Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Nghiên cứu hiệu quả sử dụng dung dịch điện hoạt hoá anolit và catolit trong chăn nuôi gà tại Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (826.64 KB, 87 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




MA DOÃN HÙNG





NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SỬ DỤNG DUNG DỊCH
ĐIỆN HOẠT HOÁ ANOLIT VÀ CATOLIT TRONG
CHĂN NUÔI GÀ TẠI THÁI NGUYÊN







LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP












THÁI NGUYÊN - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




MA DOÃN HÙNG





NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SỬ DỤNG DUNG DỊCH
ĐIỆN HOẠT HOÁ ANOLIT VÀ CATOLIT TRONG
CHĂN NUÔI GÀ TẠI THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60 62 40





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP




Người hướng dẫn KH: TS.TRẦN TỐ





THÁI NGUYÊN - 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong vài thập kỷ qua, ngành chăn nuôi nước ta đã có những bước phát
triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Trong đó chăn nuôi gia cầm nói
riêng chiếm một vị trí quan trọng trong việc cung cấp sản phẩm thịt trứng cho
xã hội. Theo Hoàng Kim Giao (2005) [4] trong những năm gần đây tốc độ
tăng đầu con của đàn gia cầm từ năm 1990 đến năm 2000 là 5%/năm, năm
2002 so với năm 2001 là 6,69%, năm 2003 so với năm 2002 là 8,9%. Tổng
đàn gia cầm trong cả nước 179,3 triệu con năm 1990; 215,8 triệu con năm
2001; 233,29 triệu con 2002; 254,057 triệu con năm 2003. Sản lượng thịt gia
cầm 151,7 nghìn tấn năm 1990 tăng lên 261,8 nghìn tấn năm 1999; 338,4
nghìn tấn 2002; 372 nghìn tấn 2003. Sản lượng trứng 1,9 tỷ quả /năm 1990
tăng lên 3,71 tỷ quả năm 2000; 4,53 tỷ quả 2002; 4,85 tỷ quả 2003. Cả nước
có 2.260 trang trại trong đó có 119 trang trại giống, 12 trang trại giống gốc do
Trung ương quản lý và 16 cơ sở của các địa phương quản lý.

Hình thức chăn nuôi gia cầm của Việt Nam trong những năm gần đây:
85% số nông hộ chăn nuôi gia cầm (có thể chuyên, thường xuyên hoặc
chỉ một thời gian ngắn), 15% gia cầm được chăn nuôi theo phương thức công
nghiệp, 20% gia cầm được chăn nuôi theo phương thức bán công nghiệp, 65%
số gia cầm được chăn nuôi theo phương thức truyền thống, 80% gà công
nghiệp thuộc sự quản lý của nước ngoài, 75% gà thả vườn (bán công nghiệp)
thuộc quản lý của các Công ty Việt Nam và các nông hộ.
Nhiều kết quả nghiên cứu khoa học để chọn lọc ra những giống gia cầm
nhập nội, năng suất chất lượng cao như gà công nghiệp, gà chăn thả, vịt siêu
thịt, vịt siêu trứng, ngan Pháp, chim bồ câu Pháp, đà điểu; đã được đưa vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ứng dụng rộng rãi trong thực tế. Các kết quả nghiên cứu trong chăn nuôi và
phòng trị bệnh đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi gia
cầm.
Ở Việt nam hiện nay chăn nuôi gà ngày càng được đẩy mạnh và phát
triển rộng khắp trong phạm vi cả nước từ thành phố, tỉnh, huyện, đến các hộ
nông dân. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về sản
phẩm thịt gà như: Thịt gà chắc, thơm ngon, không có thuốc kháng sinh... Mặt
khác các giống gà phải phát huy tốt trong điều kiện chăn nuôi công nghiệp và
bán chăn thả tình hình dịch bệnh diễn ra ngày càng phức tạp.
Từ năm 1996 Việt Nam đã nhập một số giống gà lông màu thả vườn có
năng suất khá cao, chất lượng thịt tốt hợp thị hiếu người tiêu dùng và thích
hợp với điều kiện chăn nuôi bán công nghiệp như gà Kabir, gà Tam Hoàng,
Lương Phượng... Trong đó giống gà Lương Phượng có xuất xứ từ vùng ven
sông Lương Phượng, đây là giống gà thịt lông màu do xí nghiệp nuôi gà thành
phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây Trung Quốc lai tạo thành công sau hơn chục
năm nghiên cứu, sử dụng dòng trống địa phương và dòng mái nhập của nước
ngoài. Gà Lương Phượng có dáng bề ngoài gần giống với gà Ri của Việt

Nam, lông màu vàng. Gà Lương Phượng dễ nuôi, có tính thích nghi cao, chịu
đựng tốt với khí hậu nóng ẩm, đòi hỏi chế độ dinh dưỡng không cao, có thể
nuôi nhốt, hoặc nuôi thả ở vườn, ngoài đồng, trên đồi.
Môi trường chăn nuôi và công tác vệ sinh phòng bệnh có ảnh hưởng rất
lớn đến năng suất và chất lượng và hiệu quả thành công hay thất bại của việc
chăn nuôi gà đặc biệt là trong tình hình hiện nay dịch cúm gia cầm đang có
khả năng bùng phát bất cứ lúc nào, nơi đâu khi không đảm bảo thực hiện tốt
công tác vệ sinh phòng dịch. Sử dụng dung dịch điện hoạt hoá với tính năng
khử trùng tương đối hiệu quả và đặc tính an toàn với người sử dụng và vật

S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn
3
nuụi cng l mt bin phỏp phũng tr dch bnh trong chn nuụi hin nay.
Nhm gúp phn ỏnh giỏ nh hng ca vic s dng dung dch in hot
hoỏ n kh nng sinh trng, sinh sn ca g tỡm ra bin phỏp ti u s lý
mụi trng v sinh phũng bnh thớch hp, r tin, an ton sinh hc cú li cho
sc kho ngi tiờu dựng sn phm, ngi trc tip chn nuụi t ú em li
li ớch kinh t cao nht trong sn xut.
Chớnh vỡ vy chỳng tụi tin hnh nghiờn cu ti:
"Nghiờn cu hiu qu s dng dung dch in hot hoỏ anolit v
catolit trong chn nuụi g ti Thỏi Nguyờn"
2. Mc tiờu ca ti
- ỏnh giỏ tỏc dng ca dung dch in hot hot hoỏ anolit v catolit
vi mụi trng chn nuụi g.
- Nghiờn cu tỏc dng hiu qu ca dung dch anolit v catolit n kh nng
sn xut v sc khỏng ca g c nuụi ti Thỏi Nguyờn.
3. í ngha khoa hc v thc tin ca ti
- Qua s dng dung dch in hot hoỏ, ỏnh giỏ mc ụ nhim mụi
trng chung nuụi g i vi mt s loi khớ c v mt s loi vi khun.
- Đánh giá tác dụng của dung dịch anolit và catolit đến khả năng sinh

