Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.02 KB, 45 trang )

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
Dẫn nhập: Từ phần lý luận đã phân tích ở trên trong chương này sẽ tìm hiểu
hoạt động của công ty dưới 2 vấn đề huy động vốn và sử dụng vốn. Vấn đề sử
dụng vốn sẽ xem xét các lĩnh vực mà công ty đang hoạt động. Từ đó tìm ra
những hạn chế, phân tích nguyên nhân của những hạn chế để đưa ra những
giải pháp và kiến nghị. Tuy nhiên sự hoạt động này phải đặt trong bối cảnh
chung của thị trường cho thuê tài chính Việt Nam, dự báo của thị trường
trong những năm tới để có thể phân tích một cách chính hoạt động kinh doanh
của công ty.

I. TIỀM NĂNG VÀ KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
1. Các qui định pháp lý cho sự ra đời các công ty Leasing ở Việt Nam
Ở Việt Nam do sự trợ giúp của Quĩ tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng
Thế giới (WB) nghiệp vụ cho thuê tài chính được đề cập vào năm 1991. Năm
1995 Ngân hàng Nhà nước ban hành qui định số 149?/ QĐ-NH5 ngày 27-5-
1995 về việc ban hành Thể lệ tín dụng thuê mua. Cuối năm 1995 lần đầu tiên
một văn bản dưới luật về cho thuê tài chính của Việt Nam ra đời : Nghị định số
64/CP ngày 9-10-1995 của Chính Phủ “ Ban hành qui chế tạm thời về tổ chức
hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam”. Theo đó Nghị định qui
định:
1* Các loại hình của công ty cho thuê tài chính
- Công ty cho thuê tài chính do Ngân hàng, Công ty tài chính hoặc do
Ngân hàng, Công ty cho thuê tài chính cùng với doanh nghiệp khác của Việt
nam thành lập.
- Công ty cho thuê tài chính liên doanh giữa bên Việt nam gồm nhiều
hoặc một Ngân hàng, Công ty tài chính, Doanh nghiệp khác với bên nước
ngoài gồm một hoặc nhiều Ngân hàng, Công ty cho thuê tài chính, Công ty cho
thuê tài chính và các tổ chức tài chính quôc tế.
2* Vốn pháp định là 55 tỷ VND đối với công ty 100% vốn trong nước, 5


triệu USD đối với công ty liê doanh và Công ty nươc ngoài.
3* Thời gian hoạt động không quá 70 năm.
4* Nguồn vốn hoạt động:
- Vốn tự có: Vốn điều lệ, các quĩ và lợi nhuận chưa chia.
- Vốn vay: vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước,
phát hành trái phiếu và các giấy tờ có giá trị khác khi được Ngân hàng Nhà
nước cho phép.
- Công ty cho thuê tài chính không được nhận tiền gửi dưới mọi hình
thức.
5* Những qui định về sử dụng vốn
- Không được sử dụng quá 25% vốn điều lệ để mua sắm tài sản cố
định của công ty.
- Nguồn vốn đi vay không được quá 20 lần vốn tự có.
- Tổng giá trị tài sản cho thuê đối với một khách hàng không được
vượt quá 30% vốn tự có, trường hợp vượt mức qui định phải được Ngân hàng
Nhà nước chấp nhận bằng văn bản.
6* Công ty cho thuê tài chính được thực hiện các nghiệp vụ sau:
- Cho thuê tài chính.
- Tư vấn, nhận bảo lãnh cho khách hàng về những dịch vụ có liên
quan đến nghiệp vụ cho thuê tài chính.
- Thực hiện các nghiệp vụ khác khi được Ngân hàng Nhà nước và
các cơ quan chức năng của Nhà nước cho phép.
2. Tiềm năng của thị trường cho thuê tài chính tại Việt Nam
a. Nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị cho sự nghiệp
Công nghiệp hoá - Hiện đại hóa đất nước.
Hiện nay các doanh nghiệp nước ta đang hoạt động sản xuất kinh doanh
trong một tình trạng qui mô tài sản cố định nhỏ bé, trình độ công nghệ lạc hậu
so với trình độ chung của các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo đánh
giá mới nhất của Bộ khoa học Công nghệ và Môi trường thì thiết bị và công
nghệ của Việt Nam so với các nước có công nghệ trung bình tiên tiến trên thế

giới như sau:
- Đối với nghành cơ khí chế tạo máy lạc hậu từ 50-100 năm
- Các ngành lắp ráp điện tử, ô tô, máy xây dựng, chế biến thuỷ sản lạc hậu
từ một đến hai thế hệ.
- Các nghành điện, dệt may lạc hậu từ 2 đên 3 thế hệ.
- Các ngành đường sắt, đường bộ lạc hậu từ 3 đến 5 thế hệ.
- Các nghành chế biến nông nghiệp, thực phẩm lạc hậu từ 3 đến 5 thế hệ.
Theo số liệu thống kê này, qua khảo sát nhiều công ty thuộc 10 ngành
(luyện kim, hoá chất, nhựa, sản xuất phân bón, công nghiệp thực phẩm, điện -
điện tử...) thì ngoài một số công ty có trình độ công nghệ hiện đại trung bình
của thế giới hoặc của khu vực ( lắp ráp điện tử, sản xuất sợi, dệt, thi công xây
lắp, sản xuất thiết bị đo điện...) còn lại máy móc thiết bị và dây chuyền sản xuất
lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm, thậm chí 30 năm như sản xuất phôi
thép, cơ khí. Trình độ cơ khí hoá, tự động hoá dưới 10% (trong chế biến thuỷ
sản). Hao mòn hữu hình từ 30% đến 50%, và điều đáng ngạc nhiên là 38% ở
dạng thanh lý những vẫn còn được sử dụng, 52% đã qua sửa chữa.
( Theo báo Hà nội mới 3-2001, bài Doanh nghiệp: chiến lược, sách lược,
thực thi)
Còn theo một báo cáo thống kê của Ngân hàng thế giới về công nghệ của
10 ngành công nghiệp quan trọng tại Việt Nam
Ngành công nghiệp
Những năm 60-70
(%)
Những năm 80
(%)
Những năm 90
(%)
1. Thiết bị xây dựng 80,0 18,2 1,8
2. Thực phẩm 65,5 25,0 9,5
3. Dệt 57,4 38,3 4,3

