Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Nghiên cứu hiệu quả sử dụng thóc và gạo gật trong chăn nuôi lợn nái và lợn con

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.61 KB, 73 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
---------------*---------------

HỒ THỊ HIỀN

NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SỬ DỤNG THÓC
VÀ GẠO LẬT TRONG CHĂN NUÔI LỢN NÁI
VÀ LỢN CON

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành : Chăn nuôi

Thái Nguyên - 2015


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
---------------*---------------

HỒ THỊ HIỀN

NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SỬ DỤNG THÓC
VÀ GẠO LẬT TRONG CHĂN NUÔI LỢN NÁI
VÀ LỢN CON
Chuyên ngành : Chăn nuôi
Mã số: 60.62.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học:


1. PGS.TS. Trần Văn Phùng
2. TS. Trần Quốc Việt

Thái Nguyên - 2015


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
---------------*---------------

HỒ THỊ HIỀN

NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SỬ DỤNG THÓC
VÀ GẠO LẬT TRONG CHĂN NUÔI LỢN NÁI
VÀ LỢN CON
Chuyên ngành : Chăn nuôi
Mã số: 60.62.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Trần Văn Phùng
2. TS. Trần Quốc Việt

Thái Nguyên - 2015


LỜI CÁM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài tốt nghiệp, ngoài sự
nỗ lực của bản thân tôi còn nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ quý báu của

nhà trường, các thầy giáo, cô giáo, các bạn đồng nghiệp và gia đình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới hai Thầy hướng dẫn: PGS.TS. Trần Văn
Phùng và TS. Trần Quốc Việt đã dày công giúp đỡ tôi về mặt trí tuệ, thời gian và
công sức chỉ bảo tận tình tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cám ơn Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên – Phòng Đào tạo
sau Đại học - Khoa Chăn nuôi thú y và quý thầy cô đã giảng dạy tôi trong quá trình
học tập.
Tôi xin cám ơn Ban giám đốc Viện Chăn nuôi, Phòng Đào tạo và thông tin,
các Cô, Chú, Anh, Chị Bộ môn Dinh dưỡng và thức ăn Chăn nuôi đã giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện đề tài.
Và cuối cùng tôi dành tình cảm và lời cám ơn tới gia đình, chồng và con tôi
đã động viên, khích lệ và chia sẻ những khó khăn và tạo điều kiện thời gian cho tôi
trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.

Hà Nội, tháng 12 năm 2015
Tác giả luận văn

Hồ Thị Hiền


i

MỤC LỤC
MỤC LỤC ...................................................................................................................i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG .................................................................................................iv
DANH MỤC BIỂU.................................................................................................... v
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Đặt vấn đề ..............................................................................................................1
2. Mục đích, ý nghĩa khoa học của đề tài ................................................................2

2.1. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................2
2.2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tế của đề tài ...............................................2
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...................................................................... 3
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài ..................................................................................3
1.1.1. Cơ sở khoa học về lúa, gạo ...........................................................................3
1.1.1.1. Một vài nét về tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam và trên thế giới .3
1.1.1.2. Giá trị dinh dưỡng của thóc và các sản phẩm từ thóc: ...........................6
1.1.1.3. Một số hạn chế trong việc sử dụng thóc làm thức ăn chăn nuôi ..........10
1.1.2. Đặc điểm sinh sản và sinh trưởng của lợn ..................................................11
1.1.2.1. Đặc điểm sinh sản của lợn nái..............................................................11
1.1.2.2. Đặc điểm sinh lý, sinh trưởng của lợn con ..........................................13
1.2. Các nghiên cứu trong và ngoài nước ..............................................................24
1.2.1. Những nghiên cứu sử dụng thóc và các sản phẩm từ thóc làm thức ăn cho
lợn trên thế giới .....................................................................................................24
1.2.2. Những nghiên cứu sử dụng thóc và các sản phẩm từ thóc làm thức ăn cho
lợn ở Việt Nam ......................................................................................................25
Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................... 27
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................27
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................27
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu .....................................................................................27


ii

2.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu ..................................................................27
2.3. Nội dung nghiên cứu ........................................................................................27
2.4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................28
2.4.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm 1:................................................................28
2.4.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm 2 .................................................................31
2.5. Các chỉ tiêu theo dõi .........................................................................................33

2.5.1. Thí nghiệm 1 ...............................................................................................33
2.5.2. Thí nghiệm 2: ..............................................................................................33
2.6. Phương pháp xử lý số liệu: .............................................................................34
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ............................................................. 35
3.1. Kết quả nghiên cứu thí nghiệm 1 ....................................................................35
3.1.1. Kết quả theo dõi các chỉ tiêu sinh lý sinh dục của lợn nái sinh sản: ...........35
3.1.2. Kết quả theo dõi các chỉ tiêu về số lượng lợn con đẻ ra của lợn nái sinh sản
...............................................................................................................................37
3.1.3. Kết quả theo dõi các chỉ tiêu về sinh trưởng của lợn con giai đoạn bú sữa 39
3.1.3.1 Sinh trưởng tích lũy của lợn con theo mẹ .............................................39
3.1.3.2. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con theo mẹ .........................................41
3.1.4. Kết quả theo dõi về hiệu quả sử dụng thức ăn trong chăn nuôi lợn nái
sinh sản ..................................................................................................................43
3.1.5. Kết quả theo dõi về tình hình mắc bệnh tiêu chảy của lợn con ..................45
3.2 Kết quả thí nghiệm 2 .........................................................................................47
3.2.1. Kết quả theo dõi về tỷ lệ nuôi sống của lợn thí nghiệm..............................47
3.2.2. Kết quả theo dõi về sinh trưởng của lợn thí nghiệm ...................................47
3.2.3 Kết quả theo dõi về tình hình nhiễm bệnh đường tiêu hóa của lợn con thí
nghiệm ...................................................................................................................51
3.2.4. Kết quả theo dõi về hiệu quả sử dụng thức ăn của lợn con thí nghiệm ......53
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ..................................................................................... 57
1. Kết luận ................................................................................................................57
2. Đề nghị..................................................................................................................57
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 58


iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


STT

Ký hiệu

Nghĩa

1

Carb

2

DE

3

đ

4



: Giai đoạn

5

Kg

: Kilogam


6

KL

: Khối lượng

7

ME

: Năng lượng trao đổi

8

PTNT

: Phát triển nông thôn

9

TĂCN

: Thức ăn chăn nuôi

10

TCVN

: Tiêu chuẩn Việt nam


11

TL

: Tỷ lệ

12

TN

: Thí nghiệm

13

TT

: Tăng trọng

14

TTTĂ

: Tiêu tốn thức ăn

15

VTM

: Vitamin


16

YxL

: Yorkshire x Landrace

: Carbohydrate
: Năng lượng tiêu hóa
: Đồng


iv

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 1 ..........................................................................28
Bảng 2.2. Khẩu phần ăn cho lợn nái chửa sử dụng thóc ...........................................29
Bảng 2.3. Thành phần dinh dưỡng 1kg thức ăn cho lợn nái chửa ............................29
Bảng 2.4. Khẩu phần cho lợn nái nuôi con thí nghiệm .............................................30
Bảng 2.5. Thành phần dinh dưỡng 1kg thức ăn cho lợn nái nuôi con ......................30
Bảng 2.6. Sơ đồ bố trí thí nghiệm 2 ..........................................................................31
Bảng 2.7. Khẩu phần ăn cho lợn con sau cai sữa ......................................................32
Bảng 2.8. Thành phần dinh dưỡng 1kg thức ăn cho lợn con cai sữa ........................32
Bảng 3.1. Chỉ tiêu sinh lý sinh dục của lợn nái.........................................................35
Bảng 3.2. Số lượng lợn con đẻ/lứa của lợn nái .........................................................37
Bảng 3.3. Khối lượng của lợn con thí nghiệm qua các kỳ cân .................................39
Bảng 3.4. Sinh trưởng tuyệt đối của lợn con (g/con/ngày) .......................................41
Bảng 3.5. Tiêu tốn thức ăn/kg lợn con lúc cai sữa ....................................................44
Bảng 3.6. Tình hình mắc bệnh tiêu chảy của lợn con ...............................................46
Bảng 3.7. Kết quả theo dõi về chỉ tiêu nuôi sống của lợn con thí nghiệm ...............47
Bảng 3.8. Kết quả theo dõi về khối lượng của lợn con .............................................48

Bảng 3.9. Kết quả theo dõi về sinh trưởng tuyệt đối của lợn con .............................50
Bảng 3.10. Kết quả theo dõi về tình hình nhiễm bệnh tiêu chảy của lợn con...........52
Bảng 3.11. Kết quả theo dõi về lượng thức ăn tiêu thụ và tiêu tốn thức ăn/kg
tăng khối lượng của lợn con ...................................................................53
Bảng 3.12. Kết quả theo dõi về chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng của lợn con ....55


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, tháng 12 năm 2015
Tác giả luận văn

Hồ Thị Hiền


1

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Chăn nuôi lợn có vị trí hàng đầu trong ngành chăn nuôi nước ta. Sự hình
thành sớm nghề nuôi lợn cùng với trồng lúa nước đã khẳng định nghề nuôi lợn có vị
trí hàng đầu.
Trong chăn nuôi lợn thức ăn chiếm khoảng 70% tổng chi phí sản xuất, trong
đó chi phí của thức ăn năng lượng trong khẩu phần chiếm tỷ trọng cao nhất, sau đó
là thức ăn protein. Bởi vậy việc đánh giá giá trị năng lượng và protein trong thức ăn
là một bước quan trọng giúp cho việc xây dựng các khẩu phần tối ưu, không những

đáp ứng đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng cho con vật để đạt năng suất cao nhất mà còn
làm giảm giá thành thức ăn tới mức thấp nhất.
Ngành chăn nuôi đang vươn lên trở thành ngành sản xuất chính với tỷ trọng
đóng góp trong nông nghiệp ngày càng tăng (năm 2001: 21,9%; năm 2005: 24,2%;
năm 2010: 32,4%; dự kiến năm 2015 là 38,4%). Ngành chăn nuôi ngày càng phát
triển, nhu cầu nguồn nguyên liệu để sản xuất thức ăn chăn nuôi (TĂCN) cũng ngày
càng tăng. Theo dự báo, nhu cầu nguồn thức ăn giàu năng lượng của nước ta năm
2015 sẽ là 16,4 triệu tấn; năm 2020 là 20,6 triệu tấn, trong khi đó sản lượng ngô và
sắn sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu. Chính vì vậy, hàng
năm nước ta vẫn phải chi xấp xỉ số tiền xuất khẩu gạo thu được để nhập nguyên liệu
thức ăn chăn nuôi (Cục Chăn nuôi, 2012) [2]. Nghịch lý này đã đặt ra nhiều câu hỏi:
Liệu có sử dụng thóc làm thức ăn chăn nuôi để giảm áp lực nhập khẩu ? hoặc thay
vì xuất khẩu gạo ra nước ngoài, hãy dùng thóc và các phụ phẩm của thóc để làm
TĂCN thì lợi ích sẽ như thế nào về kinh tế và xã hội ?
Để đáp ứng được chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020 nhu cầu sử
dụng TĂCN của cả nước ước tính là 27,4 triệu tấn, như vậy với năng lực của ngành
nông nghiệp hiện nay chúng ta sẽ phải nhập nhiều hơn nữa trong khi sản lượng ngô,
lúa mì trên thế giới đang trên đà sụt giảm mạnh, giá liên tục tăng. Vì vậy, Việt Nam
phải tìm cách thoát ra khỏi sự lệ thuộc vào nguồn nguyên liệu của các nước như
hiện nay. Để giải quyết bài toán này nhiều chuyên gia cho rằng nên tính đến sự cân
bằng giữa nhập khẩu ngô, lúa mì và xuất khẩu gạo. Bởi nếu ngừng xuất khẩu một số


2

lượng gạo chất lượng thấp nhưng có năng suất cao như hiện nay thì chúng ta vừa có
thể giúp ngành chăn nuôi giải quyết khó khăn trong việc chủ động nguồn nguyên
liệu vừa tìm được chỗ đứng cho số lượng gạo chất lượng trung bình xuất khẩu với
giá thấp. Như vậy, chúng ta cần phải từng bước giành thế chủ động cho nguồn
nguyên liệu TĂCN trước hết là thay thế hạt mì, ngô bằng lúa gạo sản xuất trong

nước.
Vì những lý do trên mà chúng tôi đi đến tiến hành đề tài: “Nghiên cứu hiệu
quả sử dụng thóc và gạo gật trong chăn nuôi lợn nái và lợn con”
2. Mục đích, ý nghĩa khoa học của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá được hiệu quả sử dụng thóc trong chăn nuôi lợn nái sinh sản và gạo
lật trong chăn nuôi lợn con nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi bằng
việc thiết lập khẩu phần mới có sử dụng thóc và gạo lật.
2.2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
2.2.1. Ý nghĩa khoa học
- Nghiên cứu đưa ra được khẩu phần ăn thích hợp sử dụng thóc cho lợn nái
sinh sản và gạo lật cho lợn con đáp ứng nhu cầu dinh duỡng để đạt được năng suất
và hiệu quả kinh tế cao.
2.2.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước có giá trị dinh dưỡng cao
(thóc, gạo lật) cho ngành chăn nuôi lợn nói riêng và ngành chăn nuôi nói chung,
nhằm giảm thiểu chi phí đầu tư thức ăn công nghiệp bằng nguyên liệu nhập khẩu
vừa đắt tiền vừa không đảm bảo chất lượng (ngô, lúa mỳ,…).


