri thức của quốc gia phát triển.


GDĐH góp phần nâng cao phát triển con người.

Theo UNDP, phát triển con người là một quá trình nhằm mở rộng khả
năng lựa chọn của dân chúng. Sự lựa chọn của dân chúng được đánh giá cao
bao gồm sự tự do kinh tế, xã hội, chính trị để con người có được các cơ hội
trở thành người lao động sáng tạo, có năng suất, được tôn trọng cá nhân và

được đảm bảo quyền con người.
Theo đó, ta thấy GDĐH tạo ra các cơ hội cho học tập suốt đời, cho
phép con người cập nhập các kiến thức và kỹ năng thường xuyên theo nhu
cầu của xã hội, tạo cơ hội cho con người được học tập những ngành nghề
mong muốn, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao có hiểu biết, kỹ năng, góp
phần nâng cao năng suất lao động, nâng cao thu nhập. Hơn nữa, học càng cao
thì con người càng cảm thấy tự tin, hiểu biết hơn về các vấn đề văn hóa, xã
hội, chính trị, pháp luật… được tôn trọng cá nhân và có khả năng tự nhận biết,
bảo vệ bản thân về các quyền con người.
Các thước đo phát triển con người, đặc biệt chỉ số phát triển con người
(HDI) phát triển con người được phản ánh qua ba khía cạnh: năng lực tài
chính (thu nhập), năng lực trí lực (giáo dục) và năng lực thể lực (y tế và chăm
sóc sức khỏe). GDĐH tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần làm
tăng thu nhập, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế qua đó nâng cao năng lực tài
chính của mỗi quốc gia. Mặt khác, GDĐH phát triển làm tăng số năm tới
trường và số năm kỳ vọng tới trường, từ đó làm tăng chỉ số giáo dục. Như
vậy, GDĐH phát triển góp phần nâng cao chỉ số HDI của mỗi quốc gia.


Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực có chất lượng cao
về trí tuệ và kỹ năng đã trở thành lợi thế quyết định đối với mỗi quốc
gia. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đặc biệt trong giáo dục đại
học nhằm đáp ứng những đòi hỏi mới này trở thành quốc sách hàng
đầu của nhiều quốc gia trên thế giới. Giáo dục đại học cung cấp nguồn
nhân lực và nhân tài cho sự phát triển khoa học và công nghệ, cho sự
hình thành và phát triển của xã hội thông tin và tạo nguồn trí lực cho


17


nền kinh tế tri thức và sự phát triển khoa học-công nghệ cũng tạo ra
phương tiện mới giúp cho quá trình giáo dục hiệu quả hơn. Trong hợp
tác và cạnh tranh kinh tế, thương mại và khoa học-công nghệ, thì giáo
dục trở nên bí quyết thành công của các quốc gia. GDĐH góp phần
nâng cao thu nhập, thúc đẩy phát triển kinh tế và phát triển con người ở
mỗi quốc gia. GDĐH trở thành một trong những trụ cột quan trọng
trong phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
1.2. Giáo dục đại học ngoài công lập.
Theo Luật giáo dục đại học 2012, giáo dục đại học ngoài công lập chỉ
còn tồn tại hình thức giáo dục đại học tư thục, các cơ sở giáo dục đại học dân
lập trước đây sẽ dần chuyển sang tư thục.
Đại học tư thục là các cơ sở giáo dục đại học thuộc sở hữu của tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân, do
tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá
nhân đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất.
Mặt khác, trong Luật giáo dục đại học 2012 thừa nhận sự phân biệt
giữa đại học tư thục vì lợi nhuận và không vì lợi nhuận. Cơ sở giáo dục đại
học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động
không vì lợi nhuận là cơ sở giáo dục đại học mà phần lợi nhuận tích lũy hằng
năm là tài sản chung không chia, để tái đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại
học; các cổ đông hoặc các thành viên góp vốn không hưởng lợi tức hoặc
hưởng lợi tức hằng năm không vượt quá lãi suất trái phiếu Chính phủ.
1.3. Phát triển giáo dục đại học ngoài công lập.
1.3.1. Phát triển.
Theo C.Mác – Lênin, khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận
động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp đến
trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, khái niệm phát triển
không đồng nhất với khái niệm vận động nói chung; đó không phải là sự biến
đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng, hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi
lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện

của sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn.