4. May mặc 28,6 51,0 20,4
5. Nhựa 54,4 40,6 5,0
6. Hoá chất 44,4 40,0 15,6
7. Dày, giép 43,8 43,7 12,5
8. In ấn 28,0 56,0 16,0
9. Thiết bị điện 14,3 57,1 28,6
10. Thuốc lá _ 20,0 80,0
Đa số các doanh nghiệp nước ta thuộc loại vừa và nhỏ, số doanh nghiệp
có qui mô tài sản cố định trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 17% tổng số các doanh
nghiệp. Loại doanh nghiệp có qui mô tài sản cố định từ 1 tỷ đến 10 tỷ đồng
chiếm 58% còn lại có qui mô dưới 1 tỷ chiếm 25%.
Hơn nữa máy móc, thiết bị chỉ chiếm tỷ trọng 26% giá trị của tài sản cố
định, nhà xưởng chiếm 36%. Phần còn lại (38%) là các loại tài sản cố định
khác như các loại xe tải, ô tô hay các loại sản khác không sử dụng được vào
sản xuất.
Với công nghệ lạc hậu, máy móc thiết bị cũ kỹ như vậy đã tạo ra những
sản phẩm không có sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập, chưa đạt tiêu chuẩn
quốc tế và khu vực. Điều đó đã đẩy giá thành sản phẩm lên cao cho dù giá
nhân công ở nươc ta thuộc loại thấp trong khu vực. Một số mặt hàng như: sắt
thép, phân bón, kính xây dựng... có mức giá cao hơn hàng nhập cùng loại từ 20
- 40%, riêng đường thô còn cao hơn nữa. Trong năm 2001 nếu Trung Quốc ra
nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì với tính cạnh tranh thấp, các
sản phẩm cùng loại của Việt Nam, cùng xuất vào một thị trường thì hàng Việt
Nam sẽ khó lòng cạnh tranh. Chúng ta cũng đã ký kết Hiệp định ưu đãi thuế
quan có hiệu lực chung (CEFT) để thực hiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), năm 2003 trong tổng số 6210 dòng thuê sẽ có khoảng 66,76% dòng
thuế thực hiện CEPT có mức thuế suất 0-5% và đến năm 2006 sẽ có khoảng
32,96% dòng thuế có mức thuế suất 0%. Trong khi đó hàng hoá xuất khẩu của
Việt Nam và ASEAN lại có những tương đồng thì với những Doanh nghiệp như
vậy liệu chúng ta có đủ sức trong cuộc đua “tàn bạo” sắp tới không

Với tình trạng máy móc thiết bị và bối cảnh tình hình chung như trên cho
thấy rõ nhu cầu đổi mới trang thiết bị là cấp thiết. Đại hội Đảng lần thứ VIII
đã vạch ra “ Mục tiêu công nghiệp hoá là biến nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất
và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng văn minh” Như vậy để hoàn thành mục tiêu này từ nay đến năm
2020, theo tính toán tỷ lệ tăng trưởng bình quân phải từ 9- 10%, nhưng sau
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á và những khó khăn từ các nguồn
vốn đầu tư nước ngoài chúng ta dự đoán tỷ lệ tăng trưởng chỉ vào khoảng từ
6-7%. Theo các chuyên gia thuộc viện phát triển Quốc tế Havard thì để tăng
trưởng 1% thu nhập quốc dân thì lưọng đầu tư phải tăng từ 3-4% GDP. Như
vậy để đạt mức tăng trưởng nói trên thì hàng năm lượng vốn đầu tư phải đạt
tối thiểu 15% GDP.tức là khoảng 4-5 tỷ USD.
Bằng hình thức kinh doanh cho thuê thiết bị, các công ty cho thuê Leasing
quốc tế sẽ gián tiếp cung cấp vốn đầu tư với lãi xuất thấp và công nghệ mới
vào nước ta. Do các thiết bị tài sản thuộc quyền sở hữu của họ nên việc nhập
thiết bị vào Việt Nam sẽ được họ cân nhắc kỹ lưỡng. Bởi việc nhập thiết bị, giá
cả, các điều kiện và dịch vụ kèm theo còn phụ thuộc vào người thuê. Mặt khác,
để đảm bảo thu hồi được vốn, các công ty Leasing quốc tế thường hỗ trợ các
doanh nghiệp thuê thiết bị của họ về mặt quản trị và sử dụng các thiết bị này
một cách hiệu quả. Các chuyên gia thuộc viện phát triển Quốc tế Havard đã
khuyến cáo Việt nam cần phát triển các Công ty cho thuê tài chính trước khi
cho phép các Ngân hàng nước ngoài cạnh tranh tự do với hệ thống tài chính
trong nước, vì để tạo được môi trường cho sự cạnh tranh trong lĩnh vực Ngân
hàng đòi hỏi phải có thời gian chuẩn bị khá lâu. Bối cảnh kinh tế xã hội nhất là
nhu cầu về vốn, thiết bị, công nghệ cho nền sản xuất là những tiền đề cần thiết
thúc đẩy việc hoàn thiện các cơ sở pháp lý và kỹ thuật cho hoạt động Leasing
phát triển mạnh mẽ ở Việt nam.
b. Những hạn chế của các nguồn vốn đầu tư.