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở khoa học về lúa, gạo
1.1.1.1. Một vài nét về tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam và trên thế giới
Lúa là cây trồng có truyền thống lịch sử lâu đời, hiện đang được canh tác ở
hơn 100 quốc gia trên thế giới với tổng diện tích trên 150 triệu ha, là nguồn cung
cấp lương thực chủ yếu cho một nửa dân số thế giới. Châu Á là nơi sản xuất lúa chủ

lực, chiếm 92% tổng sản lượng thóc toàn cầu. Tám nước có sản lượng thóc lớn nhất
trên thế giới là (triệu tấn): Trung Quốc (140,7); Ấn Độ (106,5); Indonesia (44,9);
Việt Nam (29,3,); Thái Lan (25,2); Brazil (7,9); Hoa Kỳ (6,8) và Pakistan (6,1),
FAO (2012) [15]. Về diện tích trồng lúa và sản lượng thóc sản xuất hàng năm, Việt
Nam xếp thứ năm sau Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Bangladesh, nhưng là một
nước có truyền thống và kỹ thuật canh tác lúa nước tiên tiến, năng suất lúa ở nước
ta chỉ sau Nhật Bản, Trung Quốc và Indonesia. Theo USDA (2013) [35], tổng diện
tích lúa 3 vụ năm 2012 ở nước ta khoảng 7,7 triệu ha, sản lượng đạt 43,3 triệu tấn.
Lúa nước được canh tác ở hầu hết các vùng trong cả nước, nhưng diện tích và sản
lượng lớn nhất tập trung ở vùng đồng bằng sông Cửu Long với 4,2 triệu ha (chiếm
54,5%) và 24,5 triệu tấn thóc (chiếm 56,6% sản lượng cả nước). Mặc dù diện tích
gieo trồng tăng không đáng kể, nhưng từ những năm 1990 đến nay, do ứng dụng
những tiến bộ mới về giống và kỹ thuật canh tác, năng suất liên tục tăng (từ dưới 4
tấn/ha trong những năm 1990 đến xấp xỉ 6 tấn/ha trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21),
nhờ đó mà sản lượng thóc cũng liên tục tăng (bình quân 3,7%/năm) và đưa nước ta
từ một nước khủng hoảng thiếu về lương thực (những năm 1980 của thế kỷ trước)
đến địa vị một nước có sản lượng gạo xuất khẩu lớn thứ hai trên thế giới. Trung
Quốc, Ấn Độ và Indonesia tuy là những nước có diện trồng lúa và sản lượng thóc
lớn nhất thế giới, nhưng sản lượng thóc tính bình quân đầu người cũng chỉ đạt 120
kg đến 160 kg, bằng 30% đến 40% so với Việt Nam.
Bức tranh về tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam được phối cảnh với bức
tranh chung của khu vực châu Á và thế giới đã tạo một ấn tượng mạnh về một nền


4

nông nghiệp lúa nước tiên tiến. Năng suất tăng, sản lượng tăng, nhưng sức tiêu thụ
thóc gạo của người dân Việt Nam trong những năm gần đây không những không
tăng mà có xu hướng giảm, mặc dù dân số nước ta vẫn không ngừng tăng. Theo
thống kê, mức tiêu thụ thóc ở nước ta năm 2000 là 142 kg/đầu người; năm 2005 là

136 kg; năm 2010 là 132 kg (Niên giám thống kê, 2011)[6]. Ngược lại với xu
hướng trên, mức tiêu thụ các sản phẩm chăn nuôi của người Việt Nam liên tục tăng.
Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (PTNT) (2009) [1], mức
tiêu thụ thịt bình quân đầu người ở nước ta năm 2002 là 26,9 kg; năm 2005 là 34,3
kg và 2008 là 40,5 kg. Ngành chăn nuôi đang vươn lên trở thành ngành sản xuất
chính với tỷ trọng đóng góp trong nông nghiệp ngày càng tăng (năm 2001: 21,9%;
năm 2005: 24,2%; năm 2010: 32,4% dự kiến năm 2015 là 38,4%). Ngành chăn nuôi
ngày càng phát triển, nhu cầu nguồn nguyên liệu để sản xuất thức ăn chăn nuôi cũng
ngày càng tăng. Theo dự báo, nhu cầu nguồn thức ăn giàu năng lượng trong chăn
nuôi của nước ta năm 2015 sẽ là 16,4 triệu tấn; năm 2020 là 20,6 triệu tấn, trong khi
đó sản lượng ngô và sắn sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 60% nhu
cầu. Chính vì vậy, hàng năm nước ta vẫn phải chi xấp xỉ số tiền xuất khẩu gạo thu
được để nhập nguyên liệu thức ăn chăn nuôi (Cục Chăn nuôi, 2012) [2]. Để đáp ứng
được chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020 thì chúng ta sẽ phải nhập nhiều
hơn nữa trong khi sản lượng ngô, lúa mì trên thế giới đang trên đà sụt giảm mạnh,
giá liên tục tăng. Vì vậy, Việt Nam phải tìm cách thoát ra khỏi sự lệ thuộc vào
nguồn nguyên liệu của các nước như hiện nay. Để giải quyết bài toán này nhiều
chuyên gia cho rằng nên tính đến sự cân bằng giữa nhập khẩu ngô, lúa mì và xuất
khẩu gạo. Bởi nếu ngừng xuất khẩu một số lượng gạo chất lượng thấp nhưng có
năng suất cao như hiện nay thì chúng ta vừa có thể giúp ngành chăn nuôi giải quyết
khó khăn trong việc chủ động nguồn nguyên liệu vừa tìm được chỗ đứng cho số
lượng gạo chất lượng trung bình xuất khẩu với giá thấp, ví dụ như giống lúa lai cao
sản IR50404. Có như vậy, chúng ta mới từng bước giành được thế chủ động cho
nguồn nguyên liệu TĂCN trước hết là thay thế hạt mì, ngô bằng lúa gạo sản xuất
trong nước.


5

Đôi nét về tình hình sản xuất giống lúa lai cao sản IR50404 trong những

năm qua: Trong những năm qua, giống lúa lai cao sản IR50404 được nhiều nông
dân ưa chuộng bởi năng suất chất lượng cao, năng suất đạt từ 6 - 8 tấn/ha, diện tích
sử dụng gieo trồng giống lúa này chiếm khoảng 30 - 40% diện tích trồng lúa, thậm
chí có vùng lên đến 70% như huyện Châu Thành - Tỉnh Kiên Giang. Tuy nhiên,
mấy năm trở lại đây nó lại gặp vấn đề khó khăn trong xuất khẩu.
Hiện nay, nông dân tỉnh Kiên Giang đang với niềm vui được mùa, năng suất
bình quân 6,3 tấn/ha với giống lúa IR50404 thì một bộ phận không nhỏ lại đang
loay hoay tìm đầu ra tiêu thụ sản phẩm, bởi dù giá bán khá thấp so với những loại
lúa thương phẩm hàng hóa khác nhưng thương lái vẫn không thu mua. Tại các vùng
trọng điểm lúa như U Minh Thượng, Vĩnh Thuận, Giồng Riềng, Tân Hiệp, Gò
Quao, Châu Thành…, trên các phương tiện thu mua lúa, thương lái gắn bảng “lúa
504… không mua” nên nông dân không bán được, dù giá lúa chỉ ở mức 4.000 - 4.200
đồng/kg trong khi giá thị trường các giống lúa khác rơi vào khoảng 6.000 - 6.400
đồng/kg. Bên cạnh đó, sản lượng lúa này đang tồn trữ khá lớn, nông dân rất cần bán để
thanh toán chi phí đầu tư sản xuất, trả nợ ngân hàng và trang trải sinh hoạt.
Nguyên nhân do những vụ mùa trước, loại lúa này bán có giá nhờ thị trường
xuất khẩu gạo cấp thấp thuận lợi, giống lúa IR 50404 luôn đạt năng suất từ 6 - 8
tấn/ha, nên nhiều nông dân vẫn chuộng loại giống này để gieo trồng.
Theo nhiều thương lái, sở dĩ không mua lúa IR50404 do đây là sản phẩm
nông sản chất lượng thấp, chưa ký được hợp đồng mới xuất khẩu loại gạo này với
đối tác; thị trường xuất khẩu gạo những tháng đầu năm nay gặp rất nhiều khó khăn
và cạnh tranh khá gay gắt, bởi các thị trường gạo cấp thấp đang nổi lên; giá lúa
xuống thấp, diễn biến khó lường, nếu mua vào rủi ro rất lớn, thua lỗ khó tránh khỏi.
Để tránh tình trạng “được mùa mất giá” trong những vụ mùa tới, ngành nông
nghiệp nên triển khai thực hiện liên kết “4 nhà” theo hướng doanh nghiệp và nông
dân liên kết sản xuất theo các mô hình cánh đồng mẫu lớn.
Chính vì vậy, đây là nguồn nguyên liệu lớn mà giá thành có thể cạnh tranh
để sử dụng làm thức ăn chăn nuôi một cách dễ dàng và hiệu quả.