sản, sinh tr-ởng của gà nuôi tại Thái Nguyên.
- B xung thụng tin cho cỏc nghiờn cu nhm tỡm ra cỏc bin phỏp chn
nuụi g hiu qu kinh t cao trong mụi trng chn nuụi bn vng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Cơ sở khoa học của việc sử dụng dung dịch điện hoạt hoá anolit và
catolit trong chăn nuôi gà
Theo Lê Hồng Mận và cs (2007) [14] dung dịch điện hoạt hoá anolit và
catolit được sản xuất từ nước muối loãng bởi thiết bị hoạt hoá điện hoá có tên
thương mại là ECAWA (Electro Chemically Activated Water) trên cơ sở
chuyển giao công nghệ từ Liên Bang Nga.
ECAWA là thiết bị sản xuất các dung dịch ĐHH anolit và catolit từ nước
muối tại cơ sở sử dụng, rất phù hợp với các bệnh viện, trung tâm y tế và các
cơ sở sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và một số ngành công nghiệp
có nhu cầu trang thiết bị khử trùng có hiệu quả cao, chi phí thường xuyên thấp,
vận hành bảo quản dễ dàng, đồng thời không làm tổn hại sinh thái môi trường.
Máy sản xuất dung dịch ĐHH dùng trong đề tài là máy ECAWA - 15 do
Viện công nghệ môi trường Viện khoa học công nghệ Việt Nam sản xuất năm
2005, sử dụng điện áp 220v - 50Hz công suất tiêu thụ điện 400Wh, lưu lượng
dung dịch sản phẩm 15lít/h.
1.1.1.1. Nguyên lý hoạt động của thiết bị ACAWA
Bản chất của công nghệ hoạt hoá điện hoá với điện trường đơn cực là ở
chỗ dung dịch muối loãng được xử lý trong một khoang (khoang anot hoặc
khoang catot) của buồng phản ứng, trong đó mỗi vi thể tích của khối dung
dịch được tiếp xúc trực tiếp với điện trường siêu cao trên bề mặt của điện đơn
cực mà không có sự xáo trộn với dung dịch ở bên khoang có điện trường

ngược dấu. Kết quả của những tác động nói trên là dung dịch được chuyển

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
sang một trạng thái không cân bằng nhiệt động học với hoạt tính hoá học cao
khác thường trong vòng 24 giờ. Trong điều kiện đó dung dịch được xử lý
trong khoang catot gọi là catolit thể hiện tính năng tẩy rửa cao, còn dung dịch
được xử lý trong khoang anot gọi là anolit thể hiện tính năng khử trùng đặc
biệt cao.
Anolit là sản phẩm được tạo thành trong ngăn anot của buồng phản ứng
điện hoá có màng ngăn từ quá trình điện phân dung dịch muối loãng. Do
những tác động lý hoá xảy ra trong lớp tiếp xúc giữa điện cực và dung dịch,
nhiều chất có hoạt tính khử trùng cao được hình thành trong anolit như
HClO, ClO
-
, ClO
2
, Cl
-
… là các chất clo hoạt tính và các peroxyt vô cơ H
2
O
2
,
HO, HO
2
… tất cả các chất này đều không bền chúng sẽ tự phân giải và tái lập
lại với nhau để trở thành nước bình thường từ vài chục giờ đến năm ngày.
Nước hoạt hoá điện cũng như những dung dịch muối loãng được HHĐH
không những chỉ là những chất oxi hoá khử mạnh hoặc là tác nhân axit và

kiềm, mà còn là chất xúc tác mạnh cho các phản ứng hoá học và sinh hoá.
Độ sạch sinh thái và mức an toàn trong sử dụng của dung dịch ĐHH có
được là vì khả năng phản ứng của nó được xác định không phải bằng số lượng
các chất tương tác mà do hoạt tính dị thường (hoặc cực cao hoặc cực thấp)
của nó so với nồng độ thấp của các muối khoáng hoà tan tự nhiên trong nước
uống hoặc trong dung dịch muối loãng. Đối với mục tiêu sử dụng trong ngành
thú y quá trình HHĐH được thực hiện với dung dịch muối loãng từ 0,1 - 5g/l
với chi phí điện năng từ 100 - 200 culông /lít.
Các dung dịch ĐHH từ muối ăn được sử dụng để tẩy rửa và khử trùng
các chuồng trại và dụng cụ thiết bị chăn nuôi gia súc, gia cầm: Dụng cụ,
chuồng nuôi, xưởng ấp, xưởng giết mổ, xưởng tận dụng đồ thải, trứng hàng
hoá và các đối tượng khác.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Như vậy các dung dịch ĐHH được chế tạo từ một thiết bị đã được sản
xuất ở Việt Nam để cho dung dịch anolit và catolit.
1.1.1.2. Khả năng khử trùng của dung dịch ĐHH
Thành phần của anolit trung tính gồm hoạt chất oxy hoá, các tế bào của
cơ thể người ngay trong quá trình hoạt động sống cũng tham gia vào quá trình
oxy hoá khử, chúng sản sinh ra và sử dụng có mục đích các chất oxy hoá hoạt
tính cao như: HO, HO
2
, O
3
, HClO, Cl, các tế bào này có hệ thống cấu tạo bảo
vệ chống oxy hóa, ngăn ngừa tác dụng độc hại của các chất tương tự đến cấu
trúc tế bào sống nhờ sự có mặt của các cặp lipoproteit 3 lớp có chứa cấu trúc
nối đôi (- C = C -) có khả năng nhận electron. Các vi khuẩn, vi rút thì không
có hệ thống bảo vệ để chống oxy hoá nên dung dịch anolit trung tính là chất