18

Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi
sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển
không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở những không gian và thời gian khác
nhau sự vật sẽ phát triển khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển của
mình, sự vật còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá
trình khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có
thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí có thể làm cho sự
vật thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa ở
mặt khác…
Phát triển của một sự vật, hiện tượng nói chung gồm hai quá trình cơ
bản là:



Sự lớn lên của sự vật hiện tượng (thay đổi về lượng).
Quá trình thay đổi của sự vật hiện tượng (thay đổi về chất).

1.3.2. Phát triển giáo dục đại học ngoài công lập.
1.3.2.1. Khái niệm
Phát triển giáo dục đại học ngoài công lập được hiểu là sự gia tăng về
mặt lượng của các trường đại học ngoài công lập và tăng lên chất lượng giáo
dục đại học của các trường này.
1.3.2.2. Nội dung phát triển.
Phát triển về lượng là sự tăng lên về quy mô các trường đại học ngoài
công lập, số lượng trường, số lượng sinh viên, các ngành nghề đào tạo,…

Ở đây, ta xem xét sự phát triển về chất lượng của giáo dục đại học
ngoài công lập là tập trung đánh giá xem các trường đại học ngoài công
lập đào tạo có tốt không? Điều đó được phản ánh qua kết quả học tập của
sinh viên (% sinh viên đạt các mức giỏi, khá), thành tích nghiên cứu khoa
học của trường ( số công trình nghiên cứu, số giải thưởng NCKH) hay sự
đánh giá của nhà tuyển dụng đối với sinh viên tốt nghiệp các trường ngoài
công lập…
1.4. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển của giáo dục đại học ngoài công
lập.


19

1.4.1.Sự gia tăng số lượng trường.
Sự gia tăng số lượng trường là tiêu chí phản ánh sự tăng lên về số
lượng các trường đại học ngoài công lập của một vùng, một quốc gia nhất
định, trong một thời gian nhất định (thường là một năm).
Trên cơ sở số liệu thống kê, để đánh giá sự gia tăng số lượng trường ta
sử dụng hai chỉ số cơ bản là tốc độ tăng của các trường đại học ngoài công lập
và tỷ lệ trường đại học ngoài công lập trong tổng số trường đại học trên cả
nước.
Tốc độ tăng (%) = *100
Trong đó:
Yt là số lượng trường đại học ngoài công lập năm t.
Y(t-1) là số lượng trường đại học ngoài công lập năm t-1.
Tỷ lệ trường ĐH NCL (%) = * 100
Tiêu chí này giúp đánh giá sự phát triển của hệ thống các trường đại
học ngoài công lập về mặt số lượng, cho biết quy mô số lượng, tốc độ tăng
quy mô trường. Khi đem so sánh số lượng trường đại học ngoài công lập so
với tổng số trường đại học trên cả nước sẽ cho ta cái nhìn tổng quát để đánh

giá xem sự phát triển này đã đạt được mục tiêu kế hoạch đạt ra chưa, cũng
như là công cụ so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới.
1.4.2. Sự gia tăng số lượng sinh viên.
Sự gia tăng số lượng sinh viên là sự tăng lên về số lượng sinh viên
các trường đại học ngoài công lập trong một thời gian nhất định (thường là
một năm).
Ta cũng xem xét tiêu chí này qua hai chỉ số là tốc độ tăng và tỷ lệ sinh
viên ngoài công lập.
Tốc độ tăng (%) = *100
Trong đó: Zt, Z(t-1) là số lượng sinh viên ngoài công lập năm t và năm t-1
Tỷ lệ sinh viên ngoài công lập (%) = *100
Tiêu chí này giúp đánh giá số sinh viên NCL tăng hay giảm? Tỷ lệ sinh
viên ngoài công lập so sánh với mục tiêu kế hoạch đặt ra đã đạt chưa? Cũng