6

1.1.1.2. Giá trị dinh dưỡng của thóc và các sản phẩm từ thóc:
Thóc không chỉ là thực phẩm truyền thống của người Việt Nam nói riêng,
châu Á và thế giới nói chung, mà còn là nguồn nguyên liệu thức ăn dùng trong chăn
nuôi. Dùng cám nuôi lợn, dùng thóc nuôi gà, ngan, vịt đã rất quen thuộc với người
nông dân Việt Nam từ hàng nghìn năm nay. Nhưng về khía cạnh khoa học, vẫn còn
nhiều câu hỏi chưa được trả lời thoả đáng. Nếu như ngô, lúa mỳ, yến mạch, cao
lương…vv được nghiên cứu khá kỹ về thành phần hoá học, giá trị dinh dưỡng và
cách thức sử dụng, thì các sản phẩm từ thóc (cám, gạo lật, tấm) và đặc biệt là thóc
nguyên hạt chưa được nghiên cứu nhiều. Hiện số lượng các công trình nghiên cứu
sử dụng thóc làm thức ăn chăn nuôi rất khiêm tốn, ngay cả ở những trung tâm
nghiên cứu lớn như AFRC (Vương quốc Anh), NRC (Mỹ) hay INRA (Pháp) cũng
không có nhiều nghiên cứu về lĩnh vực này. Bằng chứng là cho đến năm 1998,
trong cơ sở dữ liệu của NRC (1998)[27] vẫn không đề cập đến thóc. Vậy thóc và
các sản phẩm từ thóc có vị trí như thế nào trong chăn nuôi ?, những yếu tố dinh
dưỡng nào là trở ngại khiến cho người chăn nuôi không mặn mà với việc sử dụng
thóc như ngô, lúa mỳ, sắn và một số nguyên liệu khác ?...vv.
Theo cách phân loại trong hệ thống thông tin nguồn thức ăn chăn nuôi
"Animal Feed Resources Information System" của tổ chức Nông Lương Quốc tế
(FAO, INRA, CIRAD, 2012) [15], thóc được xếp vào nhóm các loại hạt ngũ cốc
(cereal grains) gồm: Ngô, lúa mỳ, yến mạch, …vv. Hạt thóc gồm hai phần chính là
vỏ trấu và hạt gạo. Bao bọc bên ngoài hạt gạo là một lớp vỏ lụa mỏng. Khi được
xay (tách vỏ trấu) sẽ thu được hai sản phẩm gồm vỏ trấu (từ 16% đến 28%, trung
bình 20%); gạo lật (72 - 84%, trung bình 80%). Gạo lật khi được xát bỏ lớp vỏ lụa
được gạo xát máy và cám (11%). Để xuất khẩu, gạo xát máy được đánh bóng và thu
được gạo trắng (67% so với thóc) và tấm (2%) (Juliano, 1988) [22]. Phụ thuộc vào
nguồn gốc, kỹ thuật chế biến mà thóc và các sản phẩm từ thóc (gạo lật, cám, tấm…vv)
có thành phần hoá học, giá trị dinh dưỡng và giá trị nuôi dưỡng khác nhau.
Xét về khía cạnh dinh dưỡng, thóc và các sản phẩm từ thóc được xếp vào

nhóm nguyên liệu thức ăn giàu năng lượng với thành phần chủ yếu là các hydrate
carbon. Tuy nhiên, thành phần và đặc điểm cấu trúc các hydrate carbon của thóc và


7

các sản phẩm từ thóc rất khác nhau. Ở hạt gạo lật và gạo xát máy, nguồn hydrate
carbon chủ yếu là tinh bột (64,0% - 77,6%), một lượng nhỏ đường tự do (0,22% 0,45%). Phụ thuộc vào từng giống lúa mà tỷ lệ amylose và amylopectin trong tinh
bột gạo rất khác nhau, nhưng nhìn chung tỷ lệ amylase dao động từ 15% đến 30%
và amylopectin từ 70% đến 80%. Ở gạo lật và gạo xát máy, tỷ lệ xơ thô rất thấp (từ
0,2% đến 1,0%) trong đó chủ yếu là pentosans. Hàm lượng xơ thô của cám gạo rất
biến động (từ 10,0% đến 15,0%), thành phần cấu trúc xơ của cám gạo và vỏ trấu
chủ yếu là xellulose, hemicellulose, pentosans và lignin. Đây là điểm hạn chế khi sử
dụng thóc làm thức ăn chăn nuôi cho gia súc dạ dày đơn với tỷ lệ cao và nhất là đối
với lợn.
Khẩu phần thức ăn xơ nhìn chung có hàm lượng năng lượng rất thấp. Bởi
vậy, việc tăng các nguyên liệu thức ăn xơ trong khẩu phần sẽ dẫn đến làm giảm hàm
lượng năng lượng nếu không bổ sung thức ăn giàu năng lượng vào khẩu phần. Nếu
khẩu phần ăn có hàm lượng xơ cao thì thể tích dịch tiêu hoá sẽ tăng lên trong đường
tiêu hoá và giảm thời gian thoát qua của dịch tiêu hoá, chính vì vậy dẫn tới tỷ lệ tiêu
hoá của các thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần giảm. Theo Li và cộng sự
(1994) [43] đã chỉ ra rằng khẩu phần thức ăn xơ đã làm giảm đáng kể tỷ lệ tiêu hoá
của các chất dinh dưỡng, đặc biệt là năng lượng và protein. Tuy nhiên chúng ta
cũng không thể phủ nhận những mặt có lợi của khẩu phần thức ăn xơ, bởi một thực
tế rằng khẩu phần thức ăn xơ làm tăng thức ăn ăn vào và kích thích sự nhu động
trong đường tiêu hoá. Hơn nữa, nguồn năng lượng cung cấp cho cơ thể từ các a xít
béo bay hơi mà được sản sinh trong quá trình lên men vi sinh vật của thức ăn xơ
trong ruột già và ruột tịt là rất đáng kể.
Mặc dù năng suất sinh trưởng bị ảnh hưởng bất lợi bởi khẩu phần thức ăn xơ
ở bất cứ mức xơ nào, nhưng tốc độ tăng trưởng phần nào được cải thiện nhờ sự tăng