cực độc đối với chúng, thêm nữa mức độ khoáng hoá thấp của anolit và khả
năng hydrat hoá cao làm tăng mức độ thẩm thấu của màng tế bào vi khuẩn đối
với các chất oxy hoá. Các vi bọt khí mang điện được tạo ra trong vùng tiếp
xúc với Polime sinh học cũng góp phần làm chuyển dịch mạnh mẽ các chất
oxy hoá vào trong tế bào vi khuẩn, Vì thế anolit có tác dụng diệt khuẩn mạnh
nhưng lại ít gây hại tế bào cơ thể người.
Nhiều công trình nghiên cứu đã xác định dung dịch anolit có tính chất sát
khuẩn rất mạnh đối với các loại vi khuẩn sau:
- Nhóm vi khuẩn thuộc họ Enterobacteriaceae: Escherichia Coli (có
nhiều trong phân người), Klebsiella, Enterobacter…
- Các chủng vi khuẩn: Citrobacter, Eriberobacter, Citrobacter freundic…
- Liên cầu khuẩn thuộc giống Enterococcus và Streptoccocus bao gồm
các loài: E. avium, E.Casseliflarus…
Vi khuẩn kỵ khí có nha bào khử Sulfit: Clostridium perfringens,
Clostridium botulinum…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
- Các loại vi khuẩn và virut khác: Samonella paratyphi (A,B,C)
Mycobacterium tuberculocis, Mycobacterium chelomac, Mycobacterium
aviumntrase, Enterococcus faccalis, Bacillus subtilis, Staphylo Coccus aureus,
virut HIV…
1.1.1.3. Tính ưu việt của dung dịch ĐHH anolit và catolit trong phòng trừ
dịch bệnh cho gia súc, gia cầm
Với tính năng khử trùng hiệu quả và đặc tính an toàn đối với người sử
dụng và vật nuôi nêu trên, anolit và catolit đã được Hoa Kỳ, Nga và các nước
EU đưa vào sử dụng rộng rãi trong ngành chăn nuôi và chế biến thực phẩm từ
năm 1995. Kết quả ứng dụng cho thấy dung dịch ĐHH có những tính năng
vượt trội như sau:
* Hiệu quả khử trùng cao: Anolit diệt nhanh nhiều loại vi khuẩn, virut,

bào tử và nấm, kể cả các loại có sức đề kháng cao nhất như vi trùng bệnh lao,
vi khuẩn bệnh than, virus viêm gan B…
* Chất khử trùng đa năng nhất: Sử dụng hàng ngày để khử trùng không
khí và các bề mặt trong chuồng trại. Trộn với nước uống cho vật nuôi để khử
trùng và chữa các bệnh đường tiêu hoá, tắm cho vật nuôi để chữa bệnh ngoài
da, khử trùng trứng.
* Phòng bệnh cho người chăn nuôi: Diệt vi sinh vật gây bệnh trong môi
trường, chữa bệnh ngoài da cho người, ngâm quần áo để diệt trùng.
* Sạch về sinh thái, không làm ô nhiễm môi trường: Anolit trở lại thành
nước muối loãng sau vài ngày kể từ khi được điều chế nên không để lại dư
lượng hoá chất sau khi sử dụng
* Giá rẻ: Làm 1lít dung dịch anolit và catolit chỉ hết dưới 200 đồng.
Dễ làm và dễ bảo quản: Chỉ cần đổ nước muối 0,5% vào thùng chứa nước
muối và cắm điện vào cho thiết bị ECAWA chạy sẽ có ngay dung dịch khử
trùng anolit để sử dụng, bảo quản trong bồn nhựa, thủy tinh, sành sứ có nắp đậy.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Theo Lê Hồng Mận và cs (2007) [14] sử dụng dung dịch ĐHH trong
chăn nuôi có thể bảo vệ sức khoẻ vật nuôi tốt hơn, thúc đẩy tăng trưởng, phát
triển, ngăn ngừa và chữa trị một số bệnh, làm vệ sinh môi trường nuôi. Đặc
biệt ưu điểm nổi bật của anolit so với các hoá chất khử trùng đang được sử
dụng phổ biến trong chăn nuôi hiện nay là người ta có thể phun trực tiếp vào
chuồng ngay cả khi có mặt vật nuôi mà không hề gây tác hại với chúng.
Công nghệ HHĐH đơn giản trong vận hành, giá rẻ và an toàn về môi
trường. Công nghệ này có thể ứng dụng ở nhiều quy mô, đặc biệt thích hợp
với các hộ chăn nuôi gia đình.
Dung dịch ĐHH là tác nhân khử trùng thân thiện của môi trường, là
công cụ hữu hiệu trong xử lý ô nhiễm, phòng ngừa bệnh dịch.
1.1.1.4. Các ứng dụng của dung dịch ĐHH trong chăn nuôi gia cầm

* Các dung dịch ĐHH bao gồm anolit và catolit được điều chế trên thiết
bị ECAWA có các thông số cơ bản sau đây:
- Loại điều chế từ dung dịch ban đầu Natri clorua có nồng độ 5g/l
Anolit: + pH trong khoảng 7,0 - 7,5
+ Thế oxi hoá khử ORP lớn hơn 800 mV
+ Nồng độ clo hoạt động trong khoảng 300 - 500 mg/ml
Catolit: + pH trong khoảng 10 - 11
+ Thế oxi hoá khử ORP có giá tri tuyệt đối lớn hơn 400mV
+ Nồng độ muối 5g/l
- Loại điều chế từ nước thường
Catolit: + pH trong khoảng 10 - 11
+ Thế oxi hoá khử ORP có giá trị tuyệt đối lớn hơn 400mV
+ Nồng độ muối 0,5g/l

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
* Các ứng dụng của dung dịch ĐHH:
- Khử trùng nước cấp: Nước cấp cho toàn trại chăn nuôi cần được khử
trùng bằng anolit với mức 5 - 6 l/m
3
để đảm bảo vô khuẩn.
- Ứng dụng anolit và catolit trong công đoạn tẩy rửa, khử trùng dụng cụ
và bề mặt trong trại nuôi gia cầm.
Các thông số, liều lượng sử dụng và thời gian xử lý của anolit và catolit
được trình bày theo bảng dưới đây:
Bảng 1.1. Liều lƣợng sử dụng và thời gian xử lý catolit, anolit
Dung
dịch
Thông số
Liều