20

như so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới để có định hướng
phát triển phù hợp hơn.
1.4.3. Sự gia tăng ngành nghề đào tạo.
Các trường đại học ngoài công lập thành lập với vai trò là giảm gánh nặng
cho các trường công và ngân sách nhà nước, đồng thời đáp ứng nhu cầu của
thị trường, tập trung đào tạo những ngành nghề thị trường đang thiếu. Ở đây,
ta xem xét trường đại học ngoài công lập đầu tiên thành lập với những ngành
nghề nào? Và cho đến nay các trường ngoài công lập đào tạo bao nhiêu ngành
nghề từ đó ta có sự gia tăng các ngành nghề như thế nào? Tốc độ gia tăng?
Bên cạnh số lượng các ngành nghề đào tạo, ta phải quan tâm các ngành nghề
mà các trường đại học NCL đào tạo có đáp ứng được tiêu chuẩn chuyên môn
của ngành nghề đó không?
1.4.4. Kết quả học tập của sinh viên.

Nếu như giảng viên và các nguồn lực tài chính có ảnh hưởng quan
trọng tới chất lượng giáo dục thì các khảo sát về thành tích học tập của sinh
viên lại cung cấp một thước đo trực tiếp về chất lượng. Kết quả học tập của
sinh viên cao thường là kết quả của việc được học tập trong điều kiện thuận
lợi về cơ sở vật chất, được giảng dạy bởi các giảng viên có trình độ cao, được
học tập trong môi trường tốt thuận lợi cho việc học tập và nghiên cứu, phương
pháp giảng dạy hiệu quả khích thích được tinh thần học tập, sáng tạo của sinh
viên… Từ đó có thể cho thấy kết quả học tập của sinh viên cao phản ánh chất
lượng đào tạo của nhà trường tốt, và ngược lại. Tuy nhiên điều này chỉ mang
tính chất tương đối vì kết quả học tập của sinh viên phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác nhau trong đó có bản thân của sinh viên. Một số các chỉ tiêu về thành
tích học tập của sinh viên thường sử dụng như:



Kết quả học tập cuối cùng của sinh viên (tỷ lệ giỏi, khá, trung bình…)
Tỷ lệ hoàn thành bậc học đại học (tỷ lệ lưu ban, tỷ lệ tốt nghiệp…)

Tuy nhiên, bất cập của chỉ tiêu này là thường chỉ đánh giá kết quả đầu ra tính
toán được của quá trình học tập chứ không đánh giá được tác động rộng lớn
của toàn bộ quá trình học tập ở trường.
1.4.5. Kết quả nghiên cứu khoa học của các trường ngoài công lập.


21

Nghiên cứu khoa học (NCKH) là sức sống của một trường đại học, việc
NCKH không những củng cố kiến thức đã học mà còn phát huy tính năng
động, sáng tạo trong tiếp cận các vấn đề khoa học, khám phá các giải pháp
công nghệ phù hợp để giải quyết những vấn đề đáp ứng nhu cầu thực tế. Hoạt