Các nguồn vốn có thể đầu tư để có thể đổi mới máy móc thiết bị ở các
doanh nghiệp: Nguồn vốn từ ngân sách, nguồn vốn tự có và quĩ khấu hao để
lại, nguòn vốn từ nước ngoài và các nguồn vốn vay từ các Ngân hàng Thương
mại
 Nguồn vốn từ ngân sách: đây là khoản vốn của Nhà nước cấp
cho các doanh nghiệp mà chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt
động công ích, các doanh nghiệp thuộc các nghành then chốt
và xây dựng cơ sở hạ tầng. Hiện nay số vốn nhận được từ
nguồn này thường rất chậm, không đầy đủ và số lượng thấp.
 Nguồn vốn tự có bổ sung và khấu hao tài sản để lại: như ở các
phần trên đã phân tích doanh nghiệp Việt nam không mấy
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả nên lợi nhuận để tái đầu tư
không đáng là bao, máy móc thiết bị thì lạc hậu, giá trị thấp, số
tiền khấu hao không đủ khả năng để tái đầu tư và mua sắm
thiết bị hiện đại.
 Nguồn huy đông từ thị trường vốn trong nươc và nước ngoài:
hiện nay ở Việt nam mới hình thành 2 trung tâm giao dịch
chứng khoán, với hầu hết các doanh nghiệp Việt nam hoạt
động với qui mô nhỏ, hiệu quả kinh tế chưa cao nên việc tham
gia vào thị trường vốn là rất khó khăn. Đối với huy động vốn
từ nước ngoài thông qua con đường đầu tư gián tiếp và trực
tiếp của các doanh nghiệp cũng rất hạn chế:
- Nguồn vốn đầu tư gián tiếp: trong nhiều năm qua nhiều nước và tổ
chức quốc tế đã viên trợ cho ta một khối lượng đáng kể về hàng hoá, vật tư,
thiết bị và chuyển giao công nghệ, nguồn này đã góp phần không nhỏ trong
việc phát triển nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên nguồn vốn này cũng mang
nhiều nhược điểm: Việt nam mới mở cửa, kinh nghiệm và trình độ quản lý còn
nhiều hạn chế gây nên việc sử dụng vốn kém hiệu quả. Việc huy động quá mức
các nguồn vốn nước ngoài gây ra sự mất khả năng trả nợ của nền kinh tế
trong tương lai. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á vừa qua là một ví

dụ rõ nét về việc vay vốn nước ngoài và những đầu tư bất hợp lý dẫn đến
không thể trả nổi những khoản vốn đầu tư nước ngoài đã quá lớn. Với nguồn
vốn này chủ yếu đầu tư vào các cơ sở hạ tầng mang tính chất quốc gia còn các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thì ít có khả năng vay được từ nguồn vốn này.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp chủ yếu thông qua hình thức liên doanh.
Bằng hình thức này trong thời gian qua đã giúp cho nền kinh tế phát triển
đáng kể. Tuy nhiên nền kinh tế Việt nam cũng bị thiệt hại không nhỏ do việc
nhập thiết bị cũ và lạc hậu. Tính đến hết năm 1996 có khoảng 8 tỷ USD vốn
nước ngoài đầu tư vào Việt nam, trong đó tổng giá trị công nghiệp ước tính
khoảng 4 tỷ USD. Nhìn lại những thiết bị công nghệ đã nhập và sử dụng trong
các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể thấy là những thiết bị cũ, công
nghệ cũ, lạc hậu được chế tạo từ trước những năm 1980 nên một số nhập về
không thể sử dụng được, một số khác sử dụng gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng. Theo các chuyên gia của Bộ thương mại, Bộ kế hoạch và đầu tư
việc mua trang thiết bị của Việt nam thường cao hơn giá trị thị trường từ 10-
15%.
 Những hạn chế của nguồn vốn vay từ các ngân hàng: hầu hết
các nguồn vốn hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay là
nguồn vốn vay Ngân hàng tuy nhiên điều kiện vay rất ngặt
nghèo
- Các doanh nghiệp ( trừ doanh nghiệp nhà nước ) phải có tài sản thế
chấp
- Các doanh nghiệp muốn vay ngân hàng phải kinh doanh có hiệu quả,
tình hình tài chính lành mạnh có uy tín đối với Ngân hàng.
- Các dự án vay vốn đều phải có tỷ lệ vốn tham gia
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đặc biệt là các doanh nghiệp vừa mới thành
lập để đủ điều kiện như trên là rất khó khăn. Hơn nữa việc tính toán thu nợ
tiền vay của Ngân hàng cũng chưa hợp lý. Ngân hàng chỉ áp dụng một cách
tính duy nhất là thu nợ hàng tháng bao gồm gốc chia đều cho các kỳ hạn, lãi
thu trên số dư còn lại. Cách tính thu nợ tiền vay cho thấy: thời gian đầu mới đi