tính ngon miệng và thức ăn ăn vào. Tuy nhiên, sự tăng này phụ thuộc vào nguồn xơ
được sử dụng và loại lợn như độ tuổi, thể trọng và giống lợn.
Trong số các hạt ngũ cốc, thóc có hàm lượng protein thấp. Do hàm lượng
glutelin cao (92% trong tổng số protein), nên hệ số 5,95 được đề nghị sử dụng để
tính toán hàm lượng protein thô của thóc và gạo. Với cách tính này, hàm lượng
protein thô của thóc dao động từ 5,8 đến 7,7%; gạo lật: 7,1% - 8,3% ; và gạo xát
máy: 6,3 - 7,1%. Nhưng các nhà dinh dưỡng động vật thay vì dùng hệ số này (5,95),


8

lại sử dụng hệ số 6,25. Với cách tính như vậy, hàm lượng protein trong thóc dao
động từ 7,1% đến 11,9% trong vật chất khô.
Do hàm lượng albumin và globulin thấp (2-10% trong protein), nên giá trị
sinh học của protein ở thóc và gạo không cao, axit amin giới hạn số một ở thóc và
gạo đối với lợn là lysine. Nhưng khi đánh giá giá trị protein theo điểm axit amin =
100* (mg axit amin thiết yếu trong protein)/(mg axit amin thiết yếu ở protein lý
tưởng cho người), tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho thấy, điểm amino axit của gạo
(61), cao hơn so với lúa mỳ (39), mặc dù hàm lượng protein thô của lúa mỳ cao hơn
gạo tới 30%. Hiện nay, nhiều giống lúa, đặc biệt là các giống lúa lai với chất lượng
hạt khác nhau được canh tác ở nước ta, nên chất lượng protein của thóc và gạo cũng
rất khác biệt. Do đó, rất cần được đánh giá trước khi sử dụng trong chăn nuôi.
Ở hạt gạo lật và gạo xát máy, lipit tồn tại chủ yếu ở phôi, nội nhũ và lớp vỏ
lụa (cám). Phần lớn lipit ở gạo và cám là lipid trung tính với thành phần axit béo
chủ yếu là palmitic and linoleic. Ngoài các triglyceride, trong hạt gạo và đặc biệt là
cám còn có hàm lượng đáng kể các axit béo tự do, sterol và các diglyceride, chúng
rất dễ bị oxy hóa trong quá trình bảo quản.
Theo Ninh Thị Len và cs, (2011)[4] hàm lượng chất hữu cơ và protein thô
giữa gạo lật giống lúa IR50404 và ngô vàng Sơn La không có sự khác biệt. Chất
hữu cơ ở gạo lật là 98,45%, ở ngô là 96,70%; Protein thô ở gạo lật là 8,91%, ở ngô

là 8,69%. Nhưng ở ngô hàm lượng chất béo, xơ thô, NDF và khoáng tổng số cao
hơn gạo lật. Ở ngô các chỉ số này lần lượt là: 5,95; 3,19; 11,02; 3,03, tương ứng với
gạo lật là: 2,56; 1,49; 4,32; 1,55. So với hai loại thức ăn trên thóc (giống lúa
IR50404) có hàm lượng vật chất khô tương tự, nhưng hàm lượng protein thô thấp
hơn (7,28), hàm lượng xơ thô, NDF và khoáng tổng số cao hơn rất đáng kể ( tương
ứng là: 1,97; 12,31; 17,84; 5,33). Sở dĩ cùng là nguồn nguyên liệu có nguồn gốc từ
giống lúa IR50404, nhưng thóc có hàm lượng protein thấp là vì có vỏ trấu nên
không chỉ hàm lượng protein thấp hơn mà hàm lượng chất xơ, đặc biệt là NDF cao
hơn rất nhiều so với gạo lật và ngô.
Ngô, gạo lật, thóc cung cấp rất nhiều loại axit amin trong đó có 10 loại axit
amin thiết yếu mà lợn không có khả năng tự tổng hợp được. Xét về thành phần một
số axit amin quan trọng như histidine, threonine, methionine, phenylalanine thì ở


9

ngô và gạo lật không có sự khác nhau đáng kể. Tuy nhiên, so với ngô gạo lật giàu
arginine, valine và lysine hơn. Nhưng so với ngô và gạo lật, hàm lượng một số loại
axit amin quan trọng của thóc (histidine, threonine, methionine và lysine) khá thấp.
Thành phần hóa học phản ánh tiềm năng của nguyên liệu thức ăn về lượng,
nhưng không đánh giá được giá trị nuôi dưỡng. Để khảo sát giá trị nuôi dưỡng, các
nguyên liệu thức ăn cần phải được đánh giá về khả năng tiêu hóa các chất dinh
dưỡng. Tỷ lệ tiêu hóa tổng số của một số chất dinh dưỡng cơ bản như vật chất khô,
chất hữu cơ, dẫn xuất không chứa ni tơ ở gạo lật cao hơn ngô, nhưng tỷ lệ tiêu hóa
protein ở 2 loại nguyên liệu tương đương nhau (81,5% và 81,6%). Theo Ninh Thị
Len và cs, (2011)[4] khả năng tiêu hóa thóc ở lợn thấp hơn tiêu hóa ngô, đặt biệt là
khả năng tiêu hóa chất hữu cơ, protein, chất béo và khoáng tổng số. Nếu tỷ lệ tiêu
hóa protein thô của ngô và gạo lật ở lợn đạt trên 80%, thì đối với thóc tỷ lệ này chỉ
đạt 57,7%. Tương tự, tỷ lệ tiêu hóa lipit ở thóc chỉ đạt 53%, trong khi đó các giá trị
này ở ngô là 85,3% và ở gạo lật là 72,0%. Một số nghiên cứu gần đây ở Trung Quốc

cho thấy, tỷ lệ tiêu hoá các chất dinh dưỡng trong khẩu phần có gạo lật cao hơn so
với khẩu phần cơ sở là ngô (Piao và cs, 2002[29], Zhang và cs, 2002[40]). Một số
nghiên cứu cũng cho thấy, khi tăng tỷ lệ thóc trong khẩu phần lên 50% và 60%, tỷ
lệ tiêu hóa vật chất khô, chất hữu cơ và protein ở lợn giảm đáng kể.
Tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng, đặc biệt là tỷ lệ tiêu hóa năng lượng thô
ảnh hưởng quyết định đến giá trị năng lượng tiêu hóa (DE) và năng lượng trao đổi
(ME) trên lợn. Tỷ lệ tiêu hóa năng lượng thô của thóc ở lợn cũng khá thấp (81,2%),
trong khi ở ngô 88,7% và gạo lật 90,7%. Điều này dẫn đến năng lượng thô (GE),
năng lượng tiêu hóa (DE), năng lượng trao đổi (ME) của thóc sẽ thấp hơn của ngô
và gạo lật. Giá trị GE của thóc, gạo lật và ngô lần lượt là: 4127 ± 24,5; 4261 ± 10,3;
4366 ± 27,6. Giá trị DE tương ứng là: 3353 ± 83,0; 3866 ± 54,0; 3882 ± 20,3. Và sự
khác biệt rõ rệt là giá trị ME: 3216 ± 115,0; 3767 ± 49,0; 3779 ± 20,0. (Ninh Thị
Len và cs, 2011) [4].
Hiện nay, trên thế giới không có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
xác định giá trị DE và ME của thóc trên lợn. Vì vậy rất cần có những nghiên cứu cụ
thể hơn về vấn đề này.