lƣợng
( ml/m
2
)
Thời gian
khử trùng
(phút)
Phƣơng pháp
Catolit
pH = 11 - 12
OPR< - 400mV
150 - 200 60 - 90
Dùng giẻ để lau
hoặc cọ rửa bằng
bàn chải 1 - 2 lần
Anolit
pH = 7 ± 0,3
OPR > + 800mV
250-300
150 Phun
Nồng độ: 200mg/l
90 Dùng giẻ lau 2 - 3 lần
30 Nhúng
Nguồn: Lê Hồng Mận và cs (2007) [14]
Dụng cụ dùng cho gia cầm ăn uống và các bề mặt trong trại là nơi tập
trung rất nhiều vi khuẩn và chất bẩn. Do vậy trước khi khử trùng cần phải làm
sạch qua các công đoạn quét sạch rác bẩn, phân, sau đó rửa bằng nước… Các
máng ăn cần dùng thêm catolit để cọ rửa sạch chất nhờn và chất bẩn bám trên
bề mặt dụng cụ để tạo điều kiện cho công đoạn khử trùng bằng anolit đạt hiệu
quả cao nhất.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
- Ứng dụng dung dịch anolit để khử trùng và kiểm soát môi trường
không khí trong trại nuôi gia cầm.
Nguồn gốc gây bệnh như các loại nấm và vi khuẩn trong không khí bắt
nguồn trực tiếp từ bên ngoài trại đưa vào, từ thức ăn, rác bẩn bị ô nhiễm, hay
bắt nguồn từ các mầm bệnh trên bề mặt trần nhà và các dụng cụ đựng thức
ăn… bên trong trại nuôi gia cầm hoặc ngay trên lông gà. Do vậy để hạn chế
tối đa các khả năng gây bệnh, phun anolit nguyên chất (PH = 7 ± 0,3; nồng độ
250 - 300 mg/l; ORP ± 800mV) với liều lượng 150 - 200 ml/m
2
lên bề mặt
dụng cụ và vào trực tiếp môi trường không khí ngay cả khi có mặt vật nuôi
trong thời gian 30 phút, cho phép giảm đáng kể các quần lạc vi khuẩn (E coli,
Staphylococus…) trong không khí và trên bề mặt thiết bị trong chuồng nuôi.
- Ứng dụng anolit để vệ sinh chuồng trại sau khi thu hoạch gia cầm và
trước khi đưa gia cầm vào nuôi đợt mới. Kết thúc một chu trình chăn nuôi,
chuồng nuôi bị ô nhiễm nặng bởi các chất thải của gia cầm, vi sinh vật, bụi và
các thứ khác. Vì vậy, chuồng nuôi cần phải được vệ sinh và khử trùng rất kỹ
để chuẩn bị cho một đợt nuôi mới. Các khâu làm vệ sinh chuồng nuôi sau khi
thu hoạch gia cầm gồm: Quét dọn thu gom phân, chất độn chuồng, rác thải,
rồi rửa sạch bằng nước, khử trùng.
- Khử trùng được chia làm 2 khâu:
+ Khử trùng không khí: Thực hiện giống như khử trùng khi đang có mặt
gia cầm nuôi.
+ Khử trùng bề mặt: Dùng vòi phun tia phun ướt các bề mặt cần được
khử trùng (mặt nền, tường bao).
Đối với các bề mặt bằng kim loại dễ bị rỉ sét tránh phun trực tiếp bằng
dung dịch anolit. Trong trường hợp bề mặt kim loại bắt buộc phải khử trùng,

sau thời gian khử trùng bằng anolit bề mặt cần được rửa bằng nước sạch.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Trước khi gia cầm được nuôi đợt mới 2 - 3 ngày, chuồng nuôi tiếp tục
được khử trùng để đảm bảo an toàn cho vật nuôi.
Quy trình vệ sinh khử trùng được thực hiện giống như quy trình vệ sinh
khử trùng chuồng nuôi khi vừa thu hoạch gia cầm.
- Ứng dụng anolit để đảm bảo vệ sinh thức ăn và nước uống cho gia cầm.
Dịch bệnh truyền nhiễm thường lây nhanh qua đường thức ăn và nước
uống. Do vậy việc khử trùng thức ăn và nước uống bằng anolit là rất cần thiết.
Đồng thời khi gia cầm tiêu thụ một lượng anolit vừa đủ sẽ rất có lợi cho sức
khoẻ cũng như phòng các bệnh dịch (tiêu chảy…) và tăng trọng cho gia cầm.
Bảng 1.2. Ứng dụng anolit trong thức ăn và nƣớc uống cho gia cầm
Đối
tƣợng
Thông số anolit Phƣơng pháp
Thời gian khử
trùng (phút)
Thức ăn
pH = 7 ± 0,3
ORP > +800mV
Tuỳ theo từng loại thức ăn
mà ta trộn anolit sao cho
thấm ướt toàn bộ bề mặt.
Ví dụ thức ăn có chứa hữu
cơ cao (thóc, cám…) phải
dùng anolit có nồng độ
nguyên chất phun trộn đều
theo tỷ lệ 1lít anolit cho

10kg thức ăn khô.
30 - 60
Nước uống
pH = 7 ± 0,3
ORP > + 800mV
Nồng độ: 300mg/l
Có thể pha anolit tỷ lệ 1:
20 với nước sạch cho gà
uống. Khi phát hiện có
dịch bệnh thì pha với tỷ
lệ : 1/5
Thường xuyên
Nguồn: Lê Hồng Mận và cs (2007) [14]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
- Cho gà uống catolit
Cho gà uống catolit được điều chế từ nước thường với khoảng cách từ 1giờ
30 phút đến 2 giờ một lần sau khi cho gà ăn để tăng khả năng tiêu hoá thức ăn
của gà. Nếu sử dụng đều đặn có thể tăng hiệu quả sử dụng thức ăn từ 5 - 10%.
- Xử lý trứng:
+ Trứng thương phẩm: Các khay đựng trứng được vệ sinh khử trùng
bằng anolit như khử trùng dụng cụ. Trứng thương phẩm được xếp đống và
phun trước hết là catolit cho ướt đều, để yên chừng 30 phút, phun tiếp anolit
cũng tới mức ướt đều. Để khô tự nhiên và xếp vào khay rồi đưa vào nơi lưu
giữ hoặc mang đi tiêu thụ.
+ Trứng sinh sản: Cũng vệ sinh như trứng thương phẩm, tuy nhiên để
khô nhanh có thể dùng quạt.
- Xử lý phòng ấp
+ Các bề mặt trong phòng ấp được vệ sinh khử trùng theo quy trình như

khử trùng môi trường không khí. Tuy nhiên phòng ấp được vệ sinh thường
xuyên nên chỉ cần lau bằng anolit hàng ngày.
+ Không khí buồng ấp có thể phun định kỳ bằng anolit 2 - 3 ngày một lần
với liều lượng 150 - 200 ml/m
2
.
1.1.2. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu sự di truyền các tính trạng năng
suất của gia cầm
Theo Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc (1998) [22] Phần lớn các
tính trạng kinh tế của vật nuôi đều là các tính trạng số lượng và phần lớn sự
thay đổi trong quá trình tiến hoá của sinh vật cũng là sự thay đổi của các tính
trạng số lượng. Khi nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới sự di truyền các
tính trạng số lượng và biến dị của chúng tác giả đã kết luận: Khi một kiểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
hình của một cá thể được cấu tạo từ hai Locut trở lên thì giá trị kiểu hình của
nó được biểu thị như sau:
P= A+D+I+Eg+Es
Trong đó:
P : Là giá trị kiểu hình ( phenotyp Value)
A : Là giá trị cộng gộp (Additive Value)
D : Là giá trị sai lệch trội (Dominance Value )
I : Là sai lệch tương tác hay sai lệch át gen (Epistatic deviation )
E
g
: Là sai lệch môi trường chung (General enviromental diviation)
E
s
: Là sai lệch môi trường riêng (Special enviromental diviation)