vào sản xuất máy móc thiết bị chưa thể sản xuất theo công suất thiết kế bình
quân như đã tính ở dự án, sản phẩm sản xuất ra thấp, doanh thu thấp thì
Ngân hàng lại thu nợ nhiều ( Do lãi kỳ đầu lớn ) còn những kỳ sau khi sản xuất
đã ổn định, năng suất cao thì ngân hàng lại thu nợ ít.
3.Trong thời điểm hiện nay và tương lai ở Việt nam cho thuê
tài chính có những ưu điểm gì ?
Trong những thập kỷ trước, cho thuê tài chính đã phát triển lên tới hàng
trăm tỷ USD. Hiên nay cho thuê tài chính chiếm một phần lớn cho chi phí và
vốn của nhiều quốc gia. Sự phát triển nhảy vọt của cho thuê tài chính đã
chứng tỏ những lợi ích lớn mà nó đem lại. Những ưu điểm của cho thuê tài
chính sẽ khắc phục được những nhược điểm của các nguồn vốn đầu tư ỏ Việt
nam, thực sự trở thành một kênh dẫn vốn hữu hiệu đến các doanh nghiệp.
a. Lợi ích quốc gia
Cho thuê tài chính là nguồn trung và dài hạn quan trọng. Nhiều dự án
khác nhau đã chứng tỏ vai trò quan trọng của hoạt động cho thuê tài chính
trong việc tạo lập các nguồn vốn đầu tư cơ bản dù nó là một doanh nghiệp
vừa và nhỏ hay các công ty lớn.
- Nghiệp vụ cho thuê tài chính là phương tiên hữu hiệu phân bổ các
nguồn vốn hạn hẹp cho việc đầu tư cơ bản mới. Bằng việc đầu tư trực tiếp vào
mua sắm thiết bị mới, các công ty cho thuê tài chính tránh được việc Ngân
hàng hay các tổ chức tài chính khác mắc phải là việc người vay vốn sử dụng
vốn vay vào các mục đích không ưu tiên hoặc không đem lại lợi nhuận.
- Hoạt động cho thuê tài chính góp phần thu hút vốn đầu tư và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn cho nền kinh tế. Việc tài trợ bằng cho thuê tài chính tạo
ra sự đa dạng vốn cho nền kinh tế, làm tăng mức độ cạnh tranh trong hoạt
động của các tổ chức tài chính, qua đó không những tăng cường việc huy động
vốn cho nền kinh tế mà còn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
- Nghiệp vụ cho thuê tài chính có chức năng hỗ trợ bán hàng nhằm hỗ
trợ các hoạt động bán thiết bị của nhà cung cấp, nghiệp vụ cho thuê tài chính
đã giúp đỡ các nhà sản xuất máy móc nội địa thông qua việc giới thiệu hệ

thống cho thuê của người bán hàng hoá.
- Nghiệp vụ cho thuê tài chính hỗ trợ cho công cuộc hiện đại hoá công
nghiệp, trợ giúp thực hiện chính sách công nghiệp và thuế khoá. Các công ty
cho thuê tài chính có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc tài trợ của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra nghiệp vụ này cũng trợ giúp cho việc
cơ cấu hoá lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua việc cấp vốn cho khu
vực sản xuất.
b. Những lợi ích đối với người thuê
Tiện ích của cho thuê tài chính đối với người thuê bao gồm
- Người thuê có gia tăng năng lực sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn. Thông qua cho thuê tài chính, các doanh nghiệp đi thuê mặc dù gặp khó
khăn về vốn hoặc không đủ tài sản, uy tín đảm bảo để vay vốn Ngân hàng, vẫn
có thể sử dụng được máy móc thiết bị, tăng năng lực sản xuất. Tham gia vào
dịch vụ cho thuê tài chính, doanh nghiệp sẽ hạn chế sử dụng tới nguồn vốn của
mình để mua sắm thiết bị. Vì thế họ có thể chuyển số tiền cần thiết đó sang một
công việc cần thiết hơn. Bằng việc thuê tài chính, doanh nghiệp sẽ duy trì được
vốn lưu động và các nhu cầu tài trợ cho dự án. Vốn của doanh nghiệp không bị
đọng vào tài sản, doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả.
- Cho thuê tài chính hạn chế việc sử dụng máy móc thiết bị lạc hậu. Hiện
nay việc phát triển và cải tiến kỹ thuật máy móc thiết bị, công nghệ được thực
hiện rất nhanh chóng trong nền kinh tế. Thông qua cho thuê tài chính, doanh
nghiệp có thể hạn chế được rủi ro sử dụng máy móc, thiết bị lạc hậu nhằm
nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm có điều kiện cạnh tranh
trên thị trường.
- Cho thuê tài chính là nghiệp vụ tài trợ mang tính chất linh hoạt. Trong
nghiệp vụ cho thuê tài chính, người thuê có khả năng tối đa trong việc lựa
chọn hoặc mua lại, hoặc tiếp tục thuê, hoặc trả lại tài sản thuê. Nghiệp vụ cho
thuê tài chính giúp doanh nghiệp tránh được phiền phức liên quan tới sửa
chữa thiết bị ( bảo dưỡng, bảo hiểm…). Nhiều doanh nghiệp thích đi thuê thiết
bị hơn là mua sắm thiết bị vì cho thuê tài chính làm thoả mãn nhu cầu sử dụng

của doanh nghiệp.
Hoàn tất các thủ tục rườm rà khác, doanh nghiệp cho thuê có lợi. Trong
thực tế, cơ cấu thanh toán linh hoạt ( thanh toán đều đặn theo kỳ, theo mùa vụ
hay tuỳ theo thoả thuận ). Số tiền thuê thiết bị được xác định ngay từ ban đầu.
Điều này giúp người thuê chủ động trong việc tạo lập kế hoạch tài chính. Tiền
thuê thiết bị có thể điều chỉnh cho phù hợp với thu nhập do sử dụng thiết bị,
qua đó tạo ra loại hình đầu tư tự cấp vốn, với thời hạn thanh toán phù hợp với
tuổi thọ thiết bị. Điều này đặc biệt phù hợp trong điều kiện thiết bị không sinh
lời thường xuyên do loại hình kinh doanh theo thời vụ hoặc có sự chậm trễ
trong phân phối sản phẩm.
- Cho thuê tài chính cung cấp một dịch vụ hoàn chỉnh và tiện ích cho
người đi thuê. Người thuê có thể được cung cấp rất nhiều dịch vụ khác. Người
thuê có thể được cung cấp rất nhiều dịch vụ khác ngoài việc tài trợ thiết bị. Chi
phí cho dịch vụ này được đưa vào thanh toán định kỳ cùng với tiền thuê thiết
bị. Việc cho thuê tài chính có thể tạo cho người thuê hợp đồng với người cho
thuê, người cung cấp các dịch vụ như: bảo dưỡng thiết bị, trả thuế tài sản, bảo
hiểm thiết bị…với một giá ưu đãi.
c. Đối với công ty cho thuê tài chính
Tham gia vào phương thức tài trợ này, Công ty cho thuê tài chính được
những thuận lợi sau:
- Cho thuê là hình thức tài trợ có mức độ an toàn cao.
+ Do quyền sở hữu tài sản cho thuê vẫn thuộc người cho thuê nên họ có
quyền kiểm tra, giám sát việc sử dụng tài sản. Nếu có những biểu hiện đe doạ
sự an toàn cho giao dịch cho thuê tài chính đó, người cho thuê có thể thu hồi
tài sản ngay lập tức. Nhờ vậy họ tránh được những thiệt hại mất vốn tài trợ.
Trong khi đó đối với nhiều hình thức tài trợ khác, người tài trợ khó có thể
thực hiên được các biện pháp này.
+ Khi tiến hành tài trợ thông qua hoạt động cho thuê sẽ đảm bảo cho
khoản tiền tài trợ được sử dụng đúng mục đích mà người tài trợ yêu cầu. Nhờ
vậy đảm bảo khả năng tài trợ của người thuê