động NCKH góp phần quan trọng vào việc nâng cao trình độ khoa học của
giảng viên, tăng cường hiểu biết thực tế để vận dụng vào quá trình giảng dạy,
nâng cao chất lượng đào tạo, đồng thời khẳng định vị thế và uy tín của trường
với xã hội. Kết quả của các đề tài cấp nhà nước, cấp bộ... đã góp phần giải
quyết nhiều vấn đề đặt ra của xã hội. Từ nhiều nhiệm vụ NCKH và CGCN,
mối quan hệ giữa nhà trường và các đơn vị sản xuất đã được gắn kết, mang lại
hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn. Nhiều đề tài còn trở thành tiền đề cho quá
trình đào tạo sau đại học rất hiệu quả. Thông qua NCKH, sinh viên sẽ tạo cho
mình khả năng làm việc độc lập, thói quen nghiên cứu tìm tòi, sáng tạo trong
quá trình học tập và công tác sau này. NCKH sẽ thực sự trở thành nguồn động
lực, gây dựng những ước mơ, hoài bão để sinh viên trở thành những cán bộ
khoa học tương lai.
Vì vậy, thành tích NCKH là một tiêu chí quan trọng đánh giá chất
lượng đào tạo của các trường đại học NCL. Ta có thể đánh giá tiêu chí này
qua một số chỉ tiêu như: số lượng các công trình nghiên cứu, chất lượng các
công trình nghiên cứu và số giải thưởng NCKH của các trường NCL. Trường
càng có nhiều công trình nghiên cứu, chất lượng các công trình nghiên cứu
được đánh giá cao và đạt nhiều giải thưởng NCKH cho thấy trường có chất
lượng đào tạo tốt, có đội ngũ giảng viên có trình độ và khả năng nghiên cứu
cao, cở sở vật chất đầy đủ,… tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên nghiên cứu
khoa học.
1.4.6. Đánh giá của nhà tuyển dụng.
Vai trò và nhiệm vụ của giáo dục đại học nói chung và các trường đại
học ngoài công lập nói riêng là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục
vụ cho quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, mà các nhà tuyển
dụng là những người trực tiếp sử dụng nguồn nhân lực đó. Do đó đánh giá của


22


các nhà tuyển dụng là tiêu chí cần thiết để phản ánh chất lượng đào tạo của
các trường ngoài công lập, thể hiện qua sự đánh giá của người tuyển dụng đối
với sinh viên, người lao động tốt nghiệp các trường NCL về trình độ chuyên
môn, kỹ năng thực hành, các kỹ năng khác…
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của giáo dục đại học ngoài
công lập.
1.5.1. Chính sách của Nhà nước.
Giáo dục đại học hay bất kì chủ thể, hoạt động kinh tế, xã hội nào cũng
hoạt động trong khuôn khổ của thể chế, luật pháp của một quốc gia, vùng lãnh
thổ. Do đó giáo dục đại học đặc biệt giáo dục đại học ngoài công lập chịu ảnh
hưởng rất lớn của luật pháp. Những quy định, chính sách do Nhà nước ban
hành có thể tác động theo hai hướng hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển của giáo dục đại học ngoài công lập.
Có nhiều quy chế, chính sách tác động đến sự phát triển của giáo dục
đại học ngoài công lập, có thể là tác động trực tiếp hoặc tác động gián tiếp.
Trong đó có thể kể đến một số chính sách cụ thể sau:
1.5.1. Chính sách xã hội hóa và tư nhân hóa giáo dục đại học.
Trên thế giới hiện nay, giáo dục đại học đang chuyển dần từ giáo dục
tinh hoa (cho 1 số ít người), sang giáo dục đại chúng (cho số đông mọi
người). Lúc này, một khó khăn lớn đối với hầu hết các nước là ngân sách
quốc gia không thể bao cấp cho giáo dục đại học. Nguồn lực đặc biệt là nguồn
lực tài chính công tính theo đầu sinh viên ở giáo dục đại học đã bị giảm xuống
một cách khá rõ ràng. Do đó chính sách xã hội hóa và tư nhân hóa trong giáo
dục đại học là xu thế tất yếu trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên quan niệm xã
hội hóa và tư nhân hóa ở các nước khác nhau không đồng nhất, nhưng có một
số đặc trưng cơ bản là: làm cho đại học có thể đến được với mọi người, làm
cho mọi người trong xã hội được bình đẳng về cơ hội có giáo dục đại học, đa
dạng hóa các loại hình nhà trường, các hình thức giáo dục để huy động các
nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách cho giáo dục đại học, ở đây ta phải làm rõ
vai trò của Nhà nước trong giáo dục đại học các nước. Chính sách này đã góp