Như vậy, năng suất giống vật nuôi phụ thuộc vào các yếu tố di truyền và
ngoại cảnh. Vật nuôi nhận được khả năng di truyền từ bố mẹ, nhưng sự thể
hiện khả năng đó ở kiểu hình lại phụ thuộc vào ngoại cảnh môi trường sống.
Đây là cơ sở để tạo lập một điều kiện ngoại cảnh thích hợp nhằm củng cố phát
huy tối đa khả năng di truyền của các giống vật nuôi, đặc biệt là gia cầm.
1.1.3. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu khả năng sinh trưởng, khả năng
cho thịt của gà
Về mặt sinh học, sự sinh trưởng được xem như quá trình tổng hợp
protein nên người ta thường lấy việc tăng khối lượng làm chỉ tiêu đánh giá
sinh trưởng. Sinh trưởng là một quá trình sinh lý phức tạp và tuân theo những
quy luật nhất định. Gia súc non phát triển mạnh nhất sau khi mới sinh, sau đó
tăng khối lượng giảm dần theo từng tháng tuổi.
Để xác định toàn bộ quá trình sinh trưởng một cách chính xác là rất khó
khăn và phức tạp. Tuy nhiên trong chọn giống vật nuôi ngày nay, người ta sử
dụng các phương pháp đơn giản và thực tế để đánh giá khả năng sinh trưởng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
- Kích thước các chiều đo: Kích thước và khối lượng xương có tầm quan
trọng lớn đối với khối lượng cơ thể và hình dáng con vật, quan hệ giữa khối
lượng thân, tốc độ lớn và chiều dài đùi, chiều dài xương ngực với chất lượng
giết thịt có tầm quan trọng đặc biệt. Kích thước các chiều đo có liên quan rõ
rệt với khối lượng cơ thể, độ dài chân có liên quan đến tính biệt.
- Tốc độ sinh trưởng: Tốc độ sinh trưởng và cường độ tăng các chiều cơ
thể trong một khoảng thời gian nhất định.
- Tiêu tốn thức ăn: Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng khối lượng phản ánh
quá trình chuyển hoá thức ăn để sinh trưởng. Tiêu tốn thức ăn /kg tăng khối
lượng càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao và ngược lại.
Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận (1992) [12] cho rằng để phát huy
tối đa khả năng sinh trưởng của gia cầm thì việc cung cấp thức ăn đầy đủ và

tối ưu các chất dinh dưỡng, cân bằng protein, các axit amin và năng lượng là
điều tối cần thiết.
1.1.4. Cơ sở khoa học về sự ảnh hưởng của môi trường tới sức sản xuất của
gà thịt
- Các tính trạng của một giống được hình thành gắn liền với sự tác động
của môi trường sinh thái địa phương. Ngoài các yếu tố di truyền, tác động của
con người thì các yếu tố ngoại cảnh như: Nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, mùa
vụ… có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành các đặc tính sinh trưởng, phát
dục, sinh sản của giống ở từng địa phương, mà các đặc tính này sẽ hình thành
các chỉ tiêu sản xuất của giống đó.
- Trong những điều kiện môi trường nhất định thì các kiểu gen khác nhau sẽ
cho những khả năng sản xuất khác nhau. Trái lại cùng một kiểu gen nhưng trong
những điều kiện môi trường khác nhau sẽ cho năng lực sản xuất khác nhau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
* Ảnh hưởng của nhiệt độ tới khả năng sản suất: Theo Bùi Đức Lũng,
Lê Hồng Mận (1992) [12] thì tiêu chuẩn nhiệt độ trong chuồng nuôi cần
18-20 độ. Trong điều kiện tự nhiên như ở nước ta rất khó đạt tiêu chuẩn
trên vì nhiệt độ môi trường chênh lệch nhiều giữa hai mùa hè và mùa đông.
Tuy nhiên trong chăn nuôi ta phải có biện pháp khắc phục tối ưu để đạt xấp
xỉ tiêu chuẩn nhiệt.
+ Giai đoạn gà con dưới 3 tuần tuổi nếu không đủ ấm gà sẽ túm lại
không ăn hoặc ăn rất ít dẫn đến gà chậm lớn và chết nhiều.
+ Giai đoạn sau bốn tuần hiệu quả thức ăn đạt mức tối đa ở nhiệt độ
24
0
C. Nếu dưới 3 tuần tuổi cần duy trì nhiệt độ cao > 30
0
C thì sau 4 tuần tuổi

phải chú ý giảm nhiệt độ ở mức 23-24
0
C. Gà trống broiler khối lượng cao có
thể bị chết vì stress nhiệt ở mức 35
0
C. Lúc nhiệt độ cao cần cung cấp đủ
nước uống cho gà. Nước uống là yếu tố quan trọng để duy trì sức chịu
đựng của gà ở nhiệt độ 44-46
0
C, nếu nhiệt độ trên giới hạn này gà sẽ bị
chết hàng loạt.
+ Ở nhiệt độ 35
0
C, gà 7 tuần tuổi trở lên sẽ tiêu thụ nước uống tăng thêm
4 lít/giờ/100 gà. Mùa nóng khi gà bị stress nhiệt nước uống nên pha thêm
vitamin C, Đường glucoza và các chất điện giải.
+ Ngoài ra nhiệt độ môi trường còn ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu ME
và CP của gà broiler, nên tiêu thụ thức ăn của gà chịu sự chi phối nhiều của
nhiệt độ môi trường. Trong điều kiện nhiệt độ khác nhau thì mức tiêu thụ thức
ăn của gà cũng khác nhau. Nhu cầu về năng lượng và các vất chất dinh dưỡng
khác cũng bị thay đổi theo nhiệt độ môi trường. Khi nhiệt độ môi trường nuôi
ổn định thì mức tiêu thụ thức ăn của gà tăng khi giảm mức năng lượng trong
thức ăn và ngược lại. Vì vậy nhiệt độ môi trường ổn định, cần phải đảm bảo
mức năng lượng cao trong thức ăn để nâng cao sức tăng trọng của gà. Với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
mức năng lượng ổn định tiêu thụ thức ăn của gà sẽ bị giảm khi nhiệt độ môi
trường tăng và ngược lại.
* Ảnh hưởng của ẩm độ:

Khi ẩm độ tăng làm cho chất độn chuồng dễ ẩm ướt, thức ăn dễ bị mốc,
nấm mốc phát triển làm ảnh hưởng xấu tới gà nhất là NH
3
do vi khuẩn phân
huỷ các axit nucleic trong phân và chất độn chuồng. Làm tổn thương đến hệ
hô hấp của gà, khả năng nhiễm bệnh cầu trùng, Newcastle, E.coli dẫn tới làm
giảm khả năng tăng trưởng của gà.
Nếu hàm lượng NH
3
tăng quá 50ppm gà sẽ bị mù. Do bắt buộc phải
giảm ẩm độ trong chuồng nuôi, nhất là nơi đặt máng nước. Để giữ cho nền
chuồng không ẩm ướt có thể sử dụng vòi uống tự động để hạn chế nước rơi
vãi ra nền chuồng.
Ẩm độ tăng cũng do nuôi nhốt gà với mật độ quá đông, vì vậy ta phải
thay đổi diện tích nuôi để phù hợp với mỗi giai đoạn phát triển của gà. Ngoài
ra có thể tăng độ thông thoáng, tăng tốc độ gió trong chuồng nuôi cũng là các
biện pháp góp phần làm giảm độ ẩm chuồng nuôi.
* Ảnh hưởng của độ thông thoáng
Độ thông thoáng giúp cho gà có đủ oxy thải khí cácbonic và các chất độc
khác, giảm ẩm độ chuồng nuôi, điều chỉnh nhiệt độ chuồng nuôi qua đó hạn
chế bệnh tật. Thông thoáng và tốc độ gió lùa phụ thuộc vào thời tiết và nhiệt
độ. Nhiệt độ cao cần có tốc độ lưu thông khí khác nhau. Tốc độ lưu thông khí
cao đối với gà lớn và ngược lại, với các điều kiện khí hậu khác nhau phải có
sự điều chỉnh độ thông thoáng cho phù hợp.
Ing.JJ.Dik (1995) [31] qua nghiên cứu đã cho ra khuyến cáo về thành
phần tối đa của chất khí trong chuồng nuôi gia cầm như sau:
NH
3
= 0,01 g/m
3

, H
2
S = 0,002 g/m
3
, CO
2
= 0.35 g/m
3


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Ở nước ta chủ yếu là nuôi thông thoáng tự nhiên nên cần đảm bảo ấm
cho mùa đông và mát cho mùa hè. Về mùa hè khi nhiệt độ cao cần bố trí hệ
thống quạt để tăng tốc độ gió để chống nóng cho gà. Mùa đông cần có thiết bị
sưởi ấm cho gà.
* Ảnh hưởng của chế độ chiếu sáng
Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận (1993) [13] thì gà broiler phải
được chiếu sáng 2-3 giờ trên ngày khi nuôi trong nhà kín (môi trường nhân
tạo) Kết quả thí nghiệm cho thấy: 1-2 giờ chiếu sáng sau đó đến 2-4 giờ sau
không chiếu sáng cho kết quả tốt nhất và lớn nhanh, chi phí thức ăn giảm,
giảm năng lượng điện chiếu sáng, tác giả khuyến cáo với gà 3-4 ngày tuổi
chiếu sáng với công suất 4w/ m
2
nền chuồng giảm dẫn đến 21 ngày tuổi chỉ
cần ánh sáng mờ 15w /25m
2
nền chuồng.
Khi cường độ ánh sáng cao gà hoạt động nhiều do đó làm giảm sự tăng
khối lượng, với chuồng thông thoáng tự nhiên, đối với mùa hè nên che chắn

ánh nắng mặt trời rọi vào chuồng nhưng vẫn đảm bảo thông khí, ánh sáng
phải được phân bố đều trong chuồng và sử dụng cùng loại công suất của đèn
để tránh tụ tập (gà thích tụ tập vào nơi có ánh sáng mạnh hơn).
Ảnh hưởng của mật độ nuôi nhốt.
Mật độ nuôi cao thì chuồng nhanh bẩn, gà chen nhau, nồng độ khí độc
NH
3
,CO
2
,H
2
S… và quần thể vi sinh vật sinh ra trong chuồng cao, từ đó ảnh
hưởng đến khả năng tăng trọng và sức khoẻ của đàn gà, gà dễ bị cảm nhiễm
bệnh tật, tỷ lệ đồng hoá kém, tỷ lệ gà chết và bị loại thải cao, cuối cùng dẫn
đến làm giảm hiệu quả chăn nuôi. Nhưng nếu mật độ nuôi thấp, chuồng có
nhiều khoảng trống gà sẽ tăng mọi hoạt động (chạy nhảy…) dẫn đến tăng
trọng giảm, đồng thời kéo theo các chi phí khác trên đầu gà như: khấu hao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
chuồng, công lao động và quản lý/m
2
nền chuồng cao, từ đó không tiết kiệm
được diện tích chuồng nuôi dẫn đến tăng chi phí trong chăn nuôi.
1.1.5. Cơ sở khoa học về khả năng sinh sản
Sinh sản là chỉ tiêu được quan tâm hàng đầu và lâu dài trong công tác
giống nhằm tăng số lượng và chất lượng con giống.
Khả năng sinh sản của gà phụ thuộc và các yếu tố: giống, tuổi đẻ, trạng
thái sinh lí, điều kiện nuôi dưỡng, vụ mùa… và được đánh giá qua các chỉ tiêu
tỷ lệ đẻ sản lượng trứng, khối lượng trứng, chất lượng trứng và tỉ lệ ấp nở.