+ Do tài trợ tài sản bằng hiện vật nên hạn chế được ảnh hưởng của lạm
phát, không làm “ teo “ dần khoản vốn tài trợ.
+ Hoạt động cho thuê tài chính giúp người cho thuê không bị khó khăn
về khả năng thanh khoản do tiền cho thuê và vốn được thu hồi dựa trên hiệu
quả hoạt động của tài sản.
- Công ty cho thuê tài chính cung cấp, giới thiệu sản phẩm của nhà cung
cấp. Khi người cho thuê cung cấp dịch vụ cho thuê, nhà xuất nhập khẩu cũng
tham gia. Khi đó nếu thoả thuận đạt được kết quả cũng như việc thanh toán
cho nhà thiết bị hoàn tất thì điều này tạo thêm một quan hệ làm ăn giữa
người cho thuê và nhà cung cấp. Đặc biệt khi người cho thuê là nhà sản xuất,
nhà sản xuất tài trợ cho thuê sản phẩm của mình có thể đối với các đối thủ
cạnh tranh và có thể thuyết phục khách hàng chọn sản phẩm của mình vì
những thuận lợi đưa ra.
- Các tài liệu trong nghiệp vụ cho thuê tài chính đơn giản hoá. Tất cả các
thủ tục trong hoạt động cho thuê tài chính đều đi thẳng vào vấn đề cho cả
người cho thuê và người đi thuê vì vậy nó tránh được việc phức tạp so với việc
vay vốn. Hồ sơ cho thuê thường là hồ sơ chuẩn nhằm tránh tình trạng phức
tạp như việc đi vay Ngân hàng. Hợp đồng cho thuê máy móc thiết bị thường
được thực hiên nhanh chóng bởi người cho thuê không cần thẩm định chi tiết
như các loại hình tín dụng khác.
4. Dự báo về thị trường cho thuê tài chính trong những năm tới
Sau nhiều năm đổi mới Việt Nam đã chuyển từ một nền kinh tế tập trung
dựa vào bao cấp của nhà nước sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, trong đó lĩnh vực nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam năm 2000 gấp 2,5 lần năm
1985 với mức tăng bình quân hàng năm đạt 6,3% từ năm 1986 đến năm 2000
và khoảng 7,6% trong thập kỷ vừa qua. Thu nhập bình quân tính theo đầu
người năm 2000 đạt 375USD. Giá trị sản xuất công nghiệp trung bình hàng
năm tăng 13,5% trong giai đoạn 1996- 2000 trong đó năm 2000 đạt mức tăng
cao nhất 15,7%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng từ 29,73% năm 1996

lên 36,6% năm 2000. Tính đến cuối năm 2000 có 7000 công ty từ 66 nước và
khu vực đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, với số vốn lớn hơn 15 tỷ USD trong
2290 dự án số vốn đăng ký vào các dự án chưa thực hiện được là 35,5%
Trong giai đoạn tơi dự đoán tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ là
7,5%. Sản xuất công nghiệp hàng năm tăng khoảng 18%, số vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài đạt khoảng 20 tỷ USD.
Trong những năm tới dự báo sẽ có một số nghành công nghiệp suy giảm và
một số nghành tăng trưởng mạnh
Sản xuất điện 13,4% Xi măng -10,1%
Công nghiệp xe máy 7,9% Thép - 3,8%
Sản xuất lốp xe 38,4% Lắp ráp ô tô - 13,4%
Công nghiệp may mặc 18,4% Sản xuất đồ điện tử - 15,8%
Xây dựng 43,2%
Đây là những dự báo quan trọng để các công ty cho thuê tài chính đưa ra
những định hướng phát triển trong tương lai của mình.

5. Thực trạng hoạt động của các công ty Leasing ở Việt Nam
Cho thuê tài chính là nghiệp vụ khá mới mẻ đối với các nhà doanh nghiệp
nước ta. Trước đây chỉ có các nghành cần vốn đầu tư rất lớn và các thiết bị
trong nước không thể sản xuất được như máy bay, tàu thuỷ tải trọng lớn…mới
áp dụng phương thức này với các nhà sản xuất hoặc nhà cho thuê nước ngoài.
Tháng 5-1995 do nhu cầu của nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước Việt nam ban
hành thể lệ tín dụng thuê mua kèm theo quyết định số 149-QĐ/NH5 quy định
nghiệp vụ thuê mua ở Việt nam. Tuy nhiên do quá trình thực hiện nghiệp vụ
này có nhiều bất cập, nên đến tháng 10-1995, chính phủ chính thức ban hành
nghị định qui định rõ về nghiệp vụ cho thuê tài chính. Nghị định số 64/CP ngày
9-10-1995 ban hành qui chế tạm thời về tổ chức hoạt động của công ty cho
thuê tài chính tại Việt Nam. Thực hiện qui định này, hiện nay ở Việt nam đã có
9 công ty cho thuê tài chính.
- Hai công ty tài chính 100% vốn nước ngoài.