10

1.1.1.3. Một số hạn chế trong việc sử dụng thóc làm thức ăn chăn nuôi
Trở ngại dinh dưỡng lớn nhất khi sử dụng thóc nguyên hạt làm thức ăn cho
động vật dạ dày đơn là ở đặc điểm cấu trúc và thành phần của vỏ trấu. Thành phần
cơ bản trong chất hữu cơ của vỏ trấu là xellulose, hemicellulose và liglin. Các thành
phần này liên kết chặt chẽ với nhau và được "bê tông hoá" bởi một số loại khoáng
chất như oxyt canxi (CaO); oxyt sắt (Fe2O3), oxyt nhôm (Al2O3), oxyt silic
(SiO2)…vv, trong đó oxyt silic chiếm tỷ lệ cao nhất (67,3%). Vì lý do đó, nên về
phương diện kỹ thuật, thóc rất ít khi được dùng ở dạng thô (nguyên hạt) vì tính thô
ráp của lớp vỏ trấu làm ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng lợi dụng thức ăn của vật
nuôi. Các thí nghiệm trên vật nuôi cho thấy, khi loại bỏ vỏ trấu, tỷ lệ tiêu hóa năng

lượng thô của gạo lật và tấm cao hơn ngô và lúa mỳ, nhưng khi dùng thóc nguyên
hạt, tỷ lệ tiêu hóa năng lượng thô của thóc ở lợn giảm đi 25% so với gạo lật và tấm.
Do tỷ lệ tiêu hoá năng lượng thô thấp, nên giá trị năng lượng thuần (NE) trên lợn
của thóc chỉ bằng 72 -77% so với ngô và lúa mỳ (PHILSAN, 2003 [28]. Ngoài ra, ở
thóc và các sản phẩm từ thóc (gạo lật, cám, tấm) còn tồn tại một số chất kháng dinh
dưỡng như phytin, chất ức chế trypsin và ức chế các proteinase.
Một hạn chế quan trọng khác làm cho thóc không được sử dụng nhiều trong
chăn nuôi là vấn đề hiệu quả kinh tế. Về khía cạnh kinh tế, tính cạnh tranh trong sử
dụng một nguyên liệu nào đó để sản xuất thức ăn chăn nuôi phụ thuộc chủ yếu vào
giá tiền tính cho một đơn vị giá trị dinh dưỡng (năng lượng, protein…vv). Thực tế,
trong những năm qua, thóc vẫn không có được những lợi thế về giá. Theo USDA
(2012)[34] trong năm 2011, giá thóc đứng ở mức 6500 đ/kg, trong khi đó giá ngô
trong nước là 6750 đ/kg; giá ngô nhập khẩu là 6550 đ/kg; giá lúa mỳ nhập khẩu là
6400 đ/kg. Với giá thực tế trên, thì giá tiền cho 1 MJ năng lượng trao đổi của ngô và
lúa mỳ thấp hơn nhiều (chỉ bằng 72% đến 74%) so với thóc. Tương tự như vậy, giá
tiền cho 1% protein của thóc cao hơn so với ngô và lúa mỳ từ 5,9 đến 10%. Đây là
lý do cơ bản khiến cho thóc không được sử dụng nhiều để sản xuất thức ăn cho lợn
và gia cầm ở quy mô công nghiệp. Với giá thóc không cạnh tranh như phân tích ở
trên, thì thóc chỉ được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi với số lượng rất khiêm tốn,
chủ yếu ở khu vực chăn nuôi nông hộ. Để có thể được sử dụng với số lượng lớn ở
quy mô công nghiệp, giá tiền trên 1 MJ năng lượng trao đổi của thóc ít nhất phải


LỜI CÁM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài tốt nghiệp, ngoài sự
nỗ lực của bản thân tôi còn nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ quý báu của
nhà trường, các thầy giáo, cô giáo, các bạn đồng nghiệp và gia đình.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới hai Thầy hướng dẫn: PGS.TS. Trần Văn
Phùng và TS. Trần Quốc Việt đã dày công giúp đỡ tôi về mặt trí tuệ, thời gian và
công sức chỉ bảo tận tình tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi xin cám ơn Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên – Phòng Đào tạo
sau Đại học - Khoa Chăn nuôi thú y và quý thầy cô đã giảng dạy tôi trong quá trình
học tập.
Tôi xin cám ơn Ban giám đốc Viện Chăn nuôi, Phòng Đào tạo và thông tin,
các Cô, Chú, Anh, Chị Bộ môn Dinh dưỡng và thức ăn Chăn nuôi đã giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện đề tài.
Và cuối cùng tôi dành tình cảm và lời cám ơn tới gia đình, chồng và con tôi
đã động viên, khích lệ và chia sẻ những khó khăn và tạo điều kiện thời gian cho tôi
trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.

Hà Nội, tháng 12 năm 2015
Tác giả luận văn

Hồ Thị Hiền


12

Trong điều kiện chăn nuôi dù là chăn nuôi lợn nái bất cứ khu vực nào thì thời gian
cho con bú của lợn nái cũng thấp hơn 60 ngày, các trại chăn nuôi với quy mô trung
bình và nhỏ thì hiện nay cũng đã thực hiện được tách con lúc 21 ngày tuổi. Đó là
một yếu tố góp phần làm tăng năng suất sinh sản của lợn nái.
Theo Nguyễn Khắc Tích (1995) [8] thì khả năng sản xuất của lợn nái chủ
yếu được đánh giá dựa vào chỉ tiêu số lợn con cai sữa/nái/năm. Trong khi đó số lợn
con cai sữa/nái/năm phụ thuộc vào 2 yếu tố: Số con đẻ ra/lứa và số lứa đẻ/nái/năm.
Số con đẻ ra còn sống là số con sống sau khi lợn mẹ đẻ xong con cuối cùng,
không tính những con có khối lượng < 0,5kg đối với lợn ngoại. Chỉ tiêu này cho
biết khả năng đẻ nhiều hay ít con của lợn nái, kỹ thuật chăm sóc lợn nái chửa, kỹ
thuật thụ tinh nhân tạo, chất lượng tinh dịch của đực giống. Bên cạnh đó là tỷ lệ
sống đến 24 giờ sau khi đẻ, tỷ lệ này không bảo đảm đạt 100% do nhiều nguyên