* Năng suất trứng và các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất trứng
Năng suất trứng: Số lượng trứng thu được của mỗi đàn hoặc mỗi mái đẻ
trong khoảng thời gian nhất định (một tháng, một mùa, sau một năm tuổi, cả
đời mái đẻ..).
Sản lượng trứng được tính theo 2 cách: Số trứng tương đối tính theo đơn
vị quả hoặc số trứng tuyệt đối tính theo đơn vị khối lượng (kg). Thông
thường, người ta xác định sản lượng trứng sau một chu kì đẻ trứng sinh học
(hoặc sau 1 năm đẻ trứng) hoặc sản lượng trứng đến 500 ngày tuổi.
Theo Nguyễn Duy Hoan và cộng sự (1998) [6] năng suất trứng chịu sự
chi phối của các tập hợp gen khác nhau. Các gen quy định tính trạng này nằm
trên nhiễm sắc thể thường và bị hạn chế bởi giới tính. Năng suất trứng của gà
mái do 5 yếu tố di truyền quy định: Thời gian kéo dài chu kì đẻ trứng, cường
độ đẻ trứng, tính nghỉ đẻ mùa đông, tính ấp bóng, tuổi thành thục sinh dục.
Ngoài ra, năng suất trứng còn phụ thuộc vào dinh dưỡng, ánh sáng và các yếu
tố khí hậu khác.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất trứng:
Sức sản suất trứng là đặc điểm phức tạp và biến động, nó chịu ảnh hưởng
bởi tổng hợp các yếu tố bên trong và bên ngoài.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
+ Giống, dòng: Ảnh hưởng trực tiếp đến sức sản xuất trứng của gia cầm.
Cụ thể giống gà Leghorn trung bình có sản lượng 250 - 270 trứng /năm, gà Ri
chỉ 90 -100 trứng /năm (Nguyễn Duy Hoan và cộng sự (1998) [6]).
Trong cùng một giống, các dòng khác nhau cũng cho năng suất trứng
khác nhau. Những dòng đã qua chọn lọc sẽ cho sản lượng cao hơn 15- 20% so
với những dòng chưa được chọn lọc.
+ Tuổi thành thục sinh dục liên quan đến sức đẻ trứng của gia cầm là đặc
điểm di truyền cá thể. Tuổi thành thục sinh dục của cá thể được xác định qua
tuổi đẻ quả trứng đầu tiên. Đối với đàn gà cùng lứa tuổi thì tuổi thành thục

sinh dục là thời điểm tại đó gà đẻ đạt tỉ lệ 5%. Tuổi thành thục sinh dục sớm
hay muộn đều có ảnh hưởng không tốt tới sức sản xuất trứng của gia cầm. Gà
đẻ sớm làm tăng số lượng trứng nhỏ, giảm số lượng trứng giống, giảm số
lượng gà con /mái, tăng chi phí thức ăn /10 qủa trứng giống.
Năng suất trứng tỉ lệ thuận với độ đồng đều của quần thể gà, yêu cầu khi
gà chuẩn bị lên đẻ độ đồng đều của đàn gà phải đạt trên 80%. Điều này cần
đặc biệt chú ý khi nuôi gà hậu bị giống. Nhiều công trình nghiên cứu trong
nước cũng như ngoài nước đã cho thấy phải nuôi gà hậu bị giống bằng chế độ
cho ăn hạn chế, chỉ cho ăn 70-80% lượng thức ăn theo định mức hàng ngày.
* Biện pháp làm tăng độ đồng đều của đàn gà (khi cho ăn hạn chế)
Rải thức ăn nhanh, tăng số máng ăn để đảm bảo mỗi gà đều có chỗ đứng
để ăn. Phân loại gà theo khối lượng cơ thể lúc 7 và 16 tuần tuổi để điều chỉnh
lượng thức ăn. Cân cá thể hàng tuần 10 - 20% số gà có mặt để điều chỉnh
lượng thức ăn cho phù hợp. Thực hiện chế độ chiếu sáng quy định để tránh gà
phát dục sớm.
* Tuổi gia cầm: Liên quan chặt chẽ với sức đẻ của nó, sản lượng trứng
giảm dần theo tuổi trung bình, năm thứ hai giảm 15-20% so với năm thứ nhất.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
* Thời gian kéo dài chu kì đẻ trứng sinh học: Chu kì đẻ trứng sinh học
được tính từ khi gia cầm đẻ quả trứng đầu tiên đến khi ngừng đẻ và thay lông,
đó là chu kì thứ nhất. Chu kì thứ hai bắt đầu khi gia cần bắt đầu đẻ lại (sau khi
thay lông) tới khi ngừng đẻ và thay lông lần thứ hai. Cứ như thế có thể xác
định tiếp tục các chu kì tiếp theo.
Chu kì đẻ trứng sinh học có mối tương quan thuận với tính thành thục
sinh dục, nhịp độ đẻ trứng, sức bền đẻ trứng và chu kì đẻ trứng.
Sản lượng trứng phụ thuộc vào thời gian kéo dài chu kì đẻ trứng sinh
học, phụ thuộc vào loài, giống, dòng, cá thể, tuổi... của gia cầm.
* Sự thay lông: Sau mỗi chu kì đẻ trứng sinh học, gia cầm nghỉ đẻ và

thay lông. Ở điều kiện bình thường, thay lông lần đầu tiên là những điểm
quan trọng để tính gia cầm đẻ tốt hay xấu. Những con thay lông sớm thường
là con đẻ kém và kéo dài thời gian thay lông. Ngược lại những con thay lông
muộn, quá trình thay lông diễn ra nhanh và là những con đẻ tốt. Đặc biệt ở
một số đàn gà cao sản thời gian nghỉ đẻ 4 -5 tuần và lại đẻ lại ngay sau khi
chưa hình thành bộ lông mới, có những con đẻ ngay trong thời gian thay lông.
Như vậy, sự thay lông liên quan mật thiết tới sản lượng trứng.
Cường độ đẻ trứng được biểu thị qua số trứng đẻ ra trong một khoảng
thời gian nhất định không kể đến chu kỳ hay nhịp đẻ. Cường độ đẻ trứng có
tương quan dương với sản lượng trứng của gia cầm. Nếu cường độ đẻ cao thì
sản lượng trứng cao và ngược lại.
* Mùa vụ: Ảnh hưởng tới sức đẻ trứng rất rõ rệt, ở nước ta về mùa hè
sức đẻ trứng giảm xuống nhiều so với mùa xuân và đến mùa thu lại tăng
lên, sản lượng trứng hàng tháng rất khác nhau khi nhận gà vào đẻ ở các
thời gian khác nhau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Bảng 1.3. Ảnh hƣởng của mùa vụ đến sản lƣợng trứng của gà
Tuổi gà
(Tháng)
Thời gian nhận gà vào đẻ
Tháng 3
Tháng 6 Tháng 9
Tháng
Sản lƣợng
trứng
(quả)
Tháng
Sản lƣợng

trứng
(quả)
Tháng
Sản lƣợng
trứng
(quả)
5 - 6
6 - 7
7 - 8
8
9
10
11
18
20
11
12
1
8
17
20
2
3
4
10
17
19
Nguồn: Nguyễn Duy Hoan và cs, 1998 [6].
* Ánh sáng ảnh hưởng tới sản lượng trứng của gia cầm qua thời gian
chiếu sáng và cường độ chiếu sáng. Yêu cầu của gà đẻ 12-16 h/ngày với