Công ty KEXIM LEASING COMPANY
Công ty VENA LEASING COMPANY
- Hai công ty liên doanh Việt nam - nước ngoài.
Công ty VINALESE ( Công ty cho thuê tài chính Việt Nam )
Công ty VILC ( Công ty cho thuê tài chính quốc tế Việt Nam )
- Năm công ty cho thuê tài chính của Việt nam
Công ty cho thuê tài chính của
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn : gồm hai công ty
Công ty cho thuê tài chính của Ngân hàng Công thương Việt nam
Công ty cho thuê tài chính của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam
Công ty cho thuê tài chính của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Sự ra đời của các công ty này khẳng định tiềm năng và là tiền đề phát
triển của hoạt động này trên thị trường Việt nam.
a. Ngân hàng Công thương Việt nam.
Tháng 7-1995 Ngân hàng Công thương Việt nam thành lập phòng tín
dụng thuê mua với chức năng nhiệm vụ
- Khai thác bắt nợ.
- Thực hiện các dự án liên doanh, liên kết giữa Ngân hàng Công thương
với các doanh nghiệp khác.
- Nghiên cứu các văn bản về tín dụng thuê mua, để thực hiện các dự án
cho thuê, soạn thảo các văn bản để chuẩn bị thành lập Công ty cho thuê tài
chính.
Tháng 10-1995 Nghị định số 64/CP của Chính phủ ban hành qui chế tạm
thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính ở Việt nam, quy
chế quy định các Ngân hàng muốn thực hiện nghiệp vụ này phải thành lập một
công ty độc lập, chức năng của một phòng không còn phù hợp nữa. Lúc này
phòng tín dụng thuê mua là tiền thân của công ty cho thuê tài chính hiện nay,
ngoài việc tiếp tục thực hiện các nghiệp vụ được giao còn chuẩn bị một cơ sở
vật chất và điều kiện để thành lập công ty cho thuê tài chính.
* Ngày 29-10-1996, theo giấy phép số 01/GP-CTCTTC của Ngân hàng

Nhà nước Việt nam. Công ty cho thuê tài chính quốc tế Việt nam ra đời (VILC).
Công ty cho thuê tài chính VILC là liên doanh giữa Ngân hàng Công thương
Việt nam với công ty cho thuê tài chính quốc tế (IFC), Ngân hàng tín dụng
Nhật Bản (NCB), Ngân hàng Ngoại thương Pháp (BFCE), công ty cho thuê tài
chính Hàn Quốc (KILC). Đây cũng là công ty cho thuê tài chính liên doanh quốc
tế đầu tiên ở Việt nam được cấp giấy phép hoạt động. VILC có thời gian hoạt
động 50 năm, vốn hoạt động 5 triệu USD, trong đó phía Việt nam góp 19%, IFC
15%, BFCE 17% và KILC 32%. Công ty này đặc biệt chú trọng đến các doanh
nghiệp vừa và nhỏ của Việt nam.
* Ngày 26-1-1998. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam ra quyết
định số 53/98QĐ-NHNN5 thành lập công ty cho thuê tài chính Ngân hang
Công thương Việt nam. Tại điều 2 quyết định này qui định : Công ty cho thuê
tài chính Ngân hàng Công thương Việt nam là một pháp nhân, là doanh
nghiệp thành viên hạch toán độc lập của Ngân hàng Công thương Việt nam,
được Ngân hàng Công thương Việt nam cấp vốn điều lệ, có quyền tự chủ kinh
doanh và tự chủ tài chính, chịu sự ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ đối với
Ngân hàng công thương Việt nam, vốn điều lệ được cấp 55 tỷ VNĐ.
b. Ngân hàng Ngoại thương Việt nam.
* Công ty thuê mua và đầu tư - Ngân hàng Ngoại thương Việt nam (Linco)
được thành lập theo quyết định số 724/QĐ-NH9 ngày 14-10-1994 của thống
đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam và Quyết định số 274/TCCB ngày 5-11-
1994 của Tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Công ty chính
thức đi vào hoạt động kinh doanh từ tháng 1-1995. Sau đó để phù hợp với tình
hình và nghị định 64/CP Ngân hàng ngoại thương đã quyết định thành lập
Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank
Financial Leasing Company) theo quyết định số 108/QĐ-NHNN5 ngày 25-3-
1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, với số vốn điều lệ 55 tỷ
đồng.
Từ ngày thành lập và hoạt động, công ty đã đi sâu vào hoạt động một số
lĩnh vực sau:

- Cho thuê tài chính.
- Khai thác tài sản xiết nợ
- Đẩu tư trả góp ( Thị trường chủ yếu là các doang nghiệp Nhà nươc phía
Bắc )