23

phần tạo điều kiên, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống các trường đại học
ngoài công lập ở các nước trên thế giới.
1.5.1.2. Chính sách về chất lượng GDĐH.
Chất lượng giáo dục đại học là vấn đề được tất cả các quốc gia quan
tâm hàng đầu. Chất lượng giáo dục là vấn đề khó xác định nên việc xây dựng
bộ tiêu chí, các quy định về chất lượng để đánh giá được chính xác và tổng
hợp về chất lượng GDĐH là một việc không hề dễ dàng. Trên thế giới, có rất
nhiều quan niệm, tiêu chuẩn về chất lượng khác nhau, do đó sẽ có tác động
khác nhau đến sự phát triển của giáo dục đại học ngoài công lập.
Nếu các quy định về chất lượng rõ ràng, đầy đủ, đứng trên quan điểm
của cả người học và nhà trường, hài hòa lợi ích cả hai bên thì sẽ là kim chỉ
nam cho các trường, các cơ quan trong quá trình thực hiện và đánh giá được
hiệu quả, kích thích các trường hoạt động phát triển một cách lành mạnh.
Mặt khác, nếu các quy định này chỉ mang tính chất chung chung, không
cụ thể rõ ràng, không phù hợp với hoàn cảnh thực tế hoặc quá khắt khe thì
không những không kiểm soát được mà còn kích thích cách làm dối trá, kìm
hãm sự phát triển của các trường.
1.5.1.3. Chính sách quy định về quyền sở hữu, quản trị, tài chính, các quy
định về tuyển sinh, đào tạo.
Các chính sách này xuất phát từ mục đích tốt tạo cơ chế thực hiện cho
các trường từ khi thành lập đến các hoạt động đào tạo sau này. Nhưng trong
quá trình xây dựng và thực hiện, nếu các chính sách này không rõ ràng, nhất
quán, không công bằng giữa trường công và trường tư sẽ tạo ra khó khăn và
kìm hãm sự phát triển của các trường NCL.



24

1.5.2. Các nhân tố bên trong các trường đại học ngoài công lập.
Trong cùng một môi trường, một thể chế chính sách, có trường thì rất
thành công nhưng có trường lại luôn trong tình trạng khó khăn, thì câu trả lời
là do chính bản thân trường đó. Có nhiều yếu tố trong các trường tạo nên sự
khác biệt đó, trong đó có thể đến một số nhân tố chính sau.
1.5.2.1. Cơ sở vật chất của các trường đại học ngoài công lập.
Cơ sở vật chất là yếu tố tạo đầu vào của hoạt động giáo dục. Các cơ sở
vật chất tác động đến hoạt động giảng dạy có thể kể đến là: phòng học, phòng
thí nghiệm, phòng thực hành, thư viện, máy tính, các thiết bị dạy học, giáo
trình,… Cơ sở vật chất đầy đủ là yếu tố thuận lợi tạo điều kiện tốt cho các
hoạt động giáo dục của nhà trường, cũng như tạo một môi trường học tập,
nghiên cứu thuận lợi cho sinh viên, tạo sự hứng thú trong học tập,… do đó tác
động đến kết quả học tập của sinh viên và chất lượng đào tạo của nhà trường.
1.5.2.2. Đội ngũ giảng viên của các trường đại học ngoài công lập.
Đội ngũ giảng viên được thể hiện thông qua số lượng và chất lượng
giảng viên. Mỗi khía cạnh sẽ có tác động khác nhau đến sự phát triển của giáo
dục đại học nói chung và giáo dục đại học ngoài công lập nói riêng.
Số lượng giảng viên ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu học tập
của nhà trường. Số lượng giảng viên càng lớn thì khả năng đáp ứng nhu cầu
học tập càng cao. Khi xét số SV/GV sẽ cho ta đánh giá tổng quát hơn nữa,
xem số lượng giảng viên đã đảm bảo yêu cầu chưa. Đặc biệt trong đội ngũ
giảng viên, cơ cấu giảng viên cơ hữu và giảng viên thỉnh giảng cũng rất quan
trọng. Giảng viên cơ hữu càng lớn thì việc dạy học ở các trường càng mang
tính ổn định hơn.
Trình độ giảng viên sẽ tác động đến quá trình giảng dạy và nghiên cứu
của các trường. Giảng viên có trình độ cao không chỉ có kiến thức sâu rộng
trong lĩnh vực giảng dạy, có am hiểu thực tế, mà thường có kinh nghiệm
giảng dạy lâu năm, có khả năng truyền đạt kiến thức tốt, khả năng nghiên cứu