nhân như lợn con chết khi đẻ ra, thai gỗ, thai non, chết do mẹ đè.
Số lợn con cai sữa/lứa: Đây là chỉ tiêu rất quan trọng thể hiện trình độ chăn
nuôi lợn nái sinh sản. Nó quyết định năng suất và ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả
kinh tế của quá trình chăn nuôi. Số lợn con cai sữa/lứa đẻ tùy thuộc kỹ thuật chăn
nuôi lợn nái nuôi con, nuôi lợn con theo mẹ cũng như khả năng tiết sữa của lợn mẹ
và khả năng phòng bệnh của lợn con. Mặt khác, số con cai sữa/lứa phụ thuộc số con
để nuôi. Nên tiêu chuẩn hóa số con để nuôi/lứa từ 8-10 con, nếu số con nhiều hoặc
ít hơn cần có sự điều phối giữa các lợn nái.
Số con cai sữa/lứa hay tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa còn chịu ảnh hưởng của
một số yếu tố như di truyền (4,5%), nhiễm khuẩn (11,1%), mẹ đè + thiếu sữa
(50%); dinh dưỡng kém (8%) và do nguyên nhân khác (26,4%).
Khối lượng 21 ngày tuổi toàn ổ: Được sử dụng để đánh giá khả năng tiết sữa
của lợn mẹ và khả năng tăng trọng của đàn con. Vì giai đoạn này khả năng tiết sữa
của lợn mẹ đạt đỉnh cao về số lượng và chất lượng, sau đó giảm dần. Đây chính là
cơ sở của việc vận dụng để cai sữa sớm cho lợn con ở ngày thứ 21.
Tỷ lệ hao hụt của lợn mẹ: Sau khi mang thai, đẻ, nuôi con, lợn mẹ có sự thay
đổi về khối lượng, nếu gầy sút quá sẽ ảnh hưởng tới thời gian động dục trở lại của
lợn nái và ảnh hưởng tới năng suất lứa tiếp theo. Nếu lợn nái có chất lượng, số
lượng sữa tốt thì nhất định sẽ bị hao mòn thể trạng, tỷ lệ hao mòn trung bình là 15-


13

16%. Sự hao mòn lợn mẹ thay đổi theo các lứa: Ở lứa 1, lứa 2 là 29 kg và 33kg, lớn
nhất ở lứa đẻ thứ 5 tới 43kg, sau đó giảm dần ở các lứa thứ 6, thứ 7 (42; 31 kg). Lợn
mẹ hao mòn có ảnh hưởng tới số trứng rụng ở chu kỳ sau, nếu hao mòn 20 kg thì số
trứng rụng lần sau là 5, còn hao mòn 5kg thì số trứng rụng là 20. Nếu lợn mẹ hao
mòn dưới 15kg thì sẽ động dục trở lại trong vòng 10 ngày, còn từ 22 - 35 kg thì thời
gian động dục là 15 - 20 ngày, (Võ Trọng Hốt và cộng sự, 2000) [3].
Khoảng cách lứa đẻ: Được tính từ ngày đẻ lứa trước đến ngày đẻ lứa tiếp

theo gồm thời gian nuôi con cộng với thời gian chờ động dục trở lại sau cai sữa và
thời gian chửa. Nếu khoảng cách lứa đẻ ngắn thì số lứa đẻ/nái/năm tăng lên. Trong
3 yếu tố cấu thành khoảng cách lứa đẻ thì thời gian có chửa không thể rút ngắn
được, cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến để rút ngắn khoảng thời gian
nuôi con lại. Hiện nay đã áp dụng cai sữa sớm cho lợn con ở 21 ngày tuổi và cho
lợn nái ăn theo chế độ phù hợp nhằm rút ngắn thời gian động dục trở lại sau cai sữa.
Nhiều nhà chăn nuôi đề nghị nên cai sữa lợn con trong khoảng 21 - 28 ngày
tuổi là cho hiệu quả kinh tế cao nhất, nếu cai sữa lợn con vào 21 ngày tuổi thì giảm
chi phí cho thời gian sản xuất 1 kg lợn con xuống 20% so với cai sữa ở 56 ngày
tuổi. Ngược lại cai sữa lợn con trên 28 ngày tuổi cũng như dưới 10 ngày tuổi sẽ làm
giảm số con cai sữa/nái/năm cũng như năng suất sinh sản lợn nái.
Theo Whittemore (1993) [38] cai sữa trước 21 ngày sau khi đẻ có thể làm
giảm tỷ lệ thụ thai, giảm số lượng trứng rụng và tăng tỷ lệ chết của hợp tử trong giai
đoạn chửa phối tiếp theo của lợn nái. Histoshi Mikami (1994) [20] cho rằng thời
gian động dục trở lại sau cai sữa của lợn nái có mối tương quan nghịch với tuổi cai
sữa của lợn con. Thông thường cai sữa của lợn con ở độ tuổi dưới 21 ngày, thời
gian động dục trở lại của lợn nái kéo dài gấp 3 - 5 lần so với cai sữa ở 30 - 35 ngày
tuổi. Nguyên nhân là do tử cung lợn mẹ chưa có đủ thời gian phục hồi trở lại khi cai
sữa lợn con quá sớm.
1.1.2.2. Đặc điểm sinh lý, sinh trưởng của lợn con
* Đặc điểm tiêu hoá: Tiêu hoá và hấp thu là chức năng cơ bản của đường tiêu
hoá. Đường tiêu hoá của lợn bao gồm miệng, họng, thực quản, dạ dày, ruột non,
ruột tịt và ruột già. Lợn con sinh trưởng, phát dục nhanh song những tuần đầu bị
hạn chế do chức năng cơ quan tiêu hoá chưa hoàn thiện.
Tiêu hoá ở miệng: Ở miệng, sự nhai làm giảm kích cỡ của các mẩu thức ăn