* Công ty cho thuê tài chính Việt Nam : Việt Nam Leasing Company
(VINALEASE) được thành lập năm 1997 với số vốn 5 triệu USD liên doanh
giữa 3 bên: Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank) 40%, Japan Leasing
Coporation 35%, Japan Long Term Credit Bank 25%. Công ty hoạt động chủ
yếu trong các dự án với các công ty tư nhân. Hiện nay liên doanh đang phát
triển hoạt động với các công ty lớn trong lĩnh vực dệt may và sản xuất thép
như VINATEX ( Tổng công ty dệt may Việt Nam ), VSC ( Tổng công ty thép Việt
Nam ) đồng thời tích cực tìm kiếm những khách hàng vốn là khách hàng
truyền thống của Vietcombank. Cho đến cuối năm 2000 công ty đã thực hiện
được 50 hợp đồng với doanh số cho thuê lên tới gần 100 triệu USD.
c. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam
Được thành lập và đi vào hoạt động từ cuối năm 1995. Hiện nay Ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt nam đang tìm các đối tác nước ngoài.
d. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Ngày 28-9-1994 theo quyết định số 130QĐ-NHNo Công ty thuê mua và tư
vấn đầu tư và Ngân hàng Nông nghiệp được thành lập nhưng trên thực tế
công ty này vẫn chưa đi vào hoạt động.
Ngày 14-7-1998, Công ty cho thuê tài chính I được thành lập theo quyết
định số 238/1998/QĐ-NHNN5 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam,
với số vốn điều lệ 65 tỷ, công ty chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1-1-1999.
Công ty này hoạt động chủ yếu từ Huế trở ra.
Công ty cho thuê tài chính II được thành lập sau đó vào ngày 27-8-1998
hoạt động chủ yếu từ Quảng Nam trở vào.
e. Công ty cho thuê tài chính Vena Leasing (VENALEASING ).
Chính thức đi vào hoạt động tháng 10-1995 với tổng số vốn điều lệ là 5

triệu USD. Công ty mẹ tại Singapo : Vena Leasing and Invesment Coporation
Đối tượng chủ yếu của công ty là các công ty tư nhân với những hợp đồng có
giá trị nhỏ . Từ năm 1998 trở lại đây Công ty đã mở rộng đối tượng khách
hàng. Tổng doanh số cho thuê của công ty đạt tương đối thấp.
f. Công ty cho thuê tài chính Kexim (KOREX LEASING COMPANY)
Được thành lập vào năm 1996 bởi Ngân hàng Ngoại thương Hàn Quốc
(Korean Exchange Bank), trụ sở chính tại thành phố Hồ Chí Minh với số vốn
điều lệ 5 triệu USD. Công ty chủ yếu cho thuê tài chính với những công ty Hàn
Quốc hoặc liên doanh với Hàn Quốc đang hoạt động tại Việt Nam. Cho đến
năm 2000 Kexim đã thực hiện được 160 hợp đồng với giá trị khoảng 200 triệu
USD.

Như vậy, khác với thời kỳ 1995-1997 (thị trường cho thuê tài chính còn
tương đối mới mẻ, mức độ cạnh tranh chưa gay gắt), hiện nay, với sự tham
gia của 9 công ty (5 thành viên của “tứ đại ngân hàng”, 2 liên doanh và 2 công
ty 100% vốn nước ngoài), cuộc chiến giành thị phần đã đến “hồi” gay gắt.
Trong năm 2000, có thể khái quát một số nét về hoạt động của các công ty cho thuê
tài chính như sau:
Thứ nhất, về tổng dư nợ cho thuê tài chính.
Dư nợ cho thuê tài chính của các công ty cho thuê tài chính 100% vốn
Việt Nam là 402,5 tỷ VND, chiếm 42% so với toàn khối và tăng 230% so với
31/12/1999. Như vậy, số liệu cho thấy, mặt dù được thành lập sau nhưng dư
nợ của nhóm công ty cho thuê tài chính này tăng nhanh và đã chiếm tỷ trọng
tương đối trong toàn khối
Dư nợ cho thuê tài chính của các công ty cho thuê tài chính nước ngoài là
484 tỷ VND, chiếm 58% so với toàn khối, giảm 46% so với 31/12/1999.
Nguyên nhân chủ yếu là do hai công ty cho thuê tài chính có vốn nước ngoài
phải hạn chế hoạt động trong năm do khó khăn của ngân hàng mẹ ở chính
quốc.
Thứ hai là về nợ quá hạn.

Nợ quá hạn chiếm gần 1% trên tổng dư nợ cho thuê tài chính, giảm 83%
so với 31/12/1999 và thấp hơn nhiều so với tỷ lệ nợ qua hạn cho phép. Cụ thể
là Nợ quá hạn của các công ty 100% vốn Việt Nam bằng 0, giảm 100% so với
mức dư nợ quá hạn tại thời điểm 31/12/1999 (8 tỷ VND).
Dư nợ quá hạn của các công ty cho thuê tài chính có vốn đầu tư nước
ngoài là gần 4,3 tỷ VND, tăng 2 tỷ VND so với mức dư nợ quá hạn đến
31/12/1999 (2,3 tỷ VND)
Thứ ba là về tổng doanh số cho thuê.
Tính đến 31/12/2001, tổng doanh số cho thuê toàn khối là gần 1065 tỷ
VND, trong đó doanh số cho thuê tài chính năm 2000 là 841 tỷ VND- tăng với
tỷ lệ 15% so với năm 1999.
Trong đó, doanh số cho thuê các công ty cho thuê tài chính 100% vốn Việt
Nam là 462 tỷ VND (chiếm 45% trong tổng doanh số cho thuê) còn doanh số
cho thuê của các công ty cho thuê tài chính có vốn đầu tư nước ngoài là 603 tỷ
VND (chiếm 55% tổng doanh số cho thuê).
Có thể cụ thể tình hình hoạt động và khả năng cạnh tranh qua bảng sau
Đơn vị : Tỷ VND
Công ty Cho thuê tài chính Dư nợ
Công ty CTTC NH ĐT&PT VN 126
Công ty CTTC NHNN&PTNT
-Công ty CTTC I
-Công ty CTTC II
100,34
70
Công ty CTTC NHCT VN 90,81
Công ty CTTC NHNT VN 15,81
Công ty CTTC QT VN (VILC) 101,23
Công ty Vina leases 50.34
Công ty Kexim Việt Nam 7.67
Công ty Vena Leasing 67

( Theo Nguồn số liệu từ Ngân hàng Nhà nước năm 2000 )
Theo số liệu từ NHNN, trong năm 2000 hầu hết các công ty cho thuê tài
chính đều có lợi nhuận trước thuế. Tính toàn khối thì lợi nhuận trước thuế
trong năm 2000 là 31 tỷ VND, trong đó các công ty cho thuê tài chính thành
viên của NHTM Việt Nam chiếm tỷ trọng đa số. Năm 2000 cũng đánh dấu năm
thứ hai có lãi của toàn khối sau ba năm hoạt động.
Như vậy, các công ty cho thuê tài chính thành viên của các NHTM Việt
Nam đã hoạt động hiệu quả hơn so với các công ty có vốn đầu tư nước ngoài
ngay khi mới thành lập. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do có thời
gian hoạt động thí điểm trước đây nên tích luỹ được nhiều kinh nghiệm và đã
tạo lập được mối quan hệ ban đầu với khách hàng. (các NHTM quốc doanh
Việt Nam đã cho thành lập các các công ty tín dụng thuê mua hạch toán trực
thuộc từ năm 1995). Một số đã tranh thủ được mạng lưới khách hàng truyền
thống thông qua ngân hàng mẹ.
Đối với các công ty cho thuê tài chính có vốn nước ngoài, họ bị lỗ do tỷ lệ
chi phí vận hành còn cao, các chi phí quảng cáo, tiếp thị lớn trong khi chưa mở
rộng được hoạt động cho thuê.
Có thể thấy, thị trường cho tài chính Việt Nam cũng có tính chất cạnh
tranh không hoàn hảo. Đường cầu đối với một công ty không nằm ngang vì
hàng hoá dịch vụ thuê mua của các hãng chỉ có thể thay thế cho nhau một
cách có giới hạn. Mỗi công ty luôn có khách hàng truyền thống và uy tín của
mình. Tuy nhiên, do dịch vụ cho thuê tài chính là tương đối mới và quy mô của
các công ty tương đương nhau (vốn tự có đều khoảng 55-70 tỷ VND) nên mỗi
công ty phải tính rất kỹ giá cả mà cụ thể là phí cho thuê của các công ty khác.
Hiện nay, các công ty cạnh tranh nhau rất quyết liệt thông qua phí cho
thuê và uy tín của ngân hàng mẹ. Đến thời điểm đầu tháng 5 năm 2001, nhiều
Công ty đã hạ phí cho thuê với khách hàng truyền thống xuống bằng sàn lãi
suất cho vay trung dài hạn của Ngân hàng mẹ.
II. CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
1. Giới thiệu chung về Công ty cho thuê tài chính- NHCT

1.a Khái quát quá trình hình thành công ty:
Xuất phát từ nhu cầu của thị trường 5/1995 Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt nam ra quyết định số 149/QĐ-NH5 về việc ban hành thể lệ tín dụng
thuê mua để quản lý, giám sát hoạt động nghiệp vụ này. Do vậy tháng 7/1995
Ngân hàng Công Thương Việt Nam thành lập phòng tín dụng thuê mua, ban
đầu có chức năng như : khai thác tài sản bắt nợ, thực hiện các dự án liên
doanh, nghiên cứu các văn bản về tín dụng thuê mua để thực hiên các dự án
cho thuê.
Đến tháng 10/1995 nghị định số 64/CP của Chính phủ ban hành qui chế
tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam.
Qui chế qui định các ngân hàng muốn thực hiện nghiệp vụ này phải thành lập
một công ty độc lập, chức năng của một phòng không được thực hiện nữa. Lúc
này Phòng tín dụng thuê mua – tiền thân của công ty cho thuê tài chính ngoài
việc tiếp tục thực hiên các nghiệp vụ được giao còn chuẩn bị mọi cơ sở vật
chất và điều kiện để thành lập công ty cho thuê tài chính.
Ngày 26/1/1998 Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt nam ra quyết định
số 53/1998/QĐ-NHNN5 về việc thành lập Công ty cho thuê tài chính Ngân
Hàng Công thương Việt Nam
- Tên tiếng Việt: Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Công thương Việt
Nam
- Tên viết tắt bằng tiếng Việt CTTTTC
- Tên tiếng Anh Leasing Company Industrial and Commercial Bank of VN
- Tên viết tắt bằng tiếng Anh: ICBVVLC
- Vốn điều lệ : 55 tỷ đồng Việt Nam hay 5 triệu USD
- Trụ sở : Số 18 Phan Đình Phùng, Quận Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam
Tại điều 2 quyết định này qui định “Công ty cho thuê tài chính NHCTVN là
một thành viên hạch toán độc lập của NHCTVN, được Ngân hàng cấp vốn điều
lệ có quyền tự chủ kinh doanh và tự chủ tài chính, chịu sự ràng buộc và quyền
lợi và nghĩa vụ đối với NHCTVN theo qui định tại điều lệ của NHCTVN. Vốn
điều lệ được cấp là 55 tỷ đồng Việt Nam.”

1.b Chức năng nhiệm vụ của công ty:
Chức năng chính của công ty là cung cấp tín dụng trung và dài hạn cho
khách hàng thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác...
Công ty cho thuê tài chính NHCTVN được thành lập với nghiệp vụ quan
trọng là đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế và kinh
doanh phải có lãi. Để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình công ty có các
nghiệp vụ sau:
- Cho thuê tài chính các máy móc, thiết bị và các động sản khác
- Nhập khẩu và tái xuất theo phương thức trực tiếp khi được các cơ
quan chính phủ cho phép
- Tư vấn, nhận bảo lãnh cho khách hàng về những hoạt động dịch vụ có
liên quan đến nghiệp vụ cho thuê tài chính.
- Thực hiện một số nghiẹp vụ khác khi được các cơ quan chức năng cho
phép.
1.c. Bộ máy tổ chức, điều hành của Công ty

×