thành thục, độc lập và chất lượng các nghiên cứu cao. Vì thế, chất lượng đội
ngũ giảng viên của trường càng cao thì chất lượng giảng dạy, nghiên cứu của


25

trường càng cao, do đó vị thế của trường sẽ ngày càng được khẳng định và
nâng cao là tiền đề cho sự phát triển của các trường đại học NCL.
Ngoài ra, có thể xem xét hoạt động NCKH của giảng viên. NCKH tạo
điều kiện cho giảng viên đào sâu kiến thức chuyên môn, cập nhật những
thông tin thực tế về ngành nghề giảng dạy, hoàn thiện các kỹ năng nghiên
cứu, sáng tạo,…phục vụ cho quá trình giảng dạy. NCKH tạo cơ sở, điều kiện,
tiền đề nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy ở trên lớp do đó góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo của các trường.
1.5.2.3. Cơ cấu tổ chức, quản lý và năng lực tài chính của trường.
Một Nhà nước hoạt động tốt một phần quan trọng là do cơ cấu tổ chức,
bộ máy hoạt động hiệu quả, một nhà trường tốt cũng bởi có cơ cấu tổ chức,
quản lý tốt.
Đặc biệt các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập thành lập, hoạt
động tư nguồn vốn ngoài ngân sách do đó năng lực tài chính ảnh hưởng rất
lớn đến sụ hoạt động phát triển của trường. Nguồn vốn đầu tư ban đầu nhiều
hay ít sẽ quyết định đến quy mô trường, cơ sở vật chất giảng dạy, thuê giảng
viên…từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến chât lượng giảng dạy. Mặt khác trong
quá trình hoạt động, nguồn thu từ học phí của sinh viên nếu được sử dụng
đúng cách sẽ tạo ra hiệu quả tốt, điều đó ảnh hưởng bởi năng lực tài chính của
mỗi trường.
1.5.3. Sự phát triển giáo dục đại học công lập.
Trong hệ thống giáo dục đại học các nước, giáo dục đại học công lập
được coi là thị trường cạnh tranh lớn của giáo dục đại học ngoài công lập. Các
trường công lập phần lớn được Nhà nước quan tâm, đầu tư bằng nguồn Ngân

sách nhà nước, còn các trường ngoài công lập phải tự trang trải bằng nguồn
vốn ngoài ngân sách dẫn đến tình trạng học phí ở các trường ngoài công lập
cao hơn các trường công lập, chính điều này đã tạo ra thế cạnh trạnh không
công bằng cho các trường ngoài công lập. Khi các trường công lập càng phát
triển, trong khi các trường ngoài công lập phát triển chưa ổn định, chưa tạo
được uy tín, thương hiệu của mình thì sự phát triển của các trường công lập sẽ
tạo ra khó khăn, kìm hãm sự phát triển các trường ngoài công lập. Do đó đòi


×