14

và thức ăn được trộn lẫn với nước bọt. Nước bọt bao gồm 99% nước và 1% còn

lại chứa mucin, muối vô cơ và men amylaza và lizozym (Mc Donald và cộng
sự,1995) [24].
Lợn mới sinh những ngày đầu hoạt tính amylaza nước bọt cao, cao nhất ở
ngày thứ 14 đối với lợn con tách mẹ sớm, còn lợn con do mẹ nuôi phải đến ngày
thứ 21. Tuỳ lượng thức ăn đưa vào mà lượng tiết khác nhau. Thức ăn ở dạng khô thì
nước bọt tiết ra mạnh, thức ăn ở dạng lỏng thì giảm hoặc ngừng tiết dịch. Lượng
nước bọt còn phụ thuộc vào số lần cho ăn, chất lượng thức ăn. Nếu ăn chỉ 1 loại
thức ăn kéo dài sẽ làm tăng nhiệm vụ cho 1 tuyến, gây ức chế, lợn ít thèm ăn.
Ngược lại, ăn nhiều loại thức ăn khác nhau cả 2 tuyến hoạt động mạnh sẽ gây thèm
ăn và tiêu hoá tốt thức ăn.
Do hoạt tính của men amylaza và mantaza có ở trong nước bọt của lợn con
mới đẻ ra dưới 3 tuần tuổi còn thấp, do đó khả năng tiêu hoá tinh bột của lợn con
còn kém, chỉ tiêu hoá được khoảng 50% lượng tinh bột ăn vào. Đối với tinh bột
sống, lợn con tiêu hoá càng kém cho nên các loại thức ăn cần được xử lý chín trước
khi cho ăn. Sau 3 tuần tuổi, 2 men này có hoạt tính mạnh dẫn đến khả năng tiêu hoá
tinh bột của lợn con tốt hơn (Võ Trọng Hốt và cộng sự, 2000) [3].
Tiêu hoá ở dạ dày: Dạ dày lợn có chức năng dự trữ và tiêu hoá thức ăn. Lợn
con 10 ngày tuổi dung tích gấp 3 lần lúc sơ sinh, lúc 20 ngày gấp 8 lần và lúc 60
ngày tuổi gấp 60 lần (dung tích dạ dày lúc sơ sinh khoảng 0,03lít). Sau đó tăng
chậm đến tuổi trưởng thành đạt 3,5 - 4 lít (Võ Trọng Hốt và cộng sự, 2000) [3].
Dịch vị tiết ra tương ứng với sự phát triển của dung tích dạ dày, tăng mạnh
nhất ở 3 - 4 tháng tuổi sau đó kém hơn. Lợn con 20 ngày tuổi, phản xạ tiết dịch vị
chưa rõ. Ban đêm, lợn mẹ nhiều sữa kích thích sự tiết dịch vị ở lợn con cao hơn.
Khi cai sữa, lượng dịch vị tiết ra ngày đêm gần bằng nhau.
Enzym trong dịch vị đã có từ khi lợn con mới đẻ nhưng trước 20 ngày tuổi
khả năng tiêu hoá rất kém vì dịch vị thiếu HCl. Sau 25 ngày tuổi, trong dịch vị lợn
con mới có HCl ở dạng tự do và men pepsinogen tiết ra ở dạng chưa hoạt động
được. Nhờ HCl hoạt hoá thành men pepsin hoạt động thì men này mới có khả năng
tiêu hoá thức ăn. Hoạt lực của enzym pepsin tăng lên theo tuổi một cách rõ rệt. Ở 9



15

ngày tuổi có thể tiêu hoá 30 mg fibrin trong 19 giờ, 28 ngày tuổi chỉ cần 2 - 3 giờ
đến 50 ngày tuổi chỉ cần 1 giờ (Nguyễn Khắc Tích, 2002) [10]. Do thiếu HCl ở
dạng tự do nên lợn con dưới 25 ngày tuổi rất dễ bị vi khuẩn có hại xâm nhập vào
đường tiêu hoá. Chúng ta có thể kích thích tế bào vách dạ dày lợn con tiết ra HCl ở
dạng tự do sớm hơn bằng cách bổ sung thức ăn sớm cho lợn con.
Ngoài ra, trong dạ dày lợn con còn chứa các axit như: Axit lactic, axit axetic,
axit propionic và lượng nhỏ axit butyric. Axit lactic có liên quan đến vi khuẩn
lactic. Lợn con 60 ngày tuổi vi khuẩn lactic nhiều hơn ở lợn 120 ngày tuổi. Nó giảm
khi cân bằng dinh dưỡng hoàn toàn, trực khuẩn E.coli cũng giảm khi cân bằng dinh
dưỡng hoàn toàn.
Tiêu hoá ở ruột: Dung tích ruột non ở lợn con sơ sinh là 100 ml, 20 ngày
tuổi tăng 7 lần, tháng thứ 3 đạt 6 lít, 12 tháng đạt 20 lít. Ruột già ở lợn sơ sinh dung
tích 40 - 50 ml, 20 ngày 100 ml, tháng thứ 3 khoảng 2,1 lít, tháng thứ 4 là 7 lít,
tháng thứ 7 là 11 - 12 lít.
Tiêu hoá ở ruột nhờ tuyến tụy, tuyến tụy tiết ra dịch tụy theo ống dẫn tụy đổ
vào tá tràng. Dịch tụy có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự tiêu hoá. Trong dịch tụy
có chứa các enzym phân giải protein, phân giải bột đường và phân giải mỡ. Hoạt
tính của các enzym thay đổi từ sơ sinh đến trưởng thành, cụ thể như sau:
- Men trypsine: Enzym trypsine trong dịch tụy thuỷ phân protein thành axit
amin. Ở trong thai 2 tháng tuổi chất chiết đã có men trypsine, thai càng lớn hoạt tính
của men trypsine càng cao. Khi lợn con mới đẻ ra, hoạt tính của men trypsine dịch
tụy rất cao để bù đắp lại khả năng tiêu hoá kém của men pepsin dạ dày.
- Men catepsin là men tiêu hoá protein trong sữa. Đối với lợn con ở 3 tuần
tuổi đầu, men catepsin có hoạt tính mạnh sau đó giảm dần.
- Men lactase: Có tác dụng tiêu hoá đường lactoza trong sữa. Men này có
hoạt tính mạnh ngay từ khi lợn con mới đẻ ra và tăng cao nhất ở tuần tuổi thứ 2 sau
đó giảm dần.

- Men amylaza và mantaza: Hai enzym này có trong dịch tụy từ khi lợn con
mới đẻ ra nhưng dưới 3 tuần hoạt tính còn thấp, do đó khả năng tiêu hoá tinh bột
còn kém. Sau 3 tuần tuổi enzym amylaza và mantaza mới có hoạt tính mạnh nên


i

MỤC LỤC
MỤC LỤC ...................................................................................................................i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................... iii
DANH MỤC BẢNG .................................................................................................iv
DANH MỤC BIỂU.................................................................................................... v
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Đặt vấn đề ..............................................................................................................1
2. Mục đích, ý nghĩa khoa học của đề tài ................................................................2
2.1. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................2
2.2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tế của đề tài ...............................................2
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...................................................................... 3
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài ..................................................................................3
1.1.1. Cơ sở khoa học về lúa, gạo ...........................................................................3
1.1.1.1. Một vài nét về tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam và trên thế giới .3
1.1.1.2. Giá trị dinh dưỡng của thóc và các sản phẩm từ thóc: ...........................6
1.1.1.3. Một số hạn chế trong việc sử dụng thóc làm thức ăn chăn nuôi ..........10
1.1.2. Đặc điểm sinh sản và sinh trưởng của lợn ..................................................11
1.1.2.1. Đặc điểm sinh sản của lợn nái..............................................................11
1.1.2.2. Đặc điểm sinh lý, sinh trưởng của lợn con ..........................................13
1.2. Các nghiên cứu trong và ngoài nước ..............................................................24
1.2.1. Những nghiên cứu sử dụng thóc và các sản phẩm từ thóc làm thức ăn cho
lợn trên thế giới .....................................................................................................24
1.2.2. Những nghiên cứu sử dụng thóc và các sản phẩm từ thóc làm thức ăn cho

lợn ở Việt Nam ......................................................................................................25
Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................... 27
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................27
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................27
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu .....................................................................................27


×