cường độ 3-3,5W/m
2
. Có thể sử dụng ánh sáng tự nhiên kết hợp với ánh sáng
nhân tạo để đảm bảo đủ về thời gian và cường độ chiếu sáng trên.
Nhiệt độ môi trường xung quanh liên quan mật thiết với sản lượng trứng,
ở nước ta nhiệt độ chuồng nuôi thích hợp với gà đẻ là 14-22
0
C. Nếu nhiệt độ
dưới giới hạn thấp thì gia cầm phải huy động năng lượng chống rét và trên
giới hạn cao thải nhiệt nhiều nên cũng làm giảm sản lượng trứng.
* Khối lượng trứng
Đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng giống, tỉ lệ nở,
chất lượng và sức sống của gà con.
Khối lượng trứng là tính trạng số lượng chịu ảnh hưởng của nhiều gen
và có hệ số di truyền h
2
= 0,3 - 0,7. Khối lượng trứng có tương quan âm
đến sản lượng trứng (r = - 0,36) và có tương quan dương với khối lượng cơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
thể (r = 0,31) và tuổi thành thục trứng của gia cầm bắt đầu đẻ nhỏ hơn trứng
của gia cầm trưởng thành 20 - 30%. Khối lượng trứng ở năm đẻ thứ hai lớn
hơn năm đẻ thứ nhất 10 - 15% (Nguyễn Duy Hoan và cộng sự (1998) [6]).
Khối lượng trứng ấp và khối lượng gia cầm con nở ra có mối tương quan
dương, khối lượng gia cầm con nở ra thường có khối lượng bằng 62 - 78% khối
lượng trứng vào ấp (Nguyễn Duy Hoan và cộng sự (1998) [6]). Khối lượng
trứng phụ thuộc vào giống, khối lượng cơ thể, tuổi đẻ và chế độ dinh dưỡng.
* Hình dạng và chất lượng trứng
Hình dạng và chất lượng trứng được quyết định bởi phần sau của ống dẫn

trứng. Nó mang đặc điểm của từng cá thể, do nguyên nhân di truyền ở một mức
độ rõ rệt. Trứng gia cầm có hình ô van, dễ phân biệt được đầu tù và đầu nhọn,
đường cong từ đầu tù đến đầu nhọn đều, không bị sần sùi. Hình dạng trứng
không biến đổi theo mùa song quả trứng đầu của chu kì đẻ thường dài và nhỏ
hơn những quả trứng sau. Hình dạng trứng không phụ thuộc vào khối lượng gà
mái mà phụ thuộc vào đặc điểm cấu tạo và chức năng của ống dẫn trứng, ống
dẫn trứng càng dài, càng to thì trứng đẻ ra càng to. Hình dạng trứng là căn cứ
đánh giá chất lượng trứng.
Trứng của mỗi loài gia cầm đều có chỉ số hình thái riêng, khoảng biến thiên
của chỉ số hình thái của trứng gà là 1,34 - 1,36. Những quả trứng có chỉ số hình
dạng cao, tỉ lệ lòng trắng loãng ít hơn, chỉ số lòng đỏ và đơn vị Haugh cao hơn.
Hình dạng trứng có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong tiêu thụ, vận
chuyển, bảo quản mà còn liên quan đến tỉ lệ ấp nở. Chỉ số hình dạng ảnh
hưởng đến vị trí của đĩa phôi khi ấp, những quả trứng quá tròn hay quá dài
đều có tỉ lệ ấp nở thấp. Vậy chỉ số hình dạng là căn cứ để đánh giá chất lượng
bên trong của trứng.
Độ dày vỏ trứng ảnh hưởng đến độ bền của trứng và có ý nghĩa trong việc
vận chuyển, quá trình trao đổi chất, là nguồn cung cấp canxi cho phôi, độ dày vỏ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
trứng gà từ 0,229 - 0,373 mm, chịu độ lực từ 2,44 - 3,88 kg/cm. Độ dày vỏ trứng
chịu ảnh hưởng của yếu tố di truyền. Các yếu tố ảnh hưởng của môi trường như
nhiệt độ chuồng cao, tuổi gà già, các điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng kém và tác
nhân stress khác đều làm giảm độ dày và sức bền của vỏ trứng.
Lòng trắng trứng gồm lòng trắng loãng và lòng trắng đặc. Tỉ lệ lòng
trắng đặc trên toàn bộ lòng trắng biểu thị chất lượng trứng, chỉ số này cao cho
tỉ lệ ấp nở tốt. Những gà có khả năng đẻ trứng cao thường có hàm lượng lòng
trứng cao. Chất lượng lòng trắng được xác định bằng đơn vị Haugh (Hu).
Trứng ấp có chất lượng tốt phải có từ 80-100 đơn vị Hu lòng trắng có cấu tạo

chủ yếu là albumin và một số chất khoáng, nước giúp cấu tạo lông, da và các
bộ phận nội quan trong quá trình phát triển phôi.
Lòng đỏ là phần quan trọng nhất của trứng gồm có nước, protein, lipid,
glucid và các acid amin không thay thế, các vitamin nhóm B và A,D, E làm
nhiệm vụ cung cấp chất dinh dưỡng cho phôi. Chất lượng lòng đỏ được xác
định bằng chỉ số lòng đỏ, trứng có chỉ số lòng đỏ cao sẽ cho tỉ lệ ấp nở cao.
* Khả năng thụ tinh và ấp nở
Kết quả thụ tinh là chỉ tiêu quan trọng đánh giá khả năng sinh sản của gà
trống và gà mái. Tỷ lệ thụ tinh phụ thuộc vào tuổi, tỉ lệ trống mái trong đàn
gà, mùa chăn nuôi, chế độ dinh dưỡng và chọn đôi giao phối. Sự giao phối
cận huyết cũng làm giảm tỷ lệ thụ tinh.
Tỷ lệ nở phụ thuộc vào tỷ lệ trứng có phôi, chất lượng trứng và chế độ ấp.
Đó là chỉ tiêu để đánh giá sự phát triển của phôi và sức sống của gia cầm non
1.1.6. Sức sống và khả năng đề kháng bệnh của gia cầm
Sức sống và khả năng kháng bệnh ở đàn gia cầm là yếu tố quan trọng
giúp cho chăn nuôi đạt hiệu quả cao. Tổn thất do bệnh tật ở gia cầm có